Sunday, April 21, 2019

 

Đại Học Máu
Tù Cải Tạo / VNCH sau 1975

https://vietmessenger.com

 photo i Hc Maacuteu_zps5t725fam.png Đại Học Máu -- Chuyện kể về 1685 ngày tù dưới chế độ cộng sản Việt Nam
Cơ sở nhân văn xuất bản 1985



MƯỜI BẢY
Thoạt mới quan sát hệ thống xã hội cộng sản, người quốc gia không khỏi không kinh ngạc và tự hỏi: Tại sao bọn lãnh tụ chúng nó tài thế, đã tạo được cả một thế hệ đồng dạng với nhau từ lời ăn tiếng nói, từ nếp suy nghĩ dẫn đến hành động? Một lời nói của lãnh tụ ban ra là một chân lý và được tất cả mọi người bên dưới lập lại những lời lẽ ấy với tất cả sự kính cẩn. Thí dụ Hồ Chí Minh nói rằng "tình hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững", thì cả nước đều dùng đúng từng chữ như thế trong một dịp thích hợp với câu nói ấy. Hoặc giả Hồ Chí Minh ca ngợi "mái tranh nền đất là truyền thống dân tộc", thế là từ trên xuống dưới biến câu nói ấy thành một... hành động cụ thể; có nghĩa là bất cứ dịp nào có thể, đều tìm cách biến đất nước trở về thời đại... nền đất mái tranh! Đây cũng là lý do bọn tù cải tạo phải đổ mồ hôi nước mắt phá cho bằng sạch những khu tiền chế tối tân của Mỹ, đào xới tất cả những nền nhà xi măng do Mỹ thiết lập để đào ao lấy đất đắp nền, cắt cỏ tranh đan mái...

Bằng phương pháp nào cộng sản biến con người thành một cái máy nhận lệnh ngoan ngoãn như vậy? Câu trả lời chính xác không vượt ra ngoài câu: Tuyên truyền, nhồi sọ!

Kỹ thuật nhồi sọ của Cộng sản không phải không có những cái độc đáo của nó. Họ áp dụng nguyên tắc nước chảy đá mòn, có nghĩa là nói nhiều, nói mãi, nói một đề tài và buộc con người bị trị phải cùng nhau nhai đi nhai lại những đề tài ấy. Quân dân cán chính, nam phụ lão ấu, tất cả đều không thoát khỏi sự nhồi sọ này dưới chế độ Cộng sản.

Nằm trong trại, đêm đêm nghe tiếng loa vọng từ họ đạo Cao Xá về tới khu nhà ngủ trong trại tù, Vĩnh và các bạn đều biết rằng dân bên ngoài cũng đang bị nhồi sọ với những bài bản y hệt bên trong! Và từ đó, Vĩnh biết thêm rằng ở ngoài đời, ngoài việc chúng cũng bắt dân hội họp học tập từng đêm, nơi mỗi khu phố, chúng còn bắc thêm một cái loa. Cái loa lải nhải suốt ngày bài học của nhà nước. Người dân ngày hôm nay nghe chối tai, ngày mai nghe chối tai, tháng này nghe chói tai, tháng tới vẫn nghe chói tai... nhưng một ngày nào đó, trong một hoàn cảnh nào đó, tự dưng người dân thấy mình phát ra một câu nói giống hệt cái loa của nhà nước đã nói. Thế là nhà nước Cộng sản đã âm thầm ghi được một điểm son. Nhưng giả dụ anh người dân kia cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt vẫn chưa thể giúp cho nhà nước cái điểm son đó, nhà nước vẫn không lấy gì làm âu lo và vội vã. Nhà nước sẽ nhận định rằng: Nó im lặng, nó rút vào cái vỏ, không hề có một lời nói hoặc hành động nào chống phá mình là được rồi. Còn lỗ tai nó coi như điếc, khối óc nó coi như đã đặc lại, không đáng kể. Cứ để thời gian quăng nó vào cái thùng rác của lịch sử, nằm chung với bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn tư sản mại bản, bọn địa chủ phú hào... Lời tuyên truyền của nhà nước nếu không nhập được vào đầu của thằng bố thì sẽ nhập vào đầu thằng con. Và nếu thằng con vì một lý do gì cũng không "cải tạo" được nữa thì sẽ còn thằng cháu. Thế nào rồi nhà nước cũng có một thằng "tiến bộ" nghe theo và làm theo những lời tuyên truyền qua phương tiện cái loa. Đường lối ấy không vượt ra ngoài một câu nói của Hồ Chí Minh: Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người.

Trên một căn bản nào đó, từ 54 đến 75, Cộng sản đã thành công trong việc tuyên truyền nhồi sọ. Ít nhất qua hình thức, người ta cũng thấy Cộng sản tạo được một xã hội đồng dạng để biểu dương sức mạnh trong cuộc tấn công vào phòng tuyến của người quốc gia; dù rằng trên thực tế, bên trong của sự đồng dạng ấy là một cái hũ nhốt muôn nghìn sự mâu thuẫn. Thế nhưng nếu một nhà báo Tây Phương có dịp hỏi một người dân miền Nam rằng anh thấy Thiệu như thế nào? Nhà báo ấy sẽ rất dễ dàng nhận được câu trả lời: Thiệu bị Mỹ chi phối hoàn toàn! Tôi ghét Thiệu! (dù trên thực tế không phải không có những lần Thiệu chửi Mỹ ra mặt!). Nhưng nếu cũng nhà báo ấy hỏi một người dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa rằng Bác Đảng thế nào? Thì chắc chắn nhà báo ấy sẽ được trả lời: Bác và Đảng đã xây dựng được một nước Việt Nam mới hoàn toàn độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc. Công ấy không thua gì công của các vua Hùng; dù rằng trong đáy thâm tâm, người trả lời câu hỏi biết rõ một trăm phần trăm rằng Bác và Đảng nô lệ Nga Tàu ra mặt, và là tác giả chính của câu "áo anh rách vai quần tôi có hai miếng vá".

Ngày hôm nay, trong trại tù Cộng sản, Vĩnh và các bạn đang khởi sự nếm mùi nhồi sọ của Cộng sản!

Sự nhồi sọ trong tù cải tạo được diễn tiến qua năm giai đoạn:

1. Lên lớp tiếp thu bài học từ giáo viên.

2. Trở về phòng nghiên cứu bài học, đào sâu suy nghĩ về bài học, soạn đề cương cho bài học để sửa soạn bước vào thảo luận dựa trên bài học.

3. Thảo luận bài học theo cấp tổ 10 người.

4. Làm bài thu hoạch để nộp cho quản giáo.

5. Lên hội trường để được giải đáp các sai trái trong bài thu hoạch nếu có và bị quản giáo ghi nhận. Rút ưu khuyết điểm về tất cả các bước trong bài học vừa qua.

Năm bước nhồi sọ trên, cái bước ghê gớm nhất là bước thảo luận phát biểu.

Một tổ 10 người, có một thằng vệ binh ngồi giám sát, dưới sự điều động của tổ trưởng (Việt cộng gọi là trụ trì). Mười người ấy sẽ thay phiên nhau phát biểu những câu hỏi mà giáo viên đã cho sẵn ngay sau khi kết thúc bài học ở bước 1.

Bài học về tội ác của Đế quốc Mỹ chỉ có hai câu hỏi để mọi người dựa vào đó mà phát biểu.

1. Tại sao nói Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới?
2. Tại sao nói Đế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi?

Tổ A.3 dĩ nhiên do tổ trưởng Quách Tứ trụ trì. Cả tổ ngồi thành một vòng tròn nơi một góc nhà được chỉ định. Khi tên vệ binh có nhiệm vụ ngồi giám sát ra lệnh bắt đầu làm việc, thì tổ trưởng sẽ là người tiên phong phát biểu làm gương. Tổ trưởng Quách Tứ bắt đầu:

- Thưa các anh em, tôi xin phát biểu về hai câu hỏi trong bài học. Câu thứ nhất -- tại sao nói Đế Quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới? Các anh em thấy đấy, Việt Nam ta đất không rộng, người không đông, không hề ân oán gì với Đế quốc Mỹ, thế mà chỉ vì lợi nhuận, Đế quốc Mỹ đã áp dụng chính sách thực dân mới, đổ của dựng ra một chính quyền tay sai và một quân đội đánh thuê để thực hiện đường lối xâm lược của Mỹ, nhằm mục đích biến nước ta thành một bang chư hầu của Mỹ, phục vụ cho quyền lợi Mỹ. Mỹ đã trút xuống đất nước ta một số lượng bom đạn nhiều gấp hai lần được cả hai phe Đồng Minh và Trục xử dụng trong lần thế chiến thứ hai. Mỹ đã xử dụng tay sai phạm muôn nghìn tội ác với nhân dân ta bằng những hành động cướp của, giết người, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ, tàn sát những chiến sĩ Cách Mạng là con em nhân dân. Mỹ đã trút bom đạn 9 ngày đêm xuống thủ đô Hà Nội ta, và huênh hoang tuyên bố sẽ đưa miền Bắc chủ nghĩa xã hội trở về thời kỳ đồ đá, nhưng Mỹ giàu mà không mạnh. Và cái quốc sách "vũ khí luận" của Mỹ đã tự chứng tỏ sự sai lầm của nó khi Mỹ đã bị nhân dân ta, quân đội ta nhất trí cùng Đảng, theo lời Bác gọi, đoàn kết đánh trả và đã chiến thắng Đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai ngụy quân ngụy quyền một cách hoàn toàn và triệt để. Cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước của ta đã hoàn toàn thắng lợi. Từ đây, đất nước ta đã sạch bóng quân thù, và sẽ không một thằng thực dân đế quốc nào còn dám nhòm nhỏ xâm lược nữa...

Quách Tứ phát biểu một hơi y chang bài học. Sau đó, để kết luận câu 1, anh nói:

- Liên hệ bản thân, tôi xấu hổ vì sự lầm lẫn của mình giữa bạn và thù. Tôi đã phạm muôn nghìn tội ác với nhân dân, đã bắn giết Cách mạng không gớm tay, dù rằng...

Nói tới đây Quách Tứ hơi nghĩ ngợi. Một thoáng anh tiếp:

- Dù rằng từ ngày ra trường tôi chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là sĩ quan huấn luyện lái trực thăng ở Nha Trang...

Anh em đều cười thầm trong bụng. Thế nhưng thằng vệ binh oắt con cũng chẳng vừa. Nó điểm mặt Quách Tứ sửa sai tại chỗ.

- Anh nói hay lắm nhưng kết luận như cứt! Chạy tội phỏng? Anh phát biểu lại phần liên hệ về bản thân với tội ác đã phạm tôi xem nào. Không đạt yêu cầu là tôi cùm anh.

Quách Tứ hơi hoảng. Anh ngó các bạn rồi phát biểu lại.

- Dù rằng là một sĩ quan huấn luyện, nhưng tôi bị Mỹ ngụy nhồi sọ tư tưởng chống Cộng đến cùng. Do đó, tôi đã tích cực huấn luyện các phi công làm sao triệt hạ mục tiêu cho chính xác, xử dụng bom như thế nào để tận dụng được mọi ưu điểm của loại bom đó, có nghĩa là giết được càng nhiều càng tốt. Như thế, tôi là người chịu nhiều trách nhiệm hơn cả những người do tôi huấn luyện đi dội bom tàn sát cách mạng.

Quách Tứ tính nói thêm nhưng tên vệ binh đã len vào.

- Phải như thế chứ! Giờ này mà còn giọng điệu ngoan cố chạy tội là không tốt. Câu một đủ rồi. Anh phát biểu tiếp câu hai.

Và Quách Tứ phát biểu tiếp câu hai:

- Thưa các anh tôi xin phát biểu tiếp câu hai. Tại sao nói Đế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi? Như các anh thấy đấy. Nước Mỹ là một nước do những tập đoàn tư bản phản động thay nhau lãnh đạo. Tổng thống Mỹ cũng chỉ là con đẻ của những tập đoàn ấy. Ta có thể nói thẳng rằng những tập đoàn tư bản ở Mỹ chỉ là một bọn cướp ngày. Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan mà lại! Thế cho nên chúng ra tay vơ vét sức lao động của người dân trong nước, vẫn chưa đủ cho lòng tham, chúng còn tìm mọi cách với cái vòi thứ hai của chúng sang những nước khác để vơ vét bằng đường lối thực dân mới. Đế quốc Mỹ là nguồn gốc của mọi cuộc chiến tranh. Đế quốc Mỹ là nguồn gốc của mọi sự bóc lột trên thế giới. Do vậy, thật là chính đáng khi Đảng nói rằng nó là con đỉa hai vòi và mọi nhân dân tiến bộ trên thế giới đều coi nó là kẻ thù số một.

Theo đúng như khuôn mẫu, sau mỗi câu phát biểu phải có một phần liên hệ bản thân. Quách Tứ sau một lúc nhìn vào giấy để ôn bài, tiếp. Tôi đã du học tại Mỹ. Tôi đã nhìn thấy xã hội và người dân Mỹ như thế nào. Quả là Đảng đã nói đúng. Nước Mỹ có những khu nhà chọc trời cho bọn tư bản sống và ăn chơi phè phỡn, đồng lúc bên cạnh những khu nhà chọc trời đó là những "chòi tranh rách nát", nơi sinh sống của giai cấp công nhân thợ thuyền Mỹ, suốt đời kéo lê kiếp nô lệ trong các xí nghiệp, các hầm mỏ và chỉ mơ mộng có đủ bánh mì nuôi thân và nuôi gia đình. Tôi rất xấu hổ đã phục Mỹ nể Mỹ và đã sống bằng bơ sữa của Mỹ, chịu sự huấn luyện của Mỹ để chống phá cách mạng, chống phá nhân dân ta với cả nhân dân tiến bộ trên thế giới nữa.

Câu phát biểu thứ hai không bị chê trách. Tổ trưởng Quách Tứ đã vác thánh giá đi qua một đoạn đường. Theo đúng thứ tự, anh chỉ định tổ phó Khoa phát biểu. Tổ phó Khoa trang trọng sửa lại dáng ngồi cho ngay ngắn. Anh khẽ liếc mắt qua bản đề cương đặt trên đùi rồi cất tiếng.

- Thưa anh em, nối tiếp anh tổ trưởng, tôi xin phát biểu câu thứ nhất. Tại sao nói Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới? Các anh em thấy đấy. Việt Nam ta đất không rộng, người không đông, không hề ân oán gì với Đế quốc Mỹ...

Cây thánh giá mà tổ phó Khoa vác tiếp theo tổ trưởng Tứ cũng từng đó chặng đường, cũng từng đó vấp ngã, cũng từng đó tủi nhục, cũng từng đó được nâng lên và được xỉ vả!

Hai ngày trời mới chấm dứt việc thảo luận phát biểu. Vĩnh nhẩm tính chỉ qua việc phát biểu ở cấp tổ thôi, hai câu trên đã lọt vào tai mỗi người trong tổ 10 lần. Mười lần phải để nó lọt vào tai, với những khối óc kém trí nhớ nhất cũng phải thuộc lòng. Thế nhưng chao ôi, còn sống dưới chế độ nhồi sọ này nào phải chỉ có lọt vào lỗ tai 10 lần!

Sau khi tất cả các khối chấm dứt phần thảo luận bài học 1, cả trại được nghỉ xả hơi một ngày để sửa soạn cho việc lên lớp hướng dẫn thu hoạch.

Sau một ngày lao động người ta dễ tìm lại được một sự thoải mái đầu óc. Thế nhưng sau một ngày thảo luận những đề tài chính trị nhồi sọ một chiều, dù đã nghỉ một ngày xả hơi, đầu óc vẫn thấy đau nhức như búa bổ. Vĩnh đã nằm lơ mơ cả buổi chiều. Khi màn đêm nhá nhem Vĩnh mò sang khối 1 gặp Ứng chuyện trò một lúc. Sau nhớ đến vụ thuốc lào Vĩnh vội quay về khối tìm gặp Dung.

Nguyễn Xuân Dung, thiếu úy thiết giáp, vợ bầu sắp đẻ thì đi tù. Nhà Dung ở miệt Phạm Thế Hiển. Anh cũng là một trong những tay săn thuốc lào tài tình của khối. Khi trưa Vĩnh lấy của Ứng 5 đồng tiền mới đưa cho Dung nhờ Dung mua cho ít thuốc lào ngon từ một nguồn gốc mà không ai biết được. Tối nay Vĩnh hy vọng tràn trề sẽ có tí thuốc ngon hút với mấy thằng bạn thân thiết. Tìm quẩn quanh một lúc không thấy Nguyễn Xuân Dung đâu cả, Vĩnh xà xuống chỗ ông già Đang, người chơi thân với Dung, hỏi thăm.

- Bác Đang, bác thấy thằng Dung đâu không?

Ông già Đang là một cựu thiếu úy già ngành hành chánh tài chánh. Ông gầy và cao nhồng như một con sếu. Ông góa vợ và có một bầy con để nuôi. Hiện tại ông đang nằm nơi chỗ của ông, vắt tay trên trán mắt ngó kèo ngó cột! Nghe Vĩnh hỏi, ông chỉ chậm rãi bỏ cánh tay trên trán xuống, ngó Vĩnh trả lời như người hết hơi.

- Tôi có giữ ông ấy trong túi đâu nào!

Vĩnh không vui lắm với câu trả lời hơi kém thân mật hơn ngày thường của ông già Đang, nhưng anh không giận. Anh nhìn ông, đánh nhẹ một đòn tâm lý.

- Sao hôm nay có vẻ buồn thế bác?

-.....

- Sửa soạn làm một bi xiện 1 chăng?

Đúng như sự dự trù của Vĩnh. Dù không tỏ lộ sự thèm muốn quá lộ liễu, nhưng Vĩnh đã đọc được sự trìu mến khác thường trong đôi mắt của ông Đang vừa chiếu vào anh. Ông bỏ hẳn tay khỏi trán, dọ dẫm.

- Giờ này được hút một điếu thuốc ngon chết cũng thỏa...

- Thằng Dung nó có thuốc xiện không cho bác hút à?

- Nó chỉ hứa cho một ít nhưng đã có đâu!

- Đấy, tôi đang tìm nó đấy. Nó đưa tôi tôi sẽ mời bác hút thả cửa.

Như người trúng số hụt, ông già Đang lại buông một tiếng thở dài. Ông nằm yên không buồn nói thêm gì nữa. Vĩnh lại tiếp:

- Bác Đang à!

- Gì nữa ông?

- Hỏi thật bác nhá. Hơn nửa năm qua có bao giờ bác thấy thèm một tí hĩm không?

Ông Đang nghe Vĩnh hỏi vội xua tay như đuổi ruồi.

- Thôi thôi ông cố nội! Một điếu thuốc còn mơ ước không ra. Ông lại còn gieo vào giấc ngủ thằng già này cái mùi mắm kho mắm chưng huyền hoặc ấy làm gì cho khổ!?

Vĩnh thấy khoái trá với lối ví von thú vị bất ngờ của ông già Đang. Ví mùi đàn bà với mùi mắm kho mắm chưng lúc này thì thật là... số một!

Vĩnh cười.

– Ngồi lên đi. Chút nữa sẽ có thuốc cho bác hút. Ngồi lên nói chuyện cho quên đời.

Ông Đang vẫn như chưa có hứng nói chuyện. Ông gãi lông mày.

- Thôi khi nào có thuốc ông kêu tôi dậy cho tôi ăn mày một hơi thì tôi cám ơn ghê lắm. Bây giờ tôi chỉ muốn dim dim tí thôi. Tôi muốn quên đi mấy cái bài thảo luận đau đầu đau óc. Ngày mai lại phải lên hội trường nghe bài học mới rồi. Chán lắm thôi!

Vĩnh biết ông già Đang đang đau đầu thật. Anh hỏi vớt vát.

- Thế bác biết thằng Dung chạy đâu không?

- Khi chiều tôi thấy nó cứ lẩn quẩn sau dãy cầu tiêu. Hình như nó tìm cách liên lạc với một thằng bạn nào đó bên T4.

Vĩnh nhìn ra bầu trời đầy sao, lòng buồn buồn nghĩ đến ngày mai. Lại lên hội trường. Lại phát biểu. Lại nhắm mắt nhắm mũi tự đem mình ra mà chửi rủa trước mặt quân thù. Thốt nhiên một tràng súng nổ vang. Thêm một tràng súng nữa. Hai tràng AK.47 nổ dòn trong đêm tối, làm dựng đứng cả những kẻ đi ngủ sớm trong phòng lẫn những kẻ đang ngồi tán gẫu với nhau ngoài sân. Chỉ vài phút sau đó vệ binh và quản giáo đã súng đạn tràn vào đầy sân trại. Tất cả mọi người bị lùa về phòng. Màn tập họp điểm danh bất thường tiếp theo đó diễn ra trước mọi khối.

Khối 2 thiếu một người!

Khối trưởng Trai chỉ sau vài phút tập họp điểm danh đã báo ngay người vắng mặt là Nguyễn Xuân Dung. Tất cả mọi người phải vào phòng và trở về chỗ nằm. Biện pháp tiêu tiểu ngay trước cửa phòng lại được ban hành. Sự kiện này diễn ra không còn lạ với mọi người. Lâu lâu các trại thuộc L4 lại có một màn vượt ngục. Mới cách đây hơn tháng bên L4T4 bắn chết một tay vượt ngục ngay cổng trại. Người vượt ngục là một trung úy xuất thân võ bị Đà Lạt. Anh vượt ngục bằng cách đêm xuống xông chạy thẳng ra ngoài bằng lối cổng chính. Vệ binh bắn anh chết dính vào con ngựa chận cổng...

Như mọi người Vĩnh về chỗ nằm. Anh có bao điều lo âu muốn nói mà không biết nói với ai. Theo Vĩnh nhận xét, Dung là một tay rất lành và rất kỹ; chưa bao giờ để lộ một tí tư tưởng chống đối nào. Nhưng giả dụ hắn có mưu vượt ngục đi nữa, thì với kinh nghiệm của một sĨ quan tác chiến ngành thiết giáp, không bao giờ Dung lại dại dột nhè cái đêm sao vằng vặc và trăng đã bán tuần như thế này để mà vượt ngục. Nhớ đến 5 đồng đưa Dung ban trưa nhờ mua thuốc lào Vĩnh lại đâm lo. Ai có thể bảo đảm được rằng qua những trận đòn thù, 5 đồng ấy lại không biến thành một số tiền của một tên phản động yểm trợ cho một tên phản động khác vượt ngục tìm đường "móc ngoặc với bọn thảo khấu đang ngoan cường tiếp tục chống phá cách mạng bên ngoài"!

Giọng Bính bỗng khẽ cất lên bên tai Vĩnh.

- Không biết nó sống chết lẽ nào!?

Vĩnh không trả lời. Anh nhìn qua kẽ vách về phía cầu tiêu. Bọn an ninh, bọn vệ binh phối hợp với bọn quản giáo đang nhá đèn pin lục lạo. Từ chỗ Vĩnh nằm nhìn ra phía dãy cầu tiêu sát hàng rào cách một vuông sân lớn trồng ớt và rau dền. Sự quan sát do đó bị cản trở rất nhiều. Tuy vậy, Vĩnh và mọi người vẫn có thể loáng thoáng nhận ra bóng bọn cai tù đang lục soát và nghe rõ tiếng chửi thề của chúng.

Bính vẫn thều thào:

- Nó lục lạo mà chửi thề như vậy là chắc thằng Dung thoát rồi.

Vĩnh lo âu.

- Tao vẫn chưa hiểu tại sao nó lại chọn con đường ấy!?

Sở dĩ Vĩnh nói như thế là vì con đường nằm phía sau dãy cầu tiêu là đường dẫn vào khu giao điểm của các trại 1, 2, 3, 4 và 5. Đoạn đường này có rất nhiều trạm gác. Muốn vượt ngục không ai đâm vào con đường tử lộ ấy. Tại sao nó không vượt hàng rào phía Nam, băng qua cánh đồng lau dẫn đến họ đạo Cao Xá? Nó là dân Bắc Kỳ Công Giáo Di Cư thứ thiệt, Việt cộng gọi là thành phần Thánh Giá Há Mồm 2 đã đem Chúa chạy vào Nam (!), rất dễ trà trộn xin sự giúp đỡ bao che của họ đạo này... Đúng là thằng này muốn tự sát! Vĩnh ngậm ngùi nghĩ bụng.

Thời gian làm giảm đi mức độ căng thẳng của cả khối. Một số đã bò lại gần nhau bàn tán. Mọi loại giả thuyết đã được đặt ra. Ông Đang thì nói với Vĩnh rằng.

- Tôi không nghĩ thằng Dung nó trốn trại. Chắc nó chỉ liên hệ trao đổi thuốc lào đấy thôi.

- Trao đổi với ai?

- Thằng ấy nó tài lắm. Nó từng đổi đồ thủ công lấy thuốc lào Vĩnh Bảo của vệ binh nhiều lần đấy.

- Bác nghĩ tình trạng hiện tại của nó ra sao?

- Tôi cũng như anh, nằm đây biết thế quái nào được. Chỉ cầu xin Chúa cho nó tai qua nạn khỏi.

-.....

- Có thể bể chuyện trao đổi, nó dzọt luôn.

- Nhưng lối ấy làm sao thoát!?

- Thằng Dung nó dân tác chiến, mưu sinh thoát hiểm cũng tài lắm. Tôi tin nó thoát rồi.

Vĩnh không nói gì nữa. Anh nằm nhớ đến những xác bạn bè nơi các trại bên cạnh từng bị vệ binh bắn chết vắt trên hàng rào kẽm gai trên đường đào tẩu. Hơn nữa năm qua trại Trảng Lớn không thiếu người vượt ngục, nhưng con số thành công đếm chưa hết đầu ngón tay. Đa số đều bị bắn chết ngoài hàng rào hoặc bị chận bắt phía ngoài quốc lộ hoặc tại các làng xã kế cận. Sống trong xã hội này, một con kiến cũng khó thoát khỏi sự canh phòng cẩn mật của bọn công an địa phương. Hơn thế, chúng đã biến cả những đứa bé chăn trâu chăn bò thành chân tay chỉ điểm cho chúng. "Tai mắt nhân dân" phần nhiều là những thứ đó! Chuyện đại sự vỡ chỉ vì một đứa bé chăn trâu là chuyện rất thường xảy ra trong xã hội Cộng sản.

Tiếng bàn cãi mỗi lúc mỗi lớn. Khối trưởng Trai rất e ngại và đã năm lần bảy lượt lên tiếng yêu cầu anh em trở về chỗ ngủ. Thốt nhiên có tiếng lên đạn ngoài cửa phòng, tiếp theo là tiếng chửi thề thật lớn của một thằng vệ binh.

- Đ.M. Chúng mày có ổn định chỗ ngủ hay muốn tan xác như thằng phản động trốn trại ngoài kia?

Câu nói của thằng vệ binh không chỉ làm cho riêng Vĩnh mà làm cho tất cả mọi người đều rụng rời. Như thế là thế nào? Thằng Dung thoát rồi hay đã bỏ xác ngoài hàng rào?

Rồi thì Vĩnh rơi vào giấc ngủ với đầy ác mộng. Anh thấy thằng Dung xuất hiện trên hội trường. Nó đứng trước máy vi âm với một thân xác bị bắn thủng như một tổ ong. Nhưng lạ thay, nó đang phát biểu về những bài học khoan hồng nhân đạo của Đảng, của nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa. Vĩnh đầy kinh ngạc tự hỏi. Lạ nhỉ? Bằng phương pháp nào mà Cộng sản khiến được một xác chết vẫn chưa quên bài học? Vẫn phát biểu y như cái loa của nhà nước vậy kìa? Giọng Nguyễn Xuân Dung vẫn đều đều vang lên trong giấc mơ của Vĩnh: Các anh thấy đấy. Việt Nam ta đất không rộng, người không đông, không hề ân oán gì với Đế quốc Mỹ...

--------------------------------
1 Bi Xiện: tiếng lóng trong tù có nghĩa là một bi thuốc lào thứ thiệt, ngon.
2 Chỉ thành phần Công Giáo đi tàu Há Mồm (LSM) ra cửa biển Hải Phòng và lên tàu Mỹ di cư vào Nam.


Tác giả: Hà Thúc Sinh
Thể loại: Tùy Bút
 






















Đại Học Máu
https://isach.info





Phần 8 Đại Học Máu- TRẠI TRẢNG LỚN- Hà Thúc Sinh
https://youtu.be/O2zbHqrdzWg



Phần 9 Đại Học Máu - TRẠI TRẢNG LỚN

- Hà Thúc Sinh
https://youtu.be/EEkBbqYC3oc



Phần 10 Đại Học Máu- TRẠI TRẢNG LỚN- Hà Thúc Sinh
https://youtu.be/yE0acSnjGZU



CHƯƠNG 8

Quả như Tiến đã nói "chúng ta sẽ biên chế và không có dịp ngồi nghe tiểu sử của nhau", bản tự khai lần đầu chưa hoàn tất thì lệnh chuyển trại đã được ban ra. Cả trại nhốn nháo hẳn lên. Ai đi? Ai ở? Đi xa hay đi gần? Nơi sẽ đến có hứa hẹn gì nhiều hơn cho một ngày về hay không? Mới chiều hôm qua Vĩnh còn nghe được nhiều tin đồn quanh vụ chuyển trại. Nào là lúc hai giờ sáng có người thức dậy đi tiểu đã nghe thấy những tiếng động tạo nên do sự di chuyển của nhiều trăm chiếc Molotova, chạy từ hướng thành phố Tây Ninh về phía phi trường Trảng Lớn. Từ sự kiện đó, có người lập luận rằng không có chuyển trại gì cả, mà một số đông sẽ được những chiếc Molotova đó đem trả về Sài Gòn do áp lực của quốc tế nói chung và của Mỹ nói riêng đối với Hà Nội. Một lập luận khác nghe bi quan hơn, ấy là những chuyến xe đó sẽ đem một số đông các thành phần "ác ôn" đến một nơi khỉ ho cò gáy không ai biết tới, để nhờ sơn lam chướng khí hủy diệt họ. Câu vè từ hôm khai lý lịch lại sống lại mạnh mẽ trong đầu mọi người.

Nhất phi, nhì pháo, tam báo, tứ an. Phi là phi cơ, chỉ thành phần lái khu trục oanh toạc. Pháo là pháo binh. Báo là tình báo và an là an ninh. Bốn thứ này, theo ẩn ý của câu vè, sẽ là đối tượng chính trong việc trả nợ máu cho nhân dân!

Hoặc: Quân nhân công chức thì tha, An ninh cảnh sát lóc da bêu đầu. Hoặc: Con tôm con tép 1 đi đầu, An Ninh tình báo theo sau đắp mồ. Lính thủy đánh bộ, nhảy dù, Có tha tội chết cũng tù chung thân. Hôm nay có đến một phần ba trại L4T1 ra đi. Khối 10 toàn bộ. Lệnh cuối cùng ban ra vào lúc sắp di chuyển là tổ trực của mỗi khối phải gánh gồng theo cả các chảo lớn chảo nhỏ của nhà bếp khối cùng các vật dụng dùng để nấu nướng. Lệnh mới vừa được ban ra lại tạo dịp cho mọi người tha hồ đoán già đoán non. Phải đem theo những cái quỷ nặng nề ấy thì chắc là không đi xa. Rồi thì giờ ra đi cuối cùng đã tới. Những khôi ra đi xếp nối đuôi nhau theo đội hình một hàng dọc và tiến ra ngoài cổng trại L4T1. Gánh gồng, khuân vác! Mặc dù chưa đến nỗi mọi người bị trói vào nhau để biến thành một lũ tù dây, nhưng lần đầu tiên chuyển trại, bọn tù đều ngơ ngác, lo âu và mệt mỏi không khác gì một lũ tù dây! Tiến ra con đường nhựa nằm trước mặt tiểu đoàn dưới một bầu trời nắng tốt, ai nấy vừa đi vừa nhìn ngang liếc dọc như cố thu vào mắt mình quang cảnh chung quanh càng nhiều càng tốt. - Điên cha nó cả người! Câu than thở cố hữu của bác sỹ Tuyên lại khẽ vang lên bên tai Vĩnh. Vĩnh uể oải đáp. - Đâu còn đó ông ơi, có gì mà phải điên. Tuyên hỏi. - Chúng nó đưa mình đi đâu ông đoán được không? - Không đi về phía phi đạo như anh em nói thì ắt đi về phía cổng chính. - Tới cổng chính rồi đi đâu? Vĩnh buồn cười cho cái ngây thơ bất chợt của một anh tu bíp. - Ô hay, ông làm tôi cứ như là ông cố nội của Bác Hồ không bằng ấy! Bác sỹ Tuyên xốc lại túi quân trang trên vai, tiếp tục đi tới và không buồn nói thêm câu nào nữa. Đoàn người vẫn nối đuôi nhau di chuyển. Vĩnh ngó lên ngó xuống dọc theo con đường. Phải cả năm sáu trăm người chứ không ít. Ai cũng tay xách lưng vác. Từ đầu đến đuôi đoàn người, bọn quản giáo và bọn vệ binh súng ống tua tủa giữ an ninh suốt dọc lộ trình. Khi những người đầu tiên đi tới một ngã ba, giao điểm của con lộ đang đi và con đường chính trong căn cứ thì được lệnh quẹo phải. Quẹo trái sẽ ra cổng chính nếu đi thêm chừng một cây số nữa. Nhưng quẹo phải sẽ dẫn về đâu? - Rồi, thế là không đi đâu xa hết! Một giọng nói chợt reo lên. Đây là giọng nói của ông Hòa, một thiếu úy già từng là sỹ quan hỏa đầu vụ một đơn vị thuộc BTL/SĐ 25 trấn đóng tại căn cứ này trước đây. Hai năm làm việc tại Trảng Lớn đủ để cho ông biết rành rẽ tất cả đường đi nước bước trong căn cứ. Giọng ông Hòa vui vẻ như một đứa bé đang mang một niềm vui được biết trước mọi người về một điều gì. Như thế là, ông Hòa tiếp. Nó sẽ đưa minh đến chỗ ban hành chánh tài chánh sư đoàn nằm ở tuyến sau cùng của căn cứ. Hơn một tiếng đồng hồ sau đó, tù L4T1 bị chuyển vào trại, quả như lời ông Hòa đã nói, bước cả vào một doanh trại khác nằm sát dãy ụ đất phòng thủ phía trái trong cùng căn cứ. Các khối được lệnh tập họp ngay giữa sân trại. Bọn vệ binh thì túa ra chung quanh giữ an ninh. Bọn quản giáo cũ mới xúm lại bàn giao một mớ sổ sách cho nhau. Vĩnh đứng quan sát chung quanh. Quang cảnh nơi đây thật bừa bãi. Trước các dãy phòng - cũng ọp ẹp, dơ bẩn và vá víu y như ở L4T1 - lon cóng, giấy vụn, quần áo rách vứt bừa bãi. Sự bừa bãi này chứng tỏ trước khi bọn Vĩnh được đem sang đây thì đã có một lớp người khác ra đi. Nhưng họ là ai? Đi đâu? Tiếng loa từ một thằng Việt cộng có bộ mặt trông tệ hơn một cái xác ướp đang đứng trên một gò mối giữa sân chợt vang lên. - Yêu cầu tất cả các khối trưởng tập họp khối khẩn trương. Cấm chỉ người khối này chạy sang khối khác. Các khối trưởng so hàng, điểm danh và báo cáo nhân số cho quản giáo khối để bàn giao. Mặc cho tiếng loa hò hét, bọn tù vẫn chạy ngang dọc tìm kiếm bạn bè. Cả 15 phút sau đó hàng ngũ các khối mới thật sự ổn định khi bọn vệ binh vác súng ùa vào để rượt bắt những người không chấp hành lệnh, vẫn ngoan cố chạy xuôi chạy ngược. Lúc các quản giáo đã nắm vững nhân số, chúng tổng kết và báo cáo lại cho cái xác ướp cầm loa đứng trên gò mối. Xác ướp bắt đầu phát ngôn trở lại. Hôm nay, nhân danh chính trị viên triểu đoàn L4T3, thay mặt thủ trưởng, thay mặt toàn thể các cán bộ, các anh chiến sỹ, tôi chào mừng các anh, những học viên cải tạo vừa biên chế từ L4T1 sang đây. Để tranh thủ thời gian cho các anh về nhận nhà và các phương tiện sinh hoạt, tôi chỉ vắn tắt vài điểm chủ yếu như sau: Qua quá trình nửa tháng học tập bên trại cũ, tuyệt đại đa số các anh đã được đánh giá cao trong học tập, thế nên Trên chiếu cố cho biên chế các anh sang trại mới để tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được. Nói chung chung, các anh đều đã đạt được một cơ sở tốt trong bước đầu cải tạo. Ngày về hẳn không còn xa lắm. Tuy nhiên, tôi cũng nhấn mạnh tốt như thế chưa đủ. Các anh còn cần phải phấn đấu để tốt nhiều hơn nữa. Trại này sẽ là nơi để các anh tự chứng tỏ mình tốt hơn. Hãy nhớ rằng về hay không về hoàn toàn tùy thuộc ở nơi các anh. Đây là điểm then chốt tôi tranh thủ quán triệt với các anh sáng nay, rồi sẽ còn nhiều dịp tôi và các đồng chí quản giáo sẽ đi sâu đi sát với các anh, giúp đỡ các anh học tập tiến bộ để sớm được trở về đoàn tụ với gia đình theo đúng yêu cầu của Cách mạng và nguyện vọng của nhân dân. Bây giờ tôi trao loa lại cho đồng chí phụ trách hậu cần phân chia các lán cho các khối. Nói tới đây cái xác ướp bước xuống gò mối. Hắn trao cái loa lại cho một tên Việt cộng khác. Tên này vồ vập lấy cái loa và nhảy lên gò mối. Hắn hăm hở tuồng như đã khát nói từ mấy kiếp. Cũng như những thằng khác, hắn gõ vài cái vào loa trước khi cất cao cái giọng "con tâu tắng buộc bờ te túc tụi" đặc quánh nhựa thuốc lào. - Đồng chí Thảo, chính trị viên tiểu đoàn vừa chỉ thị tôi công tác phân chia lán cho các đồng chí. Hắn khựng lại vì biết mình lỡ lời gọi tù bằng đồng chí. Một thoáng hắn tiếp. Các anh, à, các anh. Thôi thì nà thế này nhá. Bây giờ để tranh thủ thời gian, tôi đọc danh sách khối nào về khối nấy cho tiện. Tuy nhiên về tới khối rồi, tôi dặn kỹ, cấm mọi phá phách tháo gỡ tôn gỗ, cấm mọi tùy tiện sửa sang. Các anh phải cơ động hết chiều nay vì có thể sẽ có biên chế lại các khối cho toàn trại. Trước mắt các anh cứ về khối mình được chỉ định và lo sinh hoạt cơm nước. Nói tới đây tên hậu cần lại khựng. Và lần này hắn khựng hơi lâu. Dù gì thì hắn cũng là dân hậu cần, có nghĩa là khó mà ăn nói cho lưu loát được. Nghề nói như vẹt dẫu sao vẫn là nghề ruột của mấy thằng chính trị viên mà thôi. Tên hậu cần khựng một lúc nhưng nghĩ mãi không biết nói gì thêm, hắn đành vắn tắt. Thôi tôi trao các anh lại cho các đồng chí quản giáo, nhá. Nói xong hắn nhảy vội xuống gò mối. Tuy nhiên chưa bước đi được một bước nào hắn đã bị tên chính trị viên chận lại cự nự gì đó. Nét mặt tên hậu cần có vẻ ngượng và lúng túng. Hắn chần chừ một chút rồi quay lại gò mối. Xin lỗi các đồng chí, à quên các anh. Bận quá tôi quên triển khai công tác chính. Bây giờ thì nà tôi tranh thủ đọc thật nẹ ranh sách các khối sỡ hữu các lán nhá. Nói rồi hắn mở tờ giấy cầm sẵn nơi tay ra, nâng lên tận mắt và ê a đọc. - Khối 1 gồm 2 dãy lán phía trong cùng, sát hàng rào phòng thủ. - Khối 2 gồm 2 dãy lán nằm bên cánh trái cổng vào. - Khối 3 gồm 2 dãy lán nằm bên cánh phải cổng vào. - Khối 4 gồm 1 dãy lán nằm trước mặt khối 2. - Thành phần cũ vẫn ở nguyên như cũ. Đọc xong, hắn cuộn tờ giấy nhét vào túi quần, nhìn xuống đám quản giáo đứng bên dưới, tiếp. Bây giờ đề nghị các đồng chí quản giáo khối nào phụ trách hướng dẫn khối đó về cơ sở của mình. Nói xong câu cuối cùng, tên hậu cần nhảy vội xuống khỏi gò mối. Hắn bước thẳng ra cổng trại như sợ còn sơ sót điều gì sẽ bị tên chính trị viên lôi cổ trở lại. Phải đến lúc mặt trời đứng bóng cả trại mới tạm ổn định. Khối 10 bây giờ đã biến thành khối 2. Vĩnh khênh đồ theo các bạn tiến về dãy nhà được chỉ định. Trong lúc một số người có tính cẩn thận, vội vàng chụp giật đây đó một vài miếng ván thông, một mảnh tôn để đắp điếm sửa sang lại chỗ nằm của mình thì Vĩnh quăng cái túi quân trang lên cái kệ trên đầu chỗ nằm và bước ra sân đứng quan sát. Ngoài những dãy nhà chính, anh còn thấy ở sâu trong góc trái có một căn nhà nhỏ. Trước sân căn nhà này Vĩnh thấy có một số người đứng nói chuyện. Vĩnh rà tới. Thì ra họ đều là những người đã sống ở đây từ trước, thuộc thành phần đui mù què chột lao phong cùi hủi được để lại khi mà những người bạn cùng trại với họ đã bị biên chế đi chỗ khác từ chiều hôm trước. Thấy một anh chàng tóc quăn da đen đeo kính râm ngồi dưới một gốc cây trứng cá - rõ ràng anh là một cậu con rơi của một ông Tây đen nào đó thời Pháp thuộc để lại - Vĩnh bước tới làm quen. - Anh đến đây lâu chưa? Vĩnh lên tiếng hỏi. - Dạ đêm 28 rạng 29 tháng 6. - Ồ, thế thì mình cùng đợt với nhau cả. - Anh ở bên L4T1 qua hả? - Vâng. Thế những người cùng trại với anh trước đây đi đâu hết cả rồi? - Họ bị đưa đi hôm qua. Có người nói họ được đưa qua L2, cũng có người nói họ bị đưa ra Phú Quốc. - Thế sao các anh còn ở lại? - Tôi không rõ, nhưng có lẽ tụi tôi thuộc thành phần thương phế binh. Nói tới đây anh chàng da đen không ngần ngại gì mà không lột cái kính râm đang đeo trên mắt xuống. Con mắt trái trên mặt anh ta giờ đây chỉ là một cái lỗ sâu hoắm còn rỉ nước vàng. Con mắt phải đo ảnh hưởng của con mắt trái cũng đang lâm tình trạng mờ nhạt và chảy nước mắt sống trông rất thảm. Vĩnh ái ngại hỏi. - Trước đây anh làm gì? - Tôi thiếu úy Biệt kích anh ạ. Tôi bị thương đang nằm Cộng Hòa. Lúc tổng y viện Cộng Hòa bị chiếm chúng nó tống cổ tất cả các thương bệnh binh ra khỏi bệnh viện. Vĩnh nghiến răng. - Bầm dập như thế anh đi trình diện làm gì? Người đối diện cất giọng buồn bả. - Tụi Tân-gia-ba 2 nó đến tận nhà nó lôi tôi ra phường. Bọn quân quản phường giam tôi 4 ngày 4 đêm trong gầm cầu thang phường Phú Nhuận trước khi đẩy tôi lên xe cây đưa vào trung tâm tập trung trường Trưng Vương. Vĩnh ngao ngán. - Thế bây giờ con mắt anh ra sao? - Sao là sao? - Chữa bằng thuốc gì? Người đối diện lắc đầu, vung tay. - Tôi khai bệnh bọn quân y nó cho mỗi ngày một phần tư quả chanh bảo vắt vào mắt ngày 4 lần. Xót đái ra quần. Tôi cố gắng được mấy ngày đầu thấy còn ra mủ nhiều hơn. Bây giờ nó phát miếng chanh nào tôi ăn miếng đó. Thốt nhiên Vĩnh thấy thương xót vô hạn cho thân phận người chiến hữu của mình. Với một kiến thức trung bình về y học, anh đã có thể đoán chắc người đối diện không cách nào tránh khỏi được một tương lai mù lòa. Trong bóng tối Cộng sản phủ trùm trên đất nước, người chiến hữu đang đối diện anh rồi phải chịu đựng đến hai lần bóng tối so với những người đồng cảnh ngộ. Câu chuyện qua lại làm hai tâm hồn thông cảm. Vĩnh và người bạn mới cùng đứng lên, tiến chầm chậm đến một ụ đất gần hàng rào trong cùng. Tìm chỗ ngồi dưới bóng mát của một cái lô cốt cũ, Vĩnh hỏi bạn. - Có hy vọng nó thả những người như anh không? - Trời biết được! Thằng chính trị viên năm lần bảy lượt lên lớp đã hứa nhưng lấy gì làm tin. - Nó không thả kịp thời để về mà chữa, tôi e... - Mù chứ gì? Người bạn cắt lời Vĩnh và đeo cái kính trở lại. Anh lấy chân di di mấy con kiến gió đang bò ngổn ngang trên mặt đất, lạnh lùng tiếp. Anh có nghĩ rằng sống trong xã hội này mù lòa lại hóa hay không? Vĩnh không trả lời. Anh hiểu cái u uất trong lời nói của bạn. Anh im lặng nhìn mông lung ra những cánh đồng cỏ lau bát ngát ngoài vòng rào phòng thủ. Thỉnh thoảng dưới nắng, một vài con thỏ cuồng cẳng nhảy cỡn ra khỏi bụi lau, làm những con chim sâu xanh mướt hốt hoảng bay loạn đi nơi khác. Muông thú bây giờ đã sướng hơn ta! Thốt nhiên Vĩnh cay đắng nghĩ. Anh chợt quay lại người bạn. - Ngồi đợi tôi tí nhá. Tôi có cái này rất tốt cho anh. Nói đoạn Vĩnh đứng lên chạy nhanh về khối. Vài phút sau Vĩnh quay trở lại và tặng cho người bạn mới lọ thuốc đau mắt Neosporin opht. Sol 10.CC anh đem theo từ những ngày đầu. Sau đó Vĩnh được biết tên người bạn mới là Nam, một cái tên cực kỳ tương phản với con người của anh ta, càng tương phản hơn nữa khi anh ta nói giọng Bắc sành sõi như bất cứ một người miền Bắc chính hiệu nào. Người bạn mới dẫn Vĩnh đi một vòng. Bây giờ Vĩnh mới biết trại còn một dãy nhà nữa dùng làm hội trường. Dãy này nằm về cánh phải của khối 1. Bên ngoài trông nó cũng y hệt các dãy nhà ở, tuy nhiên một bên vách nhìn ra cánh đồng lau đã được mở trống. Bên trong một sân khấu được dựng ở một đầu nhà. Phần còn lại là những hàng ghế được dựng bằng đòn gỗ loại 3cm X 30 cm có chân là những cọc sắt ấp chiến lược đóng chặt xuống nền đất. Hội trường này do những người đã ra đi tạo dựng dở dang và để lại. Quang cảnh ngổn ngang bên trong cho thấy hội trường chưa hề được dùng một lần nào. - Vĩnh! Một giọng quen thuộc chợt cất lên từ phía ngoài hội trường. Vĩnh quay nhìn ra. Anh nhìn thấy Đặng Thế Tiến đang hăm hở bước vào hội trường. Vĩnh lên tiếng chào bạn. - May quá, mày cũng sang đây hả? Tiến bước vào đảo mắt nhìn quanh hội trường một vòng. Nam thấy Vĩnh gặp bạn cũ nên không muốn nán lại. Anh cám ơn Vĩnh về lọ thuốc, hẹn gặp rồi quay lưng đi thẳng. Tiến hỏi. - Mày khối mấy? - Khối 2. - Khối 4 của tao hiện tại toàn dân lạ mặt. - Ủa, vậy khối 8 cũ của mày không sang đây hết sao? - Không, chỉ có vài thằng bị lôi đi thôi. Tụi nó nhập tao vào cái khối lạ hoắc ngay trước khi di chuyển khỏi L4T1. Vĩnh kéo bạn ngồi xuống một thanh gỗ. - Đừng lo, trước lạ sau quen hết. - Đồng ý. Nhưng tao vừa gặp thêm một người quen mà tao không bao giờ muốn gặp! - Tình địch! Tiến nhìn chỗ ngồi thấy không thoải mái, hắn nắm tay Vĩnh đứng dậy chỉ vào một góc nhà. - Lại đống gỗ kia ngồi tao nói mày nghe. Cả hai tiến về đống gỗ kê trong góc hội trường. Mỗi người chọn một chỗ ngồi thoải mái. Tiến lôi trong người ra một bao nylon. Hắn mở bao lấy ra một thệp giấy quyến xé một tờ. Hắn nhón tí thuốc rê để trên mặt tờ giấy và se nhè nhẹ. - Thuốc rê đâu vậy? Tiến không trả lời. Hắn se xong điếu thuốc quăng nguyên gói cho Vĩnh. Vĩnh chỉ cầm lấy gói thuốc rê mà không vấn. - Thật là phiền cho tao. - Gì vậy? Tiến ngậm điếu thuốc trên đầu lưỡi trông rành như một anh nông dân. - Tao vừa gặp lại cố nhân! - Vui chứ sao. - Không vui tí nào! - Sao vậy? Tiến lôi cái hộp diêm rách nát trong túi ra và chọn một cây diêm còn tốt đánh lửa hút thuốc. Hắn kéo hơi thuốc đầu tiên nhưng có vẻ không thú vị lắm vì hơi thuốc rê cay xè. Hắn lùng bùng nói. - Vừa rồi đây tao đụng một thằng quản giáo. -.....? - Nó tên Quỳnh, hiện nay đang là tổng quản giáo của trại này. Trước kia nó xách dép cho thằng trung tá trưởng phái đoàn Việt cộng, còn tao xách cặp cho lão đại tá trưởng phái đoàn phe ta ở Vĩnh Long. Không ngờ tao lại gặp nó ở đây! - Rồi câu chuyện ra sao? - Khi nãy tao chợt thấy nó tính lỉnh đi nơi khác nhưng không kịp. Nó nhìn tao một lúc rồi ngoắc tao lại. Trông anh quen quá, nó nói. Tao biết nó đã nhận ra tao. - Mày xử trí ra sao? - Tao cười. Vâng, chúng ta đã gặp nhau nơi bàn hội nghị. Tao thẳng thắn "thú tội" trước.

- Rồi sao nữa?

- Nó chợt la lên. A! Đúng rồi. Anh là Tiến, thiếu úy ngụy quân Đặng Thế Tiến đây mà. Tao chỉ cười cười thôi. Cuối cùng tao nói. Vâng, tôi đúng là Đặng Thế Tiến. Chào anh Quỳnh.

Vĩnh quan sát Tiến trong lúc hắn kể lại câu chuyện. Quả thực trông Tiến không hề có một vẻ gì bối rối lo âu. Miệng hắn vẫn cười. Cả đôi mắt mầu hạt dẻ cũng cười. Tiến kể tiếp. Hình như lúc ấy nó vội vã họp hành gì đó nên chỉ vắn tắt với tao vài lời. Không ngờ trái đất lại tròn như thế anh Tiến nhỉ!? Bây giờ tôi bận. Sẽ còn rất nhiều dịp mình làm việc với nhau. Ngay lúc ấy một tên quản giáo trờ tới. Nó ngoắc tên quản giáo đó lại và đi luôn một đường giới thiệu. Này đồng chí Cẩn, giới thiệu với đồng chí anh này trông nhỏ người chứ mồm mép chửi Cách mạng thì vô địch đấy. Cái ngày còn ngồi trên bàn hội nghị ngoan cố ngoan cường lắm!

- Sao nữa?Trục trặc gì không?

- Không, có lẽ tụi nó bận họp nên kéo nhau đi. Trước khi đi thằng quản giáo Quỳnh còn cười tình với tao và phán một câu sau cùng: Thế chiến quốc thế xuân thu anh Tiến nhỉ?...

- Nó biết cả câu ấy à?

Tiến quăng điếu thuốc rê hút dở ra ngoài khung cửa sổ. Hắn nhảy xuống khỏi chỗ ngồi.

- Biết dấu cũng chẳng được, tao đã phải nói thật với nó tao hiện ở tổ 7 khối 4.

Tiếng kẽng báo cơm muộn nhất từ trước đến nay đã vang lên...

--------------------------------

1 Con tôm con tép: Chiến tranh chính trị.
2 Tân-gia-ba: Tân là mới. Gia là gia nhập. Ba là 30 tháng Tư. Tiếng lóng dùng chỉ những tên trở cờ sau quốc nạn 30 tháng Tư năm 1975





CHƯƠNG 9

Chỉ một ngày sau các khối đã ổn định đâu vào đó. Khối 2, hậu thân của khối 10 vẫn do Trương Thành Trai làm khối trưởng với Nguyễn Ngọc Đỉnh làm khối phó. Tổ A.3 vẫn do Quách Tứ làm tổ trưởng. Quản giáo vẫn là tên quản giáo Cư từ trại cũ theo sang. Nền nếp sinh hoạt nơi đây cũng không khác gì bên L4T1. Các tổ thay phiên nhau ứng trực nấu bếp một ngày. Mỗi ngày nhân số trực tiếp lao động phải bảo đảm 90 phần trăm. Hàng ngày sau những giờ lao động, vào lúc 6 giờ chiều, phải tiến hành những cuộc họp khối rồi họp tổ để phân tích, mổ xẻ, phê bình, kiểm thảo, đấu tranh sai trái và đề ra phương hướng khắc phục mọi điểm yếu, phát huy các điểm mạnh của từng cá nhân trong ngày. Căn bản lý luận trong đấu tranh sai trái về mặt lao động sẽ là: Mỗi người gian lận 5 phút lao động, 5 phút ấy đem nhân với 50 triệu người trong cả nước sẽ biến thành một số lượng thời gian khổng lồ. Và Tổ quốc xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ bị chậm lại trên con đường phát triển so với các nước văn minh tiên tiến khác là 476 năm. Nếu mọi người chỉ gian lận nửa tháng thì nước ta sẽ chắc chắn thụt lùi về tới thời đại đồ đá! Khẩu hiệu: Lao động là thước đo lòng yêu nước của mỗi người! Khẩu hiệu này phải được dán khắp nơi. Nhưng chỗ được kẻ và dán nhiều nhất phải là trong trái tim và trong khối óc của mỗi cải tạo viên. Mọi người phải nhắc nhở đến khẩu hiệu ấy như một kinh nhật tụng. Tất cả các cải tạo viên phải tự thực hiện một lời hứa nho nhỏ có tên chung là bản "Hạ quyết tâm" gắn trên đầu chỗ nằm. Bản hạ quyết tâm tiêu biểu có thể như sau.

Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi, Trần Văn X, tổ viên tổ A.3, khối 2, trại L4T3, nhất trí HẠ QUYẾT TÂM:

1. Tích cực học tập cải tạo lao động tốt. 2. Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho đến khi nào được Cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. 3. Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác, hầu biến trại ta trở thành trại cải tạo tiên tiến về mọi mặt. 4. Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại (nếu biết) đang còn tiếp tục ý đồ chống phá Cách mạng. 5. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của Cách mạng. Trại mới với những huấn thị mới của khung đem xuống là như thế. Tuy nhiên, trước khi bắt tay vào lao động, một khâu quan trọng bậc nhất không được phép bỏ qua: Màn khai lý lịch được tái diễn. Hai ngày, một thời gian tương đối rộng rãi, Cách mạng ưu ái dành cho những kẻ có tội với Đảng, với nhân dân được nghỉ lao động nằm nhà làm bản tự khai thêm một lần nữa. Nhờ kinh nghiệm của lần trước, lần này tương đối đa số đều thoát qua vòng đầu của việc làm bản tự khai một cách êm ả, ngoại trừ vài trường hợp cá biệt gặp chút trở ngại như ông Thiệu của khối 2 không biết viết, anh chàng Thân của khối 4 điên điên khùng khùng nhất định không làm tự khai vì theo anh nói: Anh chẳng có tội với thằng đếch nào cả! Khi bản tự khai đã được thu nộp lên ban chỉ huy, bọn tù lại quay trở lại với công tác chính dọn nơi ăn chốn ở, sửa lại các hầm cầu tiêu, đắp lại bếp, phát quang những cỏ lau chung quanh trại, dọn sạch các connex chứa súng đạn của chế độ cũ, vét giếng, đào mương, sửa hội trường và phải thực hiện một tấm bảng thật lớn treo ngay trước hội trường với một câu nói của Hồ Chí Minh: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi!... Vừa lao động được hai ngày chưa kịp dãn xương cốt thì mọi người lại được lệnh ngừng mọi lao động để thông qua các bản tự khai của mình trước khối. Từ 5 giờ sáng các khối trưởng đã dựng mọi người dậy bắt gấp chăn mùng mền xếp cho ngay ngắn. Tổ trực phải quét nhà quét sân thật sạch. Tổ trực bếp lên lửa nấu cơm liền. Nói chung mọi công tác vệ sinh ăn ở cá nhân và tập thể phải xong trước 8 giờ. Quãng 8 giờ thiếu 10, khối trưởng Trai đã cho tập họp mọi người trước khối. Theo đúng chương trình và sự sắp xếp của quản giáo, Trai cho chia khối thành hai bán khối. Bán khối 1 sẽ ngồi đọc bản tự khai và thảo luận trong nhà. Bán khối 2 sẽ làm việc với nhau bên hông phải của căn nhà dưới những tấm bao cát lớn được giăng ngang từ mái hiên xuống tới bếp. Chỗ này cũng là "phòng ăn" của cả khối, có những dãy bàn dài được kê bằng những tấm PSP trên các cọc sắt ấp chiến lược. Đúng 8 giờ quản giáo Cư xuống tới khối, đi theo hắn còn có một tên khác nữa. Sau những màn hô hoán nghiêm nghỉ để chào đón ông quan Cách mạng mọi người được an vị. Tên quản giáo Cư sau khi nhìn ngang liếc dọc để lượng định sự tiến bộ của bọn tù trong nền nếp ăn ở, hắn dõng dạc tuyên bố. - Theo Trên quy định, hôm nay tôi và đồng chí Thịnh sẽ xuống làm việc với các anh về bản tự khai. Nói tới đây hắn quay sang đồng chí Thịnh của hắn, vỗ tay làm cò mồi. Bọn tù chậm hiểu nên cứ trố mắt ngồi nhìn. Thấy không ai vỗ tay hưởng ứng, tên Cư vừa vỗ dồn dập vừa nói. Khối 2 chúng ta vỗ tay chào mừng đồng chí Thịnh đi chứ! Thế là vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt, nghe chán như những cái rắm của bọn nhà nghèo đói bụng từ đám tù nổi lên để góp phần chào mừng đồng chí Thịnh của đồng chí Cư. Như để đáp ứng sự chào mừng mình của đám tù, tên quản giáo mới tằng hắng lấy giọng và cất tiếng. - Xin tự giới thiệu với các anh tôi là quản giáo Thịnh. Chấp hành lệnh thủ trưởng, tôi với đồng chí Cư sẽ hướng dẫn và kiểm tra buổi sinh hoạt của khối 2 hôm nay. Qua bản tự khai các anh đã nộp và Trên đã nghiên cứu, ban quản giáo thấy rằng tuyệt đại đa số đã đấu tranh tư tưởng tốt, lời khai phù hợp với thực tế. Có nhiều anh thành thực một cách xuất sắc, đã kê khai chi li những tội ác mình đã phạm với Cách mạng, với nhân dân. Có cả những anh đã thú nhận mình giết đến trên 500 chiến sỹ Cách mạng... Rồi đây những cái gương sáng của sự thành khẩn khai báo ấy sẽ được công bố trước trại để biểu dương trước tập thể. Hôm nay, thay mặt khung, tôi biểu dương chung cả khối về thành quả rất đáng ghi nhận trong lần làm bản tự khai vừa qua. Tuy nhiên nói đi thì phải nói lại. Tôi cũng cần cho các anh biết trong khối ta vẫn có một thiểu số chưa thành thật lắm trong lời tự khai. Những kẻ ấy chắc chắn sẽ còn phải làm việc với Trên nhiều nữa. Nói tới đây tên quản giáo Thịnh nhìn Cư như dò hỏi một điều gì. Khi thấy Cư gật nhẹ đầu, hắn tiếp. Sáng nay thì là Trên cho các anh nghỉ lao động để tự đọc bản tự khai của mình trước tập thể. Đây là một thủ tục quen thuộc trong xã hội ta. Tập thể quyết định mọi việc. Do đó, các anh phải làm quen với lề lối này và không nên có những ý nghĩ sai trái này kia kia nọ. Các anh cứ biết rằng bất cứ cái gì chưa có quyết định tối hậu của tập thể đều vô giá trị trong xã hội ta, kể cả những bản tự khai. Vậy thì theo đúng lề lối ấy, bản tự khai của các anh sẽ có giá trị hay không là ở chiều nay, sau khi nó đã được chính các anh đọc lên, kế đó được tập thể cùng nghiên cứu, bổ khuyết và thông qua nếu bản tự khai thực sự đã đạt yêu cầu. Tên quản giáo Thịnh nói tới đây thì ngừng lại như để lấy hơi và cũng để nhớ lại bài bản. Một lúc hắn tiếp. Hẳn ở đây thế nào cũng có những anh dây mơ rễ má với nhau từ thời Mỹ ngụy. Có thể là bạn học của nhau. Có thể gia đình từng quen biết nhau. Có thể là láng giềng của nhau. Có thể đi lính cùng khóa hoặc ở cùng đơn vị trong thời gian thi hành tội ác lùng diệt Cách mạng, bắn giết nhân dân. Thế nên, nếu như nhận biết được bạn mình có gì lấn cấn trong bản tự khai thì phải thẳng thắn lên tiếng sửa sai liền. Các anh đừng nghĩ rằng đó là những hành động không tốt. Bây giờ đổi đời rồi, các anh phải học theo các nguyên tắc sống của Cách mạng. Phải nhớ rằng đối với Cách mạng, mọi nguyên tắc về đạo đức, về lòng thương yêu, về những mối quan hệ giữa người với người... hoàn toàn đã ly khai với những nguyên tắc lạc hậu lỗi thời của chế độ cũ. Phải nhớ rằng chủ nghĩa Cộng Sản đem con người tới mức tiến bộ như ngày nay chính nhờ bởi những nguyên tắc mới, những ý niệm mới cấu thành tư tưởng mới hiện thực và ưu việt. Bây giờ tôi chưa có thì giờ lên lớp với các anh nhiều về vấn đề này. Mai đây, khi sống lâu ngày dưới xã hội mới tốt đẹp này các anh dần dần rồi sẽ nhận ra. Tôi chỉ tóm tắt, để đạt yêu cầu trong lần thông qua bản tự khai hôm nay, tôi nhắc nhở các anh hết sức phấn đấu tránh nhận định bản chất và hiện tượng dựa trên những nguyên tắc cũ. Sẽ sai bét bè be cả. Đấu tranh sai trái, thú nhận cái lỗi của mình, vạch ra cái lỗi của người trước tập thể là nghĩa vụ cao quý của mọi người. Nó chẳng những giúp cải thiện chính ta, cải thiện thêm một người bạn, mà còn góp phần tích cực xây dựng những con người mới của xã hội xã hội chủ nghĩa cho ngày mai như Bác hồ đã dạy. Thật bất ngờ, vừa nói tới đây tên Thịnh chỉ ngay vào một người ngồi gần hắn, hỏi. Anh, anh tên gì? Người vừa được hỏi là khối phó Nguyễn Ngọc Đỉnh. Đỉnh vội trả lời. - Dạ tôi là Đỉnh. - À, anh Đỉnh! Thế anh có nắm vững những lời tôi vừa nói hay không? Anh có biết nguyên tắc là gì không? Đỉnh cố nén bực mình. - Thưa tôi chỉ hiểu sơ sơ! Tên quản giáo bỗng giơ hai tay ôm lấy đầu. - Hiểu sơ sơ là chưa đạt yêu cầu. Trong xã hội ta, một khi đã nói hiểu là phải hiểu thật vững vàng, không thể hiểu một cách lơ vơ lờ vờ như người say thuốc lào được. Tôi nói thêm để các anh nắm vững vấn đề. Trong xã hội ta, khai báo sự sai trái của một cá thể hay của cả một tập thể nếu ta biết được là một nghĩa vụ của mọi người. Ngày xưa các anh cho đó là hành động xấu xa, là đi guốc vào đời tư người khác vân vân và vân vân. Đấy chẳng qua là các anh bị nhiễm độc bởi một một nền giáo dục ngu dân, ích kỷ, coi cá nhân chủ nghĩa như là một cứu cánh tối hậu cho đời sống. Ngày nay nền giáo dục ấy đã cáo chung. Ta tiến bộ chưa đủ, ta còn có nghĩa vụ giúp cả cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, láng giềng của ta cùng tiến bộ nữa mới được. Muốn như thế ta phải can đảm, phải thẳng thắn, phải sẵn sàng đấu tranh sai trái và phải thấm nhuần ý nghĩa câu nói mình vì mọi người, mọi người vì mình. Thốt nhiên mọi người đều kinh ngạc vì trong đám tù bật lên một câu hỏi khá lớn. - Thưa anh, nếu như tôi phát hiện được sự sai trái của quản giáo hay bất cứ một cán bộ chiến sỹ Cách mạng nào, tôi có được phép đem ra đấu tranh sai trái trước tập thể không? Mọi người điếng hồn vì câu hỏi. Cả hai tên quản giáo cùng tê tái trước câu hỏi quá bất ngờ của một tên tù. Tên Thịnh vội hỏi. - Anh tên gì nhỉ? Người vừa hỏi thản nhiên trả lời. - Dạ tôi tên là Nguyễn Văn Hảo. Mọi người đều lo cho cái nhà chị Hảo này. Hảo là một sĩ quan cấp thiếu úy, người miền Nam, tính tình thật thà và nhu mì như con gái. Ở với nhau một thời gian anh em đặt vấn đề Hảo có lẽ bệnh lại cái. Từ dáng đi, cách ăn nói... nữ tính nhiều hơn nam tính. Nhất là sống trong tập thể tù, mọi cái đều phải chạy đua theo tiếng kẻng, riêng Hảo vẫn luôn luôn thong thả, khoan thai như một cô gái thứ thiệt. Đặc biệt những lúc "chị" đi tắm! Buổi chiều lao động về, mọi người đều nhào ra giếng trần truồng đứng tắm với nhau. Riêng chị Hảo thì khác. Chị len lén tìm đến một cái giếng ít nước không ai thèm tắm, múc lên và gạn từng miếng nước trong đổ vào một cái thùng đạn đại liên trống. Chị xách thùng đại liên nước cất dấu vào đầu chỗ nằm. Khi màn đêm đã buông xuống, chị mới xách thùng nước ra cái connex gần hàng rào tắm thật kín đáo. Bọn tù khối 2 đã nhiều đứa từng rình nàng tắm. Một ngày kia, một tên đã nhìn thấy được trọn vẹn tấm thân nàng. Hắn công bố với mọi người: Nó có đầy đủ tất cả và coi mòi còn... kiện tướng hơn cả của tao!Thằng này không phải lại cái, chắc nó đồng tính luyến ái... Khi lời công bố ấy được lan truyền ra, Hảo bỏ luôn cơm chiều, rúc vào một góc tối ngoài chái nhà khóc thút thít như một cô gái bị hạ nhục. Chả hiểu hôm nay chị cao hứng thế nào mà lại nhét ngay một cái... xú cheng vào họng tên cán bộ quản giáo như thế! Dù sao thì câu hỏi của Hảo đã như một mũi tên cắm sâu vào lỗ tai của hai thằng quản giáo không cách gì nhổ ra được nữa. Trong khi hai tên quản giáo ngỡ ngàng thì vẻ hiền hòa, chân chất của một người miền Nam thuần túy vẫn được giữ nguyên vẹn trên nét mặt của thiếu úy Nguyễn Văn Hảo. Tên Thịnh liếc nhìn tên Cư như ngầm hỏi ý. Tên Cư hơi nhíu mày, bẻ bão tay rồi ậm ừ cất tiếng. - Anh Hảo hỏi như thế cũng có lý của anh ấy. Tuy nhiên nhân đây tôi cũng nhắc nhở các anh thêm một điều. Các anh cần phải ý thức cho đúng vị trí của mình. Hiện tại các anh chỉ mới là những cải tạo viên, có nghĩa là chỉ mới có nhiệm vụ phấn đấu học tập lao động cải tạo tốt, giúp đỡ bạn bè chung quanh cùng học tập lao động cải tạo tốt. Kỳ dư, những cái khác các anh sẽ đương nhiên có quyền khi đã hoàn toàn tốt, được Cách mạng công nhận, được phục hồi quyền công dân, được cho về phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Lúc ấy, các anh mới được hưởng quyền làm chủ tập thể, có nghĩa là được hưởng quyền phê phán các thành phần quản lý, tức là các thành phần cán bộ viên chức nhà nước. Tên Cư chợt ngừng nói, hắn nhìn đám đông mỉm một nụ cười khó hiểu rồi nhìn về phía Hảo, hỏi. Anh Hảo, anh đã nhất trí chưa? -.....! - Thôi được, rồi chúng tôi sẽ làm việc riêng với anh sau, bây giờ chúng ta bắt đầu đi vào công tác chính của ngày hôm nay. À, thế tổ trực hôm nay đã lo cơm nước sẵn sàng chưa đấy, anh khối trưởng? - Dạ đã xong cả. Tên Thịnh chợt quay sang bàn nhỏ gì đó với tên Cư, một lát sau hắn quay lại nói với bọn tù. - Như quản giáo Cư đã gợi ý cho khối trưởng, chúng ta sẽ chia khối làm hai bán khối. Bán khối 1 từ tổ 1 đến tổ 6. Bán khối 2 từ tổ 7 đến tổ 12. Bán khối 1 sẽ đọc bản tự khai trong nhà. Bán khối hai sẽ làm việc ngoài sân. Trước khi bắt tay vào việc, tôi nhắc lại mục đích yêu cầu của buổi thảo luận sáng nay để các anh nắm cho vững. Vậy thì mục đích sáng nay là thông qua các bản tự khai của các anh trước mặt tập thể. Yêu cầu là các anh phải có thái độ nghiêm túc, thành thật, thẳng thắn và tích cực trong thảo luận. Các anh phải ý thức cho đúng tầm mức tối quan trọng của công việc làm sắp tới đây. Nó ảnh hưởng cụ thể đến sự ở sự về của các anh trong những ngày tới. Các anh có nghe rõ cả không? - Rõ! - Thế thì tốt. Bây giờ như tôi vừa quy định, các anh hãy tự động chia đôi khối và ổn định theo bán khối của mình. Khẩn trương và im lặng. Bọn tù đứng hết lên. Kẻ chạy ra người chạy vào. Kẻ lấy giấy người lấy bút. Năm phút sau đâu đã vào đó. Khối phó Đỉnh trụ trì bán khối bên trong nhà. Khối trưởng Trai trụ trì bán khối bên ngoài nhà. Hai tên quản giáo đi tới đi lui kiểm soát cuộc bới móc đấu tố nhau được ngụy trang dưới mỹ từ của Cộng sản: thông qua bản tự khai trước tập thể! Giọng bác sỹ Đỉnh. - Bây giờ ta theo thứ tự từng tổ. Yêu cầu anh tổ trưởng tổ 1 đọc bản tự khai trước. Tổ trưởng tổ 1 tên Khải. Anh này cao và gầy như một cây sào. Sự khôn ngoan của một người có cấp bằng cử nhân khoa học, sỹ quan biệt phái về bộ giáo dục, đã giúp cho bản tự khai của anh có thứ tự lớp lang từ đầu chí cuối, không có gì đáng mổ xẻ khi anh khẳng định rằng. - Tôi sinh trưởng ở miền Bắc nhưng lớn lên ở miền Nam. Từ bé chí lớn tôi chỉ lo học hành. Vừa học xong thì bị lệnh tổng động viên chi phối sau lần Cách mạng tiến công vào Sài Gòn dịp tết Mậu Thân như hầu hết các bạn hiện diện ở đây. Tôi rời quân trường một thời gian ngắn thì được biệt phái về dạy học. Tôi chỉ dạy toán, ngoài ra tôi không dính dáng gì đến các môn văn sử địa. Bố tôi là công nhân hãng bia. Mẹ tôi may vá. Ông bà tôi chết từ hồi tản cư vì Tây dội bom... Tiểu sử của một anh nhà giáo thực tế không có gì quá hấp dẫn đối với hai tên quản giáo, do đó Khải được thông qua tương đối dễ dàng. Giọng khối phó Đỉnh lại cất lên. - Mời anh kế tiếp. - Tôi tên là Trúc, sinh ngày tháng năm tại,..., cấp bậc thiếu úy, làm việc tại Cục mãi dịch. Như cốt cho hai tên quản giáo hiểu được cục mãi dịch là gì để tránh sự thắc mắc tuyệt nhiên không có tí lợi nào, Trúc vội đi một đường dông dài diễn giảng. Cục mãi dịch là nơi lo tổ chức sắp xếp những cuộc đấu thầu, mua bán linh tinh cho quân đội ngụy những hiện vật ngoài thị trường tự do. Riêng tôi, dù làm ở cục mãi dịch nhưng tôi không giữ chức vụ nào liên quan tới những chuyện đó. Tôi chỉ phụ trách mỗi việc lo mời ca sỹ hát hò mỗi khi có lễ lạc ở đơn vị. Tên quản giáo chợt len vào. - Thế ra anh là sỹ quan chiến tranh chính trị? Trúc giẫy nẩy. - Ấy thưa không. Tôi xuất thân trường chính... Trong lúc hơi hoảng, Trúc tính phun ra câu tôi xuất thân trường chính trị kinh doanh, nhưng vì sực nhớ ra có chữ chính trị trong đó nên anh ngưng ngay lại. Anh vội chữa. Tôi vốn xuất thân trường kinh doanh, có nghĩa là dạy về cách tính toán tiền bạc, buôn bán... đại khái như kế toán ấy mà. Vợ tôi là Lệ Thủy đào hát cải lương, nhờ đó tôi quen biết nhiều trong giới hò hát ở Sài Gòn. Tên cục trưởng của tôi thấy vậy cho tôi cái chân chạy liên lạc ca sỹ. Cô A hát hai bài mình phải trả bao nhiêu? Anh B hát một bài mình phải trả bao nhiêu?... Miễn sao cuộc lễ lạc được tổ chức tốt và sự tiêu pha của đơn vị được hợp lý và không quá tốn kém. Với lối lý luận con cà con kê, thêm vào đó bản tính Trúc hiền lành, không ân oán với ai, thành thử Trúc qua mặt được hai tên quản giáo ngu dốt và được tập thể tù thông qua mau lẹ. - Mời anh kế tiếp đọc bản tự khai. - Tôi tên là Tứ, Quách Tứ. Sinh ngày tháng năm tại Bình Định. Cấp bậc trung úy. Chức vụ hoa tiêu trực thăng huấn luyện... Vĩnh đếm thầm và thấy còn vài người nữa tới phiên mình. Thốt nhiên anh em trong phòng, trừ người đang phát biểu, đều im phăng phắc lắng nghe bên ngoài. Chúng nó đang giết nhau! Mọi người đều đang nghe thấy giọng Trương Thanh Long. Long từng nói anh là giáo sự biệt phái, dù rằng sống một thời gian với nhau, chẳng mấy người còn tin anh có gốc mô phạm. Dĩ nhiên không phải ông thầy nào cũng có tư cách, nhưng ít ra sống trong tập thể, thường những nhà giáo vẫn giữ được một phong thái riêng như ôn hòa, lặng lẽ và thủ kín hơn bọn lính tráng thuần túy. Long hoàn toàn thiếu những cái đặc tính ấy. Anh ồn ào kể chuyện tục tĩu, biển lận vì lợi dụng bà con với khối trưởng Trai ăn cắp gạo của bếp, áp phe vặt vì sớm móc nối được bọn vệ binh, mua bánh kẹo về bán lại cho anh em với giá cắt cổ... Đặc biệt hơn, Long cũng là tay duy nhất của khối 10 thường xuyên léng phéng mò sang khối nữ tù, khi trở về phòng phóng đại nhiều chuyện nhảm nhí. Do những cái tính xấu ấy, anh em trong khối đều đồng loạt gọi anh bằng một cái tên mới: Long giáo gian! Hiện tại Long giáo gian đang bắn phá Trần Trọng Minh. Trần Trọng Minh, trung úy phi công A.37. Anh ruột của Minh cũng là một trung tá phi đoàn trưởng của không quân Việt Nam. Theo Minh nói, Vĩnh được biết anh là vai chú của Trần Trọng Thức, chồng cô kịch sỹ bánh nhè Kim Cương. Minh tính nóng nảy, phổi bò, thích giải quyết những xung đột với anh em bằng quả đấm. Thế nên Minh, trong giai đoạn đầu, ít được anh em thương mến. Cái tên Tí Quạu mà anh em đặt cho Minh đã diễn tả được một phần nào cái nóng tính của anh ta. Cũng vì cái tính nóng ấy, tránh sao khỏi có lần Minh đụng chạm với Long! Ân oán chẳng qua vài chuyện nhỏ nhặt... Ở bên ngoài, không hiểu Trần Trọng Minh đọc bản tự khai của anh ra sao, mọi người bên trong hiện chỉ nghe thấy giọng sửa sai của giáo gian Long mà thôi. - Tôi nằm gần anh Minh. Anh Minh đã có lần nói với tôi như thế này: Mỗi chiều tao đứng nhìn núi Bà Đen tao cứ sôi gan lên. Mới ngày nào tao đánh A.37 ở đó tụi nó banh xà rông xấp lượt. Từ trên cockpit nhìn xuống, tao thấy tụi nó thằng phơi xác, thằng chạy như vịt. Phi vụ cuối tao đánh sáng 28 tháng 4, ít lắm tao cũng thịt tụi nó hơn trăm... Sau khi kể lại một cách đầy đủ những câu tâm sự của Minh trước mọi người, Long tiếp tục tố giác. Thế mà bây giờ trong bản tự khai vừa đọc lên, tôi không hề thấy anh Minh đả động gì đến điều này. Anh em ngồi trong lẫn ngồi ngoài đều thầm oán hận sự độc ác của Long. Giọng Đính bỗng thầm thì bên tai Vĩnh. - Anh em có giận chém nhau đằng sống, ai nỡ chém nhau đằng lưỡi như thế?! Vĩnh cũng thấy sùng trong bụng. - Thằng giáo gian ấy mà anh em với ai! Bên ngoài giọng tố khổ của Long vẫn đều đều. - Anh Minh còn phát ngôn linh tinh nhiều điều phản động hơn thế. Anh ấy từng nói rằng anh ấy không sợ thằng nào trên đời này cả. Thằng Trần Văn Trà mà gặp anh ấy, anh ấy thoi vỡ mặt... Cả hai tên quản giáo thấy câu chuyện coi mòi nghiêm trọng đều chạy ra ngoài bán khối 2 đứng coi. Bên trong không có quản giáo, anh em bán khối 1 tranh thủ một dịp bằng vàng, chỉ không hơn 5 phút đã thông qua được 3 người. Bên ngoài tên quản giáo Cư chợt lên tiếng. - Sinh hoạt như thế này mới là sinh hoạt! Đầy khí thế đấu tranh! Cách mạng rất biểu dương những người trung thực và can đảm như anh Long. Riêng anh Minh, nếu anh có khuyết điểm, anh cũng cứ yên tâm. Nói cho cùng các anh ngồi đây ai mà chả có tội. Nếu có xử bắn thì tội nhẹ như anh Long cũng phải một viên, còn tội nặng như anh Minh thì năm bảy viên, mười viên... Nhưng Cách mạng đã quyết không xử tội chết các anh mà chỉ tập trung các anh lại để cải tạo, vậy các anh cứ yên tâm và làm đúng theo yêu cầu của Cách mạng là tốt. Nói tới đây hắn quay sang Trần Trọng Minh. Bây giờ anh Minh cầm bản tự khai của anh lên tiểu đoàn và làm việc riêng với tôi. Chúng ta sẽ bàn đến những thiếu sót trong bản tự khai đó. Còn các anh khác cứ tiếp tục sinh hoạt đọc bản tự khai dưới sự kiểm tra chung của đồng chí quản giáo Thịnh. Trước khi quay lại nói nhỏ với tên Thịnh vài điều và bỏ đi về phía cổng trại, tên Cư ráng dặn dò bọn tù một câu cuối: Các anh nhớ tiếp tục phát huy cái trung thực và can đảm trong đấu tranh sai trái như của anh Long mới là đạt yêu cầu của Cách mạng! Minh cũng đứng dậy. Anh không biện bác một lời. Tay cầm tờ tự khai, Minh lẽo đẽo đi theo thằng quản giáo Cư về phía tiểu đoàn. Không khí của cả khối bỗng dưng chìm xuống như cùng chịu tang một điều gì! Rồi thì công tác đọc bản tự khai cũng phải tiếp tục tiến hành. Lúc tên Thịnh trở vào quan sát bán khối 1 thì đến lượt khối phó Đỉnh đọc bản tự khai của anh ta. Vừa dợm giọng đọc, Đỉnh đã bị Nguyễn Văn Tô tự Ba Tô giơ tay xin có ý kiến, lúc hắn thấy tên quản giáo vừa ngồi xuống gần bệ cửa. - Tôi có ý kiến. Để noi gương tích cực đấu tranh sai trái của anh Long, tôi đề nghị chúng ta đọc lại bản tự khai từ anh Bính. Khi nãy tôi nhận thấy chúng ta đã thông qua vài người một cách rất tiêu cực, lấy lệ. Cả đám đều chửi thầm trong bụng vì sự lấy điểm cực kỳ trắng trợn và mất dạy của thằng Ba Tô. Riêng tên quản giáo lấy làm lạ vội quay hỏi Đỉnh. - Anh trụ trì bán khối này, khi nãy vắng mặt tôi, anh làm việc ra sao để anh em phải kêu ca như thế? Khối phó Đỉnh bình tĩnh trả lời. - Thưa anh tôi không rõ anh Tô muốn đọc lại bản tự khai của một số người vì lý do gì!? Từ đầu đến giờ anh em trong này đều làm việc có thứ tự và rất nghiêm túc. Mỗi người đọc bản tự khai của mình xong, tôi đều hỏi trước tập thể có ai phát hiện được gì sai trái thiếu sót không? Và rồi tất cả đều đồng ý cho thông qua... Vì Thịnh là quản giáo mới chưa biết Ba Tô là gà của Cư, nên hắn quay sang Ba Tô hỏi với giọng bực mình. - Anh đã biết là không tốt, tại sao từ nãy anh không phản đối? Đợi qua đến ba bốn người rồi mới kêu ca là làm sao? Nguyễn Văn Tô ú ớ không biết trả lời thế nào. Tên quản giáo thấy bộ mặt thằng Ba Tô vừa trơ vừa bóng có lẽ cũng không có cảm tình cho lắm, thành thử hắn chiếu tướng Ba Tô luôn. Thôi được, bây giờ anh đọc bản tự khai của anh cho tôi nghe xem nào! Nguyễn Văn Tô như mèo bị cắt tai. Hắn cầm bản tự khai lên, thoáng liếc quanh một vòng xem có ánh mắt nào hận thù mình không, rồi mới bắt đầu đọc. - Tôi là Nguyễn Văn Tô, sinh ngày tháng năm tại Quảng Ngãi. Cấp bậc trung ý trợ y. Đơn vị... Cha tôi chết vì đi làm Cách mạng chống Tây. Ông tôi chết vì đi làm Cách mạng chống Tây... Vợ tôi và gia đình vợ tôi đều thuộc thành phần nông dân... Nguyễn Văn Tô làm một hơi dài. Không một chi tiết nào trong tiểu sử đời hắn mà hắn không cố nhét vào tí hơi hám Cách mạng, tí giai cấp bần cố. Đọc xong một quá trình được kê khai một cách chi li dài gần 10 phút, Nguyễn Văn Tô liếc nhìn tên quản giáo, đoạn ngó mọi người rồi hạ giọng khiêm nhường. Thưa các anh, đó là tiểu sử đầy tội ác với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân của tôi. Tôi biết tôi là kẻ có tội. Tôi đã phản bội lại con đường oanh liệt của cha ông, đi làm tay sai cho Mỹ ngụy. Một tiểu sử đầy tội ác như thế, dù tôi có cung khai thành khẩn nhưng hẳn thế nào, cũng có những sai sót. Tôi thành thật xin được tập thể nghiên cứu và bổ khuyết cho bản tự khai của tôi được hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu của Cách mạng. Bộ mặt hèn hạ của Nguyễn Văn Tô chẳng ai muốn đếm xỉa đến làm gì. Nó muốn nói hưu nói vượn gì thì cũng mặc kệ cha nó. Thế nhưng trong tập thể không thể tránh được một vài người tiểu tâm, không nghĩ đến chuyện vạch áo cho người xem lưng là chuyện chẳng tốt đẹp gì, mà chỉ nghĩ rằng: mày đã chơi ông thì có dịp ông chơi lại cho mày biết tay... Một trong thiểu số ấy đã lên tiếng: Trần Văn Tuấn tự Tuấn chuột. Tuấn là một sĩ quan trẻ, rất trẻ, tuổi độ 21 hoặc 22. Trông cu cậu không ai có thể tin được cu cậu từng là một sĩ quan! Từ vóc dáng cho đến tính tình đều nhỏ mọn và loắt choắt như một con chuột. Bản tính Tuấn dù sao, không phải là một bản tính ác độc. Nó có vẻ hơi điên điên thì đúng hơn. Nhưng chính cái hơi điên điên ấy mới là khổ cho anh em. Hễ cứ thấy chướng tai gai mắt là nó đem anh em ra bổ tận tình trong những buổi họp khối mỗi chiều. Tai hại hơn nó bổ luôn Cách mạng khi cao hứng. Khối trưởng Trai và khối phó Đỉnh rất là phiền hà về nó. Nhớ dạo bọn chỉ huy trại bắt mỗi khối phải cử một người cầm càn tập hát những bài Cách mạng cho anh em, Tuấn đã ngang nhiên phát biểu: Ở đây có ai làm Cách mạng đâu mà biết bài hát Cách mạng!? Hôm nay cột ăng ten Ba Tô vô phúc bị Tuấn chuột hỏi thăm sức khỏe. Tuấn giơ cao tay ngay khi Ba Tô vừa dứt tiếng. - Căn cứ trên bản tự khai của anh Tô, tôi có ba vấn đề đặt ra để xét lại sự thành khẩn tự khai báo của anh ấy. Thứ nhất, anh Tô khai rằng anh là một sĩ quan trợ y thì điều này đã sai với lời anh nói với anh em hồi còn ở bên trại L4T1. Hồi ấy, như mọi người ở đây đều biết, trong một lần tự giới thiệu làm quen trước khối, anh Tô đã tuyên bố rằng anh là một bác sĩ quân y. Tại sao hôm nay anh lại tự hạ mình xuống chỉ còn là một sỹ quan trợ y? Nhìn qua sự kiện, tôi xin đào sâu vào vấn đề để phân tích cái nguyên do khai man của anh Tô như sau: Anh Tô muốn chạy tội! Anh thừa biết một ông bác sĩ quân y tội ác nặng hơn một sĩ quan trợ y. Cụ thể là anh Đỉnh khối phó của khối ta, tôi tin chắc trong quá khứ anh Đỉnh đã phạm muôn nghìn tội ác với Cách mạng nhờ vào cái thẩm quyền bác sĩ của anh ấy. Khối phó Đỉnh bỗng giẫy nẩy khi bị Tuấn chuột tự nhiên lôi vào trận với lời buộc tội cực kỳ nặng nề. Mặt anh tái xanh vì giận nhưng cố kiên nhẫn chịu đựng. Tuấn quay ngay sang bác sĩ Đỉnh hỏi luôn: Tôi nhận định như thế đúng hay sai anh Đỉnh? Đỉnh cáu điên người, tuồng như nếu không kẹt có tên quản giáo ngồi lù lù bên cạnh, chắc là anh đã nhảy xổ đến thoi vào mặt thằng oắt con mấy đấm rồi. Sau cùng, lấy hết bình tĩnh và khôn ngoan, Đỉnh trả lời. - Tôi không có đủ thẩm quyền khẳng định tội ác giữa một bác sĩ quân y và một sĩ quan trợ y ai nặng hơn ai. Cái đó tùy ở sự xét xử của Cách mạng. Tên quản giáo không góp ý mà chỉ gật gù. Tuấn bỉu môi với giọng điệu thật ngang ngạnh. - Thôi được, anh chưa tiến bộ nhiều nên chưa dám công khai nhận tội ác của mình. Tôi xin trở lại với vấn đề của anh Nguyễn Văn Tô vậy. Tại sao mới đầu anh Tô xưng là bác sỹ, bây giờ chỉ còn là trợ y? Đây là một điều gian dối có ý đồ, có tổ chức... Thứ hai, anh Tô khai rằng cha ông anh đều chết vì chống thực dân Tây. Điều này lấy gì làm chứng? Trong bản tự khai không thấy nói cha ông anh chết trong trận nào, ngày tháng năm nào, cũng chẳng nói rõ mồ mả chôn ở đâu vân vân. Mập mờ như thế tôi thắc mắc lắm. Tôi vẫn có thể nghĩ rằng biết đâu cha ông anh lại chính là những người đã theo Tây chống phá Cách mạng và bị Cách mạng trừng trị!? Thứ ba, anh khai vợ anh là một nông dân. Không bao giờ có chuyện này xảy ra ở miền Nam. Một bác sỹ như anh, hay như anh Đỉnh, anh Tuyên của khối này hoặc bất cứ một anh tu bíp nào của miền Nam trước đây mà lại có can đảm yêu đương và cưới làm vợ một cô nông dân chân lấm tay bùn cả. Man trá hoàn toàn. Anh khai như thế chẳng qua anh muốn thấy sang bắt quàng làm họ, muốn dây tí vô sản cao quý vào tiểu sử đầy tội ác của anh mà thôi. Nói tới đây, Tuấn chuột nhìn tập thể và trang trọng đề nghị. Tôi yêu cầu tập thể khối nghiên cứu và buộc anh Tô phải làm lại bản tự khai từ đầu. Nguyễn Văn Tô chết lặng người. Nhưng hắn làm gì được trước cái lập luận vững chắc ấy, dù hắn thừa biết thằng khốn nạn Tuấn chuột là thằng có tí máu điên trong người!? Con gà của tên quản giáo Cư càng tê tái hơn nữa khi cả một nửa khối chưa ai lên tiếng, thì chính tên quản giáo Thịnh đã lên tiếng giùm. - Tôi thay mặt khung biểu dương anh Tuấn và tôi xác nhận anh Tô đã man khai. Chúng tôi sẽ xét lại trường hợp của anh Tô. Bây giờ anh Đỉnh tiếp tục cho các anh khác lần lượt đọc bản tự khai. Buổi trưa khi giờ phát cơm đến, mọi người chỉ có 15 phút để ăn. Ai cũng trợn trạo cố nuốt cho xong hai bát cơm hẩm với vài cọng rau muống già chấm nước muối. Một giờ trưa mọi người đã phải trở lại vị trí cũ để đi cho hết cái đoạn đường Núi Sọ của thời đại mới.





CHƯƠNG 10

Tổ A.3 nhận phần nhiệm vụ đào ao rau muống nơi những thửa đất nằm bên cánh trái của trại. Đất căn cứ được Mỹ dùng xe hủ lô hạng nặng nén những lớp đá ong xuống mặt đất, thời gian đã biến mặt đất thành một lớp bê tông. Với những cuốc xẻng tự chế, tù vô cùng cực khổ khi phải khai quật cho hết những lớp đá ong nén cứng đó lên. Tên quản giáo Cư lồng lộn khắp chốn. Không ai được ngồi nghỉ lấy một phút. Buổi sáng tổ A.3 đã bị hắn bắt quỳ cả tổ giữa trời giữa đất hơn một tiếng đồng hồ vì cái tội phè! Nói phè thì quá đáng, mà nói không phè thì cũng không phải. Thực ra thì tổ A.3 đã sáng tạo ra một lối lao động mới, ấy là làm việc gối đầu. Cứ bán tổ này làm thì bán tổ kia ngừng tay nghỉ. Lề lối lao động này bọn quản giáo rất ghét, tuy nhiên nếu tổ đoàn kết với nhau thì vẫn bao che cho nhau được. Thoạt đầu tổ trưởng Quách Tứ rất ái ngại với sáng kiến lao động này của anh em. Dần dần thấy có thúc hối mấy anh em cũng phè ra, anh đành phải chấp nhận một thực tế và lên tiếng chính thức đề nghị: Cả tổ, trừ khi nào thấy tên quản giáo xuất hiện, có thể thay phiên nhau cuốc cho đỡ mệt. Nhưng điều quan trọng là lúc nào cũng phải có người cuốc cầm chừng. Miễn sao khi hết giờ lao động chỉ tiêu phải đạt được hoặc cũng phải đạt một tám một mười.

Sáng nay tổ trác, tên quản giáo nấp trong bụi rậm và thấy tất cả mọi sinh hoạt lao động của tổ A.3. Hắn đột ngột xuất hiện sau một gò mối lớn và hét.

- Mấy thằng phản động kia! Chúng mày lao động như thế à? Thằng hút thuốc, thằng đứng tán nhảm, thằng chui vào bụi ngồi tránh nắng... Tập họp lại!

Quách Tứ rầu rĩ hô anh em tập họp trình diện quản giáo. Mười thằng tù, theo lệnh quản giáo, xếp hàng ngang như một đội banh sầu thảm. Thằng quản giáo mặt đằng đằng sát khí. Hắn khởi sự chửi rủa. Toàn một bọn gian trá, xanh vỏ đỏ lòng, nín thở qua sông! Tao đã nấp trong bụi nhìn thấy chúng mày múa rối như thế nào rồi. Chúng mày nhấc cái cuốc lên thì con cò đậu, hạ cái cuốc xuống thì con mối xông. Tao bảo thật với chúng mày, ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày còn có thể bị kéo dài đến vô tận. Tao đã lên lớp chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ c... Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi! Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng "ngụy" vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá, hét. Tao phạt chúng mày quỳ 2 tiếng. Quỳ xuống!

Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau. Chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Để hắn giận chơi tới súng rồi cũng hơi phiền, nghĩ thế tổ trưởng Quách Tứ bèn quỳ ngay xuống để... làm gương! Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Cả đám lần lượt êm ái quỳ theo. Thằng quản giáo Cư đứng chửi rủa thêm một lúc nữa mới chịu bỏ đi. Đợi hắn đi khuất khỏi những dàn mướp rậm rạp nơi khu canh tác gần đó, tổ A.3. mới đồng lòng ngồi bệt xuống đất với nhau. - ĐM nó! Kể từ cái thời để chỏm đi học đến nay, hơn 30 năm rồi tao mới bị quỳ trở lại. Lê Văn Trợ lên tiếng chửi đổng. Với máu võ biền trong người, Đặng Xuân Bính như chịu cái nhục không thấu, mắt hắn cứ long lên sòng sọc. Vĩnh an ủi bạn. - Đừng buồn mày ơi. Nếu mày muốn có một ngày nào vồ lại được chúng nó thì mày ráng chịu nhục. Trừ khi mày muốn làm anh hùng của một giây, một phút hoặc dài lắm là một tuần ở trong cái trại này... Bính không nói lời nào. Tự dưng anh đứng lên và cuốc hùng hục, cuốc hăng say như bất cứ một tay lao động tiên tiến nào của cái xã hội khốn khổ này. Vĩnh không tìm ra cái chân lý cuốc cho vơi hận thù như của Bính. Anh ngồi nghĩ ngợi lan man. Cuộc đời thật quả là một giấc mộng. Mới ngày nào mà giờ đây ra thân tù tội! Vĩnh nhìn quanh một vùng đất bao la vây quanh chỗ mình. Xã hội xã hội chủ nghĩa đang xuất hiện dưới mắt anh là một hiện trường lao động, trong đó con người phải quần quật với đủ mọi thứ khổ dịch. Những tiếng động, những lời tranh cãi của bọn tù, những lời chửi bới của cai tù... vang lên chung quanh tạo thành một thế giới xa lạ mà anh biết sẽ chẳng bao giờ anh hòa nhập được với nó. Thốt nhiên một tiếng hát khe khẽ vẳng lại. Vĩnh lắng tai nghe. Tay nào hát hay quá. Giọng hát thật khẽ, thật êm như chỉ đủ để rủ Vĩnh trở về với dĩ vãng... Mẹ già ở đất phù sa, đói no (là no) ai biết, rách lành ai có hay?... Đó là bài hát của phù thủy Phạm Duy từng có thời làm anh rơi lệ. Ôi những bà mẹ phù sa, ngày nay các con của mẹ - những người mà mẹ gọi là đã học xong chiến lược giữ xóm làng - đã đi tù hết bởi những người mà mẹ gọi là giải phóng, nhưng với tấm lòng hiền như cam quýt của mẹ, một thời mẹ cũng thương cũng che chở như con của mẹ, giờ đây đã lộ hình ngạ quỷ, đang bắt giam cả dân tộc của mẹ, chả hiểu mẹ có còn thấy thương chúng nữa không!? Mẹ phù sa ơi, bây giờ mẹ ở đâu? Những anh giải phóng mẹ thương dấu dưới gầm giường năm xưa có trở mặt bắt giam cả mẹ hay không? Có chụp lên đầu mẹ cái tội danh không phân biệt bạn và thù hay không? Có xỉ vả mẹ vì cái lòng không hận thù, chỉ có tình thương yêu vô bờ bến của mẹ hay không? Sự hồi tưởng đưa Vĩnh đi tới nhiều nơi của dĩ vãng. Có thực mình thua Cộng sản không? Tại sao lại xảy ra một cuộc tháo chạy lạ thường dường ấy? Đã bao lần Vĩnh nghĩ tới hai chữ gia đình. Vĩnh khẽ lắc đầu như không muốn nghĩ tiếp, không muốn sự lý luận của mình dẫn tới việc kết tội hai chữ thiêng liêng này. Thế nhưng cũng như bao lần trước, Vĩnh không tránh khỏi một kết luận rằng: Ngoài những nguyên nhân xa là sự tương nhượng của các cường quốc có dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam, nguyên nhân gần đem đến sự sụp đổ nhanh như một tòa nhà trên vùng động đất của miền Nam chính là vì hai chữ gia đình! Nếu năm 1954 cũng vì hai chữ gia đình, bảo vệ cho gia đình được toàn vẹn, người miền Bắc đã di cư xuống miền Nam, lập thành một chiến tuyến chống lại chủ nghĩa tam vô của Cộng sản một cách hữu hiệu; thì cũng vì hai chữ gia đình, 21 năm sau người quốc gia đã thua về tay Cộng sản. Đánh làm sao được khi mà thê tróc tử phược!? Đánh làm sao được khi mà người quốc gia hoàn toàn khác Cộng sản ở chỗ Cộng sản chỉ có mục đích duy nhất phục vụ Đảng và coi Đảng như là một cứu cánh tối hậu cho ý nghĩa của cuộc nhân sinh. Đảng còn, còn tất cả. Đảng mất, mất tất cả. Còn người quốc gia thì từ anh binh nhì lên đến ông đại tướng, từ anh xích lô lên đến ông tổng thống, ai cũng có khuynh hướng đầu tư tất cả vốn liếng đời mình vào gia đình, vào bầy con... Với cái ý niệm huyết tộc trên hết, lâu ngày chầy tháng ý niệm này đã tiêu thực mất cả ý niệm về tổ quốc và tôn giáo (mà ít ai ngờ tới!). Nói tóm, gia đình đối với người quốc gia Việt Nam trước năm 1975 đã thực sự trở thành một cứu cánh sau cùng. Cứu cánh ấy mất là mất tất cả. Thế nên trong lúc biến, hầu hết chỉ lo làm sao bảo vệ được toàn vẹn gia đình, dù bảo vệ một cách tiêu cực nhất ấy là đem gia đình bỏ chạy!... Phạm Công xưa nhận lệnh vua ra trận, nách đeo hai con thơ, theo sau lại có quan tài vợ. Tướng giặc động lòng thương cảm tự cắt đầu mình trao tặng cho Phạm Công về nộp triều đình chứng tỏ một chiến thắng. Tướng giặc ngày nay, bọn CSVN làm gì có trái tim ấy! Thế là tan nát tất cả... Chao ôi tình cảm gia đình thiêng liêng lắm, nhưng đớn đau thay, chẳng ai ngờ được rằng có lúc chính cái tình cảm ấy đã hủy diệt đi sự sống của cả một dân tộc! - Nó đến, quỳ lên! Tiếng báo động hốt hoảng của tổ trưởng Quách Tứ làm mọi người quỳ phắt lên. Vĩnh nghe trong người đau nhói. Nhưng anh biết nó không còn là cái đau của tủi nhục nữa mà là cái đau của sinh lý. Mấy ngày nay Vĩnh biết bệnh sạn thận bắt đầu trở lại hành hạ anh. Triệu chứng thốn buốt nơi bộ phận sinh dục về đêm làm anh mất ngủ bơ phờ. Ta sẽ không quỳ mà ta sẽ nằm xem nó đến đâu. Nghĩ xong Vĩnh lăn cù ra nằm trên mặt đất. Anh co rút người lại như một con tôm. Cơn đau bỗng nhiên dồn dập kéo đến, nhanh và táo bạo không ngờ. Vĩnh cắn răng không rên la. Rên la trước mặt quân thù là điều tối kỵ. Đau quá! Nơi lưng Vĩnh giờ đây như đang bị một con ác quỷ dùng những chiếc móng sắc xé toạc ra. Anh em trong tổ bất kể thằng Cư vừa bước tới, họ nhào đến nâng Vĩnh dậy. - Thằng Vĩnh nó làm sao thế này? Cơn đau làm ù tai nhưng Vĩnh vẫn nhận ra giọng của Lê Văn Sanh hốt hoảng cất lên. Tiếp tiếng la của Sanh là giọng thằng quản giáo Cư. - Chúng mày đóng kịch gì đấy? Giọng Quách Tứ. - Báo cáo anh anh Vĩnh bị ốm nặng mấy ngày nay. - Ốm gì? Đừng giả vờ giả vịt! Bọn tù chả biết nói sao đành trố mắt đứng nhìn. Thằng quản giáo bước tới gần Vĩnh. Hắn vẫn đứng thẳng lưng, hỏi. Anh kia, đau cái gì? -.....! - Anh nghe tôi không? Đau cái gì? - Tôi bị sạn thận. - Sạn thận là cái gì? -.....! Thấy Vĩnh làm biếng trả lời, Quách Tứ lên tiếng cắt nghĩa. - Thưa anh ấy bị đái ra những vật cứng như viên sạn. Đau lắm... Thằng quản giáo như hiểu ra. Hắn lên giọng. - Cái ấy người ta gọi là sỏi bọng đái. Hiểu chưa? Gọi là sỏi bọng đái. Sỏi bọng đái mà nói là sạn thận thì ai mà hiểu được. Hắn lại ngó xuống Vĩnh, hỏi. Bị lâu chưa? - Tôi đau từ mấy năm về trước. - Thế ngụy nó không chữa cho anh à? - Có chữa nhưng không dứt. Lâu lâu nó lại tái phát. Như được dịp, quản giáo Cư làm luôn một bài tố khổ nền y khoa lạc hậu của Mỹ ngụy. Bọn tù lại bành lỗ tai tiếp thu bài học mới. Lên lớp đã đời, hắn lại quay hỏi Vĩnh. - Thấy đỡ chưa? - Chưa! - Thôi được, tôi cho phép anh nằm đây nghỉ. Các anh kia tiếp tục lao động. Tôi nói lại, các anh mà lao động lếu láo nữa là tôi sẽ cất hết vào connex. Tổ trưởng đâu? - Dạ tôi đây. - Anh đi theo tôi. Tổ phó Khoa thay tổ trưởng điều động cả tổ làm tiếp công tác khai quật những lớp đá ong được nén trên mặt đất căn cứ Trảng Lớn có độ dày đến 40 phân. Vĩnh cố ngồi dậy. Anh tìm một bụi rậm trên một gò mối chui vào ngồi tránh nắng. Nơi đây, Vĩnh có thể thả mắt quan sát một vùng rộng rãi. Những tiếng đục đẽo, những tiếng lăn rầm rầm của các thùng phuy, tiếng hò hét chỉ huy, tiếng rên la của những người chẳng may bị kẹp tay, bị đạp đinh, đạp gai vang rền khắp nơi. Cảnh tượng nô lệ của thời La Mã xa xưa đang tái diễn nơi đây. Những tên nô lệ thời mới - Vĩnh và các chiến hữu của Vĩnh - nếu không có một cuộc tự cứu vĩ đại xảy ra thì chắc chắn sẽ rục xương trong kiếp nô lệ này. Nhưng tự cứu bằng cách nào bây giờ? Hình ảnh Spartacus và những chiến hữu nô lệ của ông xanh mét trên thập giá lại hiện lên rõ mồn một trong trí tưởng của Vĩnh... Một tiếng la thật lớn bỗng cất lên phía sau lưng Vĩnh. - Có ai trong bụi đi ra nghe. Cuốc vô đầu ráng chịu! Vĩnh hô to. - Ê, có bệnh nhân ngồi tránh nắng trong này nghe mấy cha! - Bệnh thật hay bệnh giả? Tôi là bác sỹ đây. Vĩnh nhận ra giọng Ngô Văn Tuyên. Anh bỏ ra khỏi bụi rậm. Phía bên kia bụi rậm tổ A.4 đã dàn hàng ngang, người nào người nấy cuốc trên tay đang sửa soạn "hạ sát" cái gò mối đầy những cây cỏ hôi để làm tròn chỉ tiêu của buổi sáng. Thấy Vĩnh, Tuyên hỏi. Sao vậy? - Sạn thận ông ơi. - Rồng thiêng mới có ngọc. Ông cũng có ngọc trong người, lên bàn thờ đến nơi rồi đấy! Vĩnh không cười trước câu pha trò của bác sỹ Tuyên. Anh ngồi nhìn những nhát cuốc của anh em tổ A.4. Khi những nhát cuốc hạ dần những bụi cỏ hôi, để lộ ra bên cạnh một gò mối lớn là một cái nền nhà Mỹ loại nhỏ (có thể xưa kia nó là một cái nền nhà tắm?) thì Vĩnh lại phải đứng lên lùi sâu hơn vào những bụi rậm sau lưng. Một con cút đất vụt chạy trốn qua mặt Vĩnh. Những con cắc ké đủ màu chạy loạn để tránh nạn. Đôi ba con chim sâu hốt hoảng rời tổ vụt bay về phía ruộng khoai mì xa xa. Vĩnh buồn bã ngồi nhìn cái nền nhà Mỹ, hồn chìm sâu trong một hồi tưởng thương đau. Họ đến đây làm gì nhỉ? Vĩnh thầm nghĩ. Họ đến đùng đùng như một cơn bão rồi lại ra đi nhanh như một cơn lốc, để lại cho miền Nam một di sản đầy những thương đau... Tổ trưởng tổ A.4 có dáng đi lạch bạch như con vịt bầu chợt cất giọng la lớn. - Mình trúng mối rồi! Trúng mối ở đây là trúng phải một cái nền nhà đúc bằng xi măng đá xanh. Điều ấy có nghĩa là tổ A.4 ngày mai đây phải bằng mọi cách phá cho xong cái nền nhà ấy để biến nơi đây thành những ao rau muống theo đúng quy hoạch của trại. Tổ A.4 giờ đây gần như đã nhập chung với tổ A.3. Thêm người thêm chuyện. Vĩnh thấy trong người đã khá hơn. Anh cũng cầm một cái cuốc đứng lên, chống cuốc nói chuyện với các bạn. Bác sỹ Tuyên khẽ cằn nhằn. - Cái me-xừ Tuấn hôm qua nhảm quá. - Thẳng nhỏ điên khùng ấy chấp mà làm gì. - Nhưng nó lập luận đâu có điên chút nào. Tự dưng nó lôi me-xừ Đỉnh vào cuộc, rồi lôi cả tôi nữa! Khi sáng thằng quản giáo nói hỏi tôi. - Hỏi sao? - Nó hỏi chắc hồi xưa tù binh Cách mạng lọt vào tay các anh, các anh đem vào trường y khoa làm vật thử nghiệm phải không? Nghe nó hỏi mà mình muốn điên cha nó cả người! - Việc quái gì phải điên! - Ông coi, nó nghi ngờ, nó ngâm tôm hồ sơ mình không cứu xét có mà rũ tù! Vĩnh yên lặng, vì thấy mình không được hào hứng với lời than thở của Tuyên. Tiếng ông già Chuân ở mút đầu tổ A.4 đang nói chuyện với Ba Trợ. - Ông coi, nó là thằng chó đểu. Tôi có ân oán gì với nó đâu. Chỉ vì mấy điếu thuốc lào mà nó thù tôi. Tôi mang bệnh nghiến răng từ cha sinh mẹ đẻ, thế mà nó cũng đem tôi ra chụp mũ... Vĩnh chợt nhớ lại ngày hôm qua mà buồn cười. Ông già Chuân cũng là một nạn nhân của Tuấn chuột. Nó dzũa Ba Tô đã đời, đến lượt ông Chuân đọc bản tự khai nó cũng không tha. Nó bổ túc cho phần tự khai của ông Chuân bằng ý kiến: Anh Chuân khai như thế là chưa thành khẩn và chưa hết. Tôi nhận thấy anh đã dấu diếm và không khai về sự nghiến răng hàng đêm của anh. Cả phòng gần 120 người, chỉ có mỗi mình anh là nghiến răng trèo trẹo ban đêm. Tôi không cho đó là bệnh, mà là hậu quả của một quá trình ý thức. Ban ngày chắc anh căm thù Cách mạng ghê lắm dồn nén nói không được, nên ban đêm anh nằm nghiến răng đến độ cả phòng ngủ không nổi! Lời phát biểu của Tuấn khiến cả khối phải nén cười. Tên Thịnh hình như hiểu biết, hắn đã phải chận lại lời phát biểu quái quỷ của Tuấn và nói. - Không, cái này thì anh Tuấn có thể phát biểu sai đấy. Tôi biết có bệnh nghiến răng... Tên quản giáo và Quách Tứ đã trở lại. Sau khi đứng hò hét một lúc hắn lại bỏ đi. Quách Tứ không đợi anh em hỏi vội lên tiếng. - Không hiểu lý do gì quản giáo lại lôi tôi lên khung hỏi về Trần Trọng Minh. Giọng Ba Trợ. - Nó hỏi gì? - Thì đại khái nhận xét thế nào về Minh? Hồi xưa ở không quân có chơi với nhau không? Minh lái loại máy bay gì? Trước đây chiến đấu ra sao? Cấp bậc có phải là trung úy hay là trung tá? Có bao nhiêu Anh Dũng Bội Tinh?... - Rồi ông trả lời sao? - Dĩ nhiên tôi đâu biết gì mà trả lời. Nó lái khu trục, tôi lái trực thăng; nội sự khác biệt này cũng đã không có dịp mà quen biết nhau rồi. - Thế sao làm việc lâu thế? Quách Tứ có vẻ giận trước câu hỏi hơi thiếu tế nhị của Đặng Xuân Bính. Anh không nói thêm gì nữa, chỉ kêu gọi anh em cầm cuốc làm việc trở lại. nếu như các anh đừng phạm những tội phản quốc tày đình, thì mùa Xuân thống nhất, Xuân hòa bình này đã phải đến với Tổ quốc ta, với nhân dân ta nhiều chục năm về trước. Chính vì sự ngoan cố ngoan cường của các anh đã làm cho đất nước ta mất đi bao mùa Xuân. nhắc nhở các anh phải ý thức đúng vị trí cải tạo của mình, phải nhớ mình là kẻ có tội, và có nghĩa vụ học tập tốt, lao động tốt, cải tạo tốt, sớm trở thành những người công dân lương thiện của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. CHƯƠNG 24 https://isach.info/story.php?story=dai_hoc_mau__ha_thuc_sinh&chapter=0027 Phần 11 Đại Học Máu- TRẠI TRẢNG LỚN- Hà Thúc Sinh https://youtu.be/3mD07LUA_Fg Trong lúc ban hợp xướng tập lại với bài Hò Kéo Pháo thì tên chính trị viên Thảo xuất hiện nơi cửa hội trường. Hắn đảo mắt một vòng rồi bước lại phía Hóa đứng. Đợi cho câu hát cuối cùng chấm dứt bài hát đang dợt, hắn lên tiếng. - Này anh Hóa! Hóa quay lại. - Ồ anh... tôi đang muốn gặp... Tên chính trị viên khoa tay. - Tôi quán triệt vấn đề rồi. Cứ yên tâm tập dợt như thường. Tôi sẽ ở đây đích thân kiểm tra. Hóa muốn chơi tên quản giáo khối 4 một cái. Anh nhỏ nhẹ nói với tên Thảo. - Báo cáo anh ban nãy theo sự lên lớp của anh quản giáo khối 4, anh em đều ái ngại và không muốn tập tiếp bài Mùa Xuân Đầu Tiên nữa... Tên chính trị viên lại xua hai tay như đuổi ruồi. - Tôi đã bảo rồi. Tôi trách nhiệm và cho các anh học trình diễn bài ấy. Cái nhà anh quản giáo Thìn ấy thì biết cái gì! Anh ấy học chưa qua lớp 3 ấy mà... Hóa thấy tên chính trị viên còn coi đồng bọn của nó chẳng ra gì nên anh không nói thêm nữa. Anh quay lại điều khiển anh em hát bài Mùa Xuân Đầu Tiên để cho tên chính trị viên duyệt. Tên Thảo đứng coi một lúc và gật gù ra chiều chịu lắm. Hắn đi tới đi lui, góp ý cho hết toán này sang nhóm nọ. Hắn đứng lại bên cạnh họa sỹ Hiếu Đệ, ngó anh đang vẽ rồng vẽ phượng trên một miếng giấy bao xi măng lớn bên hông sân khấu. Tiếng Gọi Thanh Niên, một bài hát của một tên Cộng sản đỏ au từ trong ra ngoài là Lưu Hữu Phước nhưng lại được các ông chính quyền quốc gia tiếp nối chọn làm quốc ca! Bài hát này, dù ngày nay trong nước chẳng còn ai công nhận nó là Quốc ca nữa, kể cả bạn và thù, nhưng trong cái giây phút trừ tịch lắng đọng nhất của tâm hồn, bài hát được tập thể hát lên như khơi dậy trong lòng người một nổi niềm vô hạn hận! Ác hơn, chẳng ai chịu hát theo lời gốc của bản nhạc. Như cái máy, bọn tù đều hát theo lời được chính quyền quốc gia sửa lại và dùng làm tiếng linh hồn cho cả miền Nam Tự Do!... Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống... CHƯƠNG 26 Phần 11 Đại Học Máu- TRẠI TRẢNG LỚN- Hà Thúc Sinh https://youtu.be/3mD07LUA_Fg 52:45 Một hành khúc nổi tiếng của Phạm Duy soạn hồi kháng chiến, tại sao tên chính ủy trung đoàn không hề biết? Nhưng nếu quan sát kỹ một tí vào nguyên tắc dùng cho mặt trận tuyên truyền của Cộng sản, người ta sẽ không còn phải ngạc nhiên. Trên mặt trận văn hóa (và đối với Cộng sản nó đồng nghĩa với mặt trận tuyên truyền), Cộng sản khác Quốc gia (ít nhất là quốc gia Việt Nam) ở chỗ chúng vô cùng cẩn trọng trong việc xử dụng tác giả và tác phẩm. Trong xã hội Cộng sản dứt khoát không thể tìm ra được hạng văn nghệ sỹ chân trong chân ngoài. Cái kiểu đứng núi này trông núi nọ, hoặc xanh vỏ đỏ lòng với chúng, hoặc viết lách lập lờ đánh lận con đen như một số thằng văn thi nhạc sỹ ở miền Nam trước kia ắt không còn chỗ đội nón tức thì. Cũng nằm trong cái chiều hướng cực kỳ cẩn trọng ấy, trên hệ thống phát thanh của Cộng sản, sau 30 tháng Tư, người miền Nam lắng nghe mãi để tìm thấy những cái tên quen thuộc như Văn Cao (trừ bài quốc ca nhưng đã có tin đồn sẽ thay đổi nay mai), Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Doãn Mẫn... nhưng hầu như rất hiếm hoi được nghe thấy nhạc của những nhạc sĩ Cách mạng gốc trí thức tiểu tư sản này; thay vào đó toàn là những cái tên lạ hoắc như Xuân Hồng, Huy Du... Không phải những lớp nhạc sĩ đàn anh kia không cúc cung tận tụy phục vụ Đảng, nhưng vì với đường lối vô sản chuyên chính của Cộng sản, những người gọi là cũ, có tí dây mơ rễ má với... thuốc phiện, với cô đầu, tim óc từng trải qua một thời văn hóa Phú Lang Sa phản động, thì giả như có quá cần, chúng cũng chỉ xử dụng tí đỉnh trong buổi giao thời. Tới lúc chúng đã đào tạo được một thế hệ mà chúng gọi là thế hệ trí thức xã hội chủ nghĩa, thì lớp cũ coi như xong, coi như một mớ rác và sẽ bị quăng vào cái thùng rác của lịch sử. Nếu như vì một lý do ngoại lệ nào đó chưa thể quăng hết vào thùng rác lịch sử được, những văn nghệ sĩ lớp cũ cũng chỉ được "đóng góp đền ơn Cách mạng" một cách vô cùng khiêm tốn, và việc các tác phẩm của họ được nhà nước phổ biến rộng rãi tuyệt nhiên không bao giờ xảy ra. Đó là với những người cũ vì lý do này lý do nọ ở lại miền Bắc để phục vụ chế độ Cộng sản, nói chi một người như Phạm Duy, một thiên tài của đất nước nhưng trên thực tế nền văn nghệ Cộng sản đã khai tử ông từ hai chục năm qua, kể từ khi chúng gắn cho ông bản án "phản bội kháng chiến!". Tiếng Gọi Thanh Niên, một bài hát của một tên Cộng sản đỏ au từ trong ra ngoài là Lưu Hữu Phước nhưng lại được các ông chính quyền quốc gia tiếp nối chọn làm quốc ca! Bài hát này, dù ngày nay trong nước chẳng còn ai công nhận nó là Quốc ca nữa, kể cả bạn và thù, nhưng trong cái giây phút trừ tịch lắng đọng nhất của tâm hồn, bài hát được tập thể hát lên như khơi dậy trong lòng người một nổi niềm vô hạn hận! Ác hơn, chẳng ai chịu hát theo lời gốc của bản nhạc. Như cái máy, bọn tù đều hát theo lời được chính quyền quốc gia sửa lại và dùng làm tiếng linh hồn cho cả miền Nam Tự Do!... Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống... Hát theo mọi người, lòng Vĩnh cũng dâng lên một niềm thương hận khó tả. Yêu ai yêu cả đường đi. Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng! Bài hát ấy là của thằng Cộng sản đẻ ra, để cho sòng phẳng oán ân dứt khoát phải quăng nó vào thùng rác của lịch sử. Trời ơi! Miền Nam Tự Do có biết bao nhiêu nhạc sỹ tài hoa và có ý thức phân minh quốc cộng, những Phạm Duy, Hùng Lân, những Phạm Đình Chương, Cung Tiến, những Anh Việt Thu, Nguyễn Đức Quang... Tại sao các chính quyền quốc gia coi họ như những kẻ đứng bên ngoài cuộc? Tại sao lại đi quảng cáo không công cho một thằng nhạc sỹ Cộng sản, bằng cách cùng một lúc đem hai ca khúc của nó biến thành hai bài hát quan trong nhất cho một đất nước, ấy là bài Quốc ca và bài Chiêu Hồn Tử Sỹ? Vô ý thức, vô trách nhiệm và bất cố liêm sỷ như thế mà đứng vào hàng lãnh đạo quốc gia thì thua Cộng sản từ gốc thua ra rồi! Phần 17 Quyển Hai | Đại Học Máu- TRẠI AN DƯỠNG https://youtu.be/QOpNPZoysmE CHƯƠNG 36 Vĩnh bị đuổi về trại ngay ngày hôm sau. Anh bị đuổi về trại đi lao động lúc chưa đi hết được một vòng trại bệnh, nhất là cơn đau trong người chỉ mới lắng xuống chưa có một hy vọng nào khỏi hẳn. Buổi sáng, sau lúc điểm danh và khám bệnh, tên y sỹ Việt cộng rờ rờ mó mó vài cái vào lưng Vĩnh rồi ra lệnh phát cho anh 5 viên Vitamin C, đồng lúc nhỏ nhẹ bảo anh. - Thôi nhé, hôm nay xuất viện về trại sinh hoạt chung với anh em nhé. Sỏi thận anh nếu có cũng nhỏ thôi, từ từ rồi nó trôi xuống bàng quang tiểu ra ngoài là hết. Nói rồi hắn lật lật mấy tờ giấy trước mặt, ơ hờ dặn Vĩnh thêm vài câu. Khi đi lao động, nếu gặp cỏ Sam hoặc dây Nhãn Lồng nhớ thu hoạch về nấu uống nhé. Uống mấy thứ ấy lợi tiểu tốt lắm. Biết mình vẫn còn có thể đau vật vã trở lại, nhưng tên y sỹ đã nói thế nên Vĩnh đành đem theo mấy lời khuyên của hắn trở về trại. Mới xa cảnh cũ có hai ngày hai đêm, trở về đã có một số thay đổi. B2 hiện tại đã biến thành nhà 2 đội 17. Các nhà viên cũng thay đổi gần hết. Vĩnh trở về trại đúng giờ cơm chiều nên đụng độ ngay với những nhân vật mới. Lúc này guitarist Nhan Quang Minh đã lên làm nhà trưởng. Bính, Hóa, Kim... đã chuyển hết sang các nhà khác đội khác. Vĩnh được bổ sung vào tổ 5. Tổ trưởng là Hoàng Văn Ân tự Ân xệ. Tổ 5 người ngoại trừ Ý là người cũ còn thì toàn là những người mới. Những người mới này cũng có thể là những người Vĩnh từng quen mặt trên Trảng Lớn như: Võ Hữu Hiệp, trung úy khóa 27 Thủ Đức sỹ quan quân nhu; Vũ Duy Dương, trung úy khóa 2/68 Thủ Đức một đại đội trưởng của SĐ9BB; Bùi Duy Hạ, trung úy khóa 4/69 Thủ Đức (có vợ là một vũ nữ sexy nổi tiếng Sài Gòn một dạo); Trương Hồng (gốc Tàu), Hải quân thiếu úy (Trước 75 từng trốn sang Hồng Kông nhưng sau đó bị dẫn độ về trao trả cho VNCH, hiện đang trong tình trạng nửa điên nửa tỉnh)... Những người hoàn toàn mới hiện ở cùng tổ như: Phạm Xuân Huy, trung úy khóa 2/68 Thủ Đức sỹ quan P2/TTM; Đặng Minh Tuấn, trung úy khóa 2/68 Thủ Đức sỹ quan nhảy toán (Anh chàng này trông hao hao một anh Tây thực dân nên râu ria có chiều rậm rạp nhất trong anh em)... Tổ 5 của Vĩnh hiện có những nhân vật như thế. Nhưng dù mới hay cũ cuối cùng cũng đều là bạn nhau cả. Hiện tại Vĩnh chỉ gặp tí phiền hà là đang phải nằm giữa hai nhân vật nổi tiếng của nhà 2 đội 17. Thiếu úy Trương Hồng, kẻ tịnh khẩu từ ngày nhập trại tù và tính tình rất khó chịu. Dẫu rằng chỗ nằm của mỗi người chỉ có hai gang tay rộng, nhưng nhất định anh ta không bao giờ cho phép người nằm cạnh được kê cái mép chiếu đè lên trên cái mép chiếu của anh ta. Người thứ hai là ông Đáp tự Inoxidable, người ở bẩn và làm biếng về tất cả mọi mặt vào hạng vô địch! Tuy nhiên cái cảm giác khó chịu ấy dần dần cũng tan đi! Vĩnh đã tìm được cái thú thưởng thức lén những bức danh họa của Hải quân thiếu úy Trương Hồng. Mỗi khi đi lao động về, ngoài giờ cơm nước, Hồng lặng lẽ ngồi vẽ những chiếc Boeing hoặc những chiếc thương thuyền với đầy đủ chi tiết và giống không tưởng tượng được. Đã có lần Vĩnh nghĩ nếu tay này được theo học những lớp đào tạo kỹ sư design các kiểu máy bay và tàu bè thì nhất định hắn phải đậu thủ khoa. Có lần Vĩnh phát hỏi Hồng: Ông vẽ những kiểu tàu bè máy bay ấy làm gì vậy? Nghe hỏi, Trương Hồng giật bắn mình và vội gấp quyển vở lại. Hắn nhìn Vĩnh với tất cả sự bực bội, tuồng như một người đã bị một người khác thô bạo lôi anh ta ra khỏi giấc mơ tuyệt vời của mình. Dĩ nhiên Vĩnh chỉ nhận được một thái độ yên lặng đầy khinh bỉ của Hồng. Nhưng rồi một lần, Vĩnh đã khám phá ra giấc mơ của người tù nằm bên cạnh. Vào một buổi sáng, vì sơ hở nào đó, Hồng đã để rơi quyển vở gia bảo của anh ta nơi đầu chỗ nằm. Vĩnh lượm được và vội mở ra xem. Ngay đầu quyển vở, một hàng chữ được kẻ sắc và đẹp như co chữ in Vendom 16. Hàng chữ viết rằng: Hỡi Boeing! Hỡi những du thuyền! Bao giờ chúng mày chở tao ra khỏi thế giới này!? Vĩnh vội vàng gấp quyển vở lại và nhét vào đống đồ đạc đặt trên kệ đầu chỗ nằm của Hồng. Vĩnh thoáng chút ngậm ngùi. Anh đã tìm ra được một phần nỗi ẩn ức sâu kín của người bạn tù nổi tiếng vì tịnh khẩu. Từ đó, anh cố gắng hết sức không làm phiền gì đến Hồng nữa, dù là chỉ để mép chiếu của mình chạm vào mép chiếu của bạn. Vài ngày sau đó, theo cái đà cải tổ của trại về các mặt, các đội được lệnh tuyển một người đau yếu và biết qua nghề y tá. Người này được lao động tại trại với nhiệm vụ phụ giúp ban quân y trại lo sức khỏe cho các đội viên khai bệnh. Trong vụ này, Vĩnh may mắn hội đủ cả hai điều kiện và được đội 17 biểu quyết cho làm công tác y tá đội. Đời tù khổ sai kể từ đây coi như được chút nhàn nhã. Mỗi ngày, khi tiếng kẻng báo thức nổi lên, trong lúc anh em đánh răng súc miệng, Vĩnh cầm quyển sổ đi qua các nhà ghi tên những người khai bệnh trong ngày. Danh sách khai bệnh sẽ được làm thành hai bản, một nộp cho quân y trước giờ khám bệnh, một nộp cho đội anh nuôi. Chưa cần biết quân y chuẩn mạch định bệnh ra sao, đội anh nuôi cứ việc cắt khẩu phần cơm độn khoai trong ngày của người bệnh cái đã. Thay vào đó sẽ cấp phát cho người khai bệnh mỗi bữa một bát cháo! Đó là chuyện của nhà bếp, riêng nhiệm vụ của Vĩnh còn phải làm tiếp tục là nổi lửa nấu một ấm nước sôi luộc kim và ống chích. Việc này Vĩnh có quyền làm ngay tại phòng ngủ của anh. Những người khai bệnh có thuốc chích, hoặc giả được quân y phát cho một mũi Atropine nếu đau bụng, một mũi émitine nếu còn kiết lỵ lai rai, hoặc mội mũi B1 nếu chứng phù thũng vẫn còn làm đôi chân mập ú và nặng chình chịch; thì cứ việc đem thuốc đến cho Vĩnh. Vĩnh sẽ làm tròn nhiệm vụ của một anh y tá chích thuốc không thù lao. Thường thường công tác chích choác cho những bệnh nhân trong đội cũng lai rai hết cả buổi sáng. Khi không còn con bệnh nào đến nhờ chích nữa, Vĩnh lo rửa sạch hai cái ống chích bằng nước sôi và mài lại hai cái kim được Trên giao phó quản lý và xử dụng. Mỗi lần lôi đồ nghề ra xử dụng hay cất nó đi, Vĩnh không tránh khỏi một cảm giác sợ hãi. Hai cái ống chích thuộc loại "Mỹ ngụy" dùng một lần rồi bỏ, tuy nhiên, nhờ Cách mạng vào, hai cái ống chích ấy đã và đang được kéo dài tuổi thọ không biết đến bao giờ nữa. Ngày nay, vì luộc đi luộc lại, cái ống nylon đã ngả màu vàng cạch trông như hai điếu thuốc cẩm lệ vấn hơi to. Lớp cao su bọc đầu bơm của ống chích bên trong cũng đã lão hóa, do đó, mỗi lần bơm thuốc cho bệnh nhân, Vĩnh phải rất cẩn thận thuốc mới không vọt ngược về phía sau. Riêng hai cây kim, vì bị mài đi mài lại trên một miếng đá hoa, giờ nó chỉ còn phân nửa chiều dài so với chiều dài cũ của nó. Đã lắm lần đang chích kim bị tắc, Vĩnh lại phải lấy kim ra, dùng một mẩu dây thép lõi lấy từ một đoạn dây điện thoại dã chiến để thông kim. Thê thảm hơn, ấy là khi chích cho bệnh nhân! Vì không có rượu cồn cũng không có bông, Vĩnh phải lấy một miếng áo thung dùng làm compress, chấm tí thuốc đỏ chùi kim và lau sạch chỗ da thịt của bệnh nhân trước khi đâm mũi kim vào; ấy thế nhưng có lẽ nhờ mát tay, không ai bị áp-xe cả. Dù nhiệm vụ hiện tại so với anh em lao động bên ngoài hơi kém vinh quang, nhưng Vĩnh đã cố gắng hết sức để không bị một nhân vật tiến bộ nào ganh tị hay chê trách. Với nhiệm vụ chích cho anh em, dĩ nhiên Vĩnh có thể biết rất rõ ai trong đội là người có nhiều thuốc men nhất. Quả không khó gì trong việc gây cảm tình với một anh bệnh nhân có nhiều thuốc. Và khi cảm tình đã có, việc xin xỏ họ một viên thuốc, một tí dầu nóng cho người đang cần mà không có, đã trở nên rất dễ dàng. Vĩnh lặng lẽ chơi chiến thuật bới anh nhà giàu đắp cho anh nhà nghèo trên mặt thuốc men, một thứ luôn luôn hiếm và quý trong tù cải tạo. Tuy nhiên với Nguyễn Văn Bông 1 một anh chàng đồng bệnh sạn thận với Vĩnh bên nhà 3 coi như rất khó áp dụng chiến thuật này. Hắn có cả nửa bao cát thuốc đủ loại. Mỗi loại một ít. Từ dầu nóng Con Hổ đến hủ Bi (tuy đã quá hạn!) hắn đều có trong tay. Nhưng xin cho anh em thì không bao giờ thành công cả. Nếu nhìn qua hiện tượng, người ta có thể chê trách Bông thiếu tình đồng đội; nhưng nếu đi sâu vào một khía cạnh tâm lý nào đó của Bông, người ta sẽ thông cảm ngay. Phải nói rằng hắn mang bệnh sưu tập thuốc Tây trong tù. Vĩnh không rõ xưa kia Bông có bị cái bệnh này không? Anh đoán có lẽ là không. Căn bệnh này chỉ có thể đã xuất hiện khi Bông phải chứng kiến quá nhiều cái chết rùng rợn trong tù do không có thuốc men chữa trị mà ra. Từ đó, mỗi đợt quà gia đình gửi vào. Bông nhịn ăn tất cả mọi thứ. Hắn lân la gạ gẫm với mọi người để đổi đồ ăn lấy thuốc Tây. Giá cả trao đổi với anh em cũng rất phải chăng. Hắn có thể vui vẻ đổi 3 điếu Vàm Cỏ lấy một viên Aspirine, hoặc 5 thìa súp đường cát lấy 10 viên B1 loại 200mgs. Trụ sinh hắn có thể trả cao hơn, chẳng hạn hắn có thể đổi một lọ mắm ruốc xào xả riềng ớt lấy 5 viên Néomycine. Cứ thế, sau vài lần quà cáp được gia đình gửi vào, Bông đã sở hữu được một số thuốc Tây đáng kể... Mỗi sáng sớm trước khi đi lao động, hoặc mỗi buổi trưa trở về trại nằm vật ra thở chờ tổ trực lãnh cơm về phát, Vĩnh quan sát và thường tìm ra nhiều hiện tượng khá vui trong anh em. Tỉ dụ trước kia khi còn nằm cạnh anh chàng trung úy hải quân Phạm Kim, trưa nào Vĩnh cũng thấy Kim nằm tại chỗ mà không ngủ. Kim luôn luôn cầm một quyển vở kê sát mặt. Vĩnh để ý thấy có lúc Kim nháy mắt với trang giấy cười khúc khích, có lúc bỉu môi như giận hờn, có lúc thầm thì như tỏ tình với trang giấy. Vĩnh thắc mắc quá sức. Thằng này điên rồi sao? Hay là hắn đã quán chán chê con người và cảnh lao tù nơi đây, quay ra say đắm và trò chuyện với quyển vở của hắn? Sự tò mò một hôm đã buộc Vĩnh moi quyển vở của Kim ra xem. Sau cùng, anh phát hiện ra trong quyển vở ấy một chuyện lạ lùng vào hàng đệ nhất kim cổ. Kim đã cắt một ô vuông trên một trang giấy. Hắn vẽ rồng vẽ phượng quanh ô vuông đó. Đàng sau ô vuông cắt thủng trên trang giấy Kim đặt cái gì? Hắn đã đặt tấm ảnh bà xã hắn vào đó. Thế là hắn đã có một khung ảnh lồng chân dung vợ trong quyển vở. Vĩnh cười phá lên khi biết bạn mình hằng bao tháng ngày qua, trưa nào cũng thủ thỉ với người... trong tranh. Chao ôi, lãng mạn đến thế là cùng! Hoặc giả trường hợp ông Inoxidable! Mỗi phần cơm ông lãnh, ông luôn luôn để ra vài thìa và đem phơi khô. Chiều về, ông lấy mấy thìa cơm phơi khô đó đổ vào một cái bao cát và nhét dấu trong túi quần áo. Chẳng ai hiểu ông ta để dành cơm độn khoai phơi khô làm gì. Nếu một tay khỏe mạnh như Đặng Xuân Bính, Nguyễn Văn Ý... thì người ta còn có thể nghi ngờ là tích trữ lương thực cho một âm mưu vượt ngục. Nhưng ông Đáp nhất định không thể nào là một người có âm mưu trốn trại được. Ông ta đau xương sống đi hết muốn nổi, nói gì đến chuyện trốn trại vượt ngục. Vậy ông ta tích trữ lương thực phơi khô làm gì, khi mà khẩu phần hàng ngày có ăn nhiều gấp ba lần cũng chưa no? Chuyện này chỉ có Trời biết... Riêng anh chàng Bông cũng tạo ra những hoạt cảnh thật vui mà không sáng tối nào Vĩnh không được thưởng thức. Ngày hai lần, khi mở mắt và trước khi đi ngủ, anh ta lôi đống thuốc Tây ra đếm từng viên, từng loại. Vĩnh có cảm tưởng như Bông sợ có ma quỷ nào đó đã lén nhập vào bị của anh để uống mất những viên thuốc đó. Nhưng điều quan trọng với Vĩnh hiện tại là làm sao khiến Bông chia xẻ tí thuốc đó cho nhiều anh em đang cần thiết. Một hôm Bông lên cơn đau sạn thận. Hắn cũng lăn lộn, cũng rên xiết y như Vĩnh trước đây. Đồng bệnh tương lân, Vĩnh tìm mọi cách để giúp hắn đi viện, vì anh đã biết rằng ít nhất trên bệnh xá hắn cũng được lụi đại vào thận một mũi thuốc quái quỷ gì đó làm cho cơn đau qua nhanh. Vĩnh đến thăm Bông tại chỗ nằm của hắn vào một buổi sáng. Hắn đang gào la tự do vì các bạn đã đi lao động, không còn ai ở nhà để sợ phải phiền hà. Dặn dò và giúp đỡ Bông vài việc, nhất là việc phải tiếp tục la hét cho thật dữ dội khi thấy tên cán bộ quân y xuất hiện. Sau đó, Vĩnh chạy đi báo quân y. Một lúc quân y theo Vĩnh xuống chẩn bệnh tại chỗ. Bước vào phòng, Vĩnh hơi hoảng vì Bông đã nằm nín khe. Mặc dù mồ hôi mồ kê vã ra như tắm nhưng rõ ràng cơn đau đã qua đi; và như thế, hy vọng đi viện sẽ rất ít. Vĩnh chồm tới bên cạnh Bông, nhắc khẽ: Rên đi! Bắt đầu rên và sửa soạn la hét lên chứ! Khổ nỗi Bông quá thật thà và không biết cách đóng kịch cho đúng lúc. Tuy nhiên đã nhất quyết giúp Bông đi viện, Vĩnh phải tìm ra một phương cách. Trong lúc tên quân y lấy ra một mũi Atropine sửa soạn chích thì Vĩnh thò tay vào lưng Bông tìm vị trí hai quả thận. Anh dùng sức mạnh ấn một ngón tay vào quả thận bên trái của Bông. Một tiếng thét vang lên: Ối trời ơi! Đau quá trời ơi! Vĩnh ấn thêm mấy cái nữa. Bông dẫy như một con tôm tươi và tiếp tục la hét. Ối trời ơi! Chết tao mất, Vĩnh ơi! Ối trời ơi đau quá Vĩnh ơi! Vĩnh cúi xuống nhỏ nhẹ an ủi. - Hét nữa đi, hét cho to vào. Đi viện có thuốc chích lại được nghỉ lao động. Mày không hét tao sẽ bóp nát quả thận mày. Nói rồi Vĩnh nhấn thêm vào lưng cu cậu vài ba đòn nhất dương chỉ nữa. Bông cứ thế mà la hét và dẫy lên như đĩa phải vôi. Kết quả tên quân y cho kêu tổ trực khênh Bông lên bệnh xá gấp. Ba ngày sau Bông trở về trại, hý hửng nói với Vĩnh. - Trên viện ăn sướng quá mày nhỉ. Có cơm trắng và cá kho. - Và có một mũi thuốc đâm vào thận. - Ừ, tao ghê quá. Nhưng đúng dịp chúng nó được mua đồ, tao mua được một bịch mắm ruốc, một ký đậu phộng và nửa ký đường. Tao sẽ biếu ông ký chích một ít lấy thảo. Từ đó, túi thuốc của Bông vơi dần. Vĩnh nghiễm nhiên biến thành một cái cầu bắc giữa người có thuốc và người cần thuốc trong anh em. Nhưng nếu có người xấu miệng, Vĩnh vẫn hân hoan mang cái tiếng "mượn đầu heo nấu cháo", hoặc "của người phước ta". Sau lần đầu tiên đi viện về, Vĩnh được giữ cái "phông xông" thoải mái như thế. Thoải mái hơn nữa là mỗi buổi chiều bên những người bạn mới nhưng giờ đã biến thành cũ, Vĩnh ngồi uống với họ một bát nước "nhãn lồng" hoặc một bát nước Hà Thủ Ô bàn những chuyện thăm nuôi sắp đến. Bạn cũ, mới lúc này hay ngồi với nhau gồm Tiến, Kim, Ấn xệ, Huy, Ý, Dương và Tuấn râu. Tiến vẫn cái tật ba hoa hài hước, nhưng hiện nay nó đã được anh em đặt cho cái tên mới gọi là Tiến Dế. Sở dĩ Tiến có cái tên này vì gần đây cu cậu phát minh ra một nghề mới để chữa bệnh nghiện thuốc của anh em. Nếu vô địch đô vật VNCH Vương Đắc Vọng hoặc trung úy dù tử thủ Đỗ Duy Tích đề ra châm ngôn "bất cứ sinh vật nào ngọ nguậy được trên mặt đất đều ăn được cả", thì Tiến cũng sáng tác ra một câu châm ngôn mới: Thuốc mua, thuốc xin hay thuốc lượm đều hút sướng như nhau! Do đó, mỗi khi được đi lao động trên trung đoàn, nó thường lén lút mở một cuộc hành quân khắp mọi xó xỉnh để lượm những mẩu thuốc lá thừa của bọn cán bộ trung đoàn vứt bừa bãi trên mặt đất. Tiến thu thập và bỏ những mẩu thuốc đó vào một cái bao nylon. Khi trở về trại, nó ngồi tách những mẩu thuốc thừa đó thành một nắm thuốc vụn. Kế đó, Tiến đi xin nước điếu của anh em, ngâm thuốc vào nước điếu rồi cầu kỳ đem thuốc ra phơi sương... Những trò góp nhặt hơi bẩn thiểu ấy dù sao đều được anh em đánh cho chữ đại xá, vì chính nhờ đó, đêm đêm cả bọn có tí khói phì phà với nhau bên những bát nước dây nhãn lồng thơm thơm để bàn chuyện... vượt ngục. Và câu chuyện vượt ngục từ đó bắt đầu nhen nhúm mạnh mẽ trong tâm hồn anh em. Nhất là khi ông già lờ vờ Phạm Xuân Huy gốc tu xuất và lành như cục đất, phát ngôn rằng: Vượt ngục là một bài toán dễ ợt, nhưng nếu không quyết tâm, lạng quạng đến lúc xuống lỗ cũng chưa giải ra! Khi câu chuyện vượt ngục được đưa ra bàn thì nhóm của Vĩnh chỉ thu lại còn có 6 người. Vĩnh, Huy, Ý, Dương, Tuấn râu và Phạm Điểu. Nhiệm vụ của Vĩnh lúc này là ở nhà, ngoài những giờ chích thuốc cho anh em, phải uốn hai trăm cái móc làm bằng sợi thép gai có chiều dài chừng một gang tay. Những móc sắt này sẽ dùng để nâng những lớp concertina dầy đặc thả chung quanh trại, dọn đường cho những người vượt ngục chui ra. Bên cạnh nhiệm vụ ấy Vĩnh còn nhiều nhiệm vụ khác. Từ việc trao đổi và tích trữ thuốc Tây, muối, nhất là mì chính (bột ngọt) để dùng làm thuốc cầm máu đến việc se dây thừng, thuổng một con dao phay của nhà bếp để cất dấu vào một nơi an toàn. Nói chung về mặt "tiếp vận" Vĩnh phải lo từ A đến Z. Sau nhiều lần bàn thảo, mọi người đồng ý đợi qua đợt thăm nuôi sẽ trốn. Ai cũng hy vọng sẽ biết thêm được tin tức của xã hội bên ngoài để chuyến vượt ngục sẽ có một nơi đến chắc chắn hơn, và nhất là có được thuốc men cũng như những món ăn bồi dưỡng của gia đình đem vào. Riêng Vĩnh, Vĩnh nghĩ đến cái địa bàn bỏ túi mà anh nhớ anh còn để trong một ngăn kéo bàn giấy ở nhà... Khi những cơn mưa tầm tã tháng Mười kéo đến, thì Vĩnh cũng bị chấm dứt công tác y tá đội. Anh bị chấm dứt công tác vì tên quân y không đồng ý cái kiểu làm việc của Vĩnh: Cho khai bệnh quá nhiều. Vĩnh trở ra ngoài đi lao động với mọi người đúng dịp trại vừa mở một chiến dịch thi công mới, chiến dịch đào hào chung quanh trại cải tạo An Dưỡng. Với lập luận của bọn cán binh trại, Cách mạng phải thực hiện công tác càng sớm càng tốt nhằm bảo vệ các cải tạo viên chặt chẽ hơn, an toàn hơn; tránh những việc đáng tiếc có thể xảy ra nếu một ngày nào đó, nhân dân bên ngoài trại không kềm chế được sự căm phẫn "Mỹ ngụy", sẽ tràn vào trại để đòi nợ máu... Công tác đào hào được thực hiện quy mô hơn cả công tác đào ao trước kia. Hầu như đến 90 phần trăm nhân số của các trại được đổ vào công tác này. Đường hào có chiều rộng 4 mét, chiều sâu 3 mét và bao bọc cả 4 trại vào giữa. Suốt ngày cùng với anh em đào xới những lớp đá ong khô cứng, Vĩnh và các bạn không buồn vì cực nhọc mà buồn vì thấy rằng đường hào rộng như vậy làm sao có thể vượt qua cho những kẻ trốn trại? Dưới sự đốc thúc ngày đêm của bọn cai tù, đường hào mỗi ngày mỗi sâu. Nhưng trước khi đường hào bao quanh các trại tù của An Dưỡng thực sự hoàn tất, thì những cuộc trốn trại liên tiếp xảy ra. Trong thời gian này trại 3 trốn nhiều nhất vì vị trí nằm gần vòng đai phi trường Biên Hòa. Tuy nhiên đa số đều thất bại, bị bắt trở lại và chịu đủ mọi cực hình tra khảo. Để dằn mặt tất cả những kẻ âm mưu trốn trại, bọn cai tù đã trói những người trốn trại bằng dây thép gai trên đường dẫn họ trở về trại thụ hình. Thường khi về tới trại, tội nhân chẳng mấy ai còn trông ra dáng con người nữa. Bầm dập, máu me và lê lết như những con vật bị một đàn hổ đói săn bắt và sắp tới giờ bị chúng xé thịt. Dù tình trạng như thế, ông già Huy vẫn một mực thúc hối đám Vĩnh phải quyết định ra đi sớm. Anh lý luận: Nếu để cho đường hào thành hình thì có tháp cánh cũng không bay ra được... Tuy nhiên lời thúc hối của Huy không được anh em đồng ý. Tỷ lệ thất bại đã quá cao trong tổng số những người trốn trại, đã khiến cả toán rất cần thì giờ nghiên cứu lại vấn đề. Tại sao họ thất bại? Có thực bên ngoài dân bắt họ trao lại cho công an địa phương trên đường đáo thoát như bọn cán bộ trại tuyên bố hay không? Hay họ bị bắt bởi những toán vệ binh đóng chốt bên ngoài? Không thể được! Chuyện trốn trại không thể làm bừa bãi mà xong được, vì thất bại là chết. Những cuộc xử tử người trốn trại từ Trảng Lớn về tới đây đã xảy ra quá nhiều lần. Làm ẩu không nghiên cứu ăn đạn kiểu đó đau lắm! Người trầm tỉnh và nhiều kinh nghiệm mưu sinh thoát hiểm nhất trong đám là Nguyễn Văn Ý cũng không đồng ý với Huy. Ý nói: Ráng nhẫn nhục ăn cơm tù một thời gian nữa rồi tính. Tôi chưa muốn làm liệt sỹ lúc này. Trong đám, mọi người đều tin tưởng vào sự dẫn đường của Ý. Vùng đồi núi Biên Hòa là vùng hoạt động của anh trước kia. Và trục lộ dẫn về miền Phú Cường Bình Dương cũng chỉ mình anh có thể đi tới. Do đó, không ai bàn tính gì thêm nữa. Phải thú thực khi thấy Huy đã nghe lời Ý, Vĩnh rất mừng. Anh không thể nói được anh là một người quá can đảm, khi nhìn thấy những cực hình các bạn trốn trại đã và đang chịu đựng. Dẫu biết rằng ở tù Cộng sản mà không tự cứu mình thì không ai có thể cứu mình được cả, nhưng cứ nhớ lại hình ảnh Ngô Nghĩa bị xử bắn mà anh được chứng kiến, hình ảnh của Nguyễn Xuân Dung bị bắn thủng như tổ ong và còn nhiều người khác nữa nằm vắt xác trên hàng rào trại, hình ảnh những con vật người bị trói bằng dây thép gai, bị báng súng đánh vỡ xương sọ, gẫy xương sống ngay trước mắt bao nhiêu người, bị bắn trọng thương ngoài đồng trống và cứ để mặc cho ruồi bu kiến đậu... Những hình ảnh ấy đã ăn sâu vào óc Vĩnh và không khỏi không làm anh rùng mình, rùng mình rồi sợ, sợ rồi muốn buông xuôi cho xong một kiếp người tù tội. Đồng lúc ấy, cái máu lính trong người Vĩnh lại nổi lên dày vò anh. Nó chửi anh, chửi cái thằng năng tri bất năng hành trong anh là thằng hèn hạ; chửi cái thằng văn nghệ trong anh là thằng đốn mạt, chỉ biết rên la mà không bao giờ đám làm một cái gì để thoát khỏi cái cảnh đày đọa này. Người lính trong anh đã bao đêm lên tiếng chửi anh thậm tệ, và để phản ứng lại, Vĩnh không biết làm cách nào hơn là lại viết. Anh viết trong óc anh và anh hát khe khẽ cho người lính trong anh nghe tâm trạng thực của mình. Về đây tôi nằm lắng nghe tôi Hồ như linh hồn cũng nghe vơi Về đây nhen nhúm trong lòng tôi Lửa diêm sâu chín tầng bóng tối Về đây nghe vật vã cơn mơ Làm xanh tôi tiềm thức năm xưa Về đây đôi vó câu nằm chơi Buồn thay cho cánh hồng im lời Người về đây gối đất Đêm hoang vu trong đầu Nằm lắng tai nghe cuộc đời Lắng nghe sa mạc dần lan trong cơn mơ thôi Về đây nghe buồn quá thân trai Bại binh sao chẳng chết theo ai Về đây đêm tối như trùng vây Nằm nghe non nước gọi u hoài... Những dằn vặt trong lòng cộng với bệnh tật tiếp tục âm ỉ trong người. Vĩnh gầy như một xác lá. Ngày lao động quần quật, đêm về không biết làm sao hơn là lại quây quần với anh em, hút những hơi thuốc lượm lặt của Tiến, uống tí nước cỏ dại dưới cái tên đẹp đẽ "nhãn lồng" mà Kim hoặc Hóa lượm lặt ngoài rừng đem về, nghe Phạm Xuân Huy mỉa mai chế độ, nhìn Tuấn râu lầm lũi thổi lửa trong cái lò nho nhỏ để luôn luôn bảo đảm anh em có nước sôi nấu Hà Thủ Ô nhấm nháp thay cà phê với nhau, lắng nghe Vũ Duy Dương nói về cái lò võ quyền Anh của võ sư Kid Humsey mà nó từng theo học, và nghe Kim châm chọc Dương. Hồi còn bé ở Ông Tạ moa sợ nhất thằng Dương. Sao vậy? Nó dân du đãng nổi tiếng không biết à? Không! Trời ơi, hồi đó moa hãi nó không thua gì moa hãi chó dữ. Đi học gặp nó mà kên kên không cúi đầu xuống, nó đi ngang nhà vác đá ném vỡ cửa kính như chơi... Khi dãy nhà thăm nuôi đã dựng xong nơi khu đất nằm ở góc trại 4, thì ở các trại, các căng tin cũng thành hình. Những căng tin thành hình để cho người ta một lần nữa thấy rằng từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, Cộng sản luôn luôn làm rùm beng y như những gánh sơn đông mãi võ, quảng cáo cho những món thuốc... giả của mình. Dù trước khi các căng tin được mở, Vĩnh không được nghe tên cán bộ quản giáo lên lớp, vì lúc đó anh nằm bệnh xá, nhưng qua các bạn còn ở lại trại, Vĩnh biết rằng bọn cán bộ các trại đã gom tù lên hội trường nói về sự quan tâm của Cách mạng đối với các cải tạo viên, rằng thì là việc thực hiện các căng tin là một chiếu cố đặc biệt của Cách mạng nhằm giúp các cải tạo viên có thêm phương tiện bồi dưỡng trong học tập. Ai cũng đinh minh chữ bồi dưỡng được dùng ở đây là bồi dưỡng thể xác, có nghĩa là chúng sẽ mở câu lạc bộ, dù sẽ bán giá cắt cổ, nhưng bọn tù vẫn còn có thể mua sắm thêm tí thực phẩm, bất cứ loại thực phẩm nào, miễn ăn cho no sau những tháng ngày lê lết đói. Thế nhưng khi căng tin thành hình thì mọi người đều ngã ngửa. Căng tin không phải là câu lạc bộ bán đồ ăn như mọi người tưởng. Căng tin của Việt cộng là một cái lều tranh nhỏ, bên trên là một mái tranh tròn che mưa nắng, dựng trên một cây cột lớn. Trên cột ấy, bọn tù đóng một cái khung gỗ để đính hai tờ báo, một tờ Nhân Dân và một tờ Sài Gòn Giải Phóng! Dù là tâm trạng chung ai cũng muốn biết tin tức bên ngoài, thế nhưng sau khi đọc báo, thứ báo chí toàn những thứ tin tức kiểu "anh hùng công an tay không bắt cướp" hoặc "lần thu hoạch vụ mùa vừa qua xã A đã vượt chỉ tiêu"... Những cái tin như thế, cuối cùng chỉ mua được thêm một số câu chửi thề của người đọc, nhất là người đọc lại là những tên tù có đủ lý do nhất để không bao giờ tin được những mẩu tin của một bọn bồi bút đã và đang hùa theo bọn độc tài đảng trị, liên tiếp đưa ra những luận điệu tuyên truyền lừa bịp dân chúng, cũng như lừa bịp thế giới. Đọc xong hai tờ báo rồi, tên nào cũng thở dài và phát ngôn linh tinh như nhau: Mẹ kiếp, tưởng bồi dưỡng cái gì, hóa ra lại được bồi dưỡng thêm một số khẩu hiệu nữa! Do đó, ai cũng thất vọng về cái gọi là căng tin trong tù. Và người thất vọng nhất ấy là ông già Thanh. Ông Thanh là trung úy đại đội trưởng thiết giáp diễn tập trường Thiết Giáp QLVNCH. Ông người miền Nam, già nhưng giỡn và diễu cũng thuộc hạng cao thủ. Vì gẫy mất hai cái răng cửa, nên khuôn mặt ông lúc nào cũng mang một vẻ hơi hề. Tuy nhiên, sau ngày đầu tiên căng tin được khai mạc bằng một cái lều tranh treo hai tờ báo, ông già Thanh trở về phòng và nằm vật xuống như một cái mền rách. Ông vừa nhận ra ảnh con gái ông được đăng nơi trang nhất của báo Sài Gòn Giải Phóng với hàng chữ thật to: Em Nguyễn Thị Cẩm, 15 tuổi, thanh niên xung phong thuộc huyện Thủ Đức được bình bầu cá nhân xuất sắc nhất trong cuộc thi công thủy lợi do Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng huyện tổ chức đợt vừa qua... Trong lúc ai cũng có trong lòng một mối buồn và một nỗi ưu tư không cách gì giải nổi, ông Thanh buồn vì chả hiểu con gái ông tình nguyện hay bị bắt buộc trở thành một thứ anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, ông Huy buồn vì anh em chưa một lòng cùng ông giải bài toán vượt ngục trong giai đoạn khó khăn hiện tại, Vĩnh buồn vì những dằn vặt trốn trại hay xuôi tay chịu kiếp tù đày!? Bông buồn vì thấy bịch thuốc Tây của mình giờ đây đã vơi mất quá nửa, và hầu như ai cũng buồn khi hiểu ra ý nghĩa của chữ căng tin mà Cách mạng xử dụng...thì tự dưng có người mừng vui phát điên lên vì được thả! Bùi Duy Hạ, bạn cùng khóa của Vĩnh được thả trong đợt này. Hắn đi một vòng chào tất cả các bạn vào một buổi sáng trước giờ xuất quân đi lao động. Hạ lôi tất cả mọi thứ hắn có, từ cái mũ làm bằng giấy bồi, từ những manh quần đùi may bằng bao cát cho đến mùng mền chăn chiếu; nghĩa là tất cả những gì hắn có trong cái tài sản thuộc loại cái bang trong tù, hắn đều tặng lại cho bạn bè mỗi người một thứ. Riêng Vĩnh được hắn tặng cho 10 viên Vitamin C loại 50mgs với lời dặn dò: Mày hãy uống mỗi viên với hai lon gô nước. Lợi tiểu vô cùng. Hy vọng mày uống hết 10 viên này sạn trong thận mày sẽ trôi ra ngoài hết. Cứ yên tâm, tao sẽ ghé nhà mày, mô trả tình trạng và nhu cầu hiện tại của mày với vợ con và ông bà già mày. Trong những lần thăm nuôi tới, chắc chắn mày sẽ có nhiều thuốc men để chữa trị... -------------------------------- 1 Bông bị bắn chết trên hàng rào thép gai trại K.5 Suối Máu vào năm 1978 trong một chuyến vượt ngục bất thành. https://isach.info/story.php?story=dai_hoc_mau__ha_thuc_sinh&chapter=0039 CHƯƠNG 37 Lại thêm một lần biên chế nữa vào hạ tuần tháng 10 năm 76. Lần biên chế này nhằm hai mục đích: Thứ nhất quân bình lại nhân số giữa 4 trại với nhau. Thứ hai hóa giải một số vấn đề mà bọn chỉ huy trại hằng nơm nớp lo sợ. Đó là sự quen thuộc đường đi nước bước trong trại để móc nối với nhau tìm cách trốn trại. Bọn cán bộ trại đã thực sự hoảng hốt trước những cuộc vượt ngục liều lĩnh của bọn tù. Chúng không hiểu tại sao với hệ thống đường hào, với thép gai dầy đặc, với mìn râu thả đầy chung quanh, bọn tù vẫn có nhiều kẻ trốn thoát? Tệ hơn, bọn tù đã phá vỡ một biện pháp mới nhất được ban chỉ huy trại đưa ra gần đây, biện pháp ấy là các nhà phải cắt người canh gác hai cửa ra vào hàng đêm. Mỗi cửa ngồi một người, mỗi người gác một ca hai tiếng. Tất cả những ai rời phòng lúc ban đêm để đi tiêu đi tiểu đều phải có phép và có sự canh phòng của người gác nhà. Khi lệnh này được thi hành, bọn tù đã xì xào bàn tán đủ chuyện. Ngoài việc bàn tán về tính chất khôi hài bắt tù gác tù, mọi người cũng bàn tán thật nhiều về việc sức khỏe bị suy giảm trầm trọng với tình trạng ngày lao động quần quật, cơm ăn thua chó; đêm về lại còn phải chong mắt ngồi gác trước cửa phòng. Dù sao thì sự than thở của bọn tù An Dưỡng cũng không phải kéo dài quá lâu. Sự việc tù phải canh gác tù được chấm dứt ngay khi nhà 5 đội 17, hai tay gác cửa phòng thuộc ca từ 2 tới 4 giờ sáng rủ nhau trốn mất. Tệ hại hơn, hai tay này lại thuộc hàng chức sắc cấp tổ trưởng và tổ phó. Bọn tù, để ăn chắc việc canh gác phải được dẹp bỏ, đã tung ra đủ luận điệu mỉa mai. Nào là "đỉnh cao trí tuệ loài người" đôi khi cũng rất kém thông minh. Nào là giao trứng cho ác... Bọn cán bộ trại cay đắng lắm, nhưng có lẽ sau nhiều giờ chúng ngồi thảo luận gù lưng, chúng đã thấy rằng bắt tù canh gác tù là chuyện lợi bất cập hại, thượng sách vẫn là dẹp luôn chuyện này sau khi lôi bọn tù lên hội trường lên lớp một mách: Các anh thấy đấy, hành động trốn trại của đồng bọn các anh rõ ràng đã đánh đổ tất cả lòng tin yêu của Cách mạng muốn đặt để nơi các anh. Như thế này thì việc cải tạo năm năm, mười năm, hai mươi năm hay lâu hơn nữa sẽ không phải là chuyện vô lý. Rồi các anh sẽ thấy... Mặc cho bọn cán bộ hăm he, bọn tù rất lấy làm khoái trá khi thấy Cách mạng đã lỡ một đường binh. Và càng khoái trá hơn khi biết được việc thăm nuôi đầu tiên sẽ diễn ra vào ngày 20 tháng 10 tới đây bằng một sự kiện tuyệt vời. Sự kiện ấy là tất cả tù cải tạo được đồng loạt nghỉ lao động lên hội trường học về chính sách thăm nuôi, và ngay sau đó lại được lệnh khẩn trương viết thư về gia đình với mọi sự thông báo rõ ràng kể cả thông báo địa chỉ của mình. Rồi thì sáng ngày 19 tháng 10, tất cả các trại viên được lên lớp một lần cuối ôn lại chính sách và nội quy thăm nuôi. Trên căn bản, chính sách và nội quy thăm nuôi cũng không khác chính sách nội quy nhận quà là bao nhiêu. Chỉ có vài đặc điểm được chính trị viên nhắc đi nhắc lại và bọn tù buổi chiều về phòng phải họp tổ để cùng nhai lại với nhau. Để thể hiện lòng khoan hồng độ lượng của Cách mạng, Đảng và nhà nước đã cho phép gia đình của những cải tạo viên phấn đấu tốt, có nhiều biến chuyển tốt trong quá trình học tập cải tạo vào thăm viếng và tặng quà. Để đền ơn Cách mạng, và cũng để tự bảo vệ quyền lợi được thăm viếng, những lần khác nữa, các cải tạo viên phải triệt để chấp hành những quy định sau đây. 1. Triệt để chấp hành mọi mệnh lệnh của các cán bộ hướng dẫn trong cuộc thăm viếng. 2. Triệt để động viên thân nhân và gia đình, sau thăm viếng trở về, tích cực ủng hộ chính quyền địa phương trong công cuộc thực hiện chính sách cải tạo toàn miền Nam. 3. Triệt để đề cao cảnh giác trước mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của bọn tàn quân tâm lý chiến ngụy còn ngoan cố, tiếp tục chống phá Cách mạng, mượn dịp thăm viếng đem vào trại. 4. Các cải tạo viên hoàn toàn chịu trách nhiệm và sẽ bị xử lý nếu vi phạm các mặt sau đây: a. Tuyên truyền với thân nhân, nói xấu chính sách cải tạo đang được áp dụng tại trại. b. Hủ hóa với phụ nữ hoặc có những hành động luyến ái phản văn minh văn hóa dân tộc. c. Nghiêm trị tại chỗ nếu bị bắt quả tang có những hành động liên hệ gián điệp. d. Các cải tạo viên hoàn toàn trách nhiệm về thái độ bất kính của thân nhân và gia đình đối với các cán bộ và chiến sỹ điều hành khu thăm viếng. Những điểm chính giáo viên lên lớp chỉ có thế. Nhưng chiều hôm ấy, dưới sự trụ trì của quản giáo Hồng, nhà 2 đội 17 vẫn phải ngồi gù lưng thảo luận đi, thảo luận lại những điểm chính của bài học thăm viếng. Sau một đêm ngủ dậy, quả thực sáng ngày 20 tháng 10 năm 76, lần đầu tiên người ta ghi nhận được một niềm vui to lớn trong nội bộ lũ tù. Niềm vui ấy lớn hơn cả cái tin tên đại đồ tể Mao Trạch Đông đã về chầu Karl Marx Lenin vào tháng trước. Nó có thể tương đương với tin thằng con Hà Nội đã phản bố Trung Quốc ra mặt sau lần Lê Duẩn đi Nga về. Thăm nuôi! Chao ôi tuyệt vời. Sau 481 ngày tình nguyện đút đầu vào rọ để thưởng thức mùi vị của kiếp thú người, để hiểu được thiên đường Cộng sản méo tròn ra sao, để thông cảm được người dân miền Bắc đã thống khổ đến độ nào dưới sự thống trị của Cộng Sản, để chia xẻ nổi hờn căm ngất trời của những người chiến sỹ vô danh nhảy Bắc thời cố tổng thống Diệm bị bắt giữ mà không ai biết đến và không ai can thiệp cho, để thấy được cái xã hội Cộng sản là một cái hộp sắt kín bưng như thế nào, để trắc nghiệm lại độ chính xác những câu nói của các danh nhân về chế độ Cộng sản ra sao, và nhất là để biết được trọng lượng chính xác của một hạt cơm... Bảy giờ sáng lệnh khung đưa xuống cho tất cả nghỉ lao động. Những tiếng reo hò tở mở vang lên khắp nơi. Tiếng reo hò như một bệnh dịch lan sang tất cả các trại 1,2,3,4. Ngoài cổng trại ban kiểm soát và hướng dẫn thăm nuôi đã thiết lập xong ngay tại nhà trực ban, nơi dùng để kiểm soát nhân số lao động đi và về hàng ngày. Quản giáo Dương rỗ, tên cán bộ gốc miền Nam, ngồi ghế trực chính. Dù chưa biết mình sẽ có tên hay không, ai ai cũng lo tắm rửa sạch sẽ và khoác lên người bộ quần áo tương đối lành lặn nhất. Vĩnh chẳng là thánh, thế nên anh cũng hòa chung nhịp tim hồi hộp với những nhịp tim của mọi người. Anh lẩm bẩm ôn lại cái "chương trình nghị sự" mà anh đã thiết lập trong óc mấy ngày nay với người nhà nếu như anh được thăm. Mười lăm phút thăm nuôi anh biết chắc sẽ qua nhanh lắm. Cứ để cho người nhà khóc lóc, rồi cà kê dê ngỗng những chuyện không cần thiết, chắc chắn anh sẽ không thể hỏi han được gì về những chuyện mà tất cả mọi thằng tù đều muốn han hỏi ở thân nhân. Bên cạnh cái chương trình nghị sự đó, anh cũng không quên thiết lập thêm một cái "bản thực đơn", gồm những món ăn cần thiết nhất để gia đình biết đường mà cung cấp cho anh trong lần tới sao cho "có chất lượng và đạt yêu cầu". Quản giáo Hồng bước vào nhà 2, cà kê dê ngỗng với vài tay về chuyện thăm nuôi, nổi hứng góp ý với bọn tù làm cách nào để đạt yêu cầu trong việc xin xỏ này kia kia nọ, rồi lên lớp tại chỗ bài học thế nào là hữu ái với nhau, thế nào là tình nghĩa chia xẻ cơm áo khi gặp cảnh khó trên đường đời... Để kết thúc cái tâm sự ngang xương với bọn tù, quản giáo Hồng nửa đùa nửa thật: Khi làm bản thu hoạch bài học về chính sách thăm nuôi, anh nào cũng cam kết nghe xôm tựu lắm, ấy thế rồi để mà xem, tôi cá với các anh sẽ không thiếu anh vi phạm nội quy thăm nuôi đâu đấy. Đội nào không biết chứ đội này ai âm mưu gì tôi đã biết cả. Nhưng đã quán triệt thẳng thắn với các anh nhiều lần rồi, cá nhân tôi không cần biết tư tưởng các anh thế nào, tôi chỉ cần các anh đừng nói bậy, làm bậy là đủ. Anh nào vi phạm tôi sẽ thẳng tay trừng trị và đừng bao giờ còn hy vọng tôi dễ dãi... Quản giáo Hồng còn nói nhiều nữa nhưng là vì giờ tự do, ai muốn nghe thì nghe, bằng không vẫn có thể lẩn chỗ khác. Vĩnh thấy Bùi Vịnh và đám bạn của hắn gồm Phước tự George, Chế Chàng Sáng (anh chàng lai Tàu có bộ râu quai nón độc nhất vô nhị trên trái đất, vì... râu chỉ mọc một bên má), Đại 101 và vài tay khác nữa kéo nhau ra giếng giữa sân tắm. Tù tắm còn sợ ai! Thế nên cả đám chuổng cời đứng giữa trời giữa đất kéo nước xối ào ào. Khốn cho cả đám, chỗ giếng tắm của đội 17 lại chiếu thẳng ra cổng trại, nơi có quản giáo Dương, kẻ có mối thù thâm căn cố đế với bọn tù "ngụy" đang ngồi nơi nhà trực ban và nhìn thấy. Trong lúc cả bọn đang vừa tắm vừa tán chuyện ầm ỷ, quản giáo Dương thình lình bỏ phòng trực lao tới. Hắn chống nạnh và đứng chửi tưới hột sen: Chúng mày học tập cải tạo bao lâu rồi? Tao là cán bộ trực ban, đầu tắt mặt tối lo cho chúng mày sửa soạn thăm viếng. Chúng mày lại lấy cớ tắm rửa để dí c... vào mặt tao. Chúng mày là lũ vô giáo dục. Nhân danh cán bộ trực ban tiểu đoàn, tao sẽ lấy tên và cấm chúng mày ra gặp thân nhân kỳ này. Cả bọn đang vui vẻ tắm với nhau, đang hồ hởi phấn khởi bàn đến chuyện ăn chuyện uống có thể xảy ra trong chiều nay; bỗng nhiên gặp họa từ trời rơi xuống, ai cũng điếng hồn. Vì quản giáo Dương xuất hiện nhanh quá, không ai kịp mặc quần áo. Những người trong nhà đứng nhìn ra vừa tội nghiệp vừa buồn cười cho mấy ông bạn tù. Buồn cười nhất là Bùi Vịnh. Những tay khác vì nhanh chân, khi thấy quản giáo Dương hầm hầm xuất hiện, họ đã nhảy ngay đến những cái phuy đặt rải rác quanh giếng để dấu đi một phần thân thể. Bùi Vịnh vốn chậm chạp, khi ngó lại thì không còn cái phuy nào cả, anh đành đứng yên tại chỗ và giơ tay bụm lấy chim! Tuy nhiên cái cảnh buồn cười ấy lại không làm cho quản giáo Dương buồn cười, mà chỉ làm cho hắn tăng thêm cơn giận. Hắn trực tiếp hỏi Bùi Vịnh. - Mày tên gì? - Dạ Vịnh. Bùi Vịnh. - Nhà mấy đội mấy? - Dạ nhà 2 đội 17. Quản giáo Dương bỗng mỉm cười ác độc. Hắn thốt nói. - A, cái đội của đồng chí Hồng đây mà. Một bọn chậm tiến khó cải tạo! Nói đoạn hắn hét Bùi Vịnh. Mày bỏ tay ra và giơ cao lên tao coi. Thân tù, Bùi Vịnh không thể nào làm được cái gì khác hơn là tuân lệnh. Anh đứng giữa sân, hai tay giơ cao, tồng ngồng như một con vượn. Tên Dương lừ một ánh mắt khinh bỉ rồi chửi. Mày có thấy mày dơ dáng dạng hình không? Mày phải nhớ rằng mày thua một con vật xét trên mặt tư cách. Vì con vật nó còn có cái đuôi, nó biết dùng cái đuôi để che dấu đi những cái không đáng khoe ra. Mày nhìn lại mày coi... Trong khi quản giáo Dương đang chửi mắng mấy thằng tù tắm truồng thậm tệ thì quản giáo Hồng hình như nóng mặt. Hồng từ nhà 2 bước ra phía giếng, không cần để ý đến sự có mặt của Dương, hắn hét mấy thằng tù đang lâm nạn. - Mặc quần áo đi vào trong nhà tôi nói chuyện! Quản giáo Dương nhìn Hồng uất ức ra mặt, nhưng có lẽ đã quá rõ tính Hồng nóng nảy, lại mang quân hàm trung úy trong khi hắn chỉ là chuẩn úy, hắn đành hậm hực bỏ đi một nước. Khi thấy Dương bỏ đi rồi, Hồng quay lại đám tù cười cười nói một câu không ai ngờ. - Muốn tắm nữa thì cứ tắm đi. Nhưng đừng tắm truồng trước mặt nó. Thằng ấy nó mất vợ về tay ngụy các anh đấy. Cứ giơ b... ra trước mặt nó, nó thấy lẫm liệt, nó lại liên tưởng đến chuyện xưa và đâm uất lên. Nói rồi quản giáo Hồng cũng bỏ đi. Đám Bùi Vịnh thoát chết, có tiên tổ sống lại bảo tắm nữa cũng không dám tắm. Anh nào anh nấy vội vàng khoác quần áo lên người chuồn êm về nhà. Mười giờ sáng thì hệ thống loa trong trại 1 vang lên, loan báo đợt đầu tiên được ra khu thăm viếng tiếp thân nhân đã chờ sẵn từ sáng sớm. Vĩnh, Tiến, Hóa, Kim, Huy, Ý và cả Phạm Điểu cùng ngồi với nhau bên hiên nhà uống nước nhãn lồng, trò chuyện nhưng hầu như tâm trí đã dồn cả về cái loa. Sau khi loa xướng một hồi, phát ra nhiều cái tên xa lạ, bỗng nhiên nhà 2 vang lên những tiếng reo hò, cộng chung với những tiếng hò reo đã có sẵn và thường xuyên vang lên ở các nhà khác, khi họ nghe thấy một người trong nhà có tên được thăm nuôi, có nghĩa là còn sướng hơn được trúng vé số độc đắc. - Thằng Tuấn có tên rồi! Loa vẫn đọc. Lại có nhiều tiếng la nữa. - Thằng Vĩnh nữa kìa! Trời ơi, cả ông Inoxidable nữa kìa... Cứ thế, mỗi một tên quen thuộc lại được anh em trong cùng nhà chào mừng bằng những tiếng reo hò tở mở và đầy chân thành. Vĩnh đã nghe thấy tên mình. Anh cố làm ra vẻ bình tĩnh, lừng khừng tuồng như còn tiếc cái ly nhãn lồng chưa uống hết. Giọng Tiến cất lên sôi nổi và mừng rỡ. - Đứng lên mày. Vẽ trò ngượng nghịu. Vĩnh đứng lên và nhìn các bạn một lượt. - Thôi xin chia buồn với các quan anh. Đàn em xin vô phép lên thiên đàng trước. Giọng ông già Huy chen vào sặc mùi tiếu lâm. - Nhưng đừng quên rà cái hỏa ngục của bà xã xem sao nghe chưa. Giọng Hóa cũng đầy sung sướng. - Ông Huy, ông đã cho nó một cái bao nylon bọc ngón tay trỏ chưa? Cả bọn cười phá lên với nhau. Riêng Vĩnh, phải thú thật anh mừng kinh khủng. Anh chạy vào nhà hồi hộp kiểm lại lá thư được viết bằng một nét chữ cực nhỏ, cuộn thành một cục to chỉ bằng ngón tay trái, được nhét chặt trong một cái lỗ đục dưới đáy chiếc guốc anh đang đi. Vĩnh không thể không lo âu khi tưởng tượng nếu lá thư trái nội quy bị khám phá ngoài trại kiểm soát. Nhà trưởng Nhan Quan Minh đã lên tiếng thúc hối tập họp những người nhà 2 được thăm nuôi, khiến Vĩnh không có thì giờ nhớ ra thêm một điều gì nữa. Anh chạy ra cửa. Trên vuông sân chạy dọc theo mặt tiền các nhà thuộc đội 17, những người của các nhà khác đã xếp hàng chỉnh tề đợi nhà trưởng hướng dẫn ra cổng trại 1 chịu sự khám xét. Vĩnh nhảy ngay vào hàng. Nhà 2 hiện tại mới có 4 người có tên: Vĩnh, ông Đáp, Tuấn phi công và Minh chuột. Vĩnh và Tuấn đi tay không. Riêng ông Đáp và Minh chuột thì mỗi người trên tay đều cầm một cái bao cát tương đối nặng. Trong lúc chờ lệnh quản giáo cho ra ngoài cổng, tiếng xướng tên trên loa vẫn đều đều: Nguyễn Văn Tâm, nhà 3 đội 17. Lê Thanh Nhàn, nhà 1 đội 16. Nguyễn Tường Lan, nhà 5 đội 15... Trong lúc chờ đợi, Vĩnh cũng cố lắng tai nghe xem có thằng bạn nào khác được may mắn như mình không. Loa vẫn đều đều gọi tên: Trần Thanh Tú, nhà 3 đội 17. Hồ Chí Minh... Xướng tới đây bỗng nhiên tiếng loa im bặt. Bọn tù đang lắng tai nghe đều ngạc nhiên. Ủa, sao tự dưng lại có tên Hồ Chí Minh trong này? Thế rồi qua hệ thống loa, người ta nghe thấy những tiếng lịch kịch lục cục rồi đôi ba giọng nheo nhéo như cãi nhau. Sau cùng cũng nổi lên một tiếng lẩm bẩm nghe thật rõ: Bố láo bố lếu. Dám lấy tên Bác mà đặt... Trong các trại mọi người đều nhanh chóng hiểu ngay vấn đề. Thì ra có một anh chàng nào đó trùng tên với bác Hồ vĩ đại nhà chúng nó, khiến chúng nó cáu. Một lúc tiếng loa xướng tiếp: Trần Văn Giàu, nhà 2 đội 14... Tên Hồ Chí Minh bị bỏ rơi lưng chừng. Mọi người đều tặc lưỡi tội nghiệp cho anh bạn xấu số nào đó, nạn nhân của sự đặt tên "bố láo bố lếu" của đấng sinh thành ra anh. Nơi dãy ghế kê bên hông nhà 2 bỗng một người đứng phắt dậy la làng khi loa xướng đến tên Phạm Kim nhà 2 đội 17. Vĩnh chưa kịp quay lại tỏ một dấu hiệu chia mừng thì Kim đã phóng nhanh vào nhà. Cái dáng dấp nặng nề của một con gấu nơi Kim bỗng nhiên biến mất. Hắn nhảy, hắn reo như thể vừa bị một tay nào đó găm vào đít một cái kim. Tích tắc sau đó đội ngũ nhà 2 đã tăng thêm một mạng. Rồi thì quản giáo Hồng và nhiều quản giáo khác xuất hiện cùng một lượt. Danh sách ra thăm đợt đầu coi như khóa sổ, đợi đợt kế tiếp. Mọi người được hướng dẫn ra cổng để được khám xét. Vĩnh nhìn anh em. Người nào trông cũng tươm tất và hớn hở hơn mọi ngày. Có người đi tay không, có người tay xách túi vai mang bị, thậm chí có cả người đem theo quang gánh. Lần đầu thăm nuôi chưa ai có kinh nghiệm, thành thử tập thể biến mất đi cái đồng dạng cố hữu hàng ngày của nó. Ra tới cổng trại, tất cả đụng ngay gương mặt hầm hè của quản giáo Dương. Các quản giáo khác sau khi bàn giao số người, họ phủi tay trở về trại. Quản giáo Dương bắt đầu một màn lên lớp. - Để thể hiện lòng khoan hồng của Cách mạng, chính sách thăm viếng đã được thực hiện ngày hôm nay. Mọi yêu cầu của Cách mạng các anh đều đã được quán triệt qua nội quy học tập. Tranh thủ thời gian, nhân danh thủ trưởng trại, chính trị viên trại, ban chỉ huy và ban quản giáo trại, tôi quán triệt sơ bộ vài điểm trong kiểm tra như sau. - Thứ nhất, tuyệt đối ngăn cấm mọi cải tạo viên nhận, chuyển thư từ, tư liệu hoặc bất cứ một hiện vật gì ra ngoài hay vào trại cho những cải tạo viên khác. - Thứ hai, tuyệt đối chấp hành nội quy quy định trong thăm viếng. - Thứ ba, tuyệt đối không được liên hệ linh tinh ngoài khu thăm viếng và rời chỗ đã được quy định. - Thứ tư, tuyệt đối phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hành động sai trái của thân nhân ngoài khu thăm viếng. - Thứ năm, khi về trại, phải tuyệt đối chấp hành nội quy khám xét các quà tặng đã được quy định cụ thể trong nội quy học tập. - Thứ sáu, khi về trại, cấm mọi hành động tuyên truyền hoặc bình luận những tin tức xuyên tạc, có thể được nghe thấy từ bọn xấu len lỏi vào khu thăm viếng dưới hình thức thân nhân của các cải tạo viên. - Thứ bảy, mọi vi phạm nội quy thăm viếng đều bị xử lý theo pháp lệnh của nhà nước. Lên lớp xong bảy điểm, quản giáo Dương bắt bọn tù xếp hàng tư và ngồi chờ đợi khám xét. Những tên vệ binh trong ban an ninh trại lần lượt kêu tên từng người. Những người được gọi tên phải đứng lên và vệ binh tiến tới khám xét tại chỗ. Có những người giản dị được thoát qua cuộc khám xét một cách tương đối nhanh chóng. Có những người lẩm cẩm cỡ như ông Đáp hoặc Minh chuột, đã làm anh em bực mình vì những món đồ họ đem theo, đã không được đem ra còn bị làm nhục. Chẳng hạn trong cái bao cát của ông Đáp, khi bị mở ra, không riêng bọn giám thị trại mà ngay cả những bạn tù cũng ngạc nhiên. Trong bao cát ấy đựng đầy những cơm phơi khô. Tên quản giáo Dương thấy cơm gạo nhào đến hỏi với giọng giận dữ. - Anh ăn cắp gạo ở đâu? Đáp vội vàng cải chính. - Thưa anh đâu phải gạo. Đó là cơm phơi khô. - Anh đem cơm phơi khô ra ngoài làm gì? Trước bao đôi mắt vừa ái ngại vừa thắc mắc của mọi người, Đáp trả lời. - Dạ mỗi ngày tôi để dành một hai thìa cơm, phơi khô. Tôi muốn giúp đỡ gia đình chút ít. Bạn bè vừa ngượng vùa thương. Nhưng quản giáo Dương không thương. Hắn trợn đôi mắt trắng dã và hét. - Bôi nhọ chế độ đến thế là cùng. Anh tưởng chính quyền địa phương bỏ chết đói vợ con anh à? Nói rồi hắn ra lệnh. Đem túi cơm khô vào ngồi trong nhà kiểm soát kia! Nhân danh Cách mạng tôi ra lệnh anh làm tự kiểm tại chỗ và cấm thăm nuôi kỳ này. Ông Đáp vừa buồn đau vừa tuyệt vọng. Ông cầm túi bao cát đựng cơm khô để dành của mình bước vào trạm gác, thất thểu như kẻ mất hồn. Chuyện ông Đáp vừa xong thì đến chuyện Minh chuột. Tuy nhiên trong cái túi bao cát của Minh chuột không có cơm phơi khôi, mà là mấy chục con dao cau, được làm bằng những cọng đai kẽm trước đây người ta dùng để chằng các kiện hàng lớn. Minh đã tranh thủ những giờ nghỉ ngơi, tìm những đai kẽm về cắt, rèn, mài và chế thành những con dao cau bén ngót. Gia đình anh trước đây buôn trầu cau. Anh muốn biếu mẹ anh một ít những con dao cau để cụ dùng hoặc bán tùy ý. Thế nhưng chính những con "dao cau hiếu nghĩa" đã làm cho anh không được gặp mặt mẹ anh trong lần thăm nuôi này. Anh cũng bị lôi vào phòng kiểm soát với đủ "tang vật" để làm bản tự kiểm. Cũng có một số những bạn khác, tuy không bị giữ lại, nhưng bị tịch thu tất cả những vòng nhẫn gương lược... Nói tóm, tất cả những đồ thủ công chế tạo trong tù với mục đích tặng người nhà đều bị quản giáo Dương ra lệnh tịch thu. Sau khi cuộc khám xét kết thúc, quản giáo Dương chợt quay nhìn Tuấn phi công của nhà 2 đội 17. Hắn nhíu mày một chút rồi ngoắc Tuấn lại. - Anh kia, phải khi nãy anh lợi dụng tắm rửa để dí b... vào mặt cán bộ trực ban phải không? Tuấn giật thót mình phải vội đính chính. - Thưa không, không phải tôi. Quản giáo Dương bỗng nổi giận đùng đùng. - Mày lại khinh tao đến thế kia à? Mày cho tao mù hẳn? Nói rồi quản giáo Dương chỉ tay vào nhà kiểm soát và hét. Tao cấm mày thăm kỳ này không vì tội tắm rửa, mà vì tội ngoan cố không nhận tội. Vào kia làm tự kiểm. Ai cũng biết Tuấn oan, và riêng Tuấn, anh uất quá hóa phát cười. Quản giáo Dương thấy anh cười càng nổi giận hơn. Hắn hét: Mày cười cái gì hả thằng ngụy kia? Tuấn hết cười nhưng xẵng giọng trông thấy. - Tôi đâu có nói anh mù. Tôi chỉ muốn nói anh lầm người rồi. Tôi chẳng hề tắm hay rửa gì sáng nay cả. Quản giáo Dương tức điên lên. Hắn một mặt ra lệnh cho bọn vệ binh bắt đầu hướng dẫn bọn tù ra khu thăm viếng, một mặt quầy quả bước theo Tuấn vào phòng kiểm soát. Khi Vĩnh đi theo các bạn trong đội hình hàng tư tiến ra con lộ chạy dọc hông trại 1 để về khu thăm nuôi, anh nghe thấy những tiếng hét của quản giáo Dương còn văng vẳng vọng theo từ nhà kiểm soát. - Mày là phi công hả? Mày biết mày đã bắn hạ bao nhiêu con em Cách mạng không? - Tôi chưa hề bắn ai. Tôi ngồi trên máy bay có thấy ai đâu mà bắn! - Mày ngoan cố phải không? Mày nói lại coi, mày có bắn không? - Không. Tôi không bắn. Ngồi trên máy bay tôi chỉ bấm nút thôi... Chương 36 CHƯƠNG 39 Ngày thăm đầu tiên đã qua đi, những ngày kế tiếp người được thân nhân vào thăm không còn được thảnh thơi nằm nhà chờ đợi mình được gọi tên như những người được thăm vào ngày đầu tiên nữa. Tất cả phải trở lại hiện trường lao động. Mỗi trại đều được lập một tổ trực đặc biệt, có trách nhiệm thông báo tin được thăm viếng đến tận hiện trường cho những người được thăm. Khi được thông báo, anh cải tạo viên sẽ được quản giáo cho ngừng tay vinh quang để trở về trại sửa soạn ra gặp thân nhân... Hiện tại, kế hoạch chung của ban chỉ huy trại cải tạo An Dưỡng là dồn sức tù vào công tác biến rừng thành ruộng. Một giải rừng hoang sình lầy đầy mìn bẫy nằm giữa trại An Dưỡng và phi trường Biên Hòa là hiện trường lao động hiện tại của hầu hết tù An Dưỡng. Trời Biên Hòa lúc này đã có những trận mưa dầm dề liên tu bất tận. Lao động dưới nắng đã khổ. Lao động dưới mưa còn khổ trăm bề hơn. Hàng ngàn tù, tay cuốc tay xẻng, dưới sự đốc thúc của bọn vệ binh, phải lao vào những khu rừng rậm đầy rắn rết, muỗi mòng và nhất là mìn bẫy từng được rải khắp chung quanh vòng đai phòng thủ phi trường Biên Hòa trước kia. Công tác phá rừng với sức người và hai bàn tay không đã làm tốn không biết bao nhiêu xương máu của những kẻ sa cơ thất thế. Đội 17 hiện có công tác phụ trách kéo những thân cây lớn đã được anh em đốn ngã. Những thân cây này nhiều khi có đường kính hơn nửa thước tây và dài cả 20 thước phải kéo qua địa thế gồ ghề những gò mối, bụi rậm và ao tù làm cực khổ vô cùng. Những thân cây này được kéo thẳng về khối mộc nằm gần bệnh xá cho khối mộc khai thác. Nhà 2 đội 17 và nhiều nhà khác có cùng công tác, chỉ việc kéo với chỉ tiêu 8 cây mỗi ngày, kéo một đoạn đường rừng dài năm trăm thước và kéo dọc con đường chính của căn cứ vào tới trại mộc quãng 1 cây số. Kéo cây dưới mưa, một hành khúc thê thảm. Những tiếng động rầm rầm, những lời hò hét, những hình nhân ốm yếu rách bươm rạp người trên những sợi thừng căng thẳng... Thỉnh thoảng những bầy chim bay tán loạn trong một khóm rừng mưa; một con thỏ vụt chạy dù chẳng còn ai có sức để nghĩ đến chuyện đuổi bắt; những con rắn trầm tĩnh bò trên một nhánh cây uốn cong những thớ thịt láng bóng, tuồng như trêu ngươi lũ tù khát thèm đang nghĩ đến một đĩa rắn xào lăn của một miền Tây xưa cũ... Hôm nay mưa lớn. Đám Vĩnh kéo một thân cây ít ra cũng nặng cả tấn. Ra tới con lộ chính, mọi người được phép nghỉ chân ít phút lấy sức. Dù trời mưa, nhưng người vào thăm từ hướng cổng trại vẫn tiến vào đều đều. Họ đi từng hai ba người. Đa số đàn bà với những giỏ quà nặng nề trên vai trên tay. Mọi người đều ướt như chuột lột và ngó nhau cũng bằng những con mắt ướt mèm... Trong những ánh mắt ấy hàm chứa đủ mọi thứ tình cảm mà những người vào thăm dành cho bọn tù. Có ánh mắt e dè thương cảm, có ánh mắt trách cứ mà bao dung, có ánh mắt cảnh giác nhìn những thằng vệ binh đứng tránh mưa trong những lùm cây; nhưng quan trọng nhất là những ánh mắt dặn dò: Này, chút kéo cây đi qua chỗ này, nhớ để ý nơi những bụi cỏ rậm bên lề đường nhé... Và rồi những toán kéo cây trong ngày hầu như ai cũng lượm được bên lề đường một quả cam, một đòn bánh tét, một vài cục đường hoặc một gói thuốc lá. Tất cả đều được bọc sẵn trong những bao nylon... Vĩnh mới được thăm nên dĩ nhiên anh và các bạn thân của anh không háo hức lắm chuyện mắt trước mắt sau để lượm quà nhét vào người. Nhưng những anh chàng chưa được thăm nuôi thì khác. Dù rằng ai cũng được nếm tí đồ tươi trong những ngày qua do sự chia sớt của bạn bè, nhưng do cái tâm lý thông thường, bỗng dưng nhận được một món quà đầy tình nghĩa bỏ lại ven đường vẫn là một cái khoái trá tuyệt vời cho những người chưa được thăm nuôi. Bọn vệ binh thoạt đầu không biết nhưng dần dần chúng khám phá ra lối "liên hệ gián điệp" của bọn tù do cái sự nghỉ dọc đường quá nhiều. Nạn nhân đầu tiên bị vồ tại chỗ là Võ Hữu Hiệp, nhà phó nhà 2 đội 17. Trong lúc cả nhà đang ra sức kéo một cây cổ thụ lết trên đường mưa, Hiệp nhanh mắt nhìn thấy hai quả cam. Nó thả vội tay khỏi sợi thừng và nhào tới lượm hai quả cam một cách rất mất cảnh giác. Thằng vệ binh lẽo đẽo theo sau chợt thấy một thằng tù nhào xuống vệ đường lượm một cái gì. Hắn vội vã phóng tới chĩa súng hét to. - Cả toán này đứng lại! Tiếng hét dĩ nhiên bắt cả toán phải dừng lại. Những người đi thăm trước sau tò mò dừng chân đứng lại. Tên vệ binh bỗng quay lại, chỉ mặt "nhân dân" hét lớn. - Mấy người đó đứng lại luôn. Nhân danh Cách mạng, tôi kiểm tra tại chỗ sự liên hệ gián điệp với Cải tạo viên. Bỗng nhiên nghe một loạt từ ngữ đao to búa lớn, những người đi thăm cũng tá hỏa như bị sét đánh trúng đầu. Có người sợ liên lụy vội vã lẩn nhanh Nhưng tên vệ binh đời nào để cho bọn "gián điệp" chạy thoát. Hắn giơ súng bắn cái đùng. Mọi người đều xanh máu mặt và đứng chết dí tại chỗ. Tên vệ binh bắn xong phát súng thị uy, nhào ngay tới cạnh Võ Hữu Hiệp. - Mày vừa nhặt tài liệu gián điệp gì bên lề đường? Chẳng riêng Hiệp mà mọi người đều thất kinh. Hiệp ú ớ. - Không, thưa anh tôi không nhặt gì cả. Một báng súng phang ngay vào mặt Hiệp mà không ai có thể tiên liệu trước được. Trán của Hiệp tích tắc có ngay một quả ổi to tướng. Trời đã dứt mưa. Những giọt mưa trên mặt người giờ đã bị thay thế bằng những giọt máu và mồ hôi. Hiệp thấy kẻ thù đánh tàn bạo quá, vội nói chữa. Không, tôi không nhận tài liệu gì cả. Tôi thấy hai quả cam rơi trên đường nên cúi nhặt thôi. Tên vệ binh vẫn cho rằng hắn bị bọn tù qua mặt nên cơn giận vẫn đùng đùng. - Tao thấy rõ ràng mày cầm lên một cái bao thư ướt mèm. Thốt nhiên một bà già tiến nhanh tới. Bà cụ cất giọng vừa run vừa giận. - Tôi là nhân dân đây. Tôi sẽ làm chứng. Tôi sẽ thưa anh lên tới trung ương Đảng cái tội đánh oan người giữa ban ngày. Tên vệ binh không ngờ bị một bà cụ thình lình xáp tới tấn công. Dù sao nghe thấy hai chữ "nhân dân", nhất là ba chữ "trung ương Đảng", tên vệ binh cũng có vẻ chùn bước. Hắn quay lại gắt. - Bà già kia! Tôi thay mặt Đảng trừng trị kẻ phản động, bà là nhân dân lương thiện, sao can dự vào việc này? Bà già cũng chẳng vừa gì. Bà quạt lại. - Sao chú bảo tôi không can dự? Tự dưng chú bắn súng lên oai, bắt chúng tôi đứng lại rồi nạt nộ như ông tướng Quảng Lạc. Bà cụ nói đoạn đặt cái giỏ trái cây trên tay xuống, tiếp: Bây giờ chú muốn gì chú nói tôi nghe. Hai quả cam khi nãy là tôi cho mấy anh cải tạo. Chú muốn ăn cam thì cứ bảo tôi cho, sao ghen tức đi đánh người ta? Đánh người thất thế mà anh hùng à? Tên vệ binh bị quạt một trận cũng nổi điên. Nhân dân và cán bộ đâm ra cãi nhau kịch liệt. Chỉ bọn tù là kẹt vì chẳng rõ trâu bò húc nhau số phận ruồi muỗi này sẽ ra sao? Hiện tại thằng vệ binh có vẻ đã lép vế vì có thêm năm bảy cái miệng nhân dân nhảy vào nhập cuộc. Tên vệ binh cáu quá nhưng nói không lại, hắn đành quay lại đám tù nhà 2 đội 17 và hách dịch lên tiếng. - Toán trưởng đâu? Không ai trả lời. Hắn lại hỏi. - Tôi hỏi các anh, toán trưởng của toán này đâu? Võ Hữu Hiệp ngần ngại lên tiếng. - Thưa anh nhà trưởng có công tác khác. Tôi là nhà phó. Tên vệ binh trố mắt kinh ngạc. - Anh là nhà phó? - Vâng. Hắn bỗng lắc đầu ngao ngán. - Thôi chết rồi. Lãnh đạo mà thế này thì cái nhà của anh chắc hẳn... Tên vệ binh nói không dứt câu thì ngừng lại. Có lẽ hắn đã nhận ra những giọt máu đang rỉ xuống trên trán Hiệp, và cũng nhận ra ánh mắt căm hờn của "nhân dân" đứng quanh quất đang ngó hắn. Hắn chợt tiếp. Hai quả cam đâu, đưa coi! Hiệp moi trong người ra hai quả cam và đưa cho tên vệ binh. Ai cũng tin rằng để thỏa mãn cơn giận, thằng vệ binh có thể ném bỏ hai quả cam là xong chuyện. Tuy nhiên, thằng vệ binh không giải quyết vấn đề giản dị như thế. Hắn khoa súng đuổi người thăm nuôi đi. Khi vài người đã vội vã bỏ đi cho kịp giờ thăm con em họ, hắn quay lại Hiệp, ra lệnh. - Lần này tha, nhưng tôi bắt anh ăn hết hai quả cam tại chỗ. Ăn thật nhanh để không phí thì giờ lao động của cả toán. Không làm được gì khác hơn là tuân lệnh, Hiệp bóc vội hai quả cam và trợn trạo nuốt vào bụng. Xong công tác trừng trị, tên vệ binh lên lớp với cả nhà. - Phải nhớ, mọi hành động không đúng chỗ trong xã hội đều bị coi như phản động. Thái độ lượm lặt của ăn dọc đường của anh Hiệp là một thái độ bội nhọ chế độ. Điều ấy không khác nào anh nói xấu chế độ trước mặt nhân dân, rằng anh bị bỏ đói. Điều ấy cũng chứng tỏ rằng bản chất ngụy của các anh không thể cải tạo một năm, hai năm, năm năm, mười năm mà hết được. Cả đời may ra! Cứ thử tưởng tượng xem. Mới hai năm cải tạo mà gặp quả cam đã không cầm lòng được, Cách mạng thả các anh lúc này liệu xã hội có thể tồn tại không? Bản chất như thế thì gặp đàn bà là hiếp, gặp của là cướp đâu có lạ lùng gì. Cả nhà 2 đứng tê tái với nhau. Vĩnh thấy mình không vui cũng chẳng buồn. Anh đứng nhìn trời nhìn đất, lan man nhớ đến câu chuyện của Henrich Boll anh từng đọc: Nạn nhân của bộ mặt vui tươi, nạn nhân của bộ mặt sầu thảm! Biết đến bao giờ anh mới có dịp viết thêm một câu chuyện giản dị hơn mà cay đắng không kém: Nạn nhân tập thể của một quả cam! Tên vệ binh lên lớp một lúc rồi như nhớ ra đã có quá nhiều toán khác qua mặt, hắn nói một câu cuối: Lần này tôi nghiêm trọng cảnh cáo anh Hiệp và nghiêm trọng nhắc nhở cả toán về khuyết điểm vừa qua. Tái phạm sẽ bị xử lý thích đáng. Bây giờ, đi! Cả nhà 2 lại ỳ ạch lấy đà, ỳ ạch dô ta kéo lê cái cây đi cho hết đoạn đường khổ giá. Đi qua khu thăm nuôi, đi qua bao ánh mắt thương cảm của những người đi thăm, bọn Vĩnh kéo thân cây về phía khối mộc nằm bên dưới khu bệnh xá. Một tiếng gọi cất lên trong hàng rào bệnh xá. - Vĩnh! Vĩnh vừa kéo cây vừa ngoái lại nhìn. Phạm An Toàn đang đứng bên trong giơ tay vẫy vẫy. Anh lại chợt nhìn thấy nơi cái connex dùng làm nhà xác đặt gần bờ giếng bệnh xá có đông người tụ tập. Vĩnh hỏi Toàn. - Chuyện gì vậy? - Ông già Diêu chết rồi. - Diêu nào? - Ông già đau gan ấy. Con dốc trước mặt bệnh xá khiến cả bọn phải ngừng tay kéo để thở. Vĩnh được dịp liên hệ linh tinh với Toàn nhiều hơn một chút. Anh ngó quanh đề phòng thằng vệ binh. Hắn đang ngồi trên một khúc cây lớn bên kia đường lẩm bẩm chửi thề gì đó. Vĩnh hỏi Toàn. - Phải ông già đòi ăn trứng không? - Ừ. - Trước khi chết có được ăn trứng không? - Bác sỹ có cho một hột gà nhưng vừa để lên môi thì ổng trợn trắng đi luôn. Vĩnh không hỏi gì nữa. Đoàn người đã bắt tay vào việc kéo cây. Vĩnh nắm chặt sợi dây lấy hết sức cùng các bạn kéo thân cây đi. Lúc đi qua cái connex nằm trong hàng rào, Vĩnh thấy vài tay tù đang lấy một cái chăn dạ nhà binh - có lẽ tài sản của người quá cố - bọc xác ông già Diêu lại. Họ làm việc trong yên lặng và ngậm ngùi. Vĩnh loáng thoáng nghe thấy một người nào đó trong đám liệm xác đọc khẽ kinh Lạy Cha. Đời buồn bã làm sao! Ông già Diêu khốn khổ kia ơi! Thôi ông hãy hân hoan ra đi ông nhé. Khổ giá nặng hãy để bọn trẻ chúng tôi vác tiếp cho ông. Ông cứ đi và đừng ngoái nhìn, nhưng nếu có linh thiêng, ông hãy phù trợ cho những người bạn già khác đang lâm nạn như ông, nếu có trăm tuổi, cũng đừng tiếp tục trăm tuổi trong trạng huống như ông: Đến chết cũng chưa ăn được cái trứng gà mơ ước... Đám kéo cây của nhà 2 đội 17 đã vượt qua khu bệnh xá. Khối mộc xuất hiện dưới một mái tôn rộng. Những thân cây to lớn xếp từng đống bên nhau. Tù thợ mộc đang ra công kéo cưa lừa xẻ với những lưỡi cưa cá mập tưởng như có thể nặng hơn cả sức nặng của những tên tù ốm đói đang điều khiển nó. Vĩnh theo các bạn kéo cây xếp vào đống cây đã cao như một cái núi. Công tác này nặng nhọc và nguy hiểm hơn cả công tác kéo cây. Lạng quạng cây đè chỉ có nước lấy đũa mà gắp xương tan thịt nát. Sau khi nhà phó Hiệp ghi sổ giao cây cho khối mộc xong xuôi, cả nhà 2 lại lầm lũi so hàng trở về cánh rừng... Trên đường về mới thảnh thơi làm sao! Dù rằng sau cơn mưa trời gai lạnh, cái lạnh vào quãng 4 giờ chiều, nhưng ai cũng thấy sung sướng vì chỉ tiêu sắp hết. Một chuyến chót nữa, cây thứ 8, sẽ chấm dứt một ngày "lao động vinh quang". Vĩnh vừa đi vừa nhìn hai bên đường. Một tràng những tiếng gào thét bất chợt vang lên từ dãy connex nằm bên trong hàng rào của ban chỉ huy trại 4. Vĩnh và mọi người bàng hoàng lắng tai nghe. Kim lúc này đã bước lên đi gần Vĩnh. Nó thều thào: Ban chỉ huy trại 4 đó. Nghe nói nhiều thằng nằm connex lắm. Thằng Trụ biên chế từ Trảng Lớn lên đây vẫn nằm connex chờ xử đại hình, không rõ nó có nằm trong mấy cái connex kia không? Vĩnh không trả lời Kim, nhưng Kim nhắc lại làm anh nhớ đến Nguyễn Ngọc Trụ. Trụ mang cấp bậc trung úy, giảng viên kinh tế chính trị của trường võ bị và chiến tranh chính trị Đà Lạt. Vì anh là cháu của nhà báo Dzoãn Bình, nên khi mới gặp nhau ở L4T1 Trảng Lớn, anh đã nhập ngay vào nhóm Vĩnh trong những lần tán gẫu đêm đêm. Trụ mang kiến thức của một nhà chính trị kinh tế sắp sửa trình luận án tiến sĩ. Do đó, những câu chuyện anh nói thường cnhững lập luận rất vững vàng về thời sự. Chiều chiều đi lao động về Trụ thường khoác lên người cái áo bốn túi kiểu cậu ấm Nhã đã sờn vai, bò qua khối 10 gặp Vĩnh và Kim tán dóc. Sau đó một thời gian ngắn Vĩnh và Kim bị biên chế sang L4T3, Trụ ở lại T1 và lâm đại họa sau đợt học tập chính trị tháng 12 năm 75. Trụ bị bắt giam connex vì những lời phát biểu của anh trên hội trường khi anh bị ban chỉ huy trại chỉ đích danh lên phát biểu cảm tưởng trước tập thể. Dĩ nhiên Vĩnh không có mặt trong buổi phát biểu của L4T1, nhưng qua bạn bè kể lại, theo đó, Trụ đã nhân cơ hội bị lôi lên phát biểu, chửi thẳng mặt bọn cán bộ trại. Sự phát biểu như thế đã khiến bọn cán bộ trại điên lên và bịt mồm còng tay anh ngay trên hội trường. Sau đó anh bị nhốt connex cho đến ngày bị xử tử. Suốt thời gian đó anh bị bỏ đói thê thảm. Đã có lần đi lao động qua dãy connex nằm ngoài rào L4T1, Vĩnh thấy anh bị vệ binh lôi ra khỏi connex. Anh nhìn Trụ cả một lúc lâu mới nhận ra cái xác bèo nhèo xanh mét và teo như một cái xác ướp của Trụ. Trụ bị nhốt liên tiếp từ tháng 12 năm 75 đến tháng 7 năm 76 thì được chuyển về An Dưỡng cùng đợt với Vĩnh. Lên An Dưỡng anh bị tiếp tục nhốt connex nhưng không ai biết ở đâu. Giờ đây, nghe tiếng la hét của một người nào đó phát ra từ dãy connex, Vĩnh không tin đó là tiếng gào thét của Trụ. Nhốt từ đó đến nay họa chăng có là khổng tượng, còn nếu là người thì... Nhà 2 vẫn chậm rãi hàng tư tiến lên. Mọi người đều nghe thấy tiếng thét vang dội. Tiếng thét bất chợt thay chỗ cho những câu nói, những câu nói của một loại người nếu không điên thì cũng đã mất bình thường. - Trời ơi! ngạn ngữ chúng mày nói đúng lắm. Người ta có thể ăn nửa bữa, ngủ nửa giấc, nhưng không thể yêu nửa trái tim và đi nửa đường chân lý. Mẹ cha chúng mày! Thế sao chúng mày lại cấm tao đi hết đường chân lý của tao? Tao nói lại. Tao là Mẫn. Tao là giáo chủ tôn giáo liên hiệp. Chính tao là nhà giải phóng của chúng mày đây, hỡi lũ quỷ đỏ không biết ăn năn xám hối. Tao nhắc lại. Tao là Mẫn, giáo chủ... Những câu gào thét của một người tù không tỉnh như đâm vào óc mọi người. Tên vệ binh hình như đã quá quen với lời chửi rủa gào thét này, hắn chỉ lẳng lặng vừa đi theo đám tù vừa huýt gió một bài hát. Khi nhà 2 vượt qua khu thăm nuôi, mọi người, kể cả những người đến thăm muộn màng đứng đợi trong khu thăm, đều nghe thấy tiếng gào thét tiếp tục vang lên. -... Những nhà giải phóng đích thực của con người thường cuối cùng chết về tay con người. Tao biết, tao biết đều đó. Spartacus, Jesus, Lincoln, Gandhi, Martin Luther King... Chúng mày, hỡi loài quỷ đỏ, hãy cho tao, tân giáo chủ tôn giáo liên hiệp thế giới biết giờ khắc tao chịu nạn!... Giọng Kim lại thầm thì. - Ông giáo chủ này thế nào cũng ăn đạn. - Được ăn đạn đã là phúc... Khi tiến tới bìa rừng, Vĩnh thấy những đội kéo cây khác đang uể oải lăn từng cây lên mặt đường nhựa. Người nào cũng lấm lem và mệt mỏi. Nước phèn trong những ao tù của rừng hoang làm những ống quần vàng úa. Chân người khập khễnh như không còn muốn dính vào mặt đất. Những người đã được thăm nuôi như Vĩnh và Kim còn chút hứng khởi với ý nghĩ chiều về chắc chắn sẽ có tí mì, tí nui, tí chà bông, tí lạp xưởng bày ra ăn với nhau. Nhưng những người chưa thăm nuôi không thể có cái niềm vui nhỏ bé ấy. Một ngày sắp tàn là thêm một lần xác hồn rũ rượi. Trong khi sửa soạn tiến vào rừng cây thì hàng trăm tù đứng rải rác ngoài bìa rừng bỗng nghe như tim mình nhói lên vì mấy tiếng nổ. Những tiếng nổ từ sâu trong rừng cây làm chim muông bay tán loạn. Rừng chiều âm u lại vừa sau cơn mưa mù, không ai có thể nhìn thấy chuyện gì xảy ra trong đó. Tiếp theo mấy tiếng nổ là những tiếng la hét báo động và những tiếng chạy rào rào bất kể gai góc của người trong rừng. Lũ vệ binh bên ngoài vội vàng chĩa súng đứng trong thế thủ. Bọn tù tự động ngồi xuống tại chỗ theo đúng nội quy đã quy định cho tình trạng này. Một vài tay tác chiến nhà nghề đã có thể đưa ra ngay một nhận xét. - Một mìn râu, hai đầu đạn M.79. Một người khác. - Ít lắm 3 con! - Không, rừng rậm lại đứng tụ vào một công tác đồng loạt chắc nặng hơn nhiều. Mươi con không chừng! Tuy nhiên sự thắc mắc của người bên ngoài không lâu lắm. Bên trong đã có kẻ chạy ra tới bìa rừng, mặt mũi hớt hải báo tin. - Nổ M.79! Dính đông lắm. Tên vệ binh của đội 17 thấy có tù chạy ra báo tin vội xách súng chạy lại. - Này anh kia chạy đâu đấy? - Báo cáo anh nổ M.79. Nhiều người bị thương. - Quản giáo anh đâu? - Dạ không biết nữa. Chạy lung tung hết. Vừa lúc đó trong rừng có thêm nhiều người khác chạy ra. Người nào xuất hiện mặt mày cũng lấm lem bùn lầy. Một tay quản giáo trong đám lên tiếng.

- Này đồng chí vệ binh. Đồng chí lên viện mượn mấy cái băng ca có được không? Tên vệ binh giẫy nẩy.

- Đâu được. Đồng chí muốn đi thì đi. Tôi không trách nhiệm chuyện y tế.

Trong lúc hai bên còn cãi nhau thì tù trong rừng đã kéo nhau ra đầy nghẹt. Kỳ này có cả những người bị thương. Lần lượt trước sau, những người bị thương được anh em đưa ra nằm trên lề đường. Bọn quản giáo và vệ binh đều túa lại xem vì tò mò chứ tuyệt nhiên không vì phản ứng cấp cứu.

Vĩnh không rời khỏi hàng ngũ được, nhưng anh vẫn có thể thấy rất rõ 6 người nằm ngồi trên lề đường với máu me bê bết đầy người.

Một người trong đội 17 bỗng la lên.

- Chết mẹ thằng Long nhí đội 14 kìa!

Nghe thấy nói đến Long nhí đội 14, tim Vĩnh nhói lên một cái thật mạnh. Anh cố nhìn kỹ một người nằm bất tỉnh trên lề đường, một ống quần đầy máu từ bắp chân trở xuống. Một vài tay tù cùng đội của những người bị nạn được phép đến gần tìm cách cầm máu. Anh chàng nằm bất tỉnh có lẽ nặng nhất. Vĩnh nhìn kỹ hơn nữa và nhận ra đó là Long nhí thật. Trời đất ơi! Vĩnh buột miệng kêu lên. Nhìn cái chân của nó cong queo, dù dính đầy sình và máu, Vĩnh vẫn có thể đoán được chân nó đã gãy hoàn toàn. Vĩnh xúc động quá. Vừa tối hôm qua nó mò sang tìm Vĩnh xin ít mắm ruốc, giờ đây nó đã ra nông nỗi này! Không biết nó sống hay chết.

Ít phút sau đó, do lệnh của bọn quản giáo, 6 người bị nạn đều được khênh thẳng lên bệnh xá. Và hàng trăm tù lao động trong rừng đều được lệnh thu quân sớm hơn mọi ngày nửa tiếng.

Trong lúc tập họp điểm danh để báo cáo nhân số trước khi quay về trại, một tiếng nổ khác từ sâu trong rừng lại vang lên. Tiếng nổ không còn làm cho ai chú ý vì họ biết chắc chẳng còn anh em nào trong đó. Khi các đội hình đã báo cáo nhân số xong và sửa soạn cất bước thì một người dẫn một con trâu từ trong rừng hớt hải chạy ra. Người ấy dẫn trâu chạy thẳng về phía đội hình của Vĩnh. Tên vệ binh hình như quen mặt người chăn trâu, hắn vội cất tiếng hỏi.

- Cái nhà anh Hạ kia, sao cho trâu về chuồng muộn vậy?

Người được gọi là Hạ vội báo cáo.

- Báo cáo anh tôi suýt chết vì bò đạp phải mìn...

Tên vệ binh ngắt lời.

- Sao?

- Dạ bò đạp phải mìn nổ. Một con què cẳng nằm trong rừng. Tôi và con trâu này còn sống chạy ra đây... Tên vệ binh khoa tay tuồng như không có ý kiến và trách nhiệm. Người được gọi là Hạ hình như cũng biết việc báo cáo của anh ta với tên vệ binh trại 1 là không đúng chỗ, kẹt phải báo cáo vậy thôi. Tuy nhiên, trên khuôn mặt mờ mờ nằm dưới cái nón lá rách bươm của anh rõ ràng đang hằn lên nét lo sợ... Anh chàng chăn trâu không nói thêm nữa. Anh vội vã lớn giọng tắc tắc vài tiếng, khoa ngọn roi đuổi con trâu lên lề đường để hướng về phía trại 4. Đúng lúc ấy cái nón của anh bật ra phía sau và Vĩnh đã nhận ra người chăn trâu là ai. Nó là Bùi Duy Hạ, bạn anh, kẻ đã hân hoan tặng mọi thứ đồ đạc lại cho anh em tuần trước để ra về theo như lệnh của ban chỉ huy trại 1. Vĩnh bàng hoàng gọi giật một tiếng.

- Hạ!

Hạ quay người lại. Nó nhận ngay ra Vĩnh trong đội hình.

- Mày hả Vĩnh?

- Sao...

- ĐM. Lầm rồi mày ơi. Tao đâu có được về. Tao được điều sang tổ chăn bò của hậu cần trại An Dưỡng. Chăn một trâu một bò...

- Trời đất ơi!

- Ừ, rầu lắm. Mới chết một con bò trong rừng rồi. Tao tiêu dzên luôn là cái chắc.

Đội hình đã bắt đầu đi. Vĩnh cố ngoái lại.

- Tao thăm rồi. Cần gì không?

- Mày tìm cách nói với mấy thằng bạn tao cho đồ kỳ rồi, hãy trả lại tao mùng mền chăn chiếu lon cóng linh tinh để tao dùng. Ngủ không mùng muỗi cắn quá!

 



ĐẠI HỌC MÁU

CHƯƠNG 69
Những cơn mưa tầm tã của tháng Mười đánh dấu cao điểm của việc xây cất công trường "Thiên Đường Mới", một danh từ tù Hàm Tân mới đặt ra để gọi khu ngục thất đang được kiến tạo. Song song với công tác chính đó, một công tác thu hút quãng một phần ba nhân lực của phân trại A với tổng số 2.000 tù, một công tác khổ sai mà với ngôn ngữ ba que xỏ lá của thằng tổng giám thị đã nói trước mọi người trong dịp 2 tháng 9 vừa qua là: "Hơn bao giờ hết, các anh phải hạ quyết tâm thi đua hoàn tất chỉ tiêu trong công tác xây cất công trình được trên tin tưởng giao phó. Các anh phải làm sao sang năm tới ta sẽ có nhà mới để ở. Đời sống của các anh sẽ thoải mái hơn. Nơi ăn chốn ở sẽ vững vàng an ninh và có văn minh văn hóa hơn. Trong lúc thi công thực hiện công trình, trại nhắc nhở các anh phải luôn luôn tâm niệm một điều là, chủ yếu các anh làm các anh hưởng!".

Vâng, song song với việc thi công xây nhà tù mà ở, một công tác mới nữa cũng ra đời để hoàn chỉnh cho công tác xây nhà tù đang tiến triển mạnh, đó là công tác đào hào chung quanh khu vực "Thiên Đường Mới".

Mười đội được đưa vào công tác nặng nhọc này, và đội 17 là một.

Cũng như ở An Dưỡng, đường hào sẽ có chiều sâu ba thước, bề rộng bên trên mặt đất bốn thước rưỡi, đáy rộng ba thước, đất lấy từ hào lên sẽ đắp một con đê chạy theo đường hào có chiều cao tới hai thước rưỡi, mặt đê đủ rộng cho hai người lái xe đạp đi sánh đôi nhau.

Vì là mùa mưa, công tác đào hào mang đầy đủ cái cực khổ của đói lạnh. Mấy trăm tù trải dài trên những phần đất quy định và khởi sự với những nhát cuốc, nhát cuốc chim trên nền đất lổn ngổn đá tảng, di tích của những phún thạch chẳng rõ từ kỷ nguyên nào.

Đội 17 nhận phần trách nhiệm từ những dãy nhà của các tổ đan tre đến chỗ giáp với hàng rào tre cuối khu trại đang ở. Phía mặt là suối. Phía trái là dãy hàng rào tre gai bên hông trại cũ. Đội 17 vừa đào vừa rình rập bẻ trộm những cái măng mới nhú nơi hàng rào. Đây là điều cấm kỵ của nội quy. Có măng thì mới có tre. Có tre thì hàng rào mới dần dần bền vững. Bẻ măng là phá hoại hệ thống phòng thủ của trại. Ban Giám Thị đã nhiều lần nhắc nhở và phạt kỷ luật nặng nề những người bẻ măng ngoài hàng rào trại, tuy nhiên cái đói lạnh khiến bọn tù có dịp là bẻ, bất kể nội quy hay hình phạt. Những cái măng bẻ xong được nhúng ngay xuống bùn. Nó sẽ được chủ nhân hẹn hò với một người bạn làm việc nơi khu canh tác, khi đi qua sẽ nhặt lên bỏ thùng phân khuân về trại. Ngày tháng qua, đường hào mỗi ngày mỗi sâu mỗi rộng và mỗi dài. Những tảng đá nhiều khi lớn bằng nửa cái xe Jeep chìm sâu dưới đất không thể ngờ lại có ngày được đưa lên nằm trên mặt đất không chỉ bằng sức lực và hai bàn tay không của lũ tù binh khốn khổ và bị quên lãng nhất trần gian.

Việc nặng chết người có khả năng lôi con người tới sự đoàn kết chặt chẽ hơn! Vì công việc đào hào ở đây đòi hỏi tới cả việc đào xới, trục lên và di chuyển đi những tảng đá nghìn cân, một việc làm mà nếu xẩy tay không chỉ chết một người mà có thể chết cả vài chục người; do đó, bọn tù thốt nhiên chăm chỉ và ngoan ngoãn như những bầy ong kiến trên đường kiến tạo tổ. Bọn quản giáo vệ binh thấy nhàn nhã ra mặt. Quản giáo Phú nhiều khi cả buổi không thấy mặt. Buổi sáng dẫn tù ra địa điểm lao động xong là quay đi quay lại hắn đã biến mất. Còn hai thằng vệ binh cũng thế. Cả buổi lao động chỉ thấy chúng xuất hiện một hai lần trên đầu con đê mới đắp, đứng nhìn trời nhìn đất một một lúc rồi chuồn đâu mất, để mặc bọn tù, vì sức nặng của những tảng đá, vì chỉ tiêu của những thước khối đất đã được ấn định, vì sự thúc hối của các đội trưởng đội phó, đã ra công làm những công việc mà kết quả của nó đưa lại đúng như lời lẽ vàng ngọc của tên tổng giám thị từng đưa ra: Các anh làm các ảnh hưởng!

Vào những ngày cuối cùng của tháng 12 năm 79, đội 17 đã tiến tới gần những dãy cachot của khu Thiên Đường Mới. Hai tháng cật lực với công việc khổ sai đào hào, bọn tù hốc hác trông thấy. Những cơn mưa rừng lạnh cóng, gió rừng buông thổi về nhiều khi tưởng như có thể thổi bay một tên tù gầy còm đang đứng nện đất trên mặt đê cao.

Có thể cuối năm là thời gian của thanh tra và tổng kết những báo cáo thành quả, do đó bọn giám thị xuất hiện kiểm soát rất thường xuyên. Vì sự kiểm soát ấy, quản giáo và vệ binh không còn dám lơi là và đương nhiên bọn tù lại bị thúc hối thi công dữ dội hơn, bơ phờ hơn. Những kiện tướng lao động của đội 17 là đội trưởng Lễ, lực sĩ Lê Văn Tầm, ông lang băm Võ Văn Bảy... những người mà anh em đã phải mỉa mai gọi là "Paven" 1, cũng khởi sự vàng vọt xanh xao. Hiện nay cứ sau một giờ lao động cật lực, đội 17 được quản giáo Phú cho nghỉ mười phút giải lao. Dù đã bị cấm tuyệt đối không được bén mảng đến gần, nhưng sau cùng anh em đội 17 cũng đã nhiều người được nhìn tận mắt quả tim của khu Thiên Đường Mới: Khu Biệt Giam!

Khu biệt giam này gồm một dãy phòng đúc bê tông cốt sắt. Mỗi phòng có chiều cao hai thước, chiều sâu hai thước và chiều ngang một thước rưỡi. Trong phòng có một bục nằm cũng đúc bằng xi măng, bề ngang chừng sáu tấc, bề cao chừng nửa thước và dài chừng thước tám. Vách bên trong, chỗ tiếp giáp với bục nằm có dính nhiều khoen sắt lớn. Cửa phòng làm bằng sắt ống to hơn nửa cổ tay. Một vài phòng để trống phía trước trong khi một vài phòng khác có cửa sắt lá sách che kín bịt bùng.

Lâu nay Vĩnh và các bạn biết rằng bọn giám thị đã đem một số biệt giam từ trại cũ sang giam ở đây. Dũng và đám anh em Hòa Hảo trốn trại trước đây hiện đều bị giam nơi khu biệt giam này. Đứng vẩn vơ phía trước hàng rào khu biệt giam ngó vào, người ta chỉ có thể nhìn thấy bên trong của những gian phòng trống, còn những phòng có nhốt người được kéo cửa lá sách không trông thấy gì. Từ khi con đường hào được đào tới ngang khu vực này; ngày hai buổi Vĩnh và các bạn còn được thấy cảnh trật tự đem thức ăn nuôi tù biệt giam. Ngày hai buổi, cứ khoảng mười một giờ trưa và bốn giờ chiều, một anh trật tự dẫn theo một anh nuôi xuất hiện trước khu biệt giam. Đứng từ xa, nhìn mớ lon cóng được đựng chung trong một cái giỏ do anh tù nhà bếp xách và lẽo đẽo đi theo anh trật tự, Vĩnh đoán biết khẩu phần của mỗi người không nhiều hơn một bát ngô già và nửa cóng sữa bò nước lạnh. Đã nhiều lần mạo hiểm đi sâu vào khu biệt giam mới xem những người bị giam ra sao, nhưng lần nào Vĩnh cũng dội ngược vì tiếng hét ngăn cản của tên vệ binh ngồi trên lô cốt phía đầu dãy biệt giam.

Vào ngày lễ Giáng Sinh thì đội 17 đã vượt qua khu biệt giam mới khá xa. Đường hào đã gặp gỡ với đoạn đường hào do đội 45 trách nhiệm. Thêm người thêm chuyện. Đội 17 đã chẳng vừa gì, gặp đội 45 thật xứng đôi vừa lứa. Những câu chuyện vung vít chẳng coi ai ra gì. Gặp rau xanh họ nhổ rau xanh. Gặp đậu bắp họ hái đậu bắp. Gặp khoai lang phơi trên sân của cán bộ họ ăn cắp khoai khô. Xuống xe gạo họ tìm chỗ dấu luôn cả bao gạo... Trên phương diện này đội 17 gặp đội 45 thì thua mọi bề. Nhưng đấu láo thì cũng không thua bao nhiêu!

Mặc cho bọn vệ binh đứng gác trên đê chửi bới, thỉnh thoảng lại có người rú lên.

- Đói!

- Lạnh!

Có kẻ lại văn nghệ hơn, đem một câu trong một bài hát cách mạng ra hát diễu.

-... Gió trên núi rừng lạnh quá không có gì mà che é e è...

Hết những câu nói, câu hát nhằm trêu ngươi bọn vệ binh, anh em đội 45 lại đưa ấn đề đào hào ra mổ xẻ. Thậm chí có người táo bạo lên tiếng bàn công khai.

- Tao e mình đào cái này là đào mồ đào mả cho chính mình mất. Mẹ kiếp! Có biến xảy ra, tụi mày cứ tính xem, cái đường hào này đủ chỗ chôn tập thể 2.000 thằng tù không?

Vĩnh co ro đứng dưới hào sâu ngập nước quẳng từng xẻng đất lên bờ đê, tai lắng nghe anh em bên đội 45 nói chuyện, lòng trĩu nặng một nỗi buồn. Chỉ còn mấy ngày nữa giỗ Mẹ. Mẹ Vĩnh mất vào ngày mùng 3 tháng Chạp. Năm nay, mùng 3 tháng Chạp sẽ trùng vào đúng ngày mùng 1 Tết Dương Lịch. Mấy ngày nay Vĩnh có ý nóng lòng đợi gia đình lên thăm. Anh muốn có một cái gì đặc biệt để làm Giỗ cho Mẹ. Hơi buồn là các linh mục đã bị đưa đi hết, bằng không chắc chắn Vĩnh đã có thể xin một cha làm một "lễ đi" để cầu nguyện cho linh hồn Mẹ anh. Vĩnh cũng có nói qua chuyện này với anh Huy. Anh Huy đã hứa sẽ mời một số đông anh em đọc kinh góp lời cầu nguyện cho cụ.

°

Anh Huy tiếp tay Vĩnh bày hết những món ăn ra sạp gồm khẩu phần đặc biệt của ngày Tết Dương Lịch của bạn bè gom lại, cộng với một nồi nui lớn khá đặc biệt; nồi nui này đã được Vĩnh nấu toàn bằng những thứ bạn bè mỗi người cho một tí (vì anh và những người bạn cùng nhóm ăn chưa ai được thăm vào dịp Tết Dương Lịch), nó có tí tôm khô, tí mỡ, tí hành, tí bột ngọt... Khi tất cả đã đâu vào đấy, Vĩnh bắt đầu chạy sang nhà 5 gọi thêm mấy người bạn thân thiết sang ăn giỗ. Chỉ một nồi nui với khẩu phần đặc biệt được phát vào ngày đầu năm của mỗi người góp vào, bữa giỗ trông cũng rềnh ràng ra phết. Những miếng thịt kho lều bều nước, tí bắp cải cà rốt xào, tí cơm trắng... cũng gây được một không khí thật trang trọng và đầy đủ cho một bữa giỗ. Bất kể những người ngồi quây quần với nhau thuộc tôn giáo nào, với tư cách một người lớn tuổi nhất, anh Huy nói khẽ nhưng rất nghiêm trang.

- Hôm nay là ngày mùng 3 tháng Chạp, giỗ thân mẫu của anh Vĩnh. Tụi này mời các anh qua ăn chung với nhau một bữa cơm và xin các anh góp lời cầu nguyện cho linh hồn Anna sớm được về hưởng phúc thiên đàng đời đời... Bây giờ xin mạn phép làm dấu xướng kinh.

Anh Huy vừa xướng kinh xong thì mọi người đã rất vui vẻ bát đũa lên tay. Vĩnh cảm động và thấy bồi hồi tấc dạ. Anh biết chắc ở một nơi nào đó, cũng trong hoàn cảnh thê thảm này, có một người thân yêu của anh cũng đang xoay sở để làm giỗ cho Mẹ như anh. Vĩnh vừa và được một miếng cơm thì giật mình buông đũa xuống. Đội trưởng Lễ xuất hiện ngó mâm cơm với một nét dò xét khó chịu. Kế anh nhìn Vĩnh, nói.

- Cán bộ gọi anh phía ngoài.

Vĩnh hơi sửng sốt. Sao tụi ăng ten chúng làm việc nhanh thế? Vừa tụ tập ăn uống một chút mà bọn giám thị đã biết ngay rồi. Dù nghĩ thế, Vĩnh vẫn nói nhanh để các bạn yên tâm.

- Các ông cứ tự nhiên ăn. Tôi sẽ có cách nói...

Thế rồi Vĩnh đứng lên đi theo đội trưởng Lễ ra ngoài sân. Một tên cán bộ trực còn rất trẻ tuổi đứng đợi Vĩnh với một mảnh giấy trên tay phía ngoài hàng rào. Thấy Vĩnh, hắn hỏi.

- Anh Vĩnh?

- Vâng, tôi đây.

- Đi theo tôi lên bệnh xá!

Dù không hiểu tại sao lại lên bệnh xá nhưng Vĩnh cũng bước qua cổng và đi theo tên cán bộ. Một lát sau Vĩnh đã có mặt giữa một lô những người mặc áo trắng, loại áo choàng trắng may bằng kaki Nam Định thường thấy ở bọn y sinh và y tá Việt cộng mặc. Trong đám ấy có cả bác sĩ Anh (gần đây, tên y tá Việt cộng có gốc chiêu hồi từng được bọn giám thị cho làm trưởng bệnh xá, đã chích chết một lúc hai ba người, do đó hắn mất chức và bọn giám thị lại phải đưa bác sĩ Anh, một cựu thiếu tá y sĩ của quân đội VNCH vào chức vụ này). Thấy Vĩnh đến, bác sĩ Anh chỉ vào một cái giường đã có nhiều người đui, mù, què, chột, gầy như que tăm, xanh như tàu lá ngồi sẵn tự bao giờ.

Rồi thì một tên mặc áo trắng khởi sự nói với mọi người.

- Báo cáo các anh cải tạo thế này nhá. Nhận chỉ thị của trên, chúng tôi là các y sĩ của Bộ Nội Vụ xuống nghiên cứu và kiểm tra tại chỗ bệnh tật của các anh. Các anh cứ yên tâm nhá. Lương y như từ mẫu. Chúng tôi sẽ báo cáo lên trên những gì qua kiểm tra chúng tôi ghi nhận được. Rồi thì tốt cả thôi. Nhá!

Sau khi giới thiệu vài câu đầu không ra đầu, đuôi không ra đuôi; hắn quay sang giới thiệu mấy tên đồng nghiệp của hắn về phương diện chuyên môn. Mươi phút sau đó, Vĩnh được bước ra trình diện một bác sĩ Việt cộng có chuyên khoa về lao phổi.

Dù rằng Vĩnh vẫn nhớ đến lời dặn dò thân ái của bác sỹ Châu, cựu cục phó Cục Quân Y, là trước khi "người ta" khám, anh nhớ kím chỗ nào kín đáo nhảy dây cho tôi năm mươi cái; nhưng hiện tại vô phương, Vĩnh biết không cách nào làm đúng như lời chỉ dẫn của ông thầy Châu được. Hiện Vĩnh không có chỗ và cũng không có cả thì giờ!

Dù sao Vĩnh cũng yên tâm nhận ra cái nháy mắt trấn an và có vẻ như chia vui của bác sĩ Anh đang ngồi gần đấy. Chìa bộ ngực Omega ra cho tay bác sĩ Việt cộng nghe ngóng, Vĩnh vẫn chú ý theo dõi một diễn tiến chung quanh. Tay y sĩ đang khám cho Vĩnh chợt ngoái cổ hỏi bác sĩ Anh.

- Sao, anh này học tập lao động có tốt không?

Bác sĩ Anh nói không cần suy nghĩ.

- Báo cáo cán bộ lao động rất tốt! Nhưng đủ thứ bệnh trong người!

Vĩnh cười thầm. Ông nội này nói dóc cũng có bằng cấp! Từ ngày Vĩnh về Hàm Tân, chưa bao giờ ở chung đội với ông Anh và cũng chưa bao giờ có dịp lao động gần nhau. Chỉ có một thời gian ngắn ở chung một nhà. Tên y sĩ Việt cộng lại hỏi.

- Anh có kiểm tra thường xuyên phổi anh này đấy chứ? Có cho cách ly không?

- Báo cáo cán bộ phổi anh này thì bết lắm. Thủng một lỗ bên đỉnh trái và đã ho ra máu nhiều lần. Rất tiếc là ở đây không có phương tiện chữa trị và cũng không có khu cách ly.

Tên y sĩ Việt cộng bỗng nhăn mặt.

- Biết thế mà vẫn bắt người ta đi lao động à?

Bác sĩ Anh hơi ngẩn người trước cái nhân đạo bất thình lình của tên y sĩ Việt cộng, và càng ngẩn người hơn lúc thấy rằng hình như tên này quả không hề biết tí gì về những chuyện đã và đang xảy ra trong hệ thống trại tù của cái chế độ mà chính y đã được đào tạo và đang phục vụ một cách tích cực.

Nhưng rồi bác sĩ Anh cũng trả lời được một câu.

- Báo cáo cán bộ tôi chỉ là một phạm nhân được Ban Giám Thị cho hành nghề khám bệnh giúp đỡ anh em thôi. Còn việc lao động hay không là quyền của các cán bộ giám thị.

Tên y sĩ Việt cộng hơi nhăn mặt rồi quay lại với một chồng hồ sơ nằm trên mặt bàn cạnh đấy. Vĩnh và bác sỹ Anh đều không biết hắn đang viết cái gì.

Sau màn kiểm tra sức khỏe đột xuất và cũng là lần đầu tiên trong suốt bốn năm rưỡi trời tù tội, Vĩnh được cho phép trở về phòng. Sự vắng mặt của Vĩnh làm anh em ai cũng lo, nhưng như vậy không có nghĩa là bữa giỗ bị ế ẩm. Hầu như trên mâm mọi cái đều sạch sẽ, ngoại trừ phần ăn bếp phát cùng với một tô nui bạn bè múc riêng ra để dành cho Vĩnh. Anh ngồi xuống ăn tiếp tục với đủ thứ ý nghĩ trong đầu. Những câu hỏi tới tấp của bạn bè đều được trả lời một cách rất thiếu chính xác. Câu chuyện được nghe kể từ hồi Suối Máu, khi một số anh em tù được đưa từ trại Bùi Gia Mập về Vĩnh còn nhớ như in. Họ cho biết hồi mới tập trung, bọn Việt cộng đã lập một khu cách ly giữa rừng sâu đành cho những người bị tứ chứng nan y tự do sinh sống với nhau để chờ ngày... chết. Thực phẩm nước uống chúng cấp đủ cho hai tháng, sau đó sống chết mặc bay...

Rồi bữa giỗ cũng qua đi. Ngày nghỉ của mọi người là ngày ngủ. Nhưng riêng Vĩnh không cách gì ngủ được. Anh ra ngoài sân nắng ngồi cho ấm, nhìn những người không ngủ trưa khuân những gói mì khô, nhất là những gói nui ống do gia đình cung cấp ra phơi. Nui xã hội chủ nghĩa ở đâu cũng thế. Một nui có tới hai mọt và ba mốc. Những con mọt hôi hám đen trắng lẫn lộn bị phơi nắng bò ra ngoài lổn ngổn. Nơi phía bếp đầu hồi gần chỗ cầu tiêu, trưa nào cũng thế, người duy nhất còn sót lại đi gom góp những mớ than hồng còn sót để gom vào một bếp, loay hoay với cái nồi to tướng nấu một món ăn hổ lốn vẫn chỉ là Lê Văn Tầm. Nhu cầu của một thân xác lực sĩ hình như hành hạ hắn suốt ngày, và bất cứ lúc nào rảnh rỗi Tầm cũng ôm lấy cái nồi và cái bếp. Hắn nấu bất cứ gì hắn kiếm được, kể cả cơm và thịt anh chàng Trương Hồng điên loạn đã ném vào cầu tiêu và đã dính cả những chất cặn bã dơ dáy của con người! Đời tù tội, Vĩnh đã gặp nhiều tay bị cái đói hành hạ đâm ra ăn uống thô tục, nhưng Tầm, người có thân hình lực sĩ tuyệt đẹp và cũng từng chiếm giải bơi lội của Hải quân, có lẽ là người số một!

Ngồi lơ mơ ngoài sân nắng với những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu, có lúc hình như Vĩnh đã đọc kinh, đã cầu nguyện một cái gì đó với người Mẹ quá vãng của anh; cũng có lúc Vĩnh thấy mình lạc vào một vùng mịt mù rừng rậm với những người bạn lao phung cùi hủi. Nhưng Vĩnh đã nhất định không chết, đã tìm đường ra với rất nhiều hình ảnh lạ thường.

- Này anh Vĩnh, làm gì đấy?

Tên phó giám thị, một lần nữa như một thứ bóng ma, đã xuất hiện ngay bên ngoài hàng rào. Vĩnh muốn đứng lên đi thẳng vào phòng nhưng nghĩ sao anh tảng lờ và tiếp tục ngồi nhìn ra ngoài sân nắng. Tên giám thị chẳng buồn hỏi tiếp, hắn bỏ đi về phía dãy bếp sau nhà.

--------------------------------

1 Paven: Nhân vật chính trong một tác phẩm "gối đầu giường" cho thanh niên Nga, một thứ anh hùng lao động trong thời kỳ cách mạng 1917.


--------------------------------

 

Chương Kết
Bọn giám thị trại Hàm Tân dù không thẳng thắn tuyên bố ra, nhưng hơn ai hết, đội 17 biết thật rõ và thật chắc chắn quản giáo Phú đã đào ngũ, đào ngũ trước Tết Nguyên Đán 1980 đúng mười ngày. Một quản giáo mới được thay thế vừa đúng ba ngày, tức trước Tết còn đúng một tuần lễ, thì trại Hàm Tân, 2.000 tù, vào một buổi trưa trước giờ xuất quân đi lao động, có 14 thằng tù loại sắp chết được cách mạng xướng tên cho phép "lê bước chân tìm về tổ ấm".

Lúc ấy, Vĩnh vừa ký tên vào sổ xin ở nhà khai bệnh và dĩ nhiên, nhận được một cái nhìn đầy ác cảm của đội trưởng Mai Văn Lễ. Một thằng khai bệnh là một cái điểm đen trong bảng chấm công hàng ngày, hàng tháng và hàng năm của cả đội. Vì lẽ đó, ngay đội trưởng, cũng thân phận tù như nhau, đã vì "chức năng", luôn luôn làm khó dễ anh em trong những lúc đau ốm buộc lòng phải khai bệnh. Dù gì gần đây đội trưởng Lễ nhăn nhó với Vĩnh cũng phải. Nội tuần vừa qua Vĩnh đã khai bệnh đến ba lần. Mà không khai bệnh cũng không được! Hiện tại Vĩnh đã biết mình lao nặng trở lại. Lao thực chứ không còn kịch cỡm gì nữa. Ở đây không như Suối Máu. Ở đây lao động rất trâu bò. Lại gió núi mưa bưng. Bệnh phổi của Vĩnh đã tái phát và lúc này coi mòi đang trên đà phát triển dữ dội. Cứ tưởng tượng phải lặn lội đào bùn dưới đường hào với cái bụng đói meo, trong khi những cơn gió lạnh thổi từ rừng buông ra, Vĩnh đã thấy ớn sợ. Thế nên đội trưởng Lễ có nhăn nhó một, chứ nhăn nhó mười Vĩnh nhất quyết cũng khai bệnh nằm nhà vào cái chiều thứ Bảy cuối tuần này. Hơn thế, mấy ngày nay Vĩnh viết được một bài nhạc mới thật ưng ý, bài Nếu Tôi Còn Sống Mà Trở Về; Vĩnh muốn có thì giờ nằm nhà suy nghĩ và gọt dũa thêm...

Ngoài sân của khu và cả ngoài sân trại, các đội hình đã ngồi đầy dẫy để chờ giám thị trực đọc các thông cáo trước giờ cho xuất quân đi lao động. Vĩnh ngồi trong phòng, choàng cái chăn rách lên người cho thêm vẻ đau ốm và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hôm nay có gì mà trang trọng thế? Vĩnh tự hỏi. Thông thường chỉ ngày đầu tuần, khi có những thông cáo quan trọng thì bọn trật tự mới khênh cái bục thuyết trình ra sân cho giám thị trực dùng. Những ngày cuối tuần thế này, có đọc thông cáo hay lệnh phạt đi nữa, thường chỉ được thực hiện giản dị mà thôi. Nhưng trưa nay lại có cả bục thuyết trình đàng hoàng.

Tên giám thị trực đã xuất hiện. Một lúc sau tiếng loa ồm ồm đọc lên một cái gì đó Vĩnh không nghe rõ. Anh em ngồi tập họp ngoài sân chợt thầm thì bàn tán.

- Có list thả!

- Đúng rồi! Thả nữa! Vậy là từ tháng 9 năm rồi đến nay đã hai đợt thả!

Một giọng buồn buồn.

- Mỗi kỳ thả năm bảy thằng chắc kiếp sau mới tới lượt những thằng phản động chuyên nghiệp như mình!

Vĩnh cảm thấy thật ơ hờ với cái không khí đọc thông cáo thả tù ngoài sân. Anh nằm xuống kéo chăn chùm kín đầu khi thấy bác sỹ Anh dẫn theo mấy anh y tá vào tận nhà 4 khám bệnh cho những người khai bệnh. Vĩnh đang nghĩ cách làm sao nói khéo để ông Anh cho nghỉ chiều nay.

Trong lúc bác sỹ Anh đang khám mấy người nằm ở đầu dãy phòng thì có một người bỏ hàng ngoài sân chạy tốc vào nhà 4. Vĩnh ngó ra thấy ông Thuận tức Châu Sơn. Ông Thuận chạy phóng đến chỗ Vĩnh nằm, giật mạnh chân Vĩnh, nói như người nghẹn thở.

- Họ thả ông rồi!

Nằm chùm chăn kín đầu, Vĩnh không nghe rõ ông Thuận nói gì. Thấy Vĩnh vẫn nằm yên, ông kéo thốc cái chăn của Vĩnh lên, la lớn một lần nữa. Vĩnh! Họ thả ông rồi kìa! Ngồi lên!

Bây giờ thì Vĩnh đã nghe thấy và nhìn nét mặt hớt hải vì mừng của ông Thuận, Vĩnh đã tin lời ông nói. Vĩnh ngồi dậy và cố lấy vẻ thật thản nhiên, anh hỏi lại.
- Còn anh sao?
Ông Thuận giơ cả hai tay tỏ vẻ chán nản. Ông đứng nhìn Vĩnh một thoáng, hơi hạ giọng và nói nhanh một cách thật cảm động.
- Chút nữa thế nào họ cũng đưa ông đi khỏi đây. Thế là hết, khi tụi này đi lao động về thì chỗ này đã khuyết đi một người nằm... Chả biết bao giờ gặp lại ông...
Ông Thuận có vẻ thật buồn. Rồi ông quay lưng đi ra phía cửa. Trông cái dáng cao nghệu và khòm khòm của ông, Vĩnh thấy nơi ông tất cả sự chịu đựng mệt mỏi. Ra gần tới cửa, có bác sỹ Anh đang khám bệnh, ông Thuận nói nhỏ gì đó với ông Anh. Ông Anh bỗng ngẩng đầu lên, ngó dáo dác về phía Vĩnh, hỏi vu vơ.
- Đâu? Anh nào? Anh nào may mắn vậy?
Trước khi rời khỏi cửa phòng, ông Thuận ngoái lại một lần nữa. Ông nói lớn với nụ cười héo hắt.
- Thôi, mừng ông và tạm biệt ông nhé. Có những điều tôi từng nói với ông, nhớ lấy! Nếu có dịp gặp anh em văn nghệ, đặc biệt bà Nguyễn Thị Hoàng, cho tôi gửi lời thăm hỏi...
Tiếp theo đó là anh Huy, Ý, Dương, Điểu, Cường và cả anh chàng phó quận Vũ Duy Báu, người từng giúp đỡ Vĩnh thật nhiều về thuốc men, đều chạy vào phòng chia mừng với Vĩnh.
Khi đạo quân lao động khổ sai đã lần lượt rời hết cổng trại, trật tự xuống từng nhà và ra lệnh ngắn gọn cho những người có tên thả.
- Mấy ông thu vén đồ đạc thật nhanh để lên hội trường làm việc với cán bộ. Nhớ là mang theo hết đồ đạc vì sẽ không trở về đây nữa.
Vĩnh ngồi thu vén lon cóng, mùng mền, quần áo, chai lọ vào bao bị. Cái kinh nghiệm về một Bùi Duy Hạ ở trại An Dưỡng năm nào khiến Vĩnh muốn đem theo hết những vật dụng tùy thân này. Nhưng rồi nghĩ ngợi sao, Vĩnh lại bỏ tất cả những cái mình có ra. Anh để lại đầu giường của những người bạn thân thiết những thứ đồ dùng của anh, người cái quần, kẻ cái áo, người cái ca nhôm, kẻ cái kem đánh răng đã dùng dở dang...
Khi tụ tập trên hội trường vào lúc ba giờ chiều có lẽ Vĩnh là một trong những người nhẹ gánh nhất. Anh chỉ đem theo mình vỏn vẹn một bộ quần áo rách nhất đề phòng ban đêm lạnh sẽ mặc thêm lên người.
Trên hội trường, tên cán bộ trực đọc lệnh thả của Bộ Nội Vụ, rồi đọc nội quy quy định cho những người được thả. Đọc xong, hắn nói.
- Thay mặt Ban Giám Thị trại, tôi chúc mừng các anh được nhà nước tạm tha để về chữa bệnh. Ban Giám Thị mong rằng trong thời gian tạm tha, các anh sẽ phấn đấu tốt để trở thành người công dân lương thiện tại địa phương, để được nhân dân và chính quyền địa phương công nhận cho thường trú...
Các anh được về đoàn tụ gia đình đúng dịp Tết Dân Tộc, vậy trước khi rời trại này sang khu tập trung mới đợi làm thủ tục, thay mặt Ban Giám Thị trại, tôi chúc các anh một cái Tết tự do, ấm no và hạnh phúc với gia đình. Đồng thời...
Tên giám thị trực còn nói nhiều nữa nhưng Vĩnh không chú ý nghe. Sau đó, 14 thằng tù bệnh hoạn được trật tự hướng dẫn đi lối tắt phía sau bếp len qua hàng rào tre, băng qua khu đan tre của mấy ông tù già và bước vào lãnh thổ của khu Thiên Đường Mới.
Một gian phòng xây đúc đã hoàn tất được chọn cho bọn Vĩnh làm nơi tạm nghỉ qua đêm chờ ngày mai làm thủ tục hành chánh.
Tay trật tự với vẻ mặt vui vẻ khác hẳn ngày thường, cho bọn tù được thả biết vài điều trước khi hắn rút lui.
- Trên nguyên tắc, như cán bộ đã nói, các anh tự do từ giây phút này. Các anh có thể ra suối tắm bất cứ lúc nào muốn. Cơm nước đội anh nuôi sẽ đem từ trại cũ ra cho các anh đầy đủ. Tuy nhiên, vì chưa có giấy tờ, với lại để tránh bị các cán bộ an ninh vòng đai ngộ nhận bọn xấu trốn trại nổ súng lầm, yêu cầu các anh đừng đi đâu ra khỏi phạm vi khu xây cất này với bờ suối kia.
Rồi khi tên trật tự đã quay đi, bỏ lại 14 thằng tù may mắn muốn làm gì thì làm.
Một số anh siêng năng vội vàng ra sân kiếm mấy hòn gạch bắc bếp nấu nước sôi. Vĩnh nằm quan sát chung quanh căn phòng của khu Thiên Đường Mới. Tất cả đều được đúc bằng xi măng cốt sắt trộn đá xanh. Những chấn song sắt to bằng cườm tay. Những nền đá lạnh ngắt dùng làm chỗ nằm... Quang cảnh nơi đây không khỏi gây cho người tù, dù đã bầm dập vì tù, một cảm giác mới thật ớn lạnh. Một ngày không xa, những người còn lại sẽ được chuyển sang ở nơi khu Thiên Đường Mới này. Đời họ sẽ ra sao? Rồi Vĩnh quan sát tới những người chung quanh. Trong 14 người được thả đợt này có hai người bị cùi, tám người lao phổi nặng, một người cụt chân vì bị mìn trước đây, một cụ già sáu mươi lăm tuổi, một bị bại xụi và người sau cùng bị cụp cột sống do cây đè.
Dù cái cân hậu cần dưới bếp không đúng lắm, nhưng có nhiều dịp lao động gần đấy, Vĩnh đã leo lên cân và ghi nhận được sức nặng của anh những ngày gần đây chỉ còn độ 35 tới 36 kgs. Thế nhưng, Vĩnh cảm thấy anh là người tương đối khỏe mạnh hơn hết trong đám người đang nằm ngồi với đầy nét bồi hồi trên mặt chung quanh anh. Một anh bạn trẻ tuổi bị cùi, ghé đến cạnh Vĩnh làm quen. Anh ta nói anh có nếp và lạc xưởng đem theo. Hai người đứng lên và bước ra khỏi phòng. Một lúc sau, như những người khác, Vĩnh và anh bạn mới đã ngồi bên cạnh một cái lò bên trên có một cái lon guigoz cơm nếp.
Anh bạn nhìn quanh, nói.
- Tụi nó cô lập khu này. Anh em ta lao động gần đây có lẽ không được phép liên hệ với tụi mình.
Vĩnh khều khều cho cái bếp cháy to hơn, trả lời.
- Dĩ nhiên là phải vậy.
Người bạn trẻ lại tiếp.
- Nơi đây gọi là nhà đá thì thật đúng. Bước vào trong lạnh như có ướp đá vậy! Mà chả hiểu tại sao họ lại cho mình sang ở khu này trước khi làm thủ tục về nhỉ?
Vĩnh cười cười trả lời cho người bạn mới vui lòng.
- Thì cách mạng đã nói rồi. Chủ yếu các anh làm các anh hưởng. Những dãy nhà đá này thành hình một phần cũng có công sức của tụi mình góp vào. Trước khi ra đi, chả lẽ cách mạng lại không tạo điều kiện cho tụi mình được ngủ trong đó một đêm gọi là cho biết mùi hay sao?
Một người khác ngồi nấu cách Vĩnh không xa, cất cái giọng khàn khàn như người hết hơi, len vào câu chuyện của Vĩnh và người bạn trẻ.
- Một hình thức dằn mặt mình đó mấy ông ơi! Ý nói đừng trở lại đây nữa. Trở lại là rục xương...
Vĩnh không nói thêm một lời nào. Giờ này đã chấm dứt giờ lao động chiều. Ngoài bờ suối ầm ầm những tiếng động, tiếng nói cười của lũ tù thay phiên nhau từng đợt xuống tắm. Và rồi khi mấy anh nuôi đem cơm ra - chứ không phải ngô như mọi bữa - cho bọn tù được thả, thì những tiếng động ngoài bờ suối đã lắng xuống và từ từ dứt hẳn. Có lẽ đợt sau cùng đã lên bờ và trở về địa điểm tập trung chờ điểm danh nhập trại. Bọn Vĩnh chả mấy người ăn được. Chẳng ai mà không nôn nao nghĩ đến ngày mai được ra khỏi cái "Đại Học Tổng Hợp" này. Để cho tâm hồn được yên tĩnh, Vĩnh rủ anh bạn trẻ ra suối tắm trước khi ngồi vào bữa ăn cho nó... sang, cho nó trở lại với phong thái văn minh văn hóa của loài người.
Từ ngày về đây, lần đầu tiên được ra suối trong tình trạng vắng lặng như thế này, Vĩnh mới thấy rõ được sự nhỏ bé của con người trước cảnh âm u bao phủ của rừng già. Người bạn đã nhanh chóng trườn xuống nước. Vĩnh bị phổi nên bỗng nhiên sợ nước lạ lùng. Anh đổi ý không tắm và ngồi yên trên bờ nhìn cảnh vật chung quanh. Một ý nghĩ chợt nổi lên trong đầu Vĩnh. Căn phòng Vĩnh ngủ không xa khu cachot là bao, chỉ cách một hàng rào đơn và một dãy nhà. Vĩnh tự hỏi tại sao đêm nay mình không qua đó quan sát một lần cho biết cái "trái tim" của khu Thiên Đường Mới này nó ra sao? Và rồi Vĩnh nghĩ ngay đến miếng cơm nếp lạc xưởng. Ta nên để dành nó. Biết đâu lại gặp được thằng Dũng? Lúc này mà nó được ăn một miếng cơm nếp lạc xưởng hẳn phải sướng hơn mình được thả mười lần!
Bên kia bờ suối bỗng xuất hiện hai tên công an có súng trên vai. Một tên chợt thấy bọn Vĩnh dưới suối, hắn dừng chân sừng cồ hét lớn.
- Này! Mấy thằng tù kia. Đội nào nhà nào mà giờ này còn tắm ở đây?
Nghe tên an ninh vòng đai hét, người bạn dưới suối nhanh nhẩu.
- Báo cáo cán bộ tụi tôi được thả rồi! Được tự do rồi!
Tên công an thứ hai nghe vậy vôi chen vào.
- Này! Ăn nói với cán bộ mà vô phép thế đấy phỏng? Mày tưởng thế là mày tự do đấy phỏng?

11-80 Bidong, Malaysia

12-84 San Diego, USA.

https://isach.info/story.php?story=dai_hoc_mau__ha_thuc_sinh&chapter=0073


 

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...