Trọng Đạt
Tình hình chung
Sau tháng 1/1973 VC vẫn
tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng VNCH còn đủ
mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm 1974,
1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn . Ông Nguyễn đức
Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam: The ten Thousand Day war) cho biết
vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc
cho VNCH do TT Ford đệ trình. Đại sứ Martin cũng thông báo cho TT Thiệu biết
quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt
Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu mất tinh thần để
rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Nói trắng ra Hạ Viện Mỹ
đã cạn tầu ráo máng buộc miền nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính
trường nước Mỹ vấn đề VN không được ai quan tâm tới, chỉ còn TT Ford và người
phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho VNCH. Vào
lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60% Thượng
viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ cũng
vậy, ai cũng đều biết cả. Theo nhận xét của Kissinger (Years of Renewal trang
464) thì TT Ford không tìm được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc, thảm
kịch không thể nào tránh khỏi.
(… there were no easy,
heretofore undiscovered way out of this morass…
The tragedy had become
simply inevitable.)
Gerald Ford chẳng khác
nào một ông Tổng thống bù nhìn, lại nữa ông đã không do dân bầu, lên thay thế
TT Nixon khi mà đảng Cộng Hòa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng
Watergate.
Tình hình miền nam VN
lúc này quá u ám, Hoa Kỳ đã bắt tay được Trung Cộng tháng 2/1972 và hòa được
với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino không còn ý nghĩa. Bây giờ là lúc họ
quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được Cộng sản quốc tế khuyến khích, Hà Nội
mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi
cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn:
“Chúng ta đã biết trước
là thua tại sao vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?”
Một câu hỏi thật khó có
câu trả lời…
Tối 29/3/1975 đài phát
thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng đã thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm
tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu I, hung tin ghê gớm ấy đã
khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập trung những lực lượng tinh
nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn
Biệt động quân đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay
nhiều bí mật về cuộc lui binh đã được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị
Tướng lãnh, các giới chức quân sự liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến
bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, ký giả chiến trường…
đã biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng
như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến
tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của miền Nam lại có
thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm kịch này bắt nguồn từ
ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự.
Các tài liệu, sách báo
nói về cuộc lui binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên,
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử
Nguyễn Đức Phương, ký giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các
nhân chứng … nói chung không hoàn toàn giống nhau, có khi còn trái ngược nhau
là khác.
Quân khu I là một giải
đất dài và hẹp hình cán chảo chạy theo hướng Tây Bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh
Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngãi, dân số vào khoảng ba
triệu người. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp
giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là
vùng Hoả tuyến. Từ sau khi ký hiệp định Paris, nửa triệu quân đồng minh đã rút
đi, VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lãnh thổ quá rộng, không
đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ còn kiểm soát được phần đất nằm phía
bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, còn phía Tây do Cộng
thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ còn những tỉnh lỵ và thị xã và
các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày
19/3/1975, nếu nhìn trên bản đồ quân sự (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH
trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ còn kiểm soát được vào khoảng gần một phần
ba (1/3) diện tích Quân khu 1.
Năm 1972 Quân khu I đã
là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các
đại đơn vị của hai miền Nam Bắc .Vì tình hình sôi động đặc biệt của vùng hỏa
tuyến ngoài ba Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu còn cho hai Sư
đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng tăng cường. Đạn dược
tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đã dẫn trang
92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975, đạn tồn
kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ còn đủ cung ứng khoảng một tháng (30
ngày).
Miền Nam không được Mỹ
yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược đã gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1975 bị cắt
giảm 50% mỗi năm (Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối
tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại
đây đã phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu còn đủ chiến đấu (Kissinger, Years
of Renewal, trang 490)
Trong khi ấy CS quốc tế
vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV. Theo BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006,
viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn 1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí,
giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi như không thay đổi. Từ tháng
12/1974 Nga Sô đã viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp bốn lần hơn trước (Kissinger,
Years of Renewal trang 481).
Nhìn sơ các con số và
các dữ kiện trên chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn có nói
“Xin nhắc lại một lần
nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương
tiện chiến tranh)
(Những Sự Thật Chiến
Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406)
Cuối năm 1974 tình hình
chiến sự ở Quân khu I yên lặng được một thời gian, VNCH đẩy lui cuộc tấn công
của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về địa hình, vì gần hậu
cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho
tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn thất trong các trận
giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm
hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư
lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh còn lại Quảng
Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
trực tiếp chỉ huy.
Bố trí chủ lực quân VNCH
như sau:
-Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC,
Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hãn kéo dài sang
phía Tây Quảng Trị.
Lực lượng cơ hữu của
Quân khu và các Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh còn lại:
- Sư đoàn 1BB và Liên
đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên.
- Sư đoàn 3 BB và Liên
đoàn 14 BĐQ đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam.
- Sư đoàn 2 BB và hai
liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín, Quảng Ngãi.
(Theo Nguyễn đức Phương,
Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751)
Các đơn vị yểm trợ gồm
trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn phòng không, một lữ đoàn thiết kỵ.
Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các
duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại
Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương
quân, nghĩa quân, số gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lý
thuyết, trên thực tế thì thấp hơn không được như vậy vì nhiều lý do.
Lực lượng Cộng sản tại
Quân khu I chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các
Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả Nguyễn Đức
Phương tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3
Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đã dẫn trang 752).
Theo ông Cao Văn Viên,
tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52,
4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ
vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 Trung đoàn xe tăng,
12 Trung đoàn phòng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH
trang 160).
Theo Nguyễn Đức Phương
lực lượng địch tổng cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về vũ khí
đạn dược hơn VNCH rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai.
Diễn tiến của mặt trận
Trong khi mở chiến dịch
Ban Mê Thuột, CSBV tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân
quân đội VNCH như tại Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm
nhập các xã ven biển Thừa Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công
tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2
quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…
Ngày 11/3, sau khi CS
tấn công chiếm Ban mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại
Dinh Độc Lập, có mặt Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung
Tướng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước tình hình khó khăn do quân viện
bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV
và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II, QK I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những
Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131)
Trong lúc tình hình quân
sự có vẻ không thuận lợi cho ta thì theo yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho
Tướng Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương.
Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh
cho Tướng Trưởng về Sài Gòn họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang,
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết tình hình khó khăn do cắt giảm
quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải
tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi để giữ những
vùng mầu mỡ còn hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.
Ngày 14/3 Tướng Trưởng
về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về
Sài Gòn, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn TQLC 369
tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ
chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.
Ngày 17/3 Lữ đoàn 258
TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di
tản ồ ạt trên quốc lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối
trí.
Ngày 18/3 Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng
biết sẽ không tăng viện Quân khu I vì tình hình Quân khu III nghiêm trọng, Việt
Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, Bình Tuy…
Ngày 19/3 Tướng Trưởng
được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước
nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bầy hai kế
hoạch lui binh:
Kế hoạch Một: các đơn vị
sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị
cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế hoạch Hai: Các lực
lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải
quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà
Nẵng là điểm phòng thủ chánh, điểm tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả
ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông
Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Ông Cao Văn Viên cho
rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lý.
“Kế hoạch lui quân của
Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó
với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự
trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành
động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc.
Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự phòng nào khác”
(Những Ngày Cuối Của
VNCH Trang 163)
Thật ra kế hoạch nghe
thì hay nhưng thực hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn
công gấp rút, dân chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT
Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay
sau đó ông bảo Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn
an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt
thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất.
Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ
ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ chánh lập phòng
tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc,
Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên
không nên đổ máu vô ích vì các siêu cường đã sắp đặt cả rồi.
Sáng 20/3 Tướng Trưởng
bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế
như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận tương đối còn
tốt đẹp, các đơn vị hoàn hảo, tinh thần cao duy trì được kỷ luật, ai nấy đồng
lòng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tướng Trưởng lạc quan khi thấy Huế phòng
thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến
chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà
Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, ông Thiệu lý luận Quân đoàn I không đủ lính để
bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tùy cơ
ứng biến.
Quân khu I ngày một nguy
ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị
đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo
về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngãi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc,
áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư
đoàn I VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV
nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất
thủ, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc
đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra
lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.
Dân chúng và quân cụ bắt
đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23/3 Việt Cộng pháo kích Huế rời
rạc không gây thiệt hại gì nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như
hỗn loạn. Tại phía Nam Vùng Một tình hình nguy ngập khi quận Hậu Đức, Tiên
Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2 và Liên đoàn 12 BĐQ chặn
được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập
của Cộng quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngãi,
những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng
rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của
Tướng Trưởng đem lại chút bình yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín
trong 2 ngày.
Sáng ngày 24/3 tại phía
Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV
và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa
thì Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh
tiến về Quảng Tín để giúp Địa phương quân chạy từ Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn
ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngãi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa
phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngãi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh
quân sự Quảng Ngãi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngãi tới Chu lai bị cắt đứt,
đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày tình hình Quân khu 1 rối loạn đến
mức không còn kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngãi
mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được.
Ngày 25/3 tất cả các đơn
vị Quân đoàn I tụ lại 3 phòng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở giữa và
Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về
các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ
trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong tình thế khó khăn
Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh cho
Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3 để phòng thủ
Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và các
đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngãi và
thân nhân của họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương
vận hạm đón Sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công
hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về
Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.
Các lực lượng Huế bắt
đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công
binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà
Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Sáng
ngày 26/3 biển sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và
đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được
trong khi ấy Cộng quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập
trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư đoàn I tan rã
tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân
nhân.
Trong khi đó thì Lữ đoàn
kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận
An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ
tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm
đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ
ra dương vận hạm.
Sư đoàn 325 CS chuyển
vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng, Sư đoàn 2 CS cũng
tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập phòng tuyến phòng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía
Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam. Ngày 27/3/1975 các
cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Cộng quân dồn nỗ lực
bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung
đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành
phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đã nằm
trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân
đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị rã ngũ
trên đường triệt thoái, một phần đã được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để
đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ
nạn đã trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát được.
Sáng ngày 28/3/1975
Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi
trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ
quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào
các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây
ra. Trưa 28/3 Phòng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I biết Cộng quân có thể tấn
công trong đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang,
Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa các xã ấp
quanh Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan rã,
binh sĩ rã ngũ rời đơn vị.
CSBV pháo phi trường,
căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc
công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng
tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu
không ra lệnh rõ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản thì có thể được bao nhiêu. Pháo
kích của BV khiến cho liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng
lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân
vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại chân đèo Hải Vân , núi
Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Rạng sáng ngày 29/3/1975
sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đã có mặt ở điểm hẹn, thủy
triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi
cho đến khi khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu
ngoài khơi gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000
lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.
Đà Nẵng được coi như
thất thủ ngày 29/3/1975. Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng.
Năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC,
non nửa lực lượng của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đã được
tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số
12,000 người của Sư đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ
có 1,000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16
ngàn lính, 4 Sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị
chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của
Quân khu I coi như mất hết.
Quân khu I thất thủ một
cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh
chận hậu, đánh trì hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn
được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về
nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều.
© Trọng Đạt
00000000000000000000000000000000000000000
Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh;
Có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn.
Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.
Chiến tranh Việt Nam, một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) nhìn toàn cục, có thể họ lại là người chiến thắng.
Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Cuối cùng thì Cộng Sản Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).
Tháng Tư 1975 là cái thắng được sắp đặt trên chính trường cho miền bắc và và nó chỉ có ý nghĩa đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ, vì lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam năm 1973 không còn tham chiến. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?
Có hai mục tiêu chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.
Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.
sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment