Friday, March 27, 2020

Bốn Nền Văn Minh Đầu Tiên Của Nhân Loại


Những Nền Văn Minh Đầu Tiên Của Nhân Loại

Bốn nền văn minh đầu tiên sớm nhất của nhân loại được biết đến đó là:

1- Nền văn minh Ai Cập (Egypt),
2- Nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamians - bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrate, Tây Á),
3- Nền văn minh Lưu Vực Sông Ấn (Indus River) và
4- Nền văn minh lưu vực sông Giang Tử Bách Việt/Xích Thần và Xích Quỷ vùng Trung Nguyên của người Việt cổ.

Trong khi ba nền văn minh đầu đều đã biến mất hay bị nền văn minh khác sau này thay đổi và thay thế, thì nền văn minh Bách Việt là nền văn minh cổ đại duy nhất xuất hiện vẫn phát triển và duy trì cho tới ngày hôm nay thành quốc gia Văn Lang/Bách Việt.


Nền văn minh Lúa Nước

Người ta thường lầm tưởng nền văn minh Trung quốc Hán tộc là cổ nhất có nền văn minh lúa nước, thế nhưng kinh dịch và chữ Viết là của Bách Việt dòng dõi Đế Viêm Thần Nông mới có trước.

Khi dòng tộc du mục Hán tộc Hiên Viên chiến thắng trận Trác Lộc trong cuộc tranh hùng ở vùng Trung Nguyên, Hiên-Viên (Huan-yuan) luôn tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ trung nguyên. Bại trận, Đế Du Võng (dòng dõi Đế Viêm Thần Nông) phải thiện nhượng chức thiên tử cho thủ lĩnh Hiên Viên dòng dõi Hán du mục. Hiên Viên đăng cơ, lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ Đế của ông ta, chấm dứt triều đại Thần Nông sau 520 năm trị vì.

Hoàng đế (Hoang-ti) đổi các bộ tộc mới này là thành Hoa Hạ (vì đã có Tây Hạ của hán tộc nằm phía tây bắc) và cho thâu tóm các bộ tộc Thần Nông cùng với các thị tộc của tù trưởng Si Vưu với 81 bộ tộc vừa bị thất trận tạo nên một đất mới, tên mới là Hoa Hạ dưới sự cai quản của chủ mới là Hiên Viên Hoàng Đế.

Hiên Viên Hoàng Đế là người Hán Tộc gốc du mục đặt địa bàn mới này với tên gọi mới là lãnh thổ Hoa Hạ, danh từ Hoa Hạ và người Hoa bắt đầu có từ đó. người Hán đời sau thường tự xưng là là "Hoa Hạ" hay người Hoa, Chắc chắn Hoàng Đế cũng cho đem người Hán tộc vào địa bàn Hoa Hạ này vì phần đông các bộ tộc cũ đều bỏ đi vì sợ bị trả thù. Tần Thủy Hoàng sau này cũng có có gốc gác cùng với Hiên Viên Hoàng Đế này, có gốc gác giống Hung Nô, có truyền thống gây chiến tranh và đi xâm chiếm đất đai.

Khi Xi Vưu bại trận, người trong bộ tộc Cửu Lê quy phục Hoàng Đế, một số lưu ly phân tán, một số bộ lạc bộ phận di cư đến nơi khác, cũng có số nhập chung với Kinh Dương Vương. Văn hóa Xích Thần và Xích Quỷ dều giống nhau, tạo thành triều đại Hồng Bàng.

Giữa Hai sắc dân, Mông Cổ du mục và Bách Việt nông nghiệp sống định cư thì chúng ta dễ hiểu rằng nguồn gốc nông nghiệp của Tàu là do dân Miêu Tộc (tên người Mông Hán gọi Bách Việt).

Thứ nhất:
- Dân Bách Việt vốn đã có nghề nông từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến. Vả lại, các vị Thần Nông, Phục Hi, Nữ Oa… là tổ tiên của Bách Việt đã chết lâu đời trước trận Trác Lộc. Vậy nên Hán Tộc gốc Mông Cổ hoàn toàn không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các Vị nói trên, và vì thế, dân Bách Việt cũng đã thành thạo về nông nghiệp lâu đời từ trước khi Mông Cổ đến.
Thứ nhì:
Tuy Hoàng Đế thắng trận, như chỉ là một nhúm người quá nhỏ so với 81 bộ lạc của Si Vưu và thị tộc của Đế Du võng, Đế Khắc, nên dân số Việt tộc khuynh loát dân số du mục Hán tộc.



Nước Xích Thần của Đế Nghi

1


2
Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương
Thời Hồng Bàng - Văn Lang - thời đồ đồng của người Việt cổ, Bách Việt


Phia dưới dòng sông Dương Tử là đất của Bách Việt

3
Núi Thái Sơn - Hồ Động Đình Hồ - dãy Núi Ngũ Lĩnh (Ngũ Lĩnh Range) Đất của người Việt cổ thời Đế Viêm (Thần Nông) và thời nhà Thương




4
Năm ngọn núi gắn liền văn hóa Đạo giáo và bốn ngọn núi gắn liền với văn hóa Phật giáo ở Trung thổ của Xích Thần và Xích Quỷ vùng Trung Nguyên và Bách Việt.





Có Thể Bạn Chưa Biết 06: Lê Văn Xương 04:
"Không thấu hiểu lịch sử, không đủ tư cách..."
https://youtu.be/sJawMEUJ24M




Có Thể Bạn Chưa Biết 07: Lê Văn Xương 05:
Hội kín và Quyền lực...
https://youtu.be/JRQlGC7itQQ


Nền Văn Minh Lưỡng Hà (Mesopotamia)

Picture
Mesopotamia, tiếng Hy Lạp có nghĩa là "Ở giữa hai con sông", là vùng đất cổ giữa sông Tigris và Euprates. Mesopotamia được xem là cái nôi nơi phát xuất ra một trong những nền văn minh đầu tiên của nhân loại.

So với bản đồ ngày nay, hai sông Tigris và Euphrates kéo dài từ phía tây Thổ Nhĩ Kỳ, chảy qua Syria và Ira g, sau đó nhập vào nhau và đổ ra vịnh Ba Tư. Phần lớn vùng Mesopotamia thuộc về quốc gia Iraq ngày nay.

Vị trí nằm giữa hai con sông khiến vùng đất Mesopotamia phì nhiêu và màu mỡ, nước sông giúp dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp. Người cổ đại đã tìm thấy vùng đất này và họ bắt đầu di cư đến ở tập trung thành những nhóm người nhỏ. Sau khi đã biết canh tác và trồng trọt, những nhóm này từ từ phát triển lên đông hơn, tạo thành những ngôi làng lớn hơn, sau đó thành thành phố. Nền văn minh Mesopotamia bắt đầu hình thành.

1 Picture




Nền văn minh Lưỡng Hà Mesopotamia được cấu tạo bởi 4 giống người và 4 đế quốc chính: đế quốc Sumer, đế quốc Akkad, đế quốc Babilonia và đế quốc Assyria.

2 Picture
Người Sumerians v
à Đế Quốc Sumer

Khoảng 4.000 năm trước Công Nguyên, những người du mục săn bắn Sumerians là giống người đầu tiên di cư đến tập trung sinh sống ở miền nam Mesopotamia, chuyển sang chăn nuôn trồng trọt và hình thành nền văn minh Mesopotamia. Người Sumerians đã sáng chế ra chữ viết và hệ thống chính quyền. Họ tổ chức xã hội theo thành phố, mỗi thành phố có vua cai trị. Mỗi thành phố thờ những thượng đế khác nhau. Trong suốt thời đại, họ có khoảng 12 thành phố. Trong trung tâm mỗi thành phố, họ cho xây một ngôi đền để thờ thượng đế cho thành phố của họ. Chung quanh những thành phố được bao bọc bởi những cánh đồng lúa, cọ dừa, chà là và những vùng đất chăn nuôi.

Khi thực phẩm đã trở nên phong phú, đời sống đã trở nên dư dả, và dân số ngày càng thêm đông đúc, những nghề mới bắt đầu ra đời, như tu sĩ, đồ gốm, may dệt, mộc và rèn. Trao đổi buôn bán cũng bắt đầu hình thành, không những bằng đường bộ mà còn bằng đường thủy nhờ vào vị trí bên cạnh vịnh Ba Tư.

Chữ viết của người Sumerians là loại chữ viết toàn diện lâu đời nhất mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy được

Picture
Người Akkadians và Đế QuôAkkad - 2.300 năm trước Công Nguyên


Trong khi người Sumerians sống ở miền nam Mesopotamia thì người Akkadians sống ở miền bắc Mesopotamia. Hai giống người có sự giống nhau về thể chế chính quyền và xã hội nhưng nói hai ngôn ngữ khác nhau. Lúc đầu người Akkadians cũng theo thể chế cai trị theo thành phố, mỗi thành phố là một vị vua cai trị, nhưng dần dần những vua này thấy được lợi ích của liên minh, cho nên họ đã liên kết với nhau lại.

Vào khoảng 2.300 trước Công Nguyên, một vị vua người Akkadians là Sargon lên nắm quyền. Sargon thành  lập thành  phố riêng của mình đặt tên là Akkad. Khi thành phố hùng mạnh Uruk của người Sumerians tấn công Akkad, Sargon đã chống đỡ lại và sau đó quật ngược tấn công và xâm chiếm Uruk. Sargon sau đó tiến xa hơn, xâm chiếm hết những thành phố của Sumerians, thống nhất hai miền nam bắc của vùng Mesopotamia, lập nên đế quốc Akkad dưới sự cai trị duy nhất của một hoàng đế. Sargon thành lập đế chế đầu tiên, lập ra điều luật con của vua sẽ là người tiếp nối ngôi.

Picture
Người Babylonians, Đế Quốc Babylonia và thành Phố Babylon 

Sau khi đế quốc Akkadian bị sụp đổ, 2 đế quốc mới tiếp nối, đế quốc của người Babylonians ở phía nam và đế quốc cúa người Assyrians ở phía bắc. Dưới sự cai trị của hoàng đế Hammurabi (1792-1750 trước Công Nguyên), thành phố Babylon (cách khoảng 50 dặm về phía nam của thủ đô Baghdad, Iraq ngày nay) là thủ đô của đế quốc Babylonia, một đế quốc lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới thời cổ đại. Đế quốc Babylonia đem quân đi xâm chiếm rất nhiều vùng đất xung quanh và đưa rất nhiều nô lệ về cho đế quốc của mình

Hoàng đế Hammurabi là người đầu tiên cho ghi chép lại những luật lệ của mình, tên gọi Luật Hammurab. Những điều luật này được ghi trên những bảng đất sét, gồm 282 điều. Có luật về dân sự và buôn bán như tiền lương, trao đổi, buôn bán nô lệ. Có luật về hình luật như xử phạt trộm cắp, phá hoại. Còn có cả luật gia đình nói về con nuôi, hôn nhân và ly dị.

Picture

Sau khi hoàng đế Hamurabi qua đời, những người con trai lên nối ngôi nhưng không ai là một thủ lãnh mạnh và tài giỏi, vì vậy Babylon ngày một trở nên suy yếu. Năm 1595 trước Công Nguyên, Babylon bị người Hittites xâm chiếm, và sau đó là đến người Kassites xâm chiếm, và cuối cùng Babylon rơi vào tay người Assyrians.  Thành Babylon ngày nay chẳng còn di tích gì ngoài những mô đất hay những mảnh tường từ những ngôi nhà đã sụp đổ.

Picture
Vườn Treo Babylon: 

Dựa theo những bản viết trên đất sét để lại từ Babylon, Vườn Treo Babylon được xây dựng bởi hoàng đế Nebuchadnezzar II  khoảng 600 năm trước Công Nguyên cho vợ mình là hoàng hậu Amytis. Hoàng hậu Amytis được gả cho hoàng đế Nebuchadnezzar II qua một cuộc hôn nhân sắp đặt mai mối với mục đích chính trị. Sau khi về với hoàng đế, hoàng hậu Amytis trở nên buồn bã u sầu vì nhớ quê nhà nơi có núi non cây cối xanh tươi so với thành phố Babylon bằng phẳng khô cằn. Do đó Vườn Treo Babylon đã được cho xây dựng dựa theo khung cảnh quê nhà của hoàng hậu để bà vơi đi nỗi nhớ nhà. 

Picture

Thật ra Vườn Treo Babylon không phải là treo lơ lửng. Nó được xây dựng vô cùng cầu kỳ, gồm một loạt những bờ đất cao khoảng 22 mét nối tiếp nhau lên cao, trồng đủ mọi loại cây cối, đủ loại hoa, đủ loại cây treo và những thác nước chảy. Nhìn từ xa, nó giống như một khu vườn treo. Vườn Treo Babylon được coi là một trong những kỳ quan thế gian thời cổ đại, và có lẽ đã bị hủy hoại vì động đất vào những năm thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên

Picture
Người Assyrians và Đê Quc Assyrian - 1.900 NămTrước Công Nguyên


Trong thời gian khi người Babylonians và đế quốc Babylon hùng mạnh nắm chiếm phía nam Mesopotamia , thì người Assyrians cũng trở nên mạnh mẽ ở phía bắc. Tất cả những gì mà các nhà sử học tìm hiểu được về người Assyirians đều nhờ vào những tấm chữ viết bảng đất sét tìm thấy được ở những thành phố thuộc về Assyrians.

Những người Assyrians được coi là những dũng sĩ trong trận mạc, ngoài ra họ còn rất giỏi trong giao dịch buôn bán. Họ thường đi thành đoàn, chuyên chở hàng hóa tới những thành phố khác trong vùng Mesopotamia để trao đổi. Họ thờ cùng thượng đế giống như người Babylonians hay người thành Sumerians, nhưng họ có ngôn ngữ riêng của mình.

Người Assyrians rất mạnh bạo và hung tợn, họ đi xâm chiếm hết những bộ lạc và những thành phố ở chung quanh mình. Họ cũng đã từng nhiều lần đánh chiếm Babylon nhưng không thành công. Sự thua trận cho người Babylonians khiến người Assyrians trở nên căm tức, và họ nhẫn nhục chờ đợi. Trong thời gian chờ đợi này, họ xâm chiếm tất cả những bộ lạc hay thành phố có nguồn cung cấp cho Babylon, khiến Babylon ngày trở nên yếu kém. Cuối cùng, vào khoảng 1.200 năm trước Công Nguyên, người Assysians tấn công lần nữa. Lần này họ chiến thắng và chiếm được Babylon. Để trả thù, người Assyrians bắt dân Babylon phải dọn ra khỏi thành phố tới sống những nơi khác trong khu vực người Assyrians. Họ sau đó phá hủy Babylon và san bằng Babylon thành bình địa.

Người Ba Tư Persians và Đế Quốc Ba Tư - 550 Năm Trước Công Nguy
ên

Người Persians không có nguồn gốc từ Mesopotamia. Họ đến từ vùng trung Á (ngày nay thuộc quốc gia Iran). Khoảng 535 năm trước Công Nguyên, vua Persian là Cyrus đã dẫn quân đi đánh chiếm vùng Mesopotamia, chấm dứt và xóa đi thời đại đế quốc của người Babylonians và Assyrians.





Nền Văn Minh Lưỡng Hà (Mesopotamia)

Mesopotamia, tiếng Hy Lạp có nghĩa là "Ở giữa hai con sông", là vùng đất cổ giữa sông Tigris và Euprates. Mesopotamia được xem là cái nôi nơi phát xuất ra một trong những nền văn minh đầu tiên của nhân loại.

So với bản đồ ngày nay, hai sông Tigris và Euphrates kéo dài từ phía tây Thổ Nhĩ Kỳ, chảy qua Syria và Irag, sau đó nhập vào nhau và đổ ra vịnh Ba Tư. Phần lớn vùng Mesopotamia thuộc về quốc gia Iraq ngày nay.

Vị trí nằm giữa hai con sông khiến vùng đất Mesopotamia phì nhiêu và màu mỡ, nước sông giúp dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp. Người cổ đại đã tìm thấy vùng đất này và họ bắt đầu di cư đến ở tập trung thành những nhóm người nhỏ. Sau khi đã biết canh tác và trồng trọt, những nhóm này từ từ phát triển lên đông hơn, tạo thành những ngôi làng lớn hơn, sau đó thành thành phố. Nền văn minh Mesopotamia bắt đầu hình thành.

________________________________________

Nền văn minh Lưỡng Hà Mesopotamia được cấu tạo bởi bốn giống người và bốn đế quốc chính: đế quốc Sumer, đế quốc Akkad, đế quốc Babilonia và đế quốc Assyria.

________________________________________

Người Sumerians và Đế Quốc Sumer

Khoảng 4.000 năm trước Công Nguyên, những người du mục săn bắn Sumerians là giống người đầu tiên di cư đến tập trung sinh sống ở miền nam Mesopotamia, chuyển sang chăn nuôi trồng trọt và hình thành nền văn minh Mesopotamia. Người Sumerians đã sáng chế ra chữ viết và hệ thống chính quyền. Họ tổ chức xã hội theo thành phố, mỗi thành phố có vua cai trị. Mỗi thành phố thờ những thượng đế khác nhau. Trong suốt thời đại, họ có khoảng 12 thành phố. Trong trung tâm mỗi thành phố, họ cho xây một ngôi đền để thờ thượng đế cho thành phố của họ. Chung quanh những thành phố được bao bọc bởi những cánh đồng lúa, cọ dừa, chà là và những vùng đất chăn nuôi.

Khi thực phẩm đã trở nên phong phú, đời sống đã trở nên dư dả, và dân số ngày càng thêm đông đúc, những nghề mới bắt đầu ra đời, như tu sĩ, đồ gốm, may dệt, mộc và rèn. Trao đổi buôn bán cũng bắt đầu hình thành, không những bằng đường bộ mà còn bằng đường thủy nhờ vào vị trí bên cạnh vịnh Ba Tư.

Chữ viết của người Sumerians là loại chữ viết toàn diện lâu đời nhất mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy được.

________________________________________

Người Akkadians và Đế Quôc Akkad - 2.300 năm trước Công Nguyên

Trong khi người Sumerians sống ở miền nam Mesopotamia thì người Akkadians sống ở miền bắc Mesopotamia. Hai giống người có sự giống nhau về thể chế chính quyền và xã hội nhưng nói hai ngôn ngữ khác nhau. Lúc đầu người Akkadians cũng theo thể chế cai trị theo thành phố, mỗi thành phố là một vị vua cai trị, nhưng dần dần những vua này thấy được lợi ích của liên minh, cho nên họ đã liên kết với nhau lại.

Vào khoảng 2.300 trước Công Nguyên, một vị vua người Akkadians là Sargon lên nắm quyền. Sargon thành lập thành phố riêng của mình đặt tên là Akkad. Khi thành phố hùng mạnh Uruk của người Sumerians tấn công Akkad, Sargon đã chống đỡ lại và sau đó quật ngược tấn công và xâm chiếm Uruk. Sargon sau đó tiến xa hơn, xâm chiếm hết những thành phố của Sumerians, thống nhất hai miền nam bắc của vùng Mesopotamia, lập nên đế quốc Akkad dưới sự cai trị duy nhất của một hoàng đế.

________________________________________

Người Babylonians, Đế Quốc Babylonia và thành Phố Babylon

Sau khi đế quốc Akkadian bị sụp đổ, hai đế quốc mới tiếp nối, đế quốc của người Babylonians ở phía nam và đế quốc của người Assyrians ở phía bắc. Dưới sự cai trị của hoàng đế Hammurabi (1792-1750 trước Công Nguyên), thành phố Babylon (cách khoảng 50 dặm về phía nam của thủ đô Baghdad, Iraq ngày nay) là thủ đô của đế quốc Babylonia, một đế quốc lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới thời cổ đại. Đế quốc Babylonia đem quân đi xâm chiếm rất nhiều vùng đất xung quanh và đưa rất nhiều nô lệ về cho đế quốc của mình.

Hoàng đế Hammurabi là người đầu tiên cho ghi chép lại những luật lệ của mình, tên gọi Luật Hammurab. Những điều luật này được ghi trên những bảng đất sét, gồm 282 điều. Có luật về dân sự và buôn bán như tiền lương, trao đổi, buôn bán nô lệ. Có luật về hình luật như xử phạt trộm cắp, phá hoại. Còn có cả luật gia đình nói về con nuôi, hôn nhân và ly dị.

________________________________________

Sau khi hoàng đế Hamurabi qua đời, những người con trai lên nối ngôi nhưng không ai là một thủ lãnh mạnh và tài giỏi, vì vậy Babylon ngày một trở nên suy yếu. Năm 1595 trước Công Nguyên, Babylon bị người Hittites xâm chiếm, và sau đó là đến người Kassites xâm chiếm, và cuối cùng Babylon rơi vào tay người Assyrians. Thành Babylon ngày nay chẳng còn di tích gì ngoài những mô đất hay những mảnh tường từ những ngôi nhà đã sụp đổ.

_______________________________________

Vườn Treo Babylon:

Dựa theo những bản viết trên đất sét để lại từ Babylon, Vườn Treo Babylon được xây dựng bởi hoàng đế Nebuchadnezzar II khoảng 600 năm trước Công Nguyên cho vợ mình là hoàng hậu Amytis. Hoàng hậu Amytis được gả cho hoàng đế Nebuchadnezzar II qua một cuộc hôn nhân sắp đặt mai mối với mục đích chính trị. Sau khi về với hoàng đế, hoàng hậu Amytis trở nên buồn bã u sầu vì nhớ quê nhà nơi có núi non cây cối xanh tươi so với thành phố Babylon bằng phẳng khô cằn. Do đó Vườn Treo Babylon đã được cho xây dựng dựa theo khung cảnh quê nhà của hoàng hậu để bà vơi đi nỗi nhớ nhà.

________________________________________

Thật ra Vườn Treo Babylon không phải là treo lơ lửng. Nó được xây dựng vô cùng cầu kỳ, gồm một loạt những bờ đất cao khoảng 22 mét nối tiếp nhau lên cao, trồng đủ mọi loại cây cối, đủ loại hoa, đủ loại cây treo và những thác nước chảy. Nhìn từ xa, nó giống như một khu vườn treo. Vườn Treo Babylon được coi là một trong những kỳ quan thế gian thời cổ đại, và có lẽ đã bị hủy hoại vì động đất vào những năm thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên.

________________________________________

Người Assyrians và Đế Quốc Assyrian - 1.900 Năm Trước Công Nguyên

Trong thời gian khi người Babylonians và đế quốc Babylon hùng mạnh nắm chiếm phía nam Mesopotamia , thì người Assyrians cũng trở nên mạnh mẽ ở phía bắc. Tất cả những gì mà các nhà sử học tìm hiểu được về người Assyirians đều nhờ vào những tấm chữ viết bảng đất sét tìm thấy được ở những thành phố thuộc về Assyrians.

Những người Assyrians được coi là những dũng sĩ trong trận mạc, ngoài ra họ còn rất giỏi trong giao dịch buôn bán. Họ thường đi thành đoàn, chuyên chở hàng hóa tới những thành phố khác trong vùng Mesopotamia để trao đổi. Họ thờ cùng thượng đế giống như người Babylonians hay người thành Sumerians, nhưng họ có ngôn ngữ riêng của mình.

Người Assyrians rất mạnh bạo và hung tợn, họ đi xâm chiếm hết những bộ lạc và những thành phố ở chung quanh mình. Họ cũng đã từng nhiều lần đánh chiếm Babylon nhưng không thành công. Sự thua trận cho người Babylonians khiến người Assyrians trở nên căm tức, và họ nhẫn nhục chờ đợi. Trong thời gian chờ đợi này, họ xâm chiếm tất cả những bộ lạc hay thành phố có nguồn cung cấp cho Babylon, khiến Babylon ngày trở nên yếu kém. Cuối cùng, vào khoảng 1.200 năm trước Công Nguyên, người Assysians tấn công lần nữa. Lần này họ chiến thắng và chiếm được Babylon. Để trả thù, người Assyrians bắt dân Babylon phải dọn ra khỏi thành phố tới sống những nơi khác trong khu vực người Assyrians. Họ sau đó phá hủy Babylon và san bằng Babylon thành bình địa.

Người Ba Tư Persians và Đế Quốc Ba Tư - 550 Năm Trước Công Nguyên

Người Persians không có nguồn gốc từ Mesopotamia. Họ đến từ vùng trung Á (ngày nay thuộc quốc gia Iran). Khoảng 535 năm trước Công Nguyên, vua Persian là Cyrus đã dẫn quân đi đánh chiếm vùng Mesopotamia, chấm dứt và xóa đi thời đại đế quốc của người Babylonians và Assyrians.


Đọc Thêm:

Nước Xích Quỷ https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/03/ten-goi-viet-nam-2879-tcn-xich-quy-2524.html

Mỹ bắt tay Tàu đánh sập Liên Xô - rồi diệt Tàu. https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/03/toi-hieu-viet-cong-la-gi.html


....................................................................

Việt Nam Là Một Dân Tộc Có Lịch Sử Lâu Đời

Việt Nam Là Một Dân Tộc Có Lịch Sử Lâu Đời



Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D. Chính vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn hóa Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Cận Đông và cả châu Mỹ nữa.

Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về cội nguồn phát tích của việt tộc         
 
Phạm trần Anh

 

ĐẠI CHỦNG HOABINHIAN PROTOVIETS

Từ truyền thuyết cũng như căn cứ vào các Thần tích và Tộc phả được phối kiểm bởi khoa Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Chủng tộc học, Cổ nhân học, Dân tộc và Ngôn ngữ học được kiểm chứng bởi kết quả phân tích cấu trúc phân tử di truyền DNA của các tộc người trong vùng cho phép chúng ta xác định tính hiện thực của cộng đồng Bách Việt (Malayo-Viets). Kết quả của khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử kể cả truyền thuyết Rồng Tiên về thời kỳ dựng nước của Việt tộc là một sự thật lịch sử. Luận chứng khoa học mới nhất có tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là hai tộc người khác nhau. Việt tộc có yếu tố đột biến di truyền đặc biệt của châu Á trong khi Hán tộc không có yếu tố này. Đồng thời xác định địa bàn cư trú của tộc người Malaynesian tức Malayo-Viets (Bách Việt) trải dài từ rặng Tần Lĩnh, hạ lưu sông Hoàng Hà ở Trung nguyên trải dài xuống tận vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực phía Nam sông Hoàng Hà, lưu, phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực 2 con sông Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang), phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt.

Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và giáo sư sinh vật học người Pháp Varcilla Pascale đã ứng dụng hệ thống DNA là hệ thống sinh học mới nhất cho chúng ta kết quả có tính thuyết phục nhất. Các nhà khoa học đã khảo sát y phục, mồ mả, ră ng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận:

1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung Việt Nam, Lào, Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc.

2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ sông Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.(9)

Năm 1998, giáo sư J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở Đại học Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Tân Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu. Kết qủa của công trình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống kê có tên là “Phân tích chủng loại” (Phylogetic Analysis). Nhà bác học Chu và 13 đồng nghiệp khác tại đại học Texas Hoa Kỳ và các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Quốc đã công bố một công trình thành công về di truyền học mang tên “Genetic Relationship of Population in China” được đăng trong Tạp chí Hàn lâm viện Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998) như sau:(10)

1. Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu”.

2. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía Nam
TQ”.

Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học “Hệ thống miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6 (chromosoms qua máu dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA năm 1998”, giáo sư Lý kết luận: “Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc”.

Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật lịch sử là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.

Giáo sư Douglas C. Wallace ở đại học Emory, Atlanta và Georgia đã phát hiện một đột
biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể
di truyền COII và tRNALYS).

Nhà nhân chủng học Tréjaut đã nghiên cứu về thổ dân Đài Loan , dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố một sự thật làm đảo lộn mọi nhân định từ trước đến nay về vấn để này:

1. Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15 ngàn năm.

2. Thổ dân Đài Loan cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai, dân Đa Đảo mà dân Tầu ở Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này.

3. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa Đảo.

4. Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ tRNA.(11)
Giáo sư Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở đại học Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Halop type B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền CO II tRNA LYS chứng minh dân Đa Đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.

Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1500-800TC) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo.(12) Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.

Tháng 3 năm 2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (Proceeding of the National Academy of Science,USA) đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: “Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawaii và Polynesia thuộc Pháp. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và cho thấy hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ Việt Nam.

Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà Việt Nam là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương”.(13)

Sự thật lịch sử này đã được Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều phát kiến để hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phải thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Họ mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.

Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng biển nước mênh mông nước rút dần để lộ ra những vùng đất màu mỡ phì nhiêu.

Tiền nhân chúng ta đã từ vùng cao nguyên Hi Mã Lạp sơn tiến xuống vùng đồng bằng, nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó để lập làng định cư khai phá đất đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước này được truyền thuyết diễn tả qua việc mẹ Âu cùng 50 con ở lại vùng cao, Bố Lạc dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J. Loubet và P. Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trùng Khánh Trung Quốc bây giờ.

Như vậy, cư dân Hòa Bình Hoabinhian đã phải thiên cư mỗi khi có nạn biển tiến mà 3 lần:
biển tiến cách đây khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm theo hai hướng.
Một nhánh theo hướng Đông Bắc qua cầu đất Béring vào Mỹ châu do nạn biển tiến cách đây khoảng 13.500 năm rồi trở thành thổ dân Bắc Mỹ.
và nhánh khác theo hướng Nam xuống bán đảo Mallacca Mã Lai Malaysia) rồi vượt biển tới các hoang đảo sau này có tên là Nam Dương Indonesia, Phi Luật Tân (Philippine), Hawai, Đa Đảo, New Zealand rồi sang tới California, Trung Mỹ và Nam Mỹ.

Trước đây, chúng ta thường nghĩ rằng truyền thuyết khởi nguyên dân tộc là hoang đường
huyền hoặc và huyền thoại Rồng Tiên chỉ là sự hư cấu để điểm tô cho lòng tự hào dân tộc thì ngày hôm nay, tất cả đã sáng tỏ qua các công trình nghiên cứu, những kết quả khoa học thuyết phục nhất. Hình tượng Rồng Tiên được thần thoại hóa từ vật tổ biểu trưng Chim và Thuồng Luồng (Giao Long) của chi Âu Việt ở miền núi và chi Lạc Việt ở miền sông nước. Chữ Tiên gồm 2 chữ sơn và nhân hàm nghĩa người ở miền cao núi rừng mà thôi và địa danh “Thủy Phủ” được hai thạc sĩ sử địa người Pháp là J. Gouron và P. Lubet tìm ra chính là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc bây giờ.

Hai bản đồ Pacific Ocean và Atlas 1949 ghi rõ là SUIFU=Thủy phủ. Thế là truyền thuyết từ chỗ u u đã trở nên minh minh chứ không còn u u minh minh như trước nữa.Từ truyền thuyết khởi nguyên dân tộc, đối chiếu với nguồn sách sử của Trung Quốc, kiểm chứng qua các công trình nghiên cứu Dân tộc học, Ngôn ngữ học, Văn hoá Khảo cổ, Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Đại dương học và kết quả phân tích cấu trúc mã di truyền mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học đã xác định Việt tộc hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt có một tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền trong dân tộc (Intra populatinal genetic divergence 0.236% và về Hinc II/ Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.

Chính vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn hóa Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm 
■ Đông Nam Á,
■ Bách Việt,
■ Ấn Độ,
■ Trung Cận Đông
■ và cả châu Mỹ nữa.

Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ bốn Haplotype chính gồm A, B, C, D
và không có cặp căn bản số chín (9) giữa hai thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền
học gọi là “Đột biến đặc biệt Á Châu= “9bp deletation bettween CO I I tRNA LYS genes” bp= base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Trung Quốc ở Hoa Nam, Đài Loan, Dân cư Đông Nam Á gồm Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa Đảo Polynesian, thổ dân Hawaii, thổ dân Maya ở Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng Halo group A, B, C, D và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa hai thể di truyền COII /tRNALYS mà các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian Mitochondrial DNA) của Việt tộc. Thực tế này xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại. Trân trọng kính chào quý vị.

 

Nguồn:  www.anviettoancau.net

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam – I. Bách Việt

Lời Tòa Soạn: Bàn về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một chủ đề không mới, đã có nhiều nghiên cứu công phu về đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi trong tinh thần muốn đóng góp một cái nhìn,  xin gửi đến độc giả một số trích đoạn trong sách “nguồn gốc dân tộc Việt Nam” của học giả Đào Duy Anh, xuất bản năm 1950 về chủ đề này để những ai lưu tâm có thể có thêm cứ liệu suy xét. Có lẽ nguồn gốc truyền kỳ của dân tộc ta thì ai cũng biết, và thông tin về thời đại nước Âu lạc của Thục An Dương Vương thì thiết tưởng chúng tôi không bàn thêm. Chúng tôi chỉ xin trích dẫn ở đây những cứ liệu về bước chuyển, xuất phát từ một lưu tâm: dân tộc Việt Nam vốn là một chi nhánh trong nhóm Bách Việt, tự khẳng định mình để không bị đồng Hóa bởi Hán tộc trong tiến trình hình thành quốc gia dân tộc.


Đề cập đến Bách Việt, chúng ta biết rằng khoảng thế kỷ 20 tcn, khi người Hán đang phát triển nền văn minh của họ ở lưu vực sông Hoàng Hà và Vị Thủy ở phía Bắc thì ở miền nam trên lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang), sông Hán và sông Hoài, có những bộ tộc khác đã sinh sống, và thư tịch cổ Trung Quốc gọi họ là Man Di.

Dựa vào vùng đất trù phú của miền sông nước, họ đã phát triển kinh tế nông nghiệp, đánh bắt thủy sản để sinh sống. Nhóm người Việt cổ này được nhìn nhận đều thuộc Việt tộc. Đến trước đời Chu (bắt đầu từ thế kỷ XII tcn), họ đã ở khắp lưu vực sông Dương Tử. Quá trình hình thành của các dân tộc nhỏ bé hoặc đẩy họ Nam tiến. Bách Việt là một ví dụ điển hình: một số chi họ trong Bách Việt đã dần nam tiến từ thời Chu đến Tần.


BÁCH VIỆT

Từ trước thời kỳ nước Việt[1] đương cường thịnh ở Chiết Giang, người Việt Tộc ở miền lưu vực sông Dương Tử, riêng là người Giao Chỉ và Việt Thường đã có thể đi qua các đèo ở dãi Nam Lãnh mà di cư rãi rác đến miền nam, trong các thung lũng những sông lớn ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay.

Hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đời Chu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ di cư với những người thị tộc chiếm ở miền Nam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xưng là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương.

Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà quý tộc người Việt lập ở miền Lãnh Nam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Ban đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang, Phúc Kiến đều ảnh hưởng từ nước Sở, thế nhưng những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.

Vận mệnh lịch sử của các bộ lạc và quốc gia Việt tộc ấy là thế nào? Chúng ta không thể nào biết hết được. Có lẽ các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính, cho nên số các bộ lạc linh tinh một ngày một giảm ít đi, mà sử sách chỉ chép có năm nhóm quan trọng, sau này đã đạt đến hình thức quốc gia: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt.

Xin bàn về ba nhóm chính, đó là: Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là các nhóm sau này lần lượt bị đồng hóa theo Hán Tộc, còn nhóm Tây Âu và nhất là nhóm Lạc Việt, hai nhóm ấy sau này hợp thành ước Âu Lạc đã ghi dấu trên lịch sử lâu bền hơn, chúng tôi sẽ nói sau.

Đông Việt và Mân Việt, hai nhóm ấy có tự bao giờ, chúng ta chưa biết đích xác được. Chúng ta chỉ có thể đặt sự thành lập chính thức của nó vào thời gian sau khi nước Việt bị diệt (năm 333 tcn) và trước khi nhà Tần chinh phục Bắc Việt (năm 218 tcn).

Sau cuộc nhà Tần thâu tóm các nước Bách Việt thì cương vực của địa bàn người Hán Tộc có thể lấy dãi Lãnh Nam làm giới tuyến phía Nam. Sau khi Tần đặt 36 quận ở đất Trung nguyên thì vào khoảng năm 218, Thủy Hoàng phát quân gồm những hạng người lưu vong rể thừa và lái buôn, chia làm năm đạo cho đi chinh phục Bách Việt.

Trong 5 đạo ấy, đạo thứ năm tụ tập trên sông Dư Can, trong tỉnh Giang Tây ở phía nam hồ Phiên Dương là đạo quân nhằm đánh. Đông Việt và Mân Việt là hai nhóm người Việt đã có hình thức quốc gia phôi thai, vốn thần phục nước Sở, đã nhân cuộc nội loạn ở Trung Quốc mà độc lập.

Nhóm Đông Việt hay Đông Âu thì Trung tâm điểm là miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang ngày nay. Về phía Nam Tam môn loan. Nhóm Mân Việt thì trung tâm điểm là miền Mân huyện, thuộc Phúc Châu trong tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

Có lẽ hai nước Đông Việt và Mân Việt thì tiếp cảnh với nhà Tần nên vốn đã sợ oai, nay thấy quân Tần kéo đến thì không dám chống cự kịch liệt nên quân Tần thắng lợi rất mau.

Chỉ trong năm đầu, nhà Tần chinh phục được hai nước gồm lại mà đặt quận Mân Trung, hạ vua hai nước xuống làm quận trưởng (tù trưởng) để trông dân Việt.

Về sau, trong khi chư hầu phản nhà Tần, tù trưởng Đông Việt và Mân Việt đều theo chư hầu mà đánh Tần, rồi lại giúp Hán đánh Sở. Vì vậy đến năm thứ 5 đời Cao Đế (202) thì nhà Hán thưởng công, phong cho tù trưởng Mân Việt là Võ Chứ làm Mân Việt Vương, trị đất Mân Trung cũ, đô ở Đông Dạ (Mân huyện ngày nay). Năm thứ ba đời Huệ đế (192), nhà Hán lại chia đất Mân Trung cũ mà đặt thêm ước Đông Hải và cũng để thưởng công phong tù trưởng Đông Việt là Dao làm Đông Hải Vương, đô ở Đông Âu (miền Vinh Gia), tục gọi là Đông Âu Vương.

Các nhóm Bách Việt vốn hay đánh nhau, đó chẳng qua là tác dụng của xu hướng thống nhất của các dân tộc. Cái thói tương tranh ấy vốn có thể cổ lệ cái lòng hiếu dũng cho dân tộc nhưng cũng có thể làm lưu tệ mà thành cái mối tự thân phân liệt được. Chúng ta nhớ lại, đương khi nước Việt quật cường thì cái hoài vọng của họ là phát triển về phương Bắc để xưng hùng với trung nguyên. Sau khi nước Việt diệt vong, cố nhiên người Việt không thể lăm le nhòm ngó trung nguyên như trước nữa, nhưng cái hoài vọng ngấm ngầm của các tù trưởng lớn tuồng nhưng cũng cứ chờ có cơ thời thì lại tung hoành về Bắc. Trong khi chờ đợi thời cơ thì cơ hội khuếch trương thế lực ở đồng tộc, cho nên trong các nhóm Bách Việt, người ta thấy diễn ra hiện tượng tương khuynh. Sự tranh giành giữa hai nhóm Đông Việt và Mân Việt là cái lệ chúng rõ ràng của hiện tượng ấy, mà chính là cơ hội rất tốt cho nhà Hán kiêm tính Bách Việt.

Ở buổi ban sơ, Đông Việt và Mân Việt tuy thần phục nhà Hán, nhưng cái chí nhòm ngó miền Bắc nếu có cơ hội thì cũng không ngại múa men. Khi Ngô Vương là Tỵ phản nhà Hán, Đông Việt và Mân Việt cũng có phát binh tiếp ứng: khi Hoài Nam Vương Lệ làm phản, cũng có câu kết với hai nước ấy. Trong hai nước thì Mân Việt đáng cho nhà Hán sợ hơn cả. Sau khi nhà Hán đã dụ được Đông Việt giết Ngô Vương Tỵ mà hàng phục Hán, con Tỵ là Tư Câu xui Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ ba đời Vũ đế (năm 138). Mân Việt bèn phát binh hãm Đông Âu. Đông Việt cầu cứu với nhà Hán, tướng Hán là Nghiêm Trợ phát binh tiếp cứu nhưng quân Hán chưa đến nơi thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước bấy giờ họ có nội loạn. Nghiêm Trợ đến Đông Âu muốn diệt nước Đông Việt để trừ hậu hoạn, bèn lấy danh nghĩa di dân để cứu nạn đói mà dời một phần dân chúng Đông Âu đến miền Giang Hoài. Có lẽ một phần dân Đông Việt đã chống cự lệnh di dân ấy mà theo vua họ chạy xuống miền Nam ở gần Tuyền Sơn tỉnh Phúc Kiến sau đó 15 năm thì họ bị nhà Hán diệt hết. Thế là nước Đông Việt mất hẳn.

Sau khi Mân Việt thất bại ở Đông Âu, năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), họ lại đem binh đánh nước Nam Việt ở miền Nam. Nước này cũng cầu cứu nhà Hán.
Tướng Hán là Vương Khôi do đường Dự Chương và Hàn An Quốc, do đường Cối kê cùng tiến quân vào Mân Việt. Nhưng quân Hán chưa qua đèo mà Mân Việt lại vì nội loạn phải đầu hàng.



**********************

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam – I. Bách Việt



NAM VIỆT

Nhóm Nam Việt cũng như Đông Việt và Mân Việt xuất hiện sau khi nước Việt bị diệt. Trong năm đạo binh của nhà Tần phát đi đánh Bách Việt, thì đạo thứ tư phát tự Nam đã ở phía Nam Dự Chương, do đường đèo Đại Du (nay là đèo Mai Lãnh) tiến vào miền tỉnh Quảng Đông, là địa bàn của nhóm Nam Việt. Có lẽ đạo quân thứ năm, sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt rồi, lại luôn đường theo đường bờ biển do đèo Yết Dương mà thẳng xuống Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay).

Các đạo thứ nhất và thứ nhì, thứ ba thì tiến vào phía Tây Bắc miền Quảng Đông và phía Bắc miền Quảng Tây cũng dễ dàng. Nhưng sau những cuộc thắng lợi đầu tiên thì quân Tần gặp nhiều khó khăn, một là vì thiếu đường tiếp tế quân lương, hai là vì gặp người Việt nhất là Tây Âu ở miền Nam Quảng Tây chống cự dữ dội khiến quân Tầu trong ba năm bị khốn đốn chết chóc rất nhiều. Song tuy không tiến quân sâu được, nhà Tần cũng sắp đặt việc cai trị ở các miền đã chiếm được. Chúng ta biết rằng tại đất Đông việt và Mân Việt họ đặt quận Mân Trung, tại miền Quảng Đông và Quảng Tây thì họ đặt ba quận:

Nam Hải,
Quế Lâm và
Quận Tượng.

Sau khi đặt các quận huyện, năm 214, nhà Tần sai Triệu Đà đem quân bị đày xuống giữ đất Việt, cho ở lộn xộn với người Việt tộc, rồi Nhâm Ngao làm đô úy quận Nam Hải, cử Triệu Đà làm lệnh huyện Long Xuyên trong quận ấy. Có lẽ các nhóm Việt tộc mà người ta gọi chung là Nam Việt bấy giờ là những bộ lạc rời rạc, không tổ chức thành quốc gia. Quân Tầu tiến vào đến trung tâm của họ là Phiên Ngung rồi chức việc hành chính ở đó rất dễ dàng, chia đất mới chiếm thành quận huyện (quận Nam hải) và đặt toàn người Hán tộc cai quản.

Về sau nhân Trung Quốc có loạn, hào kiệt và chư hầu nổi dậy đánh nhà Tần, Triệu Đà nghe theo lời Nhâm Ngao, truyền hịch đóng các cửa ải thông với Hán rồi đánh lấy quận Quế Lâm và Tượng hợp vào quận Nam Hải mà lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, lấy người tay chân là người Hán tộc mà thống suất người Việt tộc.

Sau khi nhà Hán đã diệt Tần thâu tóm Bách Việt, Triệu Đà quy phục nhà Hán. Sang đời sau đời Triệu Hồ, Mân Việt đem quân đánh biên thùy Nam Việt như chúng ta đã biết. Cuộc tương tranh giữa hai nhóm Việt này chính là cơ hộ nhà Hán lợi dụng để diệt cả hai nhóm.

Năm thứ 5 hiệu Nguyên Đinh (112), nhân việc nhà Hán mưu dụ Nam Việt nội nuộc, đại thần Nam Việt là Lữ Gia cùng đồ đảng phản đối, nhà Hán bèn phát quân định dùng vũ lực để chinh phục. Bấy giờ vua Mân Việt hứa đem binh theo quân Hán để đánh Lữ Gia, nhưng sau khi quân Hán đã chiếm được Phiên Ngung mà quân Mân Việt vẫn không đến, nhà Hán bèn phát binh đánh Mân Việt. Lại nhân nổi loạn, Mân Việt phải đầu hàng, nhà Hán bèn dời một phần lớn dân Việt đến miền Giang Hoài để trừ mối lo về sau, thế là Mân Việt mất nước.

Còn nước Nam Việt, thì sau khi mất thủ đô vào tay nhà Hán, nước ấy cũng bị nhà Hán kiêm tính, đất Nam Việt cũng như đất Đông Việt và Mân Việt đều bị chia làm quận huyện.

Người Đông Việt và Mân Việt, một phần lớn bị cưỡng bức di cư đến miền Giang Hoài, nên dần đồng hóa hẳn theo Hán tộc. Người Nam Việt tuy không di cư nhưng từ đời nhà Tần, họ đã ở chung lộn với mấy vạn quân chinh phục Hán tộc cùng với một vạn năm nghìn đàn bà Hán tộc mà Triệu Đà được nhà Tần cấp cho để may vá cho quân sĩ, cho nên chúng ta có thể nói rõ rằng ngay trong thời nước Nam Việt cường thịnh, người Việt tộc ở Nam Việt cũng đã đồng hóa rất nhiều theo Trung Quốc rồi.


**********************
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam – I. Bách Việt

TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CỦA NHÓM BÁCH VIỆT

Những sự phát quật cổ tích ở miền này rất hiếm hoi, người ta chưa có những sử liệu trực tiếp để nghiên cứu văn hóa của người Bách Việt, chỉ có thể căn cứ vào những tài liệu gián tiếp rải rác trong sách xưa, như sách sử ký, sách Hán thư và nhất là tác phẩm của Hoài Nam vương Lưu An là người đời Hán sơ khai, vì ở miền tiếp cánh với đất Bách Việt nên rất am hiểu sự tình đất ấy.

Lưu An nói rằng: “người Việt không có thành quách, thôn ấp; họ ở trong những khoảng khe hang, trong vùng lau trúc. Họ quen thủy chiến mà giỏi dùng thuyền. (Thư của lưu An gửi cho Hán Vũ Đế), lại nói rằng họ “làm việc trên cạn ít dưới nước nhiều, cho nên họ cạo tóc, xâm mình đóng khố ngắn, không mặc quần để tiện bơi lội, tay áo ngắn mà xăn lên để tiện chèo thuyền. Xem thế thì chúng ta thấy rằng sinh hoạt vật chất của người Bách Việt cũng không khác sinh hoạt của người nước Việt mấy. Cũng như người Việt, họ lấy nghề chài lưới làm nghề chủ yếu. Trong các thung lũng trên bờ sông bờ biển và ở giữa hồ đầm, người Bách Việt hẳn cũng làm nhà sàn, nhà gác bằng tre và gỗ. Quần áo của họ có lẽ cũng giống quần áo của người Mường người mọi ngày nay, và làm bằng vải đay hay vải gai. Ở đảo Hải Nam cũng là nơi thuộc trong địa bàn của người Bách Việt, sách Hán thư chép rằng đàn ông thì cày ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, cây đay, cây gai, đàn bà thì trồng dâu nuôi tằm. Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu vực Tây Giang, Quảng Đông và Quảng Tây, người Bách Việt cũng đã làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như ở Hải Nam.

Về kỹ thuật thì người Bách Việt hẳn cũng đã biết kỹ thuật đồ đồng như người Ngô Việt nhưng ở miền Bách Việt này chắc là kỹ thuật đồ đồng và gốm còn kém kỹ thuật miền trên.

Bách Việt, miền này rất giàu sản vật quý báu vốn làm mồi nhử lòng tham vọng của người Hán. Những sản vật quý báu ấy đại khái là: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, trân châu, ngọc cừ, bạc, đồng, trái cây (quả nhãn và quả vải), vải gai. Người Bách Việt đã biết nuôi ngũ súc là bò, dê, lợn, gà, chó; vì ít giao thông bằng đường bộ nên họ không dùng ngựa.

Họ không thạo nghề thương mại, song người Hán đem thuyền buôn đến mua vật thổ sản, nhất là miền Quảng Đông, cho nên Phiên Ngung là một nơi đô hội lớn. Những thị trấn khác nhờ Hợp Phố, Từ Văn Vùng là nơi thuyền buôn người Hán hay lui tới.

Về kiến trúc, chúng ta không rõ người Bách Việt đã biết làm gì. Lưu An nói họ không có thành ấp, tất cả họ không có thành trì như người nước Việt trong thời cường thịnh, mà chỉ nhờ địa bàn thể hiểm trở mà phòng địch thôi.

Về vă hóa tinh thần, hẳn người Bách Việt cũng không khác người nước Việt mấy. Người Hán tộc cũng cho họ là khinh bạc và hiếu chiến.

Về chế độ xã hội thì có lẽ phần nhiều các nhóm Bách Việt vẫn còn ở giai đoạn thị tộc, nhưng trình độ của chế độ ấy thì tùy từng nhóm mà khác nhau. Có lẽ ở các nhóm Đông Âu và Mân Việt, là những nhóm tiến bộ hơn hết, thì chế độ thị tộc đã tiến trạng thái gia tộc rồi. Song tại các bộ lạc nhỏ hơn ở các miền rừng núi thì chế độ thị tộc đương còn lạc hậu ở thế kỷ mẫu hệ.

Về tổ chức chính trị thì ở đời Tần, chúng ta đã thấy các nhóm Đông Âu, Mân Miệt muốn đạt đến hình thái quốc gia, song chưa đạt đến tình trạng thịnh trị như nước Việt ở đời Xuân Thu Chiến Quốc. Có lẽ lại miền Bách Việt, chế độ chính trị hãy còn nửa chừng giữa chế độ bộ lạc và chế độ quốc gia phong kiến.

 


[1] Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở miền Chiết Giang, Trung Quốc.

http://www.vantholacviet.org/news-2454/16/Bien-Khao/Pham-tran-Anh--Ket-qua-moi-nhat-thuyet-phuc-nhat-ve-coi-nguon-phat-tich-cua-viet-toc.html

Monday, March 23, 2020

nhận ra - kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC tôi

 

Tôi Hiểu Việt cộng Là Gì...








Tôi hiểu Việt cộng lần đầu tiên là khi tôi khoảng bốn hoặc năm tuổi, vào khoảng năm 1978-79.
Việt cộng vô nhà tôi tịch thu đồ đạc, họ lấy chiếc xe đạp có bánh xe mập màu trắng mà khi đó tôi đang tập chạy.

Tôi còn nhớ khi đó tôi khóc rất thê thảm, trong lòng thật sự cảm thấy đau đớn oằn oại, cảm giác mà sau này đọc "The Thorn Birds", tôi có thể đồng cảm với cô bé Meggie trong đó, khi cô bé này bị mất con búp bê.

 photo o-142732610-facebook_zpsugywpeo8.jpg Đối với một đứa trẻ nhỏ thì chiếc xe đạp, hay con búp bê, là cả thế giới của họ.
Việt cộng đành lòng nào mà vô giựt như vậy, sau khi đã lấy nhiều nhà cửa, đất đai, của gia đình tôi!


Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tôi biết, hiểu, và nhận ra - kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC .


Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tuổi thơ tôi đã mất đi theo chiếc xe đạp bị đánh cắp.
Mẹ tôi không nói gì, sau đó chỉ nói:

— "Sao con lại khóc trước quân thù, kẻ thù?"

Trước đó, tôi có kẻ thù nào đâu, con nít năm tuổi làm gì biết kẻ thù là gì.

Nhưng sau đó thì tôi biết, hiểu, và nhận ra - kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Nguồn: Internet



 

==============================================================================================

 

Sau ba lần đổi tiền ở miền nam, có bốn câu thơ ai cũng biết:

Máu rợn mùi tanh, cuộc đổi đời,
Ba lần cướp trắng lúc lên ngôi.
Miền nam “ruột thịt” âm thầm hiểu:
Cách mạng là đây: bọn giết người.

Ba lần đổi tiền sau khi Việt cộng cưỡng chiếm miền nam Việt Nam

Đổi tiền ngày 22.9.1975
Đổi tiền ngày 03/5/1978
Đổi tiền ngày 14.9.1985


Nhật đầu hàng Mỹ vào tháng 8/1945. Hội Nghị Postdam của Đồng Minh giao cho quân Tầu Tưởng giới Thạch vào tước khí giới quân Nhật tại miền bắc Việt Nam cho tới vĩ tuyến 16.
Từ vĩ tuyến 16 trở xuống giao cho liên quân Anh & Ấn. Pháp không có "phận sự" gì ở Việt Nam cả.

Miền nam bị cộng sản bắc Việt tấn công nên phải đánh trả bảo vệ, tự vệ, bảo vệ.



..........................................................................................................

 


















Trần Văn Hai






colt








...........................................................................................................................................................



* Có Thể Bạn Chưa Biết 03: Lê Văn Xương 01: Nhà chiến lược trăm năm của Mỹ.
https://youtu.be/NV-zb2vQL8U




** Có Thể Bạn Chưa Biết 05: Lê Văn Xương 03: Mỹ bắt tay Tàu đánh sập Liên Xô -rồi diệt Tàu.
https://youtu.be/xb5bUsXDWe0




*** Có Thể Bạn Chưa Biết 04: Lê Văn Xương 02: Mỹ xay vàng giải trấn yểm WDC?
https://youtu.be/UMUOmFMtRnk




~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

 








 





Khi Hoa Kỳ Tự Lực Về Năng Lượng



Đến năm 2020 Mỹ sẽ trở thành nguồn sản xuất dầu hỏa số #1 thế giới. Trung Quốc theo chân Hoa Kỳ khai thác dầu và khí đá phiến. Địa lý chiến lược thế giới sẽ thay đổi khi Mỹ không còn lệ thuộc vào dầu hỏa của các nước vùng Vịnh và không cần bảo đảm an ninh cho các tuyến trung gian chuyển năng lượng của thế giới về Hoa Kỳ.

Trung Quốc

Dàn khoan đá phiến tại tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ


Ruhrfisch/wikimedia.org

Thanh Hà


Là một trong những quốc gia tiêu thụ dầu hỏa và khí đốt hàng đầu của thế giới, để đáp ứng nhu cầu nội địa Hoa Kỳ nhập cảng đến 20% năng lượng. Nhưng từ nhiều thập niên qua, cường quốc kinh tế và kỹ nghệ số #1 này đã âm thầm tiến hành một cuộc cách mạng.

Đầu tháng 11/2012 báo cáo thường niên của Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (AIE) đã gây bất ngờ khi dự đoán là vào năm 2017 nước Mỹ sẽ trở thành nguồn sản xuất dầu hỏa lớn nhất thế giới, đứng trước cả Ả Rập và chỉ một thập niên sau thì Hoa Kỳ sẽ trở thành quốc gia xuất cảng số #1 toàn cầu. Đối với khí đốt, chỉ trong hai năm nữa thôi sản lượng của Mỹ sẽ vượt quá mức cung cấp của Nga.

Cuộc cách mạng năng lượng

Thành quả này có được nhờ vào chiến lược mà các giới chính quyền Washington liên tiếp và các đại gia dầu khí của Hoa Kỳ đã kiên trì theo đuổi trong nhiều thập niên: đó là dựa vào kỹ nghệ phát triển khí và dầu từ đá phiến. Trong 11 tháng đầu năm 2012 Hoa Kỳ sản xuất khoảng 6,2 triệu thùng dầu mỗi ngày nhờ vào kỹ nghệ khai thác đá phiến. Đây là một mức nhảy vọt đến 28% so với khả năng cung cấp của năm 2008.


AIE xác định: "Với đà này, nhập cảng dầu thô vào Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng giảm sút vào khoảng năm 2030" và kịch bản một nước Mỹ tự lực về năng lượng không còn là điều viễn vông. Đương nhiên, trật tự năng lượng quốc tế sẽ bị đảo lộn khi Hoa Kỳ không còn lệ thuộc vào dầu khí của thế giới. Châu Á sẽ trở thành trọng tâm của bản đồ thương mại dầu hỏa trong tương lai với những thay đổi quan trọng về mặt chiến lược.


Trả lời trên đài RFI Pháp ngữ, giáo sư địa lý bà Françoise Ardillier-Carras tác giả cuốn "Hydrocarbures et conflits dans le monde - dầu khí và các vụ xung đột trên thế giới", Nhà Xuất Bản Technip cùng Giáo Sư Samuele Furfari giảng dạy tại Đại Học Tự Do Bruxelles lần lượt phân tích về những tác động đối với ngành kỹ nghệ dầu khí với cuộc cách mạng về năng lượng đang hình thành.


Theo Giáo Sư Samuele Furfari đá phiến là vũ khí năng lượng mới của Hoa Kỳ nhưng ông thận trọng cho rằng dù có trở thành một nguồn cung cấp dầu khí hàng đầu thế giới, Mỹ ít có khả năng cung cấp dầu khí của mình cho phần còn lại của thế giới để bảo toàn vị thế siêu cường kỹ nghệ và kinh tế của mình:


"Mọi người ý thức được là giá năng lượng tăng nhanh và đã tác động đến các hoạt động kinh tế của toàn cầu. Giá năng lượng tăng mạnh từ 2004 và vấn đề năng lượng bị coi là một trong những yếu tố dẫn tới khủng hoảng kinh tế ngày nay. Từ đó các nhà lãnh đạo và các tập đoàn phải tìm ra những giải pháp.


2004 được coi là một bước ngoặt quan trọng đối với ngành năng lượng. Khác với các lĩnh vực kinh tế khác, để chuyển hướng, ngành kỹ nghệ năng lượng cần nhiều năm để thay đổi chiến lược. Trong trường hợp của Hoa Kỳ: nước Mỹ đang lệ thuộc vào dầu hỏa vào năng lượng của thế giới, nhưng trong một tương lai không xa cường quốc kinh tế số một này sẽ ‘độc lập’ về mặt năng lượng.


Kỹ nghệ là chìa khóa giúp cho Hoa Kỳ đảo ngược tình huống trên bàn cờ năng lượng. Hoa Kỳ làm thay đổi cục diện ngành năng lượng thế giới với kỹ thuật khai thác khí đá phiến. Phải mất nhiều năm các chuyên gia mới biết khai thác khí đá phiến.


Đến khoảng 2008 ngành năng lượng đã trải qua một cuộc cách mạng: kỹ thuật khai thác khí đá phiến sẽ đẩy giá thành xuống thấp đến một mức độ mà ở Mỹ, người ta sẽ chỉ tập trung khai thác những vùng vừa có dầu hỏa vừa có khí đốt. Hoa Kỳ sẽ trong thế dư thừa dầu khí. Tôi không nghĩ là Mỹ sẽ trở thành một nguồn cung cấp dầu khí cho thế giới, nhưng Hoa Kỳ, Canada và Mexico sẽ tự túc được về mặt năng lượng và điều đó sẽ làm đảo lộn trật tự năng lượng của thể giới".


Nhưng nói như vậy phải chăng quốc tế không còn lo sợ trước kịch bản khan hiếm vàng đen? Giáo Sư Furfari cho rằng đại đa số trong chúng ta vẫn bị ám ảnh trước mối đe dọa các nguồn dầu hỏa của thế giới bị cạn kiệt:


"Có thể nói như vậy nhưng đại đa số chúng ta và nhất là các phương tiện truyền thông vẫn cho rằng dầu hỏa đang ngày càng khan hiếm. Từ năm 1924 người ta đã nói đế đe dọa thiếu hụt dầu hỏa. Người ta quên mất một điều: giá dầu hỏa tùy thuộc vào các kỹ thuật khai thác và tùy thuộc vào giá mà người tiêu thụ sẵn sàng trả để đổi lấy vàng đen.


Ở đây tôi cũng muốn nhắc lại với thính giả một điều quan trọng đó là vào năm 1982 quốc tế đã thông qua Công Ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Văn bản này chính thức có hiệu lực từ năm 1994. Diện tích khai thác của mỗi quốc gia được mở rộng thêm.


Bên cạnh đó kỹ nghệ khai thác tài nguyên ngày càng tối tân, thành thử khối lượng dầu cung cấp cho nhân loại ngày càng lớn. Tôi đơn cử trường hợp của Israel: với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Israel làm chủ một kho dự trữ khí đốt có thể bảo đảm nhu cầu của quốc gia này trong vòng 120 năm.»!


Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển

Bà Françoise Ardillier-Carras chuyên gia về địa lý gắn liền vấn đề năng lượng và địa lý chiến lược. Bà đặc biệt lưu ý đến những ý đồ của Trung Quốc tại Biển Đông:


"Với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chiến lược năng lượng chuyển hướng và trở thành một vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Chính vì thế Biển Đông đang trở thành một khu vực vô cùng nhạy cảm. Tương tự như vậy, các vùng eo biển tức là các cửa ngõ trung gian chuyển dầu khí cũng trở thành những điểm nóng. Tranh chấp chủ quyền trên biển, một là để xác định quyền sở hữu các nguồn tài nguyên, và hai là để kiểm soát các chặng trung gian chuyển năng lượng…»


Vậy thì đâu là chiến lược năng lượng của Trung Quốc? Giáo Sư Samuele Furfari không ngần ngại cho rằng Trung Quốc sẽ đẩy mạnh kỹ nghệ khai thác khí đá phiến tương tự như Hoa Kỳ. Duy có điều, Trung Quốc sẽ vấp phải một trở ngại: các mỏ đá phiến dầu của Trung Quốc thường nằm sâu trong lòng đất do vậy các cơ sở khai thác của quốc gia này phức tạp hơn so với tại Mỹ:


"Trung Quốc ngày càng tiêu thụ nhiều năng lượng của thế giới để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hàng sản xuất đó thực ra cũng chỉ là để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ chung của toàn cầu - trong đó có cả Mỹ và châu Âu. Từ nhiều năm qua, chính sách ngoại giao của Trung Quốc chính yếu là nhằm hướng tới các nguồn dự trữ năng lượng của thế giới. Bắc Kinh đã đặc biệt chú ý tới châu Phi.


Giờ đây với kỹ nghệ khai thác khí đá phiến, Trung Quốc cũng bắt đầu tham gia vào các chương trình này. Có khả năng một khi thành công trong việc khai thác khí đá phiến thì Bắc Kinh sẽ quan tâm ít hơn đến các nước sản xuất dầu hỏa như Chad hay Soudan. Nhưng phải nói là Trung Quốc đang chạy đua để tìm kiếm dầu hỏa và khí đốt".


Trong cuộc chạy đua tìm kiếm năng lượng đó tới nay Trung Quốc đã mở rộng tầm ảnh hưởng của mình với các nước sản xuất dầu hỏa từ Nam Mỹ đến Châu Phi, và đương nhiên là ở cả Trung Á. Giáo Sư Françoise Ardillier-Carras cho biết:


"Đương nhiên tất cả hãy còn mới lạ đối với Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc phải trực diện với nhu cầu năng lượng lớn như hiện nay. Cũng chưa bao giờ Trung Quốc lại có nhiều xe hơi như những năm gần đây. Trung Quốc sản xuất than đá nhưng bên cạnh đó quốc gia này cần dầu khí của nước ngoài.


Để chen chân vào được một số khu vực sản xuất dầu khí, đặc biệt là đối với các nước Trung Á (Ouzbekistan, Turkmenistan, Kazackhstan…), chính quyền Bắc Kinh đã phải đề ra hẳn một chiến lược. Chẳng hạn như là Trung Quốc đã phải tăng cường an ninh tại các khu vực biên giới để bảo đảm là hàng bán được trao đến tay người tiêu thụ một cách an toàn.


Vào khoảng năm 1998 Trung Quốc chi ra khoảng 1 tỉ đô la để mua dầu khí của các nước Trung Á. Đến năm 2010 tổng kim ngạch nhập cảng năng lượng của Trung Quốc chỉ riêng với khu vực này lên tới 24 tỉ đô la. Hiện tượng Trung Quốc bị khát dầu hỏa và mở rộng ảnh hưởng với các nước Trung Á đôi khi đặt Bắc Kinh trong tình thế khó xử đối với Mạc Tư Khoa bởi đấy là những quốc gia chư hầu của Liên Xô cũ".


Nghịch lý của Châu Âu


Châu Âu lệ thuộc 53% vào năng lượng ngoài khu vực cho nên từ đầu những năm 1970 châu lục này đã phát triển năng lượng điện hạt nhân để khắc phục nhược điểm này. Riêng đối với kỹ nghệ khai thác khí đá phiến, Châu Âu đã bỏ lỡ một chuyến tàu và bị coi là chậm chân hơn so với Hoa Kỳ. Một phần lớn sự chậm trễ đó là do châu Âu phải đối phó với các hội đoàn bảo vệ môi trường.


Tại sao Mỹ khai thác được khí đá phiến mà châu Âu không làm được? Giáo Sư Samuele Furfari giải thích về khác biệt căn bản giữa Hoa Kỳ và châu Âu:


"Ở Hoa Kỳ, chủ sở hữu đất làm chủ luôn cả phần ngầm. Nếu có dầu hỏa hay khí đốt, quặng mỏ… thì họ có quyền khai thác các tài nguyên đó. Tại Châu Âu, chúng ta không thể làm như vậy. Cái gì cũng phải qua cơ quan hành chính của chính quyền và phải trình bày với các nhóm bảo vệ môi trường có thế lực. Tuy vậy luật lệ của Mỹ cũng rất rõ ràng thành thử để khai thác dầu hỏa hay khí đốt tư nhân không thể gây ô nhiễm bừa bãi.


Tôi nghĩ là trong tương lai Trung Quốc cũng sẽ theo chân Hoa Kỳ để khai thác khí đã phiến, vì tại đây, tất cả thuộc sở hữu của chính quyền, và chính quyền quyết định tất cả cho nên một quyết định khai thác loại năng lượng này, Trung Quốc sẽ không gặp phải một trở ngại nào hết.


Châu Âu không thể làm như Trung Quốc; một khi Mỹ không còn lệ thuộc vào năng lượng quốc tế, Washington sẽ xét lại chính sách chiến lược của mình đối với phần còn lại của thế giới. Thêm vào đó là khí đốt sản xuất tại Mỹ sẽ rẻ vô cùng. Điều đó sẽ mở đường cho ngành kỹ nghệ xe hơi Mỹ chuyển hướng, chuyển từ xăng, dầu - sang khí đốt. Khi đó, giá dầu thô trên thị trường quốc tế sẽ giảm mạnh, các loại năng lượng tái tạo như năng lượng gió hay mặt trời sẽ trở nên vô cùng đắt đỏ; cả một mảng của ngành kỹ nghệ năng lượng sẽ sụp đổ.


Hiện nay khí đốt ở Mỹ rẻ đến nỗi Hoa Kỳ không còn sử dụng than đá và họ xuất cảng than đá qua châu Âu. Hậu quả trực tiếp là Mỹ giảm lượng khí thải CO2 làm nóng trái đất. Trong khi đó thì châu Âu ngày càng xử dụng nhiều than đá của Mỹ và qua đó làm tiêu tan những nỗ lực giảm khí carbon".


Tổ chức các nước xuất cảng dầu hỏa, OPEP cho rằng giá một thùng dầu 80 đô la là hợp lý. Nhưng với kỹ nghệ khai thác dầu và khí đá phiến, nhiều chuyên gia chờ đợi trong tương lai gần, giá dầu hỏa sẽ giảm mạnh. Hậu quả đối với các quốc gia sản xuất và xuất cảng dầu hỏa?


Giáo Sư Samuele Furfari trả lời: "Vấn đề sẽ không đặt ra đối với các nước vùng Vịnh, do họ có một nguồn dự trữ rất lớn và dù giá dầu hỏa có thấp đến mấy, lợi tức của các quốc gia này vẫn được bảo đảm. Đối với các thành viên khác của OPEC thì khác khi đấy là những nước không có nguồn dự trữ dầu hỏa hùng hậu như các quốc gia vùng Vịnh.


Cách nay 11 năm giá dầu trên thế giới là 9,80 đô la một thùng. Nhưng trong một thập niên, giá dầu hỏa đã tăng từ 9,80 đô la lên thành 110 đô/thùng. Giá dầu tăng cao như vậy đã đè nặng lên kinh tế toàn cầu, gây trở ngại cho tăng trưởng".


Từ năng lượng đến địa lý chiến lược.


Cân bằng về địa lý chiến lược thế giới sẽ thay đổi ra sao khi Hoa Kỳ không còn phải khai triển các phương tiện quân sự để bảo đảm an ninh cho các nguồn cung cấp dầu hỏa và khí đốt? Françoise Ardillier-Carras cho rằng -- an ninh của một số các nước xuất cảng dầu hỏa trên thế giới hiện nay có nguy cơ bị đe dọa khi Mỹ rút bớt các lực lượng an ninh:


"Nhu cầu về năng lượng thế giới, từ nay đến năm 2035 tăng thêm 36%. Trong đó khí đốt sẽ tăng 46%. Mỹ ngày nay đang trở thành một nhà sản xuất khí đốt hàng đầu của thế giới, điều sẽ làm thay đổi tương quan giữa Washington với nhiều các quốc gia, đặc biệt là các nước đang trỗi dậy. Đừng quên rằng hiện nay các nền kinh tế đang vươn lên hút nhiều năng lượng của thế giới hơn cả.


Tôi cũng xin lưu ý là khi không còn phải ráo riết tìm kiếm dầu khí của thế giới Hoa Kỳ sẽ xét lại chính sách an ninh và chiến lược của mình. Mỹ sẽ không còn gắn bó với một số các đồng minh thân cận ở vùng Trung Cận Đông, ở khu vực vùng Vịnh chẳng hạn. Hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong vùng sẽ không còn hùng hậu như hiện nay. Câu hỏi đặt ra là liệu các bên liên quan có đủ phương tiện tự vệ hay không?".

Đương nhiên là Hoa Kỳ sẽ ít quan tâm hơn đến vùng Trung Cận Đông. Ông Furfari, thuộc Đại Học Bruxelles hoàn toàn đồng ý về điểm này, nhưng ông coi là còn quá sớm để có thể nói rằng dầu hỏa đã thuộc vào quá khứ: "Như vừa trình bày, có nhiều khả năng kịch bản đó sẽ xảy tới. Mỹ cũng đã chuyển mối quan tâm từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Hoa Kỳ không còn chú ý đến châu Âu như trước nữa. Canada cũng đang theo chân Hoa Kỳ trong lĩnh vực này và ngày càng chú trọng đến đối tác Trung Quốc.

Tôi muốn nói đến dự án xây dựng đường ống dẫn dầu nối liền bang Alberta của Canada với Trung Quốc. Trong khi đó châu Âu lại cho rằng sẽ không còn cần đến dầu hỏa trong tương lai. Tôi nghĩ rằng, hiện tại, chưa có một giải pháp thực tế nào cho phép chúng ta nghĩ tới điều đó. 95% nhu cầu năng lượng của ngành giao thông vẫn lệ thuộc vào dầu hỏa».



 



Trong khi Việt cộng (của khối Quốc Tế cộng sản) và Việt Nam Cộng Hòa (Quốc Gia Việt Nam) chửi nhau ỏm tỏi cho thỏa thích, cho hả giận, thì một nơi khác - Trung Quốc và Hoa Kỳ chuẩn bị một cú đánh để xem ai là người có sức mạnh nhất trên thế giới.

Dưới Lòng Đất tại Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc nơi che giấu vũ khí. Chúng ta tưởng tượng giống như những hố lỗ Củ Chi dưới Lòng Đất qua đường ăn thông với nhau che giấu vũ khí trước kia, nhưng dưới lòng đất trong đường hầm của Vạn Lý Trường Thành to lớn gấp trăm lần các lỗ Củ Chi ở Tây Ninh của Việt cộng thời trước.




Mỹ Muốn Vô Hiệu Hóa
‘Vạn Lý Trường Thành Dưới Lòng Đất’
Của Trung Cộng


TPO-Dailymail hôm ngày 08-1-2013 đưa tin, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama đã yêu cầu Ngũ Giác Đài tìm cách “vô hiệu hóa” Vạn Lý Trường Thành Dưới Lòng Đất của Trung Quốc, nơi có khả năng chứa 3.000 vũ khí hạt nhân của Trung Quốc.


Trung Quốc

Hệ thống đường hầm ngầm theo nghiên cứu của các chuyên gia Mỹ - Ảnh: Đại Học Georgetown.

Trung Quốc

Hình ảnh phân tích Vạn Lý Trường Thành dưới lòng đất qua vệ tinh.

Quân đội Mỹ sẽ cần xem xét cả hai khả năng vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân nhằm vô hiệu hóa mối đe dọa từ các cơ sở lưu trữ vũ khí hạt nhân được mệnh danh: “Vạn Lý Trường Thành Dưới Lòng Đất” của Trung Quốc, theo đạo luật Ủy Quyền Quốc Phòng Quốc Gia (NDAA) năm 2013 mới được Tổng Thống Obama ký hôm ngày 02-1.


Cũng theo NDAA, Tổng Thống Obama ra lệnh cho người đứng đầu Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Mỹ trình báo cáo vào trước ngày 15-8 về “Mạng Lưới Đường Hầm dưới lòng đất của Trung Quốc”.


Báo cáo này phải bao gồm các tin tức về “khả năng Mỹ có thể xử dụng sức mạnh truyền thống và hạt nhân nhằm vô hiệu hóa những đường hầm này và những vũ khí được lưu trữ trong đó”.


Theo truyền hình CCTV của Trung Quốc, nước này gọi đây là kỳ quan thứ tám của thế giới hay Vạn Lý Trường Thành dưới lòng đất với hệ thống địa đạo kéo dài tới 5000 km, phía Bắc tới tận vùng Đông Bắc Trung Quốc, phía Nam đến tận dãy Thái Hành Sơn, phía Đông tới tận bờ biển Đài Loan, phía Tây đến tận Cao Nguyên Tây Tạng.


Nhóm nghiên cứu trường Đại Học Georgetown do Giáo Sư Phillip Karber, cựu chiến lược gia của Bộ Quốc Phòng, đứng đầu đã tiến hành một nghiên cứu kéo dài suốt ba năm nhằm phân tích và vạch ra hệ thống đường hầm phức tạp kéo dài đến 5.000 km của Trung Quốc.


Báo cáo năm 2011 của trường đại học này có tên “Ảnh Hưởng Chiến Lược của Vạn Lý Trường Thành dưới lòng đất Trung Quốc” đã kết luận rằng lượng vũ khí hạt nhân theo ước tính của tình báo Mỹ trước đó là không chính xác.


Tình báo Mỹ ước tính số đầu đạn hạt nhân mà Trung Quốc có thể lưu trữ trong cơ sở ngầm này là 300.


Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Giáo Sư Karber ước tính có thể có khoảng 3.000 vũ khí hạt nhân giấu dưới mạng lưới đường hầm phức tạp.


Theo Defence News, mục 1045, 1271 và 3119 của NDAA nêu rõ mối quan tâm đặc biệt của Quốc Hội Hoa Kỳ đối với nỗ lực hiện đại hóa quân sự và hạt nhân của Trung Quốc.


Đạo luật này phần nào thể hiện thái độ của Quốc Hội Mỹ đối với Vạn Lý Trường Thành ngầm của Trung Quốc và rất có thể tình hình an ninh tại trục Châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.


Sau đây là một số hình ảnh về Vạn Lý Trường Thành dưới lòng đất:


Trung Quốc

Mỹ phát hiện với báo cáo về hệ thống "Vạn Lý Trường Thành Trong Lòng Đất" của Trung Quốc


Trung Quốc



Trung Quốc

Mỹ có nhiều lý do để lo lắng về hệ thống đường hầm này vì không ai có thể biết trong đó chứa đựng những gì.


Trung Quốc



Trung Quốc



Trung Quốc



Trung Quốc



Trung Quốc


Chia sẻ quan điểm này, ông Hans Kristensen, Giám Đốc Thông Tin dự án hạt nhân thuộc Liên Đoàn Các Nhà Khoa Học Mỹ cho rằng đạo luật mới thể hiện mối lo ngại chung đối với quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.


Theo ông Kristensen, đó là “một sai lầm”. Điều này làm tăng mối nguy hiểm của cuộc chiến tranh giữa Trung - Mỹ. “Hai nước đang nhảy một điệu nhảy nguy hiểm. Điều đó chỉ làm tăng thêm căng thẳng quân sự và khả năng có thể dẫn đến một cuộc Chiến Tranh Lạnh ở Thái Bình Dương”, ông Kristensen chia sẻ.


Câu hỏi được nhiều nhà phân tích Mỹ quan tâm là làm thế nào để Mỹ xử dụng vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân để trung hòa mối đe dọa từ những gì được lưu trữ trong các đường hầm như vậy ở Trung Quốc. Các thí nghiệm với bom hạt nhân xuyên boongke B61-11 cho kết quả đáng thất vọng.


Độ sâu thâm nhập của bom tương đối thấp, chương trình phát triển nâng cấp B61-12 rõ ràng đã có thể giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, với những gì được nêu trong báo cáo của nhóm nghiên cứu Phillip Karber ở độ dài và độ sâu khác nhau của hệ thống đường hầm thì cần nhiều hơn một quả bom như vậy để loại bỏ mối đe dọa.


Vì vậy, đạo luật mới có thể coi là một sự hoảng sợ “vội vàng” của Quốc Hội Mỹ về hệ thống “Vạn Lý Trường Thành trong lòng đất” của Trung Quốc. Tình hình an ninh tại châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục diễn biến theo chiều hướng rất phức tạp với đạo luật mới này.


Nguồn: Đàn Chim Việt

 

000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000

 

Nước Tầu và Việt Nam

Người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chúa Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!

Trước hết, nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập” nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu. Các "vân đất” chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong.

Những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc.

Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm.

Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách di dân là:

1- Một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu: Họ dùng số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nền kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương.

2- Di dân còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng dòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay, cho nên chúng tôi nói: Trên 90% người Hoa Nam đi di dân từ thời nhà Minh.

3- Dù bất cứ ông vua nào khi thâu tóm nước lân bang hay "thống nhất" về cho nước Tàu, họ đều nghĩ ra phương thức hay phương pháp đồng hóa người Bách Việt và tìm cách xâm lăng Việt Nam.

4- Những cuộc chiến về văn hóa rất thâm độc nữa: Cuộc chiến tranh văn hóa lâu dài này khiến đa số người Việt chúng ta mắc phải một thứ bệnh: Bệnh này do sự cai trị lâu dài trải qua hàng ngàn năm của người Tàu đối với đất nước, dân tộc Việt Nam Họ đem cái "Hán Nho" của người Tàu vào Việt Nam và họ đã làm đảo lộn nếp sống, xã hội Việt Nam.

Chiến Tranh siêu hình
https://www.youtube.com/v/UMUOmFMtRnk
Có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thần thánh hơn nhiều và siêu linh hơn nhiều, một cuộc chiến tranh mà trong chúng ta ít biết hay nói đến - "chiến tranh siêu linh" - chuyện Cao Biền trong cuộc chiến tranh trấn yểm linh địa Việt Nam. Cuộc chiến tranh về trấn yểm giữa người Tàu đối với Việt Nam là cuộc chiến tranh hiển hiện từ ngàn xưa đã xảy ra và ngày hôm nay vẫn tiếp tục xảy ra. Cao Biền đã trấn yểm ở dòng sông Tô Lịch, đó là khoảng năm 865 trước đời nhà Đường và sau đời nhà Đường họ cũng vẫn tiếp tục như thế. Các học giả Việt Nam những người tinh thông về địa lý phong thủy như: Lưu Chi, Thiền Sư Định Không, Đinh Hương, Thiền Sư Thông Thiện v. v… họ là những người Việt Nam (Bách Việt) biết trước vụ Cao Biền qua Việt Nam, biết trước vụ Cao Biền sẽ trấn yểm các nơi linh địa, cũng như các Long Mạch trên đất Việt. Riêng La Quý An (852-936), ông là một người kiệt xuất và tinh thông về khoa địa lý phong thủy, La Quý An là học trò của Thiền Sư Thông Thiện, ông có thừa tài để phá các thế trấn yểm của Cao Biền. La Quý An mất với tuổi ngoài 80, ông đã để lại cả một gia sản đồ sộ về khoa phong thủy và địa lý, nhân văn cho đời sau. Vậy những môn học bí truyền này có còn lưu truyền hay tồn tại đến ngày hôm nay chăng? Chỉ những hậu thế và những ai có "duyên" mới có thể lãnh hội được đầy đủ những tinh hoa của tiền nhân.

Khi nhà Minh thống nhất Trung Quốc, thì Hoàng Phúc làm quân sư của nhà Minh (Hoàng Phúc sau này đã bị Vua Lê Lợi bắt sống, sau được trả về Tàu).

Trong cùng thời của Hoàng Phúc thì Việt Nam chúng ta lại xuất hiện những anh hùng tài ba như: Thiền Sư Không Đạo, Đức Vua Lê Lợi, hay thầy dạy của Nguyễn Văn An. Nguyễn An hay Nguyễn Văn An bị bắt đem về Tàu năm 11 tuổi, nhưng ông đã tinh thông về khoa thiên văn, phong thủy, địa lý. Năm 17 tuổi ông đã giúp nhà Minh xây dựng thành Bắc Kinh còn tồn tại đến ngày hôm nay. Thành Bắc Kinh được xây một phần lớn cũng có sự phác họa của Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn là một người tinh thông về khoa tướng số, phong thủy, dịch lý nên ông hiểu rằng sau khi giúp Chu Nguyên Chương thống nhất nước Trung Hoa, thì họ Chu sẽ tiêu diệt các công thần để trừ hậu họa. Sau này quả đúng như ông đã dự đoán và sau này duy chỉ có một mình họ Lưu trốn thoát (vì tinh thông dịch lý và tướng số nên Lưu Bá Ôn đã trốn thoát. Điều này cũng tương tự như Cụ Lý Đông A năm xưa, khi bị Cộng Sản bao vây ở Nga My và Hòa Bình, ông và một số đồng chí cũng đã trốn thoát) còn tất cả các công thần khác đều bị Chu Nguyên Chương giết sạch (có thể vì thấy thần đồng Nguyễn Văn An thông minh nên có lẽ họ Lưu cũng đã "góp sức" với Nguyễn Văn An để trấn yểm thành Bắc Kinh để trả thù nhà Minh?). Nguyễn Văn An đã khôn ngoan nghe lời thầy Việt Nam dặn và ông đã trấn yểm một số linh huyệt của nước Tàu, đồng thời ông đã phá được thế phong thủy trong thành Bắc Kinh. Khi Hoàng Phúc sang Việt Nam đã mang theo cuốn sách địa lý, phong thủy của Cao Biền. “Cuốn Cao Biền Kiểu Tự Tấu Thư" là một tấm bản đồ chi chít ghi rõ địa hình địa vật, nhân văn, kể cả những loài thảo mộc của nước ta).

Mỗi một thời người Tàu mạnh lên dù về mặt trí tuệ hay về mặt quân sự thì đều có những người Việt Nam tài giỏi đáp ứng hoặc trước, hoặc sau. Những người Việt tài ba này đều có sức mạnh về mặt trí tuệ, hoặc về mặt quân sự như lịch sử đã dẫn chứng.

- Thời nhà Đường có Cao Biền thì nước Nam có Thầy Định Không.

- Đến thời nhà Minh có Hoàng Phúc (người rất am tường về Dịch Lý, phong thủy. Hoàng Phúc cũng học các sách của Cao Biền trong việc trấn yểm Việt Nam), thì nước Nam có Sư Đạo Không, anh hùng áo vải Lê Lợi và Lê Lợi am tường nhiều binh thư, trong đó có khoa địa lý và phong thủy.

- Cho đến thời nhà Mạc chúng ta có Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Đến thời Lê - Trịnh chúng ta có tiến sĩ Hòa Chính Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao mà dân gian quen gọi ông là Ông Trạng Tả Ao.

Đây không phải là vấn đề lý số vớ vẩn, nhưng đây là khoa Huyền Học. Khoa Huyền Học này chứng tỏ cho thấy:

- Mỗi thời người Tàu mạnh về mặt trí tuệ, họ đều muốn sang để trấn yểm các long mạch Việt Nam, thì thế nào họ cũng gặp một số đối thủ người Việt có trình độ cao hơn, có như vậy người Việt mới phá được những thế trấn yểm thâm độc của Tàu tại Việt Nam. Ngoài việc đánh nhau với Tàu trên mặt Huyền Học, chúng ta còn đụng với Tàu về mặt quân sự qua những cuộc chiến tranh nơi chiến trường được thể hiện trong bốn bài học lịch sử mà người Việt Nam chúng ta đều đã nằm lòng mà chúng tôi đã có dịp nói qua trong bài "Cuộc Quật Khởi Của Toàn Dân Việt".

Cao Biền đã trấn yểm khi xây thành Đại La đồng thời phá cái thể phong thủy của nước Việt Nam trên sông Tô Lịch. Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La, viện cớ là thấy rồng bay lên cho nên ông đổi tên từ Đại La ra thành Thăng Long (Thăng Long có nghĩa là Rồng bay lên, như vậy vua Lý Thái Tổ biết chắc chắn rằng mình đã phá được các thế trấn yểm của Cao Biền năm xưa, nên cái lưới "Đại La” đã không còn linh nghiệm để có thể nhốt được con Rồng Việt nay đã bay lên "Thăng Long”).

Trong thực tế, Lý Khánh Vân và Lý Khánh Đản đã giúp Lý Công Uẩn phá hết các thế trấn yểm của Cao Biền trong thành Đại La. Những gì Cao Biền trấn yểm trên 13 thế kỷ thì cách đây chưa đầy một năm đã hoàn toàn bị phá hủy. Bị phá hủy ra sao? Xin thưa: Nơi dòng sông Tô Lịch bao quanh Hà Nội cách đây gần một năm đã nổi lên một lần ba cái xác người mà năm xưa Cao Biền đã cho chôn dưới dòng sông (do những đồng tiền cổ lấy được trong miệng từ các xác người này, người ta mới khẳng định là chính Cao Biền đã dùng các xác chết này để trấn yểm long mạch trên sông Tô Lịch). Một thời gian sau đó lại nổi lên thêm bảy xác nữa. Sự kiện này cho thấy: "Thế trấn yểm của Cao Biền ở 13 thế kỷ trước tại dòng sông Tô Lịch đã hoàn toàn bị phá hỏng".

Điều thứ hai chúng ta cần lưu ý là khi thành Thăng Long cổ xây cất từ thời nhà Lý mới đây vừa được khai quật, thì theo luật trấn yểm khi ánh sáng mặt trời chiếu vào sẽ làm mất đi âm khí, thì hiệu quả của thế trấn yểm do Cao Biền đặt trước đây đã bị Tán (nghĩa là bị phá tan).

Lăng Hồ Chí Minh hiện nay nằm ngay Soái Kỳ của Nhà Lý ngày xưa, điều này chứng tỏ rằng: "Các tay phong thủy và địa lý người Tàu đã giúp cho Cộng Sản Hà Nội một lần nữa trấn yểm lại Thành Thăng Long như Cao Biền đã làm ngày xưa, nhưng phúc cho dân tộc Việt Nam, là kinh đô Thăng Long đã hiện ra, như vậy thế trấn yểm của người Tàu cũng thật sự đã bị phá tan". Cho nên lần phát biểu trước đây, tôi có nói về chuyện lăng Hồ Chí Minh là "lăng trấn yểm” Tàu đã dùng những phương cách khác nhau và mượn ông "thầy bói" nào đó xúi cho Lê Duẩn và Lê Đức Thọ yểm xác Hồ Chí Minh tại đó (lăng Ba Đình).

Việc ướp xác này là hình thức trấn yểm mới của bọn Tàu đối với Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã đi Nga để yêu cầu Nga giúp Hà Nội bảo vệ xác chết của Hồ Chí Minh. Điều đó có nghĩa là: Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục làm công việc phản dân hại nước là dùng xác chết Hồ Chí Minh trấn yểm nơi linh thiêng của dân tộc ngay tại Soái Kỳ của Triều Lý ngày xưa.

Nhưng Hà Nội phải hiểu rằng "phúc đức” của họ đã không còn, nên cho dù họ có cố gắng dùng xác chết của Hồ Chí Minh trấn yểm ngay tại Thăng Long thì cũng vô hiệu quả. Đó là điều chúng ta phải thấy. hình thức chiến tranh đặc thù của Á Châu, nó chỉ xảy ra giữa người Tàu và người Việt, nhưng không xảy ra giữa người Tàu và người Nhật, hay người Tàu với người Triều Tiên. Cho nên tôi mới phán quyết lý do tại sao người Tàu mỗi một khi "thống nhất" đều phải đánh Việt Nam là vậy.

Nhà máy thủy điện Sơn La, vì vùng đó được coi là con mắt trái của Việt Nam. Khi xây nhà máy Sơn La thì Tàu có ý đồ thâm độc muốn đục thủng con mắt trái đó. Như vậy, nước Việt Nam bị mù một con mắt. Nếu con mắt phải là Hà Nội (Thăng Long) mở ra, thì con mắt trái lại bị mù. Đó là sự thật để cho mọi người Việt Nam chúng ta nhìn thấy sự thâm độc trong từng đường lối chi tiết của người Tàu đối với Việt Nam.
Cuộc chiến tranh trấn yểm này là cuộc chiến tranh rất quan trọng chúng ta cần lưu ý. Cho nên chúng ta đi đến kết luận: Hà Nội là tay sai của Bắc Kinh, điều này không ngoa.

Thời Bát Quốc Liên Minh chống nhà Thanh, Từ Hi Thái Hậu có cho gom tất cả sách vở Trung Hoa lại để viết thành hai bộ sử ký, hai bộ sách này ghi lại tất cả lịch sử từ thiên văn, địa lý, phong thủy, chính trị, quân sự, tình báo, gián điệp v. v… cho đến cây kim sợi chỉ của nước Tàu từ xa xưa cho đến nay. Bà Từ Hi Thái Hậu đem một trong hai bộ sử ký nói trên tặng lại cho Hoa Kỳ. Tôi nghĩ rằng trong thời gian đó, người Mỹ không đủ sức để nghiên cứu đến sự thâm sâu trong nền văn minh Đông Phương. Bởi vì nền văn minh La Mã (Rome) kéo dài đến ngày nay là nền văn minh thiên về vật chất. Và cho dù về mặt tinh thần họ cao đi nữa, nhưng họ không nắm vững được cái tinh túy thật sự của văn minh Phương Đông; mà văn minh Phương Đông trong đó chính là văn minh Bách Việt.

Cho đến khi các Cụ Mỹ và các Cụ Việt Nam do thời thế xoay vần, đã gặp nhau và các tài liệu đó được đem ra xem xét mổ xẻ đến nơi đến chốn. Khi mổ xẻ đến nơi đến chốn thì những kế sách được mang ra áp dụng. Kế sách được gài như sau: Ai cũng biết rằng khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949, thì việc đầu tiên là Mao nghĩ đến là việc xâm lăng chung quanh (thí dụ chiếm Tây Tạng). Khi phương Tây giúp cho Tàu phát triển lên, thì lẽ đương nhiên người Tàu sẽ có tham vọng bành trướng bá quyền. Họ sẽ không từ bỏ mục tiêu tối hậu giống như lời nguyền - không thể bỏ được - của người Tàu đó là phải xâm lăng nước Việt Nam. Cho nên khi biết mục tiêu đầu tiên của họ Mao là xâm lăng Việt Nam, thì "người khác" họ cũng tương kế tựu kế và trấn yểm lại địa lý nước Tàu. Đứng về mặt phong thủy mà nói, thì khi người Tàu xây đập Tam Khẩu và cho xây một loạt đập nước trên thượng nguồn sông Cửu Long cùng vùng Lạng Sơn, thì điều này đã làm thay đổi phong thủy của nước Trung Hoa một cách rất tai hại. Người Tàu khi họ chận sông Dương Tử thì họ đã phá cái phong thủy của nước Tàu rồi. Khi họ xây dựng những đập trên thượng nguồn sông Cửu Long, tức là thêm một lần nữa họ đã phá phong thủy nước Tàu.

Nhưng cái đó chưa hay bằng chuyện nước Trung Hoa trúng thầu tổ chức thế vận hội Olympic năm 2008 tới đây. Các Cụ Mỹ - Việt đã bàn thảo tới việc "để” cho Tàu được trúng thầu tổ chức thế vận hội. Việc Tàu đang xây thế vận hội Olympic là một lần nữa làm cho họ tự phá phong thủy (linh địa) của thành Bắc Kinh (tương tự như Nguyễn Văn An đã nghe lời Thầy Việt Nam dặn là phải phá cho được cái thế phong thủy của nước Tàu cách đây 600 năm, cái khác là năm xưa chính Nguyễn Văn An tự vẽ kiểu xây và ngầm trấn yểm thành Bắc Kinh do sự đồng ý của Lưu Bá Ôn, còn bây giờ thì các Cụ Mỹ- Việt tạo điều kiện cho Tàu trúng thầu Olympic 2008 để cho giới lãnh đạo Tàu xây các công trình Olympic vào năm 2008 để Tàu vô tình phá phong Thủy của nước Tàu).

Cuộc "chiến tranh trấn yểm" về phong thủy và địa lý này là cuộc chiến tranh phải dùng rất nhiều mưu kế, mà những người biết dùng mưu kế này, có thể nói họ là những thánh nhân mới có thể áp dụng một cách hoàn hảo như vậy ("trời sinh Du sao còn sinh Lượng" là vậy). Vì quá tham lam mà người Tàu đã tự phá mình, khi thế phong thủy này bị phá thì nước Tàu không thể thống nhất được trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi có thể xác định! Lưu Bá Ôn là quân sư cho Chu Nguyên Chương đời nhà Minh, tức Minh Thái Tổ. Khi Lưu Bá Ôn và Chu Nguyên Chương thâu tóm Trung Hoa để thành lập nhà Minh, Lưu Bá Ôn đã cho quật mồ Khổng Minh và Lưu Bá Ôn tìm thấy một cái hộp "cẩm nang" chứa đựng những câu sấm do Khổng Minh viết. Trong cẩm nang này có một đoạn viết về “nước Trung Hoa như sau:

“Trung Hoa sau này sẽ do một người tên là Lưu Bá Ôn thống nhất". Tức là:* - Thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn.

Sau đó Lưu Bá Ôn viết ra bộ "Trung Quốc Nhị Thiên Niên Dự Ngôn" (nghĩa là những điều đoán trước cho nước Trung Quốc sau thế kỷ 2000). Bộ sách này được coi là một "mật thư" của Trung Quốc chỉ dành cho những người nằm trong giới lãnh đạo cao cấp nước Trung Hoa được quyền xem mà thôi. Trong bộ sách này nói rõ là kể từ năm 2000 trở đi Trung Quốc bị chiến tranh, ly tán và tan vỡ, cũng từ năm 2000 thì dân Nam (Việt Nam) sẽ trở thành quốc gia hùng mạnh. Chính Lưu Bá Ôn đã ghi rõ trong bộ sách nói trên và khuyên người Tàu, khuyên giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là nên giao hảo với Việt Nam.

Nhưng giao hảo với Việt Nam nào? Chắc chắn không phải là Việt Nam dưới chế độ Việt cộng hiện nay. trong bộ sách này, Lưu Bá Ôn đã nói rõ là: Trung Quốc sẽ bị Bách Việt vây đánh và rồi cuối cùng nước Tàu sẽ đi đến tan rã. Cho nên những dữ kiện này thuộc về mật thư mà chính các giới lãnh đạo người Tàu ở trung cấp cũng không được quyền biết đến.

Một cuộc chiến tranh rất cao, mà ta tạm gọi là cuộc "chiến tranh siêu hình". Một cuộc đụng độ về trí tuệ giữa hai phía: Một bên là người Tàu Hán tộc phương Bắc, một bên là Bách Việt phương Nam.

Tôi không đi sâu trong việc phân giải vì các sấm truyền Việt Nam đã có nói rồi. Tôi biết một điều là Trung Quốc đã phạm quá nhiều sai lầm không thể sửa chữa được. Trong khi những cơ hội cho Việt Nam tiến lên lại đang rất gần kề và rất sáng lạn.

Bây giờ chúng ta cần phải trở lại vấn đề tình hình hiện nay. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Hoa Kỳ đã chuyển Bộ Tư Lệnh Chỉ Huy một lộ quân từ tiểu bang Washington (Hoa Kỳ) đến phía Nam của Tokyo (Nhật Bản). Biến động tại Miến Ðiện vừa qua đã làm cho giới lãnh đạo Bắc Kinh âu lo và hơn ai hết Trung Cộng hiểu rất rõ là: Nếu Hoa Kỳ có thể Pre-emptive (đánh phủ đầu) nước khác, thì Hoa Kỳ cũng có thể đánh phủ đầu nước Tàu nếu cần thiết và nếu Hoa Kỳ hành động thì Trung Quốc cũng phải có khả năng để preemptive/đánh phủ đầu Hoa Kỳ (nhưng Tàu không có khả năng preemptive Hoa Kỳ), hoặc là Trung Cộng có thể bất ngờ tấn công một vùng nào đó ở Á Châu, mà Trung Cộng nghĩ rằng họ có thế mạnh nhất. Ðã nhiều lần trên làn sóng này chúng tôi đã có trình bày cùng quý vị là: "Mặt trận chính vẫn là Đông Dương, mà Việt Nam vẫn là điểm chiến lược chính của Tàu để họ có thể ra tay”. Và ngày hôm nay, ai cũng hiểu rằng cán bộ tình báo Trung Cộng đã có mặt tại Việt Nam với một con số không nhỏ.

Các nguồn tin cho biết con số cán bộ tình báo người Tàu ở Việt Nam hiện tại đã lên đến một triệu người hay ít nhất cũng trên 500 ngàn. Một nguồn tin đáng tin cậy khác cũng cho biết rằng Trung Cộng đã tập trung khoảng 20 triệu người dọc theo biên giới Việt-Hoa, con số 20 triệu người này là bọn du thủ du thực (thành phần bất hảo) và bịnh hoạn đang được giam giữ trong các nhà tù khắp nơi bên Trung Quốc.

Họ được lệnh di chuyển về các vùng phía Nam Trung Quốc để chuẩn bị tràn sang Việt Nam khi tình hình biến động (rõ ràng là người Tàu đang áp dụng kế sách của nhà Minh ngày xưa khi xâm chiếm Việt Nam, họ đang sử dụng đám “Dân Binh” để đồng hóa và pha loãng dòng máu người Việt với người Tàu. Trung Cộng đang âm thầm xâm lăng, đồng hóa và diệt chủng dân tộc Việt Nam một cách có hệ thống.

1- Điều trước tiên chúng đánh nước Việt Nam bằng cách trấn yểm các linh địa trên đất Việt, phá phong thủy của nước Việt.

2- Điều thứ hai chúng dùng loại vũ khí sinh học và hóa học để giết người dân Việt Nam vô tội. Người Tàu xử dụng các loại hóa chất hay vũ khí sinh học như: Tẩm hóa chất độc vào các loại thực phẩm, ngũ cốc, thức uống một cách rất khôn khéo, để che mắt thế giới. Gần đây trong một bản báo cáo của một số bệnh viện Hoa Kỳ, nơi có đông người Việt sinh sống thì: Ða số các người Việt từ Việt Nam trở sang Hoa Kỳ hay một số người Việt từ Việt Nam sang đây sinh sống trong một thời gian gần trở lại đây, thì có 75% những người này đều mang mầm bệnh “viêm gan" hay đang mang trong người một loại bệnh lạ. Điều này người Mỹ họ biết rất rõ, nhưng họ vẫn im lặng để nghiên cứu tìm xem những chứng bịnh lạ này xuất xứ từ đâu. Với nền khoa học kỹ thuật tân tiến và tinh vi của họ, chỉ trong một thời gian ngắn, thì họ đã tìm ra nguyên nhân và chưa đầy vài tháng sau họ đã có loại thuốc trị giải. Một lý do khác tại sao Mỹ nghiên cứu các chứng bệnh lạ này là để họ tìm cách đối phó những trường hợp cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam dùng cộng đồng người Việt và Tàu ở Mỹ để phá hoại đời sống, dân sinh của xã hội Hoa Kỳ.

Nguồn: Internet


"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...