Việt cộng dùng chiêu "Mượn Dao Giết Người"
"Mượn Tù Cải Tạo Giết Người Ngã Ngựa"
Câu chuyện sống thật, những cảm nghĩ và tiếng nói của một cựu tù nhân chính trị, trên cơ thể hiện còn đang mang nhiều vết thương tra tấn, hậu quả của nhiều năm bị giam giữ trong ngục tù CSVN.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, lúc mà chính quyền Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng rút quân cùng toàn bộ nhân sự để khép lại chương sử chiến tranh Việt Nam, họ đã bỏ lại đằng sau hơn 980 ngàn quân đồng minh QLVNCH.
Với phương tiện thiếu thốn, phải đơn độc đương đầu với quân CSVN được sự hậu thuẫn toàn diện bởi Liên Sô, Trung Quốc và toàn khối Cộng Sản Vac-Sa-Va (Warsaw Bloc).
Với cái giá quá cao vì sự bội ước này mà nhân dân miền Nam Việt Nam phải trả, là trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và “tra tấn thầm lặng.”
Hình (TTT): Ông Trần Tử Thanh trước và sau 15 năm tù (1990).
Cộng sản đã tập trung họ vào hàng trăm trại cưỡng bức lao động, các phân trại lao cải hoặc các nhà tù được vội vã xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Thế giới đã hoàn toàn bị đánh lừa vì bề ngoài không thấy có các cuộc tắm máu. Nhưng đằng sau những hàng rào an ninh dầy dặc của cái gọi là “trại cải tạo”, nhà cầm quyền Hà Nội, qua các trại lao cải do quân đội quản lý, sau đến qua đến Bộ Nội Công An, đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Theo các tổ chức nghiên cứu về tù nhân và các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật… Tuy nhiên cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là “chính sách cố tình bỏ đói.” Trong số người bị bức tử có thân phụ chúng tôi, cố luật sư Trần Văn Tuyên, cựu Phó Thủ Tướng của Việt Nam Cộng Hòa, nhà làm luật, nhà lãnh đạo chính tri, đồng thời cũng là Chủ Tịch, Sáng lập viên của “Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam”, hội viên chính thức của Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền từ năm 1967 (International League for Human Rights). Hai người em họ, con chú bác ruột của tôi là các Thiếu Úy Trần Quang Vinh (Chiến Tranh Chính Trị) và Trần Hoài Hà (Nhảy Dù) cũng đã bị Việt cộng hành quyết tại Ban Mê Thuột vào năm 1976.
Bị giam giữ trong các trại lao tù cộng sản, chúng tôi biết rằng, hy vọng sống còn để trở về với gia đình là điều quá mong manh. Đối với chúng tôi, tra tấn về thể xác không thấm tháp gì nếu đem so sánh với lối “tra tấn” khủng khiếp là “bị bỏ đói”. Những cơn đói triền miên ám ảnh chúng tôi kéo dài lê thê ngày này qua ngày khác. Cơn đói hành hạ chúng tôi 24 giờ mỗi ngày. Cơn đói làm mất đi nghị lực, tinh thần và nhân phẩm. Cơm gạo, củ sắn, củ khoai và ngô bắp đã giày vò sự thèm khát thường xuyên của chúng tôi và không có lúc nào để chúng tôi yên. Nó đã làm cho không hiếm những anh em đồng cảnh của chúng tôi, có đôi lúc, quên đi họ là “con người”, để chỉ còn giữ lại bản năng tự tồn không khác gì những con vật. Tôi cho đây là lối “tra tấn thể xác lẫn tinh thần” độc ác và man rợ nhất mà chỉ những người CSVN mới dám làm. Sau những tháng năm triền miên bị bỏ đói, người tù đã ăn bất cứ con gì biết cử động, từ con chuột cống, sâu bọ, rắn rết, bò cạp, ốc sên, và mọi loại côn trùng mà chúng tôi tìm thấy hoặc bắt được, những thứ mà trong thế giới no đủ, người ta ghê sợ và kinh tởm. Không cần sử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho các tù nhân tự giết mình bằng những loại “thức ăn” dơ bẩn và độc hại nêu trên.
Kỹ thuật tra tấn ở các trại lao cải.
Bộ nội vụ CSVN đã đề ra những nội quy, quy định, những điều lệ rất khắt khe và nghiêm khắc nhằm kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và hành động của các tù nhân. Bất cứ một tù nhân nào vi phạm nội quy của trại giam như xách động chống đối, tuyên truyền rỉ tai, phổ biến kinh kệ, giáo lý các tôn giáo, nói tiếng ngoại ngữ… khi bị phát hiện qua những tên điềm chỉ (ăng ten) sẽ ngay tức khắc bị đưa giam vào phòng kỷ luật với các biện pháp trừng trị như sau:
– Khẩu phần, tùy theo mùa, sẽ là một nửa chén cơm gạo mốc nhỏ với vài thìa nước muối, hoặc hai, ba mẩu khoai lang, khoai mì (sắn), hoặc nửa chén nhỏ sắn khô hôi mốc, bo bo chưa xát vỏ, hay ngô hạt rất cứng, loại thức ăn chỉ có ngựa mới có thể ăn và tiêu hóa.
Có hàng trăm tù nhân đã bị “hành quyết” vì trốn trại như Đại Úy Chu Minh Lộc ở trại 12 thuộc Đoàn 776, Yên Bái, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, trại Suối Máu Biên Hòa hoặc Đại Úy Nguyễn Văn Giàu và Thiếu Tá Lê Đức Thịnh tại trại Long Giao, Long Khánh, Đại Úy Đỗ Văn Mười tại Bình Tuy… Hàng trăm tù nhân đã bị tra tấn đánh đập và cùm chân tay cho đến chết như Linh mục Nguyễn Văn Vàng, Đại Úy Bác sĩ Nguyễn Kim Long… ở trại Phú Yên, Thiếu Tá Cảnh sát Nguyễn Văn Hằng ở trại Hà Nam Ninh, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp tại trại Lý Bá Sơ, Linh Mục Hoàng Quỳnh, Đai úy Không Quân Dương Hùng Cường ở trại giam Phan Đăng Lưu, Đại úy Lực Lượng Đặc Biệt Đoàn Văn Xương tại trại số 6 Nghệ Tĩnh… Còn hàng trăm, hàng ngàn người nữa mà tôi không thể liệt kê hết ngày hôm nay.
Tùy theo mỗi trại giam, công an CS đã được huấn luyện thuần thục hoặc tự sáng chế ra những phương pháp trừng phạt đa dạng và tra tấn man rợ khác nhau như sau trong khi bị biệt giam:
1. Nhẹ nhất là khóa hai tay ra đằng sau lưng.
2. Trói ngược hai tay ra sau và xiềng hai chân.
3. Xích một tay bên này vào chân bên kia bằng sợi dây xích ngắn.
Cách này làm cho tù nhân không thể cử động hay nằm ngủ được, chỉ ngủ ở thế ngồi. Nếu dang chân hay tay ra thì cổ tay hay mắt cá sẽ bị cứa đứt, chảy máu.
4. Xiềng hai cánh tay ngược lên đằng sau vai với hai chân gấp ngược lên lưng. Cách này chỉ có thể nằm sấp, một phần của ngực áp xuống sàn xi măng. Cách xiềng này khó ai có thể chịu đựng được quá 3 tiếng đồng hồ.
5. Cùm hai chân lâu dài trong phòng tối. Tù nhân phải ăn ngủ và vệ sinh tại chỗ. Rất nhiều trường hợp cùm rỉ sét làm cho mắt cá bị nhiễm độc, lở loét.
6. Riêng tại Miền Nam Việt Nam, cộng sản thường nhốt trừng phạt tù nhân với thế ngồi co gấp trong một thùng sắt nhỏ gọi là conex để ngoài trời nắng như thiêu đốt, miền nhiệt đới. Nhiều tù nhân đã chết vì không chịu nổi sức nóng hay bị ngộp thở bởi cách tra tấn tàn ác này.
Cá nhân tôi, trong một buổi tẩy não mà CS gọi là “học tập chính trị”, đã từ chối dùng tiếng “thằng” thiếu lễ độ để gọi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng lôi tôi ra khỏi lớp, đưa lên ngọn đồi thấp sau trại, nơi đó có 4 tên cai tù bắt đầu đấm đá liên tục vào ngực và vào bụng tôi một cách man rợ. Với phản ứng tự nhiên, phải chống đỡ tự vệ vì quá đau đớn. Một cai tù đã dùng bá súng AK47 đập mạnh vào mặt tôi, làm bể mí mắt bên trái. Mặt tôi máu đầm đìa, chảy thấm ướt sũng bộ áo quần tù. Cú đánh tiếp thứ hai rất mạnh làm gẩy 3 răng hàm bên trái. Vì trận đòn quá đau đớn, lại mất nhiều máu, tôi đã bị ngất xỉu tại chỗ. Kết quả trận đòn này, tôi đã bị ho ra máu nhiều tháng cho đến khi nhờ các anh em tù “biệt kích Nhảy Bắc” cùng trại biết được sự việc, đã tuồn vào cho một mẩu nhỏ mật gấu bằng móng tay, dặn tôi mài ra uống với vài giọt rượu hoặc nước ấm; nhờ vậy bệnh mới thuyên giảm.
Ngày 16 tháng 12 năm năm 1983, tôi lại bị công an Bộ Nội Vụ bắt giam lần thứ hai về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân qua “Tổ Chức Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc.” Sau khi bắt, công an bịt mắt chuyển tôi đến trại giam T82 (hiện T82 đã được đổi thành B34 để ngụy trang che giấu). Để ép cung, công an phòng Điều Tra Xét Hỏi cho cùm cổ chân phải vào cườm tay trái của tôi với sợi xích ngắn hầu không cho tôi cử động. Suốt thời gian thẩm vấn tôi, công an đã tận dụng mọi kỹ thuật khai thác như “ép cung”, “mớm cung”, “dụ cung”, ép buộc tôi phải nhận tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và khai báo theo ý muốn của chúng để chúng có đủ bằng chứng “kết án tôi tử hình”. Chúng dùng đủ mọi hình thức nhục hình để khai thác tin tức, áp dụng các kỹ thuật hỏi cung tinh vi, tra tấn không để lộ dấu vết trên cơ thể tù nhân. Nhiều tối, có lúc bốn, năm tên thẩm vấn viên thay phiên nhau tra hỏi, đánh đập tôi nặng nề, chúng biết tránh chỗ tử huyệt vì chúng muốn tôi sống để khai thác thêm những tin tức mà chúng cần. Một tra tấn viên tên Thanh Sơn dùng dùi cui bọc cao su đánh vào sườn non tôi trong khi hai tên khác (tên Chánh và tên Lê Văn Để) đè tôi xuống ghế dài. Sau đó chúng đánh vào lòng hai bàn chân. Mỗi lần chúng đánh như thế toàn thân tôi, từ đầu óc đến lục phủ ngũ tạng thật đau đớn, thân thể như bị điện giựt. Chúng còn dùng cả cách tra tấn gọi là cho đi “tầu ngầm” bằng cách phủ một bao bố lên mặt rồi bắt đầu đổ nước để cho ngạt thở khi chúng bắt tôi thú nhận là nhân viên tình báo và là gián điệp của cơ quan CIA Hoa Kỳ. Nhiều lần hai thẩm vấn viên dìm đầu tôi vào bể nước trong khi tay tôi bị còng thúc ké ra sau.
Suốt 14 tháng trời, công an biệt giam tôi để thẩm vấn ở trại T82 dưới sự chỉ huy của hai tên đại tá Lâm Quốc Hùng, trưởng phòng và tên trung tá Trần Hùng Nghiệp (gốc Quảng Ngãi), phó phòng PA 24 (Phòng Điều Tra Xét Hỏi), sáu tên công an trong đó có tên Thanh Sơn và tên Chánh (gốc miền Nam) đã 3 lần dùng loại điện thoại hữu tuyến EE8 của quân đội Hoa Kỳ, nối hàm cá sâu, kẹp vào đùi và bộ phận sinh dục của tôi để quay điện. Thình lình bị điện giật quá mạnh, tôi té bật ngửa xuống sàn và tiểu ra quần. Kiểu ép cung này được cộng sản thường dùng nhất khi thẩm vấn các tù chính trị, đặc biệt là đối với các tù nhân từ hải ngoại xâm nhập vào Việt Nam để hoạt động vào những năm 1984-1985.
Thỉnh thoảng trong lúc tra tấn, thẩm vấn viên đưa cho tôi xem tấm hình đứa con nhỏ 10 tuổi mà tôi đã xa cháu khi bị bắt vào tháng 5 năm 1975, lúc cháu mới một tuổi. Tên trung tá Trần Hùng Nghiệp nói nếu tôi nhận tội, sẽ cho gặp mặt con. Hắn dùng đòn tâm lý để lung lạc ý chí và tinh thần của tôi trong suốt thời gian dài tôi bị biệt giam tại trại T82 (hiện nay là B34), tại trại giam Phan Đăng Lưu và khu xà lim Kiên Giam khu E-D, lầu ba, khám Chí Hòa. Cuối cùng khi tôi vẫn cương quyết giữ vững lời khai, cộng với sự can thiệp của Thủ Tướng Thụy Điển Olof Palmer, của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và của chánh giới Hoa Kỳ, Bộ Nội Vụ CSVN lúc đó mới tuyên bố đang giam giữ ba anh em chúng tôi và sẽ truy tố chúng tôi về tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và “Tuyên truyền chống chế độ XHCN.”
Tính ra trong lần tù thứ hai này, từ lúc bị bắt cho tới khi bị đưa ra tòa 12/83-12/88, tôi đã bị biệt giam suốt 4 năm 6 tháng, hai năm với hai chân bị cùm và hai năm sáu tháng với một chân bị cùm trong xà lim tăm tối, hôi thối và ẩm mốc. Thân xác chẳng khác nào như đã bị tẩm liệm trong quan tài dài 2 mét rưỡi, ngang 90cm với chiều cao 2 mét, và chịu đựng đánh đập tra tấn hàng ngày. Khi ra tù, tôi mang nhiều thứ bệnh, phổi bị tụ máu và xuất huyết bao tử. Công an tra tấn cộng sản đã biến cơ thể tôi trở thành bộ xương chỉ còn hơn 35 kí lô. Cộng có thể hủy diệt thân thể tôi nhưng chúng đã thất bại trong âm mưu hủy diệt ý chí và tinh thần của một “Tù Nhân vì Lương Tri”. Trong ngục lạnh cô đơn, tôi luôn cố tập luyện thiền định hàng ngày để bồi đắp sức mạnh ý chí và tinh thần hầu có thể vượt qua mọi gian khổ.
Với bao năm tháng tù đày trong khám tối và bị tra tấn đánh đập sau gần 15 năm tù, mắt tôi rất sợ ánh sáng chói lòa, thường hay bị nhức đầu, chóng mặt, có lẽ do hậu quả bị đánh bằng báng súng AK47 trước đây.
Cũng vì bị tra tấn đánh đập trong thời gian dài, nên có lúc tôi thấy thường đau nhói bên ngực trái vùng trái tim. Tôi tin đó là hậu quả bị đánh nhiều quá vào bàn chân và ba sườn. Trong những tháng mùa đông giá lạnh, chân cẳng tôi bị đau buốt đến xương tủy như thể bị kim châm. Mặc dù đã thoát chết, thoát tù đầy đã trên 25 năm qua, nhưng đôi lúc vào nửa đêm chợt thức giấc, trong khoảnh khắc, tôi thấy mình còn như đang nằm trên nền xi măng vắng lạnh trong ngục tù cộng sản/Việt cộng ngày nào.
Xương sống tôi đã bị thương nặng khi một tên trong bọn tra tấn dùng một thế võ đá mạnh vào lưng từ phía sau, khiến tôi té xấp xuống nền.
Trần Tử Thanh,
Cựu Đại Úy QLVNCH
"Mượn Tù Cải Tạo Giết Người Ngã Ngựa"
Câu chuyện sống thật, những cảm nghĩ và tiếng nói của một cựu tù nhân chính trị, trên cơ thể hiện còn đang mang nhiều vết thương tra tấn, hậu quả của nhiều năm bị giam giữ trong ngục tù CSVN.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, lúc mà chính quyền Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng rút quân cùng toàn bộ nhân sự để khép lại chương sử chiến tranh Việt Nam, họ đã bỏ lại đằng sau hơn 980 ngàn quân đồng minh QLVNCH.
Với phương tiện thiếu thốn, phải đơn độc đương đầu với quân CSVN được sự hậu thuẫn toàn diện bởi Liên Sô, Trung Quốc và toàn khối Cộng Sản Vac-Sa-Va (Warsaw Bloc).
Với cái giá quá cao vì sự bội ước này mà nhân dân miền Nam Việt Nam phải trả, là trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và “tra tấn thầm lặng.”
Hình (TTT): Ông Trần Tử Thanh trước và sau 15 năm tù (1990).
Cộng sản đã tập trung họ vào hàng trăm trại cưỡng bức lao động, các phân trại lao cải hoặc các nhà tù được vội vã xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Thế giới đã hoàn toàn bị đánh lừa vì bề ngoài không thấy có các cuộc tắm máu. Nhưng đằng sau những hàng rào an ninh dầy dặc của cái gọi là “trại cải tạo”, nhà cầm quyền Hà Nội, qua các trại lao cải do quân đội quản lý, sau đến qua đến Bộ Nội Công An, đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Theo các tổ chức nghiên cứu về tù nhân và các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật… Tuy nhiên cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là “chính sách cố tình bỏ đói.” Trong số người bị bức tử có thân phụ chúng tôi, cố luật sư Trần Văn Tuyên, cựu Phó Thủ Tướng của Việt Nam Cộng Hòa, nhà làm luật, nhà lãnh đạo chính tri, đồng thời cũng là Chủ Tịch, Sáng lập viên của “Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam”, hội viên chính thức của Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền từ năm 1967 (International League for Human Rights). Hai người em họ, con chú bác ruột của tôi là các Thiếu Úy Trần Quang Vinh (Chiến Tranh Chính Trị) và Trần Hoài Hà (Nhảy Dù) cũng đã bị Việt cộng hành quyết tại Ban Mê Thuột vào năm 1976.
Bị giam giữ trong các trại lao tù cộng sản, chúng tôi biết rằng, hy vọng sống còn để trở về với gia đình là điều quá mong manh. Đối với chúng tôi, tra tấn về thể xác không thấm tháp gì nếu đem so sánh với lối “tra tấn” khủng khiếp là “bị bỏ đói”. Những cơn đói triền miên ám ảnh chúng tôi kéo dài lê thê ngày này qua ngày khác. Cơn đói hành hạ chúng tôi 24 giờ mỗi ngày. Cơn đói làm mất đi nghị lực, tinh thần và nhân phẩm. Cơm gạo, củ sắn, củ khoai và ngô bắp đã giày vò sự thèm khát thường xuyên của chúng tôi và không có lúc nào để chúng tôi yên. Nó đã làm cho không hiếm những anh em đồng cảnh của chúng tôi, có đôi lúc, quên đi họ là “con người”, để chỉ còn giữ lại bản năng tự tồn không khác gì những con vật. Tôi cho đây là lối “tra tấn thể xác lẫn tinh thần” độc ác và man rợ nhất mà chỉ những người CSVN mới dám làm. Sau những tháng năm triền miên bị bỏ đói, người tù đã ăn bất cứ con gì biết cử động, từ con chuột cống, sâu bọ, rắn rết, bò cạp, ốc sên, và mọi loại côn trùng mà chúng tôi tìm thấy hoặc bắt được, những thứ mà trong thế giới no đủ, người ta ghê sợ và kinh tởm. Không cần sử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho các tù nhân tự giết mình bằng những loại “thức ăn” dơ bẩn và độc hại nêu trên.
Kỹ thuật tra tấn ở các trại lao cải.
Bộ nội vụ CSVN đã đề ra những nội quy, quy định, những điều lệ rất khắt khe và nghiêm khắc nhằm kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và hành động của các tù nhân. Bất cứ một tù nhân nào vi phạm nội quy của trại giam như xách động chống đối, tuyên truyền rỉ tai, phổ biến kinh kệ, giáo lý các tôn giáo, nói tiếng ngoại ngữ… khi bị phát hiện qua những tên điềm chỉ (ăng ten) sẽ ngay tức khắc bị đưa giam vào phòng kỷ luật với các biện pháp trừng trị như sau:
– Khẩu phần, tùy theo mùa, sẽ là một nửa chén cơm gạo mốc nhỏ với vài thìa nước muối, hoặc hai, ba mẩu khoai lang, khoai mì (sắn), hoặc nửa chén nhỏ sắn khô hôi mốc, bo bo chưa xát vỏ, hay ngô hạt rất cứng, loại thức ăn chỉ có ngựa mới có thể ăn và tiêu hóa.
Có hàng trăm tù nhân đã bị “hành quyết” vì trốn trại như Đại Úy Chu Minh Lộc ở trại 12 thuộc Đoàn 776, Yên Bái, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, trại Suối Máu Biên Hòa hoặc Đại Úy Nguyễn Văn Giàu và Thiếu Tá Lê Đức Thịnh tại trại Long Giao, Long Khánh, Đại Úy Đỗ Văn Mười tại Bình Tuy… Hàng trăm tù nhân đã bị tra tấn đánh đập và cùm chân tay cho đến chết như Linh mục Nguyễn Văn Vàng, Đại Úy Bác sĩ Nguyễn Kim Long… ở trại Phú Yên, Thiếu Tá Cảnh sát Nguyễn Văn Hằng ở trại Hà Nam Ninh, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp tại trại Lý Bá Sơ, Linh Mục Hoàng Quỳnh, Đai úy Không Quân Dương Hùng Cường ở trại giam Phan Đăng Lưu, Đại úy Lực Lượng Đặc Biệt Đoàn Văn Xương tại trại số 6 Nghệ Tĩnh… Còn hàng trăm, hàng ngàn người nữa mà tôi không thể liệt kê hết ngày hôm nay.
Tùy theo mỗi trại giam, công an CS đã được huấn luyện thuần thục hoặc tự sáng chế ra những phương pháp trừng phạt đa dạng và tra tấn man rợ khác nhau như sau trong khi bị biệt giam:
1. Nhẹ nhất là khóa hai tay ra đằng sau lưng.
2. Trói ngược hai tay ra sau và xiềng hai chân.
3. Xích một tay bên này vào chân bên kia bằng sợi dây xích ngắn.
Cách này làm cho tù nhân không thể cử động hay nằm ngủ được, chỉ ngủ ở thế ngồi. Nếu dang chân hay tay ra thì cổ tay hay mắt cá sẽ bị cứa đứt, chảy máu.
4. Xiềng hai cánh tay ngược lên đằng sau vai với hai chân gấp ngược lên lưng. Cách này chỉ có thể nằm sấp, một phần của ngực áp xuống sàn xi măng. Cách xiềng này khó ai có thể chịu đựng được quá 3 tiếng đồng hồ.
5. Cùm hai chân lâu dài trong phòng tối. Tù nhân phải ăn ngủ và vệ sinh tại chỗ. Rất nhiều trường hợp cùm rỉ sét làm cho mắt cá bị nhiễm độc, lở loét.
6. Riêng tại Miền Nam Việt Nam, cộng sản thường nhốt trừng phạt tù nhân với thế ngồi co gấp trong một thùng sắt nhỏ gọi là conex để ngoài trời nắng như thiêu đốt, miền nhiệt đới. Nhiều tù nhân đã chết vì không chịu nổi sức nóng hay bị ngộp thở bởi cách tra tấn tàn ác này.
Cá nhân tôi, trong một buổi tẩy não mà CS gọi là “học tập chính trị”, đã từ chối dùng tiếng “thằng” thiếu lễ độ để gọi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng lôi tôi ra khỏi lớp, đưa lên ngọn đồi thấp sau trại, nơi đó có 4 tên cai tù bắt đầu đấm đá liên tục vào ngực và vào bụng tôi một cách man rợ. Với phản ứng tự nhiên, phải chống đỡ tự vệ vì quá đau đớn. Một cai tù đã dùng bá súng AK47 đập mạnh vào mặt tôi, làm bể mí mắt bên trái. Mặt tôi máu đầm đìa, chảy thấm ướt sũng bộ áo quần tù. Cú đánh tiếp thứ hai rất mạnh làm gẩy 3 răng hàm bên trái. Vì trận đòn quá đau đớn, lại mất nhiều máu, tôi đã bị ngất xỉu tại chỗ. Kết quả trận đòn này, tôi đã bị ho ra máu nhiều tháng cho đến khi nhờ các anh em tù “biệt kích Nhảy Bắc” cùng trại biết được sự việc, đã tuồn vào cho một mẩu nhỏ mật gấu bằng móng tay, dặn tôi mài ra uống với vài giọt rượu hoặc nước ấm; nhờ vậy bệnh mới thuyên giảm.
Ngày 16 tháng 12 năm năm 1983, tôi lại bị công an Bộ Nội Vụ bắt giam lần thứ hai về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân qua “Tổ Chức Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc.” Sau khi bắt, công an bịt mắt chuyển tôi đến trại giam T82 (hiện T82 đã được đổi thành B34 để ngụy trang che giấu). Để ép cung, công an phòng Điều Tra Xét Hỏi cho cùm cổ chân phải vào cườm tay trái của tôi với sợi xích ngắn hầu không cho tôi cử động. Suốt thời gian thẩm vấn tôi, công an đã tận dụng mọi kỹ thuật khai thác như “ép cung”, “mớm cung”, “dụ cung”, ép buộc tôi phải nhận tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và khai báo theo ý muốn của chúng để chúng có đủ bằng chứng “kết án tôi tử hình”. Chúng dùng đủ mọi hình thức nhục hình để khai thác tin tức, áp dụng các kỹ thuật hỏi cung tinh vi, tra tấn không để lộ dấu vết trên cơ thể tù nhân. Nhiều tối, có lúc bốn, năm tên thẩm vấn viên thay phiên nhau tra hỏi, đánh đập tôi nặng nề, chúng biết tránh chỗ tử huyệt vì chúng muốn tôi sống để khai thác thêm những tin tức mà chúng cần. Một tra tấn viên tên Thanh Sơn dùng dùi cui bọc cao su đánh vào sườn non tôi trong khi hai tên khác (tên Chánh và tên Lê Văn Để) đè tôi xuống ghế dài. Sau đó chúng đánh vào lòng hai bàn chân. Mỗi lần chúng đánh như thế toàn thân tôi, từ đầu óc đến lục phủ ngũ tạng thật đau đớn, thân thể như bị điện giựt. Chúng còn dùng cả cách tra tấn gọi là cho đi “tầu ngầm” bằng cách phủ một bao bố lên mặt rồi bắt đầu đổ nước để cho ngạt thở khi chúng bắt tôi thú nhận là nhân viên tình báo và là gián điệp của cơ quan CIA Hoa Kỳ. Nhiều lần hai thẩm vấn viên dìm đầu tôi vào bể nước trong khi tay tôi bị còng thúc ké ra sau.
Suốt 14 tháng trời, công an biệt giam tôi để thẩm vấn ở trại T82 dưới sự chỉ huy của hai tên đại tá Lâm Quốc Hùng, trưởng phòng và tên trung tá Trần Hùng Nghiệp (gốc Quảng Ngãi), phó phòng PA 24 (Phòng Điều Tra Xét Hỏi), sáu tên công an trong đó có tên Thanh Sơn và tên Chánh (gốc miền Nam) đã 3 lần dùng loại điện thoại hữu tuyến EE8 của quân đội Hoa Kỳ, nối hàm cá sâu, kẹp vào đùi và bộ phận sinh dục của tôi để quay điện. Thình lình bị điện giật quá mạnh, tôi té bật ngửa xuống sàn và tiểu ra quần. Kiểu ép cung này được cộng sản thường dùng nhất khi thẩm vấn các tù chính trị, đặc biệt là đối với các tù nhân từ hải ngoại xâm nhập vào Việt Nam để hoạt động vào những năm 1984-1985.
Thỉnh thoảng trong lúc tra tấn, thẩm vấn viên đưa cho tôi xem tấm hình đứa con nhỏ 10 tuổi mà tôi đã xa cháu khi bị bắt vào tháng 5 năm 1975, lúc cháu mới một tuổi. Tên trung tá Trần Hùng Nghiệp nói nếu tôi nhận tội, sẽ cho gặp mặt con. Hắn dùng đòn tâm lý để lung lạc ý chí và tinh thần của tôi trong suốt thời gian dài tôi bị biệt giam tại trại T82 (hiện nay là B34), tại trại giam Phan Đăng Lưu và khu xà lim Kiên Giam khu E-D, lầu ba, khám Chí Hòa. Cuối cùng khi tôi vẫn cương quyết giữ vững lời khai, cộng với sự can thiệp của Thủ Tướng Thụy Điển Olof Palmer, của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và của chánh giới Hoa Kỳ, Bộ Nội Vụ CSVN lúc đó mới tuyên bố đang giam giữ ba anh em chúng tôi và sẽ truy tố chúng tôi về tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và “Tuyên truyền chống chế độ XHCN.”
Tính ra trong lần tù thứ hai này, từ lúc bị bắt cho tới khi bị đưa ra tòa 12/83-12/88, tôi đã bị biệt giam suốt 4 năm 6 tháng, hai năm với hai chân bị cùm và hai năm sáu tháng với một chân bị cùm trong xà lim tăm tối, hôi thối và ẩm mốc. Thân xác chẳng khác nào như đã bị tẩm liệm trong quan tài dài 2 mét rưỡi, ngang 90cm với chiều cao 2 mét, và chịu đựng đánh đập tra tấn hàng ngày. Khi ra tù, tôi mang nhiều thứ bệnh, phổi bị tụ máu và xuất huyết bao tử. Công an tra tấn cộng sản đã biến cơ thể tôi trở thành bộ xương chỉ còn hơn 35 kí lô. Cộng có thể hủy diệt thân thể tôi nhưng chúng đã thất bại trong âm mưu hủy diệt ý chí và tinh thần của một “Tù Nhân vì Lương Tri”. Trong ngục lạnh cô đơn, tôi luôn cố tập luyện thiền định hàng ngày để bồi đắp sức mạnh ý chí và tinh thần hầu có thể vượt qua mọi gian khổ.
Với bao năm tháng tù đày trong khám tối và bị tra tấn đánh đập sau gần 15 năm tù, mắt tôi rất sợ ánh sáng chói lòa, thường hay bị nhức đầu, chóng mặt, có lẽ do hậu quả bị đánh bằng báng súng AK47 trước đây.
Cũng vì bị tra tấn đánh đập trong thời gian dài, nên có lúc tôi thấy thường đau nhói bên ngực trái vùng trái tim. Tôi tin đó là hậu quả bị đánh nhiều quá vào bàn chân và ba sườn. Trong những tháng mùa đông giá lạnh, chân cẳng tôi bị đau buốt đến xương tủy như thể bị kim châm. Mặc dù đã thoát chết, thoát tù đầy đã trên 25 năm qua, nhưng đôi lúc vào nửa đêm chợt thức giấc, trong khoảnh khắc, tôi thấy mình còn như đang nằm trên nền xi măng vắng lạnh trong ngục tù cộng sản/Việt cộng ngày nào.
Xương sống tôi đã bị thương nặng khi một tên trong bọn tra tấn dùng một thế võ đá mạnh vào lưng từ phía sau, khiến tôi té xấp xuống nền.
Trần Tử Thanh,
Cựu Đại Úy QLVNCH
Tội Ác Chống Nhân Loại Của Việt cộng
Đỗ Ngọc Uyển
Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954,
Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình "hoc tập cải tạo"
của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm
trong chính sách giết người có chủ đích,
có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là "cải tạo" những người
chống đối chủ nghĩa xã hội để
trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch "cải tạo giết
người" này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc
trong những cái gọi là "trại học tập cải tạo."
Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch
giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và
những người quốc gia trong 150 "trại cải tạo" của chúng trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
"Học Tập Cải Tạo" Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt
máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và
đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của
những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên
một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000
nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị
"cào bằng," không còn giai cấp (social class).
Các giai cấp trí, phú,
địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người
đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô
Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được
phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành
phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn "ban
hành" một nghị quyết về "học tập cải tạo." Đây là một mẻ lưới
"vĩ đại" cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở
cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại "cải tạo" của
Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại "lao cải" (laogai
hay laojiao) của Mao Trạch Đông... Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã
"ban hành" một Nghị Quyết (Resolution) về "học tập cải tạo"
mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ
đã "đẻ" ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để
áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối
bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:
1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối
lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và
những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù
nhưng không chịu cải tạo.
Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi
là "những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng." (obstinate
counter-revolutionary elements). Thời gian "cải tạo" được ấn định là
3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì "cải tạo" thêm
3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào "học
tập tốt, cải tạo tốt" thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và
những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi "cải
tạo" là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào
con số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 850,000 người do Tổ
Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial
Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves
in reeducation camps ...)
"Học Tập Cải Tạo" tại Miền Nam Việt Nam
Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã
tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia
đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng.
Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi
"cải tạo" và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi
những "khu kinh tế mới;" cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng
rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch "tắm máu trắng" đã
được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp
dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày
8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những
người quốc gia chống cộng đi "học tập cải tạo," thưc chất là đưa đi
tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và
bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác
chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự
liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:
Tội ác thứ 1 - Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể
một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật
căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of
physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975
là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị.
Cộng sản không thể mang những người này - công dân của một một quốc gia độc lập
đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực
(aggression) một cách phi pháp - ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một
cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war
criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày
30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on
counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người
này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính
sách "khoan hồng" và sự "chiếu cố" của đảng nên những người
này được đưa đi "học tập cải tạo" thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây
là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không
có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man
rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của
chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như
VNCH được.
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử
(imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội
Ác chống Loài Người.
Tội ác thứ 2 - Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những
người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một
khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ.
Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể
chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:
a. Hành hạ bằng cách bỏ đói
Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về
lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài
miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và
đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm
và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi
tháng 12kg gạo.
Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo…
tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là "quy ra gạo." Ngô, khoai,
sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những
kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương
thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một
ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho
nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví
dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh
bạn tù vì "lao động" nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết.
Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay
người thân không?
Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một
bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua
hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang
lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại
độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân
phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa "thu hoạch" ngô và khoai mì do
tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được
phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được
cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp
phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng,
ngày sinh nhật "Bác"của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo
hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có
tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn
nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh
tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như
lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất
đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa
trị…
b. Hành hạ thể xác
Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu "lao động là vinh quang." Chúng
bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm
đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt
sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và
chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
•Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào
conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa
Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng
và chết vì rét.
•Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai
chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù
bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương,
đi không nổi phải bò.
•Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng
thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
•Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm "butterfly style or
contorted position" bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh
tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau. Chúng cột người
tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng
đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng
sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ
xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…
c. Tra tấn tinh thần
Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị
căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần
(causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau
đây:
- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế
hoạch "cải tạo," cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi
bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong
đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là "thâu hoạch"
để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài
tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai
vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta
đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc
Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta
mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc
sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ
máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài "lao
động là vinh quang" để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng
nhọc.
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp
dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá
chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại
Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh
em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn
trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án
nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh
thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu "sát nhất nhân, vạn nhân cụ."
- Tự phê (Confession)
Tiếp theo phần "học tập chính trị" là phần "tự
phê." Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào
tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con
cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc
làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người
phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ
quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh
thần chiến đấu của nguỵ quân.
Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị
cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của ngụy quân…Tóm
lại, tất cả ngụy quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với
nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao
động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng "trong lòng dân
tộc." Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản
tự phê; phải moi óc tìm và "phịa" ra những "tội ác" để tự
gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài "tội ác" so
với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học
tập sẽ còn lâu dài.
"Tự phê" một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho
người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một
số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…
Tội ác thứ 3 - Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại
toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người
(murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ
là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là
chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với
bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được.
Vào
một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hòa, chúng mang hai anh sĩ quan cấp úy trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng
được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai
anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế
xử, tên "chánh án" cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì,
răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong
"bản án giết người" đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra
bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng
đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối
cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam
lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.
Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết
người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết
dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt
làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…
Tội ác thứ 4 - Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng
khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản
phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên
Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù
mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để
sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người
tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị
trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ
khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave
labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của
thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.
Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance
of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu
Châu thì số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 165,000 người.
Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt
33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây
là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc
ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các
nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy
chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000
người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù
dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.
Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai
Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và
trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN.
Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài
cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát
hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 "trại tù cải tạo" của chúng trên
toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng
hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống,
trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. "Đừng nghe những
gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm."
Ngoài năm tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã
có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân
của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi "định cư" tại những "khu kinh
tế mới" ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một
khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những "trại cải
tạo." Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai,
biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ.
Đây
là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của
tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện
được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của
chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của
chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính
trị (political refugees).
Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian
bán nước Hồ Chí Minh - cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực - là một dụng cụ
đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against
human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ
bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi
"học tập cải tạo" mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội
Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn
Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International
Criminal Court).
Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số "Trại Tù Cải
Tạo"
Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại
Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến "…According to the published academic
studies in the United States and Europe…" thì số nạn nhân và số các
"trại tù cải tạo" được ước tính như sau:
•1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay
xét xử (without formal charge or trial).
•165,000 nạn nhân chết tại các "trại tù cải tạo."
•Có ít nhất 150 "trại tù cải tạo" sau khi Sàigòn sụp đổ.
Thời Gian "Cải tạo"
Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình
mỗi người phải trải qua 5 trại giam. "…according to the U.S. Department of
State, most term ranging from three to 10 years…" Nếu lấy con số trung
bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu
năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng
sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc
Tây cộng lại.
Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.
Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment)
này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho
những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu
tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với
những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. "…The U.S. government considers
reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration
entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which
Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation
camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to
those who spent at least three years in reeducation…"
Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ
nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến.
Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến.
"…
Resettling this group will be a step toward closing out this nation's
debt to its Indochina wartime allies. "These people have been detained
because of their closed association with us during the war," said Robert
Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs
who spent most of this decade negotiating their resettlement…"
Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam
đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special
program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly
Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation)
tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số
thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa
Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…
Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng "HO"
không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng
có thể tuyên truyền lếu láo rằng: "Không những đảng đã tha chết cho bọn
tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một "Chiến Dịch Nhân
Đạo/HO" để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết
ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…" Sự kiện tù chính trị
là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không
thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh "HO" để xuyên tạc sự thật lịch.
Học tập cải tạo" là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống
Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome
(Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân,
cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày
30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản.
Cái nguỵ danh "tù cải tạo/HO" phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính
Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản.
Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ "cải tạo" của cộng
sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có "nợ
máu" với nhân dân nên các anh phải đi "cải tạo," và khi tự gọi
mình là "tù cải tạo" tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi
mình là một "HO"- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ
một người "tù cải tạo" - là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị
của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch
sử. Dùng Ngụy Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.
Đỗ Ngọc Uyển - Sanjose, California
Tài liệu tham khảo:
http://untreaty.un.org/cod/icc/STATUTE/99_corr/cstatute.htm
(Rome Statute of International Criminal Court)
http://www.optionaljournal.com/best/?id=110010372" (The Wall Street Journal, Monday,
July 23, 2007 – Best of The Web Today by James Tananto)
http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=953D7103DF936A25
753C1A96F948260&sec= &spon= … (The New York Times, October 15,
1989
- THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth
Mydans)
- U.S Department of State – Fact sheet - Bureau of Population,
Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004
Chú thích :
[1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của Đạo
Luật Rome gồm có:
1- Murder;
2- Extermination ;
3- Enslavement;
4- Deportation or forcible transfer of population;
5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law;
6- Torture;
7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity;
8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court;
9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;
1- Murder;
2- Extermination ;
3- Enslavement;
4- Deportation or forcible transfer of population;
5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law;
6- Torture;
7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity;
8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court;
9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;
[2] Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là tòa
án độc lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute)
để điều tra và xét xử bốn loại tội ác sau đây:
1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại);
2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng);
3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh);
4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).#
1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại);
2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng);
3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh);
4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).#
1975 - 1980:
@ Cướp tài sản của nhân dân bằng cách đánh tư bản mại sản. Mua nhà
của dân, rồi in và đổi tiền nhiều lần.
@ Bắt nghĩa vụ quân sự thanh niên miền nam, bắt huấn luyện tượng
trưng vài tháng rồi dẫn độ qua Campuchia cho bọn Polpot bắn giết từ phía trước
và giặc bộ đội chính quy việt nam bắn từ phía sau...với mục đích tiêu trừ thật
nhiều thanh niên miền nam, những người đã lớn lên, sống và hiểu biết về chế độ
tàn ác cộng sản. Hàng ngàn thanh thiếu niên đã chết tức tưởi và không được
thông báo cho gia đình...Đây là chiến dịch giệt chủng tàn độc của bọn việt cộng
giải phóng...
@ Chuyện một em bé 12 tuổi ăn cắp một con gà... Chính quyền giải
phóng miền nam bắt em mang ra sân vận động Đạt Đức ở gần Xóm Mới bắn tử hình để
dằn mặt người dân miền nam năm 1975... Với khẩu hiệu "Đảng Liêm Chính và
Chuyên Chính Vô Sản".
@ Chương trình kinh tế mới nhằm cướp thêm tài sản của dân trong vùng thành phố. Nhất là những tài sản của gia đình quân nhân VNCH. "Chương trình Lao Động Để Được Nhà Nước Khoan Hồng".
@ Người vượt biên, vượt biển thì chúng ghép cho tội:
Những loại người phản quốc /
bọn đầu trộm đuôi cướp /
đĩ điếm v.v...
Nay thì lại đổi giọng là
Việt Kiều Yêu Nước /
Khúc ruột ngàn dặm v.v..
Xin mời người việt hải ngoại
trở về giúp xây dựng đất nước!!??
@ Đảng và nhà nước - một lũ ăn cướp biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân, dâng Hoàng Sa Trường sa cho giặc / dẫn giặc tàu vào Tây Nguyên qua chương trình khai thác Bauxite và những khu đất rừng cho tàu cộng mượn 50 năm không tính toán!!?? Nước việt nam có khu khai mỏ của tàu (đây là căn cứ của gián điệp tàu cộng do nhóm quân đội trung quốc là những công nhân trá hình đang phát triển những căn cứ / quân khu ngầm ngay trong lòng đất việt, nhạc tàu, gái việt lấy tàu, đẻ con cho tàu... Nhà cầm quyền và đảng cộng sản việt Nam đang tiếp tay cho Tàu cơ hội phát huy chiến dịch đồng hóa dân việt...
@ Phá rừng, khai sông, phá hoại thiên nhiên không tội vạ! ai đã và đang làm những điều này?
@ Hàng trăm ngàn tội ác khác mà không lâu nữa những người cộng sản
sẽ phải trả lời dưới ánh sáng của mặt trời và trước toàn thể người dân Việt
Nam....
Khốn nạn thay...
........................................................
Lời người Lính Việt Nam Cộng Hòa
gởi các chiến hữu đổi màu25.07.2012
HUYỀN THOẠI
Tôi rất ngại, không biết phải xưng hô thế nào với các bạn, trước đây tôi và các bạn đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, nay có một số đã chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ mà trong cuộc chiến bảo vệ tự do, chúng ta không bao giờ chấp nhận và truy lùng trong những cuộc hành quân, cũng như hạ xuống tại những vùng nông thôn kẻo lánh để thay vào bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Đau lòng là ngày nay, các anh không còn thích chào cờ nầy khi về Việt Nam, phải đứng trước lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Hồ chí Minh, thậm chí khi trở sang nước tạm dung, các anh tỏ ra khiếp sợ một cách hèn nhát, ít khi dám tham dự các sinh hoạt có lá cờ vàng, nhất là không dám chụp những tấm ảnh có những thứ mà chế độ cộng sản thù ghét, đã sống tại các nước dân chủ, nhưng các anh vẫn còn sợ hải đảng cộng sản, thì làm sao giải trừ được chế độ phi nhân, mang lại tự do cho đồng bào Việt Nam.
Tôi cảm thấy ngượng ngùng khi gọi các anh là chiến hữu, các anh đã thực sự đổi màu, trở thành đồng chí với cán binh cộng sản khi về đây vui chơi hay với nhiều lý do khác.
Nhớ thuở xưa, quân nhân chúng mình đã thề trung thành với tổ quốc, đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, ngày nay các anh đã quên tất cả và đổi màu chỉ sau lần về Việt Nam và sau đó là những chuyến hồi hương, càng thắt chặt tình đồng chí với cán bộ, công an, bộ đội để kết bạn tâm giao, mua sự an toàn bằng những tiệc tùng do chính các anh xuất tiền chiêu đãi.
Những năm tháng chiến đấu chống lại kẻ thù cộng sản, tay sai của khối cộng sản quốc tế, những năm tù đày tưởng như không sống sót sau khi miền nam thất thủ. Một số các anh may mắn di tản trong giờ phút sau cùng của cuộc chiến và nay một số các anh đã quay về, không còn như bài ca: Người Di Tản Buồn, một thời làm xúc động trái tim của những người xa tổ quốc, khi quê hương lọt vào tay quân thù.
Những người di tản buồn ấy tiêu biểu như thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ và gia đình với con gái Kỳ Duyên, vợ là Tuyết Mai, đã quay về, sánh vai cùng những kẻ mạt sát mình là bọn phản động nước ngoài, đĩ điếm du côn… chắc chắn là những người di tản buồn ấy đã mất hết tâm hồn, trở thành công cụ tuyên truyền cho chế độ phi nhân.
Những bạn lính may mắn khác, vượt biển, đi bằng đường bộ thành công, đến bến bờ tự do. Sau bao năm lăn lóc nơi xứ người, thành công trên nhiều lãnh vực, bỗng trở về, mang tiền về giúp đảng cộng sản từ nhiều năm qua, họ trở thành khách cung cấp tiền thường trực hàng năm cho chế độ cộng sản, giúp đảng vượt qua những khó khăn kinh tế, nợ nần lút đầu, nên tránh được sụp đổ từ lâu, khi cạn kiệt tài chánh, là bài toán chung cho sự sụp đổ các chính quyền trên thế giới.
Một số tù cải tạo, sống sót, được Hoa Kỳ cứu vớt theo chương trình O.D.P, sau thời gian định cư, quay về, kết bạn với những kẻ đã từng hành hạ, mạt sát trong các nhà tù, lương tri của con người không nằm trong ấy, ngay cả thú vật cũng không quên sau vài lần đánh đập nó, nhưng các anh quân nhân H.O. trở về, kết bạn mới với cán bộ, trở thành đồng chí, kiêm mạnh thường quân trong các tiệc, sáng nhậu với ủy ban nhân dân, chiều công an đãi tiệc… đó là những đồng tiền hưu dưỡng được chính phủ Mỹ chu cấp để sinh sống, hay những món tiền hưu sau nhiều năm làm việc, thay vì chi cho gia đình, giúp cho các bệnh viện sở tại để chửa trị, trong đó có phúc lợi gia đình và cá nhân mình…. thì các anh lại tiêu xài cho cán bộ cộng sản để mua sự an toàn trong thời gian lưu lại, với nhiều ly do như thăm gia đình, hú hý với gái tơ, du lịch… Những quân nhân như Phạm Tín An Ninh, sau 9 năm tù, quay về để làm quen với những kẻ hành hạ trước đây, còn viết sách ca tụng quản giáo và giúp đỡ cả con quản giáo nữa.
Một số bạn bè của tôi cho biết ở nước Úc, chính phủ ưu ái dành cho quân nhân đồng minh quyền lợi, được cấp hưu dưỡng từ bộ cựu chiến binh, nhưng đã có nhiều anh đã dùng 11 tháng trong năm số tiền cấp dưỡng để sống tại Việt Nam, đó là tiền đóng thuế của dân Úc, lại được các anh nuôi chế độ cộng sản.
Theo nhiều người biết, nhiều quân nhân đã quay về, mua nhà, chỉ sang Úc 1 tháng cho hợp chính sách và trở về sống 11 tháng còn lại trong năm, các anh ấy là đồng chí, chứ không còn là chiến hữu nữa.
Tại sao những quân nhân ở đây không báo cho chính phủ Úc biết những người như thế?
Một số quân nhân quay về Việt Nam thường viện lý do là có quan hệ bang giao, các cựu chiến binh đồng minh ở Hoa Kỳ, Úc… trở về Việt Nam du lịch, vì họ có nguồn gốc khác với các quân nhân VNCH, chúng ta ra đi vì chế độ cộng sản, nay không thể viện lý do bang giao, là quốc tịch được ban cấp để trở về nơi mà chúng ta cho là nguy hiểm, không thể quay về…. đó là trường hợp một giàn dây leo, có cây mướp, bầu, khổ qua… chung một giàn, nhưng khác giống.
Những người tỵ nạn cộng sản năm nay, trở về an toàn, thì đã tự mình xé bỏ căn cước tỵ nạn chính trị, chính phủ các nước ban cấp quyền công dân, nhưng họ cũng có quyền thu hồi khi cần và xét thấy những người được cấp vi phạm luật, giống như thu hồi giấy phép thương nghiệp, hành nghề luật sư, bác sĩ… của những kẻ vi phạm luật.
Kẻ thù cộng sản đã đạt thắng lợi lần nữa sau cuộc chiến Việt Nam, không phải chúng tài giỏi, nhưng là do trong hàng ngũ quốc gia, có một số người đón gió trở cờ, đặt cá nhân trên tổ quốc, trở thành những kẻ phản bội.
Trước năm 1975, chính sách chiêu hồi của Chính phủ miền Nam đã cải hóa hàng chục ngàn cán binh trở về với chính nghĩa quốc gia. Nhưng phía cộng sản cũng có cái gọi là: trở về với nhân dân và cách mạng, thực tế là con số người giác ngộ cách mạng không nhiều, đa số là những kẻ nằm vùng trong hàng ngũ quân đội, chính quyền bị lộ nên phải bỏ vào bưng để an toàn, hay những tên gây tội phạm hình sự, sợ bị pháp luật chế tài, nên vào rừng để trốn tránh. Vào những ngày gần cuối cuộc chiến, có một số quân nhân phản bội, nằm vùng như Nguyễn Thành Trung, quay súng làm phản, được cộng sản cấp giấy “Tiền Khởi Nghĩa”, số người nầy đa số là gia đình cán bộ cộng sản, được móc nối bỏ hàng ngũ để sau nầy được an toàn.
Ngày nay, sau cuộc chiến, các quân nhân may mắn thoát khỏi tay kẻ thù, nay trở thành “tiền khởi nghĩa”, trở về làm đồng chí của những kẻ chiến thắng thời cơ, mang tiền về đóng góp cho bọn tư bản đỏ tại Việt Nam và đã thành kẻ phản bội.
Đây là những tâm tình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa, nhắn gởi những ai còn lương tri và đồng thời xác định lập trường, bảo vệ chính nghĩa quốc gia, từ nay những kẻ phản bội, trở cờ, không còn là chiến hữu nữa../
ĐỖ VĂN XUÂN
(Người lính chưa nhận chứng chỉ giải ngũ)
25.07.2012
Thư phản ảnh thứ nhứt.
Kính các Chiến Hữu trong các Hội Đoàn Quân Đội tỵ nạn tại Houston,
Sau khi tôi nhận đọc được bài: Lời Người Lính VNCH gởi các Chiến Hữu đổi màu, tôi vô cùng tâm đắc và hoàn toàn hợp ý về những phân tích rất có tính lý của Ông Đỗ Văn Xuân.
Tôi không thể hiểu nỗi tại sao lại có những cựu Quân Nhân, Viên Chức đã phục vụ trong Quân Lực VNCH, trong chính quyền Miền Nam Việt Nam trước đây, họ đã từng chiến đấu chống bọn giặc cọng xâm lược trên khắp bốn vùng chiến thuật hay ngay tại hậu phương, và sau khi miền Nam lọt vào tay giặc thì một số họ đã bị bắt bớ, giam cầm, tù đày khổ sai trong các trại tù cải tạo ở các vùng rừng núi Việt bắc chí ít phải từ 5 đến 20 năm, gia đình ly tán, vợ con phải chịu lưu đày đến các vùng kinh tế mới khắc nghiệt, trầm luân, số khác thì phải băng rừng vượt biển tìm đường trốn chạy bọn cọng sản mà đã bỏ mạng trong rừng hoang hay xác thân đã làm mồi cho cá ngoài biển cả để tìm đến bến bờ tự do.
Vậy mà, chính bọn người này sau thời gian dài sống tại Hải ngoại, no cơm ấm cật, có dư dã chút đĩnh đồng tiền là đã quay phắt 360 độ, bọn chúng bắt đầu trở về đầu thú lũ giặc cọng, cúi rạp đầu chun qua dưới lá cờ máu, búa liềm, với những chiêu bài: thăm viếng Cha Mẹ già, di dời, xây dựng mồ mã Cha Ông v. v.. nhưng thực chất (theo lời bọn chúng phát biểu): là để “trả thù dân tộc”, hưởng lạc gái tơ và oái ăm, tồi tệ hơn là xây dựng nhà cửa, cơ sở vật chất rồi móc ngoặc, cấu kết, cộng tác đầu tư với những thành phần tư sản đỏ tại địa phương để môi giới, giao dịch làm ăn, Và cứ thế, hàng năm bọn họ lại thi nhau đi về Việt Nam tiếp tay cùng bọn cộng phỉ để thâu lượm những đồng tiền bất chính bằng sự bốc lột lươn lẹo, tàn nhẫn trên mồ hôi, trên qúa tải lao động của các trẻ thơ, các đồng bào nghèo khổ, dưới bàn tay thống trị vô luật pháp của bọn này tại Quê Hương Việt Nam.
Điển hình cho những bọn người chối bỏ căn cước tỵ nạn, các chiến hữu đổi màu mà tôi đã được diện kiến tại bàn tiệc của Hội Ái Hữu Hải Quân ở nhà hàng Ocean Palace cách đây hơn ba tuần Lễ đó chính là Hội trưởng Hội 81 Biệt Kích dù & Lực lượng đặc biệt Nguyễn văn Đại.
Tôi không vu khống, chụp mủ, mà nói có sách mách có chứng, rỏ như ban ngày, không chối cải được, vì lúc đó ngoài tôi ra còn có rất nhiều người nghe.
Ông Đại với giọng miền bắc trung phần khoe khoang sống sượng và có vẽ tự hào là vừa về Việt Nam trong tháng qua để xây nhà cửa và mở cơ sở giao dịch làm ăn . Ông ta nói rất bô bô với bộ mặt đầy tự đắc, mãn nguyện, xem đây như là một chuyện bình thường.
Thật sự mà nói, sau khi nghe những lời thốt ra từ một miệng của Hội trưởng của một Hội Đoàn nỗi danh trong Quân Đội chế độ củ tôi qúa kinh hoàng, lờm tởm và tỏ ra khinh bỉ ông ta.
Chẳng lẽ ông ta đã quên ông ta là một quân nhân Biệt kích dù, đã bị việt cọng tù đày và đã được chính phủ Mỹ cứu vớt, mang qua đây cho tỵ nạn.
Giờ này Ông ta trở về đầu thú với kẻ địch để làm ăn, ông đã phản lại đồng đội và lời thề trong hồ sơ tỵ nạn khi đặt chân đến đật Mỹ.Vậy thì ngay bây giờ sao ông ta không về ở hẳn bên đó mà còn tỵ nạn bên này làm gì nữa.
Đúng là bọn người vong ơn, bọn đổi màu, bọn chối bỏ căn cước tỵ nạn. Bọn người này có còn xứng đáng để đứng chung trong hàng ngũ cựu Quân nhân Quân Lực VNCH và trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Houston, Texas này hay không?
Xin chờ đợi ý kiến của các Chiến Hữu các Hội Đoàn Quân Đội đang sinh hoạt tại Houston, Texas.
Chiến Sĩ NG.LINH GIA Thư phản ảnh thứ 2.
Kính thưa các chiến hữu,
Tôi vô cùng cảm phục chiến hữu Đỗ Văn Xuân
với bài viết LỜI NGƯỜI LÍNH VNCH GỞI CÁC CHIẾN HỮU ĐỔI MÀU.
và đóng góp của Chiến Sĩ NG.LINH GIA.
Những nhận định của hai chiến hữu về thái độ “đổi màu” của một số cựu Quân Nhân Quân Lực VNCH, thật là chính xác. Chính mắt tôi thấy và chính tai tôi đã nghe chung quanh vùng tôi sinh sống. Rất tiếc là sự việc đã xảy ra như vậy.
Những năm tháng đầu mới đến tỵ nạn, anh em tỏ ra khí tiết lắm. Khi thấy người nào đi về Việt Nam, không chịu đi biểu tình chống cộng, không đi biểu tình ngày Quốc Hận, không cầm Cờ Vàng, hay tổ chức nào không treo Cờ Vàng… thì lên tiếng trách móc rất hăng say.
Nhưng nay dần dần theo thời gian, theo nhu cầu quyền lợi riêng tư đã có một số chiến hữu riu ríu về Việt Nam, viện lý do này lý do nọ. Rồi dần dà vắng mặt trong các cuộc biểu tình chống Việt cộng viện lý do vì đoàn thể này tổ chức, vì Nhóm kia lãnh đạo. Còn có nhiều chiến hữu lặng thinh, đồng tình, không lên tiếng phản đối… khi đến tham dự ngày Tết, phiên họp mà ban tổ chức không treo Quốc Kỳ và không hát Quốc Ca.
Xa hơn nữa, còn có một vài người rất sợ cầm Cờ Vàng nếu có đi biểu tình. Và nếu kẹt quá phải cầm Cờ Vàng thì sợ bị chụp hình, sợ bị đưa hình lên NET, sợ Việt cộng thấy, sẽ không cho về Việt Nam, du hí, ngậm cỏ non, cập bồ cập bịch nào tan hoang gia đình. Tệ thế đó.
Còn tệ hơn nữa, khi thấy có Nhóm người nào Cầm Cờ Vàng đi sinh hoạt trong các dịp nào đó, thì hoặc vì ganh tỵ hoặc vì nghe lời xúi dục của nhóm thân cộng, nói xấu ra, nói xấu vô, rĩ tại người này người nọ, đánh phá những ai Cầm Cờ Vàng.
Để cho việc đánh phá có hệ thống, họ còn kéo theo bè này cánh nọ, nhất là các tổ chức, các cá nhân… có mục đích sinh hoạt chung chung như “làm văn hóa, văn nghệ”. “không mang tính chính trị”, “làm từ thiện”… Thật là nhục!
Ngày nào mang trên mình chiếc áo trận, hiên ngang giết quân cộng sản, ngày nào uy nghi nghiêm chỉnh trước hàng Cờ Vàng Vinh Quang Tổ Quốc, nay chỉ vì quyền lợi nhỏ bé vì miếng ăn vì sợ Việt cộng biết, vì muốn được Việt cộng để cho yên thân về Việt Nam ăn chơi, bố nhì… mà đem chôn cả danh dực của mình, của Quân Đội mà mình phục vụ, cả chính thể mà mình đã chiến đấu để bảo vệ…
Hởi các chiến hữu đã vì một phút yếu mềm, đã vì một chút bã lợi ích riêng tư mà quên cả danh dự của một quân nhân.
Mong quý chiến hữu hãy nghĩ lại, mong quý chiến hữu hãy hồi tâm. Chúng ta còn có đủ thì giờ.
Tôi cầu chúc quý chiến hữu có nhiều can đảm, nhiều nghị lục để kịp thời thay đổi “thái độ đổi màu , và dứt khoát từ bỏ quyền lợi riêng tư, từ bỏ ăn chơi, hãy trở lại mái âm gia đình riêng tư, hãy trở lại mái ấm đại gia đình của Tập Thể Quân Nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Kính chào,
Phạm Đình Cần
Đại Đội 10/7/SĐ5
K25 SQTB/TD
https://huyenthoai.me/2012/07/25/loi-nguoi-linh-viet-nam-cong-hoa-goi-cac-chien-huu-doi-mau/
gởi các chiến hữu đổi màu25.07.2012
HUYỀN THOẠI
Tôi rất ngại, không biết phải xưng hô thế nào với các bạn, trước đây tôi và các bạn đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, nay có một số đã chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ mà trong cuộc chiến bảo vệ tự do, chúng ta không bao giờ chấp nhận và truy lùng trong những cuộc hành quân, cũng như hạ xuống tại những vùng nông thôn kẻo lánh để thay vào bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Đau lòng là ngày nay, các anh không còn thích chào cờ nầy khi về Việt Nam, phải đứng trước lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Hồ chí Minh, thậm chí khi trở sang nước tạm dung, các anh tỏ ra khiếp sợ một cách hèn nhát, ít khi dám tham dự các sinh hoạt có lá cờ vàng, nhất là không dám chụp những tấm ảnh có những thứ mà chế độ cộng sản thù ghét, đã sống tại các nước dân chủ, nhưng các anh vẫn còn sợ hải đảng cộng sản, thì làm sao giải trừ được chế độ phi nhân, mang lại tự do cho đồng bào Việt Nam.
Tôi cảm thấy ngượng ngùng khi gọi các anh là chiến hữu, các anh đã thực sự đổi màu, trở thành đồng chí với cán binh cộng sản khi về đây vui chơi hay với nhiều lý do khác.
Nhớ thuở xưa, quân nhân chúng mình đã thề trung thành với tổ quốc, đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, ngày nay các anh đã quên tất cả và đổi màu chỉ sau lần về Việt Nam và sau đó là những chuyến hồi hương, càng thắt chặt tình đồng chí với cán bộ, công an, bộ đội để kết bạn tâm giao, mua sự an toàn bằng những tiệc tùng do chính các anh xuất tiền chiêu đãi.
Những năm tháng chiến đấu chống lại kẻ thù cộng sản, tay sai của khối cộng sản quốc tế, những năm tù đày tưởng như không sống sót sau khi miền nam thất thủ. Một số các anh may mắn di tản trong giờ phút sau cùng của cuộc chiến và nay một số các anh đã quay về, không còn như bài ca: Người Di Tản Buồn, một thời làm xúc động trái tim của những người xa tổ quốc, khi quê hương lọt vào tay quân thù.
Những người di tản buồn ấy tiêu biểu như thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ và gia đình với con gái Kỳ Duyên, vợ là Tuyết Mai, đã quay về, sánh vai cùng những kẻ mạt sát mình là bọn phản động nước ngoài, đĩ điếm du côn… chắc chắn là những người di tản buồn ấy đã mất hết tâm hồn, trở thành công cụ tuyên truyền cho chế độ phi nhân.
Những bạn lính may mắn khác, vượt biển, đi bằng đường bộ thành công, đến bến bờ tự do. Sau bao năm lăn lóc nơi xứ người, thành công trên nhiều lãnh vực, bỗng trở về, mang tiền về giúp đảng cộng sản từ nhiều năm qua, họ trở thành khách cung cấp tiền thường trực hàng năm cho chế độ cộng sản, giúp đảng vượt qua những khó khăn kinh tế, nợ nần lút đầu, nên tránh được sụp đổ từ lâu, khi cạn kiệt tài chánh, là bài toán chung cho sự sụp đổ các chính quyền trên thế giới.
Một số tù cải tạo, sống sót, được Hoa Kỳ cứu vớt theo chương trình O.D.P, sau thời gian định cư, quay về, kết bạn với những kẻ đã từng hành hạ, mạt sát trong các nhà tù, lương tri của con người không nằm trong ấy, ngay cả thú vật cũng không quên sau vài lần đánh đập nó, nhưng các anh quân nhân H.O. trở về, kết bạn mới với cán bộ, trở thành đồng chí, kiêm mạnh thường quân trong các tiệc, sáng nhậu với ủy ban nhân dân, chiều công an đãi tiệc… đó là những đồng tiền hưu dưỡng được chính phủ Mỹ chu cấp để sinh sống, hay những món tiền hưu sau nhiều năm làm việc, thay vì chi cho gia đình, giúp cho các bệnh viện sở tại để chửa trị, trong đó có phúc lợi gia đình và cá nhân mình…. thì các anh lại tiêu xài cho cán bộ cộng sản để mua sự an toàn trong thời gian lưu lại, với nhiều ly do như thăm gia đình, hú hý với gái tơ, du lịch… Những quân nhân như Phạm Tín An Ninh, sau 9 năm tù, quay về để làm quen với những kẻ hành hạ trước đây, còn viết sách ca tụng quản giáo và giúp đỡ cả con quản giáo nữa.
Một số bạn bè của tôi cho biết ở nước Úc, chính phủ ưu ái dành cho quân nhân đồng minh quyền lợi, được cấp hưu dưỡng từ bộ cựu chiến binh, nhưng đã có nhiều anh đã dùng 11 tháng trong năm số tiền cấp dưỡng để sống tại Việt Nam, đó là tiền đóng thuế của dân Úc, lại được các anh nuôi chế độ cộng sản.
Theo nhiều người biết, nhiều quân nhân đã quay về, mua nhà, chỉ sang Úc 1 tháng cho hợp chính sách và trở về sống 11 tháng còn lại trong năm, các anh ấy là đồng chí, chứ không còn là chiến hữu nữa.
Tại sao những quân nhân ở đây không báo cho chính phủ Úc biết những người như thế?
Một số quân nhân quay về Việt Nam thường viện lý do là có quan hệ bang giao, các cựu chiến binh đồng minh ở Hoa Kỳ, Úc… trở về Việt Nam du lịch, vì họ có nguồn gốc khác với các quân nhân VNCH, chúng ta ra đi vì chế độ cộng sản, nay không thể viện lý do bang giao, là quốc tịch được ban cấp để trở về nơi mà chúng ta cho là nguy hiểm, không thể quay về…. đó là trường hợp một giàn dây leo, có cây mướp, bầu, khổ qua… chung một giàn, nhưng khác giống.
Những người tỵ nạn cộng sản năm nay, trở về an toàn, thì đã tự mình xé bỏ căn cước tỵ nạn chính trị, chính phủ các nước ban cấp quyền công dân, nhưng họ cũng có quyền thu hồi khi cần và xét thấy những người được cấp vi phạm luật, giống như thu hồi giấy phép thương nghiệp, hành nghề luật sư, bác sĩ… của những kẻ vi phạm luật.
Kẻ thù cộng sản đã đạt thắng lợi lần nữa sau cuộc chiến Việt Nam, không phải chúng tài giỏi, nhưng là do trong hàng ngũ quốc gia, có một số người đón gió trở cờ, đặt cá nhân trên tổ quốc, trở thành những kẻ phản bội.
Trước năm 1975, chính sách chiêu hồi của Chính phủ miền Nam đã cải hóa hàng chục ngàn cán binh trở về với chính nghĩa quốc gia. Nhưng phía cộng sản cũng có cái gọi là: trở về với nhân dân và cách mạng, thực tế là con số người giác ngộ cách mạng không nhiều, đa số là những kẻ nằm vùng trong hàng ngũ quân đội, chính quyền bị lộ nên phải bỏ vào bưng để an toàn, hay những tên gây tội phạm hình sự, sợ bị pháp luật chế tài, nên vào rừng để trốn tránh. Vào những ngày gần cuối cuộc chiến, có một số quân nhân phản bội, nằm vùng như Nguyễn Thành Trung, quay súng làm phản, được cộng sản cấp giấy “Tiền Khởi Nghĩa”, số người nầy đa số là gia đình cán bộ cộng sản, được móc nối bỏ hàng ngũ để sau nầy được an toàn.
Ngày nay, sau cuộc chiến, các quân nhân may mắn thoát khỏi tay kẻ thù, nay trở thành “tiền khởi nghĩa”, trở về làm đồng chí của những kẻ chiến thắng thời cơ, mang tiền về đóng góp cho bọn tư bản đỏ tại Việt Nam và đã thành kẻ phản bội.
Đây là những tâm tình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa, nhắn gởi những ai còn lương tri và đồng thời xác định lập trường, bảo vệ chính nghĩa quốc gia, từ nay những kẻ phản bội, trở cờ, không còn là chiến hữu nữa../
ĐỖ VĂN XUÂN
(Người lính chưa nhận chứng chỉ giải ngũ)
25.07.2012
Thư phản ảnh thứ nhứt.
Kính các Chiến Hữu trong các Hội Đoàn Quân Đội tỵ nạn tại Houston,
Sau khi tôi nhận đọc được bài: Lời Người Lính VNCH gởi các Chiến Hữu đổi màu, tôi vô cùng tâm đắc và hoàn toàn hợp ý về những phân tích rất có tính lý của Ông Đỗ Văn Xuân.
Tôi không thể hiểu nỗi tại sao lại có những cựu Quân Nhân, Viên Chức đã phục vụ trong Quân Lực VNCH, trong chính quyền Miền Nam Việt Nam trước đây, họ đã từng chiến đấu chống bọn giặc cọng xâm lược trên khắp bốn vùng chiến thuật hay ngay tại hậu phương, và sau khi miền Nam lọt vào tay giặc thì một số họ đã bị bắt bớ, giam cầm, tù đày khổ sai trong các trại tù cải tạo ở các vùng rừng núi Việt bắc chí ít phải từ 5 đến 20 năm, gia đình ly tán, vợ con phải chịu lưu đày đến các vùng kinh tế mới khắc nghiệt, trầm luân, số khác thì phải băng rừng vượt biển tìm đường trốn chạy bọn cọng sản mà đã bỏ mạng trong rừng hoang hay xác thân đã làm mồi cho cá ngoài biển cả để tìm đến bến bờ tự do.
Vậy mà, chính bọn người này sau thời gian dài sống tại Hải ngoại, no cơm ấm cật, có dư dã chút đĩnh đồng tiền là đã quay phắt 360 độ, bọn chúng bắt đầu trở về đầu thú lũ giặc cọng, cúi rạp đầu chun qua dưới lá cờ máu, búa liềm, với những chiêu bài: thăm viếng Cha Mẹ già, di dời, xây dựng mồ mã Cha Ông v. v.. nhưng thực chất (theo lời bọn chúng phát biểu): là để “trả thù dân tộc”, hưởng lạc gái tơ và oái ăm, tồi tệ hơn là xây dựng nhà cửa, cơ sở vật chất rồi móc ngoặc, cấu kết, cộng tác đầu tư với những thành phần tư sản đỏ tại địa phương để môi giới, giao dịch làm ăn, Và cứ thế, hàng năm bọn họ lại thi nhau đi về Việt Nam tiếp tay cùng bọn cộng phỉ để thâu lượm những đồng tiền bất chính bằng sự bốc lột lươn lẹo, tàn nhẫn trên mồ hôi, trên qúa tải lao động của các trẻ thơ, các đồng bào nghèo khổ, dưới bàn tay thống trị vô luật pháp của bọn này tại Quê Hương Việt Nam.
Điển hình cho những bọn người chối bỏ căn cước tỵ nạn, các chiến hữu đổi màu mà tôi đã được diện kiến tại bàn tiệc của Hội Ái Hữu Hải Quân ở nhà hàng Ocean Palace cách đây hơn ba tuần Lễ đó chính là Hội trưởng Hội 81 Biệt Kích dù & Lực lượng đặc biệt Nguyễn văn Đại.
Tôi không vu khống, chụp mủ, mà nói có sách mách có chứng, rỏ như ban ngày, không chối cải được, vì lúc đó ngoài tôi ra còn có rất nhiều người nghe.
Ông Đại với giọng miền bắc trung phần khoe khoang sống sượng và có vẽ tự hào là vừa về Việt Nam trong tháng qua để xây nhà cửa và mở cơ sở giao dịch làm ăn . Ông ta nói rất bô bô với bộ mặt đầy tự đắc, mãn nguyện, xem đây như là một chuyện bình thường.
Thật sự mà nói, sau khi nghe những lời thốt ra từ một miệng của Hội trưởng của một Hội Đoàn nỗi danh trong Quân Đội chế độ củ tôi qúa kinh hoàng, lờm tởm và tỏ ra khinh bỉ ông ta.
Chẳng lẽ ông ta đã quên ông ta là một quân nhân Biệt kích dù, đã bị việt cọng tù đày và đã được chính phủ Mỹ cứu vớt, mang qua đây cho tỵ nạn.
Giờ này Ông ta trở về đầu thú với kẻ địch để làm ăn, ông đã phản lại đồng đội và lời thề trong hồ sơ tỵ nạn khi đặt chân đến đật Mỹ.Vậy thì ngay bây giờ sao ông ta không về ở hẳn bên đó mà còn tỵ nạn bên này làm gì nữa.
Đúng là bọn người vong ơn, bọn đổi màu, bọn chối bỏ căn cước tỵ nạn. Bọn người này có còn xứng đáng để đứng chung trong hàng ngũ cựu Quân nhân Quân Lực VNCH và trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Houston, Texas này hay không?
Xin chờ đợi ý kiến của các Chiến Hữu các Hội Đoàn Quân Đội đang sinh hoạt tại Houston, Texas.
Chiến Sĩ NG.LINH GIA Thư phản ảnh thứ 2.
Kính thưa các chiến hữu,
Tôi vô cùng cảm phục chiến hữu Đỗ Văn Xuân
với bài viết LỜI NGƯỜI LÍNH VNCH GỞI CÁC CHIẾN HỮU ĐỔI MÀU.
và đóng góp của Chiến Sĩ NG.LINH GIA.
Những nhận định của hai chiến hữu về thái độ “đổi màu” của một số cựu Quân Nhân Quân Lực VNCH, thật là chính xác. Chính mắt tôi thấy và chính tai tôi đã nghe chung quanh vùng tôi sinh sống. Rất tiếc là sự việc đã xảy ra như vậy.
Những năm tháng đầu mới đến tỵ nạn, anh em tỏ ra khí tiết lắm. Khi thấy người nào đi về Việt Nam, không chịu đi biểu tình chống cộng, không đi biểu tình ngày Quốc Hận, không cầm Cờ Vàng, hay tổ chức nào không treo Cờ Vàng… thì lên tiếng trách móc rất hăng say.
Nhưng nay dần dần theo thời gian, theo nhu cầu quyền lợi riêng tư đã có một số chiến hữu riu ríu về Việt Nam, viện lý do này lý do nọ. Rồi dần dà vắng mặt trong các cuộc biểu tình chống Việt cộng viện lý do vì đoàn thể này tổ chức, vì Nhóm kia lãnh đạo. Còn có nhiều chiến hữu lặng thinh, đồng tình, không lên tiếng phản đối… khi đến tham dự ngày Tết, phiên họp mà ban tổ chức không treo Quốc Kỳ và không hát Quốc Ca.
Xa hơn nữa, còn có một vài người rất sợ cầm Cờ Vàng nếu có đi biểu tình. Và nếu kẹt quá phải cầm Cờ Vàng thì sợ bị chụp hình, sợ bị đưa hình lên NET, sợ Việt cộng thấy, sẽ không cho về Việt Nam, du hí, ngậm cỏ non, cập bồ cập bịch nào tan hoang gia đình. Tệ thế đó.
Còn tệ hơn nữa, khi thấy có Nhóm người nào Cầm Cờ Vàng đi sinh hoạt trong các dịp nào đó, thì hoặc vì ganh tỵ hoặc vì nghe lời xúi dục của nhóm thân cộng, nói xấu ra, nói xấu vô, rĩ tại người này người nọ, đánh phá những ai Cầm Cờ Vàng.
Để cho việc đánh phá có hệ thống, họ còn kéo theo bè này cánh nọ, nhất là các tổ chức, các cá nhân… có mục đích sinh hoạt chung chung như “làm văn hóa, văn nghệ”. “không mang tính chính trị”, “làm từ thiện”… Thật là nhục!
Ngày nào mang trên mình chiếc áo trận, hiên ngang giết quân cộng sản, ngày nào uy nghi nghiêm chỉnh trước hàng Cờ Vàng Vinh Quang Tổ Quốc, nay chỉ vì quyền lợi nhỏ bé vì miếng ăn vì sợ Việt cộng biết, vì muốn được Việt cộng để cho yên thân về Việt Nam ăn chơi, bố nhì… mà đem chôn cả danh dực của mình, của Quân Đội mà mình phục vụ, cả chính thể mà mình đã chiến đấu để bảo vệ…
Hởi các chiến hữu đã vì một phút yếu mềm, đã vì một chút bã lợi ích riêng tư mà quên cả danh dự của một quân nhân.
Mong quý chiến hữu hãy nghĩ lại, mong quý chiến hữu hãy hồi tâm. Chúng ta còn có đủ thì giờ.
Tôi cầu chúc quý chiến hữu có nhiều can đảm, nhiều nghị lục để kịp thời thay đổi “thái độ đổi màu , và dứt khoát từ bỏ quyền lợi riêng tư, từ bỏ ăn chơi, hãy trở lại mái âm gia đình riêng tư, hãy trở lại mái ấm đại gia đình của Tập Thể Quân Nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Kính chào,
Phạm Đình Cần
Đại Đội 10/7/SĐ5
K25 SQTB/TD
https://huyenthoai.me/2012/07/25/loi-nguoi-linh-viet-nam-cong-hoa-goi-cac-chien-huu-doi-mau/
No comments:
Post a Comment