Sunday, April 7, 2019

Viết Tặng Người Lính Tôi Quen

Viết Tặng Người Lính Tôi Quen






      Viết Tặng Người Lính Tôi Quen


      Tôi gặp anh khi tuổi còn rất nhỏ,
      Toán lính qua làng để bình định an dân.
      Anh hiên ngang cùng đi giữa đoàn quân,
      Rồi tiến thẳng vào ngôi nhà tôi ngồi nghỉ.

      Nón sắt, ba lô, poncho và vũ khí,
      Các anh vui cười, lễ phép hỏi Ba tôi:
      "Bác cho chúng con mượn tạm mảnh sân thôi,
      Đêm nay nghỉ, mai đi hành quân tiếp".

      Tôi gặp anh một buổi chiều vàng rất đẹp,
      Tuổi trăng non chưa hề biết mộng mơ.
      Học trường xa ngày nghỉ mới trở về,
      Con đường vắng chốt lính canh xuất hiện.

      Anh chặn tôi: "Giờ nầy về bất tiện,
      Giặc về làng quậy phá tối hôm qua,
      Đơn vị Anh quần thảo đến canh ba,
      Giặc rút chạy, toán quân nhà vô sự!"

      Tôi gặp Anh tuổi xuân thì thiếu nữ,
      Rất bình thường, không mơ mộng, kiêu sa,
      Tan trường về biết mong ngóng Người Ta,
      Rồi tự nhủ: chắc đang hành quân gấp đó!

      Anh quân nhân không mũ xanh, mũ đỏ,
      Không hoa dù, cũng chẳng Thiết Vận Xa,
      Không lênh đênh lấy biển cả làm nhà,
      Không bay bổng giữa trời cao gió lộng.

      Anh người lính: niềm tin và hy vọng,
      Ngăn giặc thù giữ thôn xóm bình an,
      Ngày hành quân ven biên giới Tỉnh - Làng,
      Đêm đi kích cũng ruộng hoang, gò mả.

      Địa Phương Quân - lính con rùa nhưng vất vả,
      Sống giữa lòng Dân mà nguy hiểm bội phần,
      Đang nói cười lựu đạn nổ - thây phân,
      Đường sanh tử đếm thời gian tích tắc.

      Quán cà phê có thể là trạm giặc,
      Thằng bé qua đường có thể "giao liên".
      Cô bé xinh xinh trông rất nhu hiền,
      Nào ai biết đó là "Đặc công cộng sản"?

      Tôi gặp Anh trong dòng người hỗn loạn,
      Thấp thỏm chờ tàu vận chuyển xuôi Nam,
      "Cuộc di tản" như triệt cả đoàn quân,
      Vùi ý chí, nén đau buồn "thúc thủ"!

      Tôi gặp Anh giữa chợ trời lam lũ,
      Tấm thân gầy phủ mảnh áo vá vai.
      Áo rách vá, làm sao vá đời trai,
      Bị tơi tả sau tháng ngày nghiệt ngã?

      Tôi gặp Anh đang mong manh hơi thở,
      Thân phận con người đang trăn trở giựt giành,
      Cuộc chiến sau cùng đã định sẵn lằn ranh,
      Nhưng người lính đó vẫn trong tôi mãi mãi!

      Lê Thị Hoài Niệm



 photo ARVN soldiers
Toán lính qua làng để bình định an dân


 photo ARVN soldiers

Một người lính Địa Phương Quân

Spring Flower Pictures, Images and Photos

 




Người Lính Nghĩa Quân Trong Tim Tôi




Nguyễn Thanh Thủy


Năm tôi được 10 tuổi, gia dình tôi bỏ ruộng vườn vào ở trong khu Ấp Chiến Lược, được bao bọc bởi một vòng thành kiên cố có kẽm gai, có hào sâu chung quanh. Ở hai đầu ấp có hai cái đồn Nghĩa Quân nhỏ. Ba má tôi thỉnh thoảng trở về nhà làm ruộng, gặt lúa ban ngày, rồi ban đêm vào xóm ở. Ấp Chiến Lược là một công trình chiến lược dùng để cô lập Việt Cộng ra khỏi dân chúng. Việt Cộng hay trà trộn trong dân và bắn giết dân chúng và quân lính Việt Nam Cộng Hòa.

Lúc nầy Việt cộng bắt đầu nổi dậy mạnh ở miền Tây, thâu thuế, giết hại dân thường, ám sát Xã Trưởng, Ấp Trưởng của VNCH gây kinh hoàng cho dân chúng, gây mất ổn định cho xã hội miền Nam đang sống trong thanh bình.

Việt cộng bịt mắt, chặt đầu hay chôn sống bất cứ người nào họ nghi ngờ là đang cộng tác với chính quyền VNCH. Khu ấp chiến lược tôi ở được bảo vệ bởi một trung đội Nghĩa Quân, gồm có ba tiểu đội. Các chú lính hay ở trong đồn, còn vợ con họ sống trong các căn nhà nhỏ trong xóm. Nhà tôi ở gần nhà ông Tiểu Đội Trưởng, tôi kêu là chú Tấn.

Canh giữ xóm làng.

Lúc mới vào ấp tôi chỉ là một đứa con gái nhỏ quê mùa ngơ ngác. Nhưng lần lần tôi cặp bè bạn chơi với mấy đứa bạn, gái có, trai có, lớn tuổi, lanh lợi hơn, tôi học được nhiều thứ mới mẻ. Tôi biết cả tên cây súng nào là cây Carbine, cây nào là Garant, Thompsom, cây nào là cây súng phóng lựu. Tôi biết tên hầu hết các chú lính nghĩa quân trong tiểu đội của chú Tấn, nào là chú Tường, chú Sanh, chú Đúng, chú Quít, chú Mực... Các chú rất hiền và chú nào cũng nghèo. Bộ quân phục được các bà vợ vá nhiều chỗ. Tôi hay lân la đến nhà các chú chơi với con của họ. Với đồng lương Nghĩa Quân khiêm tốn, các chú ăn uống rất đạm bạc, thường là cá linh, cá lòng tong kho, với rau lang luộc hoặc chút ít canh bí, canh bầu. Hầu như chú nào cũng có vợ và vài ba đứa con. Khi rảnh rỗi tôi thấy các chú hay giúp việc nhà cho vợ buôn bán chút đỉnh kiếm thêm tiền. Có chú giữ con cho vợ ngồi bán rau ngoài chợ. Có chú xay bột cho vợ làm bánh tầm, bánh bò bán cho dân trong xóm.

Một người lính bộ binh trẻ.

Chú Tấn còn trẻ, nhưng ít nói. Thím Tấn là một người đàn bà hiền lành, có đôi mắt đẹp, to và dễ khóc. Chú hay xay đậu nành làm thành bánh đậu hủ cho thím ủ chao, ủ tương, rồi thím đem bán vào những buổi chợ rằm, chợ ba mươi cho người ta ăn chay. Chú thím Tấn có hai đứa con. Thằng Dũng được 6 tuổi, con Lan 3 tuổi. Khi bận bán tương, chao, thím Tấn hay gởi hai đứa nó nhờ tôi giữ dùm. Tôi hay chơi đùa và coi chúng nó như em. Tụi nó cũng rất thương tôi.

Rất ít khi dân trong xóm gặp các chú Nghĩa Quân ra đi hành quân, các chú lặng lẽ ra đi khi trời sụp tối để giữ bí mật. Họ âm thầm canh gác đâu đó dọc theo bờ thành ấp chiến lược, sáng sớm mới trở về. Họ đi về im lặng như những cái bóng mờ. Có những sáng tôi hay gặp các chú trở về, thường thì chỉ có cái áo khô, quần các chú ướt đẫm, sình bùn lên trên đùi. Các chú thường đi dép hay đi chân không, chẳng mấy ai có được đôi giầy.

Có khi đang đêm, tôi nghe súng nổ giòn rã. Sáng hôm sau các chú lính quen thuộc mang về hai cây súng chiến lợi phẩm của Việt cộng cùng với vài trái lựu đạn. Các chú kể cho mọi người trong xóm nghe là đêm rồi một toán Việt cộng băng qua ruộng phá hàng rào định đột nhập vào ấp chiến lược thu thuế và bắt dân đi làm dân công, qua sự hướng dẫn của một tên giao liên là người trong ấp. Các chú bắn chết hai tên, thây còn bỏ ngoài bìa ấp. Chúng tôi rủ nhau đi coi xác Việt cộng. Có lần các chú bắn chết cả một xuồng Việt cộng đang băng qua sông. Nhờ các bác ghe chài vớt lên, được nhiều súng. Sáng hôm sau ông Quận Trưởng bất ngờ đến đồn Nghĩa Quân xóm tôi, khen ngợi và thưởng tiền mua một con heo quay thật lớn. Các chú được dịp ăn nhậu vui vẻ. Mấy đứa con các chú Nghĩa Quân cũng hí hửng được dịp ăn thịt heo quay.

Một ngày nọ tôi đi học về thấy cả xóm nhốn nháo lên, mấy thím vợ lính hớt hãi lo lắng. Thím Tấn nước mắt quanh tròng. Tôi hỏi thì thím cho tôi hay Trung đội Nghĩa Quân vừa bị tấn công và hai chú Nghĩa Quân hiền lành của xóm tôi vừa hy sinh, đền nợ nước. Chú Mực mà tôi quen thì bị đạp mìn Việt cộng gãy giò. Thật là một cái tang lớn cho cả xóm tôi. Linh cửu của hai chú được quàng tại chùa, vợ con lối xóm khóc lóc tỉ tê. Đến chiều thì người ta chôn hai chú ngoài bờ rào ấp. Một hàng 6 chú Nghĩa Quân đứng chào trên bờ huyệt. Quan tài hạ xuống, các chú bắn 6 loạt đạn điếc tai. Mặt các chú rất đau khổ, gầm lại khác hẳn các khuôn mặt hiền từ hàng ngày mà tôi thấy.

Vợ con hai chú đòi nhảy xuống huyệt chết theo chồng. Nhiều người phải xúm lại kéo các thím lên, khó khăn lắm mới dẫn được họ về nhà. Bọn chúng tôi và mấy đứa con trai ngày thường hay chạy nhảy, phá phách, la hét, mà giờ cũng đứng im ru. Tôi không biết Việt cộng là ai, nhưng tôi lờ mờ hiểu rằng họ là người không tốt, vì họ bắn phá mà gia đình tôi phải bỏ thôn xóm vào đây. Giờ họ còn theo định đột nhập vào cái ấp chiến lược nầy làm chi nữa?

Lính VNCH hành quân.

Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Việt cộng bắt đầu tấn công miền Nam ở cấp số lớn hơn. Họ đặt mìn giật xe chạy trên quốc lộ, họ giật xập cầu, bắt dân chúng đi đắp mô cản đường xe chạy. Có khi họ giật mìn chết cả một chiếc xe đò. Nhiều người chết có cả đàn bà và trẻ em, thịt xương văng tung tóe. Có lúc họ pháo kích hay đặt mìn giật xập trường học của học sinh miền Nam. Tiểu đội của chú Tấn phải đi kích liên miên. Thím Tấn lo âu thấy rõ. Trung đội Nghĩa Quân lập được nhiều chiến công. Nhưng các chú Nghĩa Quân mà tôi quen biết cũng vơi dần. Họ đã âm thầm ra đi như những người chiến sĩ vô danh và trở về im lìm, trong những chiếc chiếu, những cái poncho, trong cái cảnh da ngựa bọc thây.

Rồi cái ngày đau thương của thím Tấn và hai đứa con dại đã đến Chú Tấn và một chú Nghĩa Quân nữa hy sinh trong một cuộc đụng độ dữ dội với Việt cộng năm 1965. Xác chú được khiêng để trên bộ ván trong căn nhà nhỏ của chú. Khi tôi đi học về, tôi thấy người ta đang tắm rửa thay đồ rồi để một nải chuối lên bụng chú, ngọn đèn dầu leo lét được thắp trên đầu nằm có để một chén cơm và một cái trứng vịt. Đầu chú được băng bông trắng. Máu còn rỉ ra bên màng tang. Vợ con chú vật vã khóc than, đau đớn không thể nào kể xiết. Tôi đến mắm tay hai đứa nhỏ. Thằng Dũng thỉnh thoảng hỏi tôi: “Bộ Ba em chết rồi hả chị?” Tôi chỉ ừ, không biết trả lời làm sao!

Lính VNCH dừng quân.

Đến khi chôn chú Tấn, hàng loạt đạn đưa tiễn vang rền. Thím Tấn chết lên chết xuống, bộ đồ tang trắng bê bết bùn sình. Người ta phủ lên cái mã đất của chú Tấn một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa thật dài. Bốn phía có cắm bốn lóng trúc có gạo và muối. Tôi phải dẫn con Lan và thằng Dũng về nhà. Nước mắt tôi tuôn rơi. Cuộc sống chúng tôi đang êm đềm hiền hòa, thì tại sao người ta phải tấn công thôn ấp, giết hết người nầy người nọ. Để làm gì?

Miền Nam độc lập tự chủ, có ai chiếm đóng miền Nam đâu, mà phải giải phóng chúng tôi. Cuộc đời dân miền Nam không hạnh phúc, sung sướng gấp chục lần dân miền Bắc hay sao? Tại sao các người phải giết chú Tấn của chúng tôi để cho cuộc đời mẹ con thằng Dũng từ đó ảm đạm, sa sút hẳn đi. Thím Tấn khóc hoài không dứt... Năm sau, gia đình tôi dời đi chỗ khác. Tôi ít được gặp lại Thím Tấn, thằng Dũng và con Lan.

Năm năm sau, tôi mới được về thăm ấp cũ, tôi mừng rỡ gặp lại thím Tấn và hai đứa con. Bây giờ ngày nào thím cũng phải ra chợ bán tương chao nuôi con. Thằng Dũng vẫn còn nhớ tôi nhưng con Lan thì không nhận ra tôi nữa. Sau nầy tôi có dịp tiếp xúc với nhiều binh chủng oai hùng khác của quân lực VNCH, nhưng lòng tôi vẫn còn nhớ về các chú Nghĩa Quân hiền lành mà tôi đã biết năm nào. Hơn phân nửa các chú đã nằm xuống để bảo vệ làng xóm, quê hương tôi. Số còn lại có người gãy chân, có người cụt tay, sống đời tàn phế. Việt Cộng đã chà đạp lên Hiệp Định Hòa Bình Paris mà họ vừa ký kết năm 1973, cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, đưa cả nước xuống 10 tầng địa ngục.

Một cảnh Huynh đệ chi binh, dìu bạn bị thương.

Thân tôi giờ xa xứ xa quê, đã hiểu được ý nghĩa sự hy sinh cao cả của các anh, các chú quân nhân quân lực miền Nam, thỉnh thoảng tôi nhớ lại các chú lính Nghĩa Quân tôi quen biết mà thấy lòng thương lắm. Cùng với bao nhiêu binh chủng khác của quân đội, các chú âm thầm lặng lẽ hy sinh, cho dân chúng trong ấp tôi được sống trong yên bình. Các chú đem xương máu ra bảo vệ nền tự do, dân chủ mới được thành hình trên miền Nam yêu dấu.

Các chú đã nằm xuống - bỏ lại con thơ, vợ dại - để ngăn cản bọn quỷ đỏ hung tàn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam, áp đặt cả nước trong một chế độ độc tài, hung bạo, không lối thoát. Các chú đã đem sinh mạng, xương máu của mình, để ngăn cản bọn bán nước buôn dân đày đọa cả dân tộc, và đưa đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại. Các chú đã anh dũng hy sinh, ngăn cản bọn CSVN chiếm đoạt đất nước làm tài sản riêng tư cho đảng, rồi tự ý dâng hiến đất đai, hải đảo của tiền nhân cho quan thầy Trung Cộng.

Canh giữ xóm làng.

Hỡi cô bác, hỡi anh chị ơi! Nếu vị nào may mắn, có cuộc sống bình yên xin đừng quên các chú lính Nghĩa Quân đang sống đời tàn phế. Xin đừng quên các chú Nghĩa Quân đã lặng lẽ hy sinh để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Xin đừng quên vợ con họ, bị bỏ lại sau lưng với cuộc đời đau khổ.

Nguyễn Thanh Thủy

(Bài nầy được viết dựa vào những sự kiện có thật. Vì sự an toàn của một số người còn kẹt lại, tác giả tạm thời không đề cập đến những địa danh và tên người cần thiết trong bài nầy.

http://www.vietlist.us/VietHistory/nguoilinhnghiaquan.shtml


 


1
Biển Mặn



2
Tám Điệp Khúc



3
Mưa Đêm Ngoại Ô

 

 photo Regional Forces soldier.jpg
Người lính Nghĩa Quân VNCH - Phan Thiết 1968
Regional Forces soldier ARVN

 

 



Người Lính Địa Phương Quân Và Nghĩa Quân Trong Những Ngày Hấp Hối Tháng 4-75 Tại Bình Thuận


Thời VNCH (1955-1975), Quân Đoàn 2 chiếm một lãnh thổ có diện tích lên tới 78.841 km2, rộng nhất trong bốn vùng chiến thuật. Bộ Tư Lệnh đóng tại Pleiku, còn hai Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 2 và 5 thì ở Qui Nhơn và Nha Trang - Cam Ranh, còn có hai Sư Đoàn 2 và 6 Không Quân Chiến Thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng II Chiến Thuật bao gồm 12 tỉnh Cao Nguyên và duyên hải trung phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến cộng nằm vùng, nhất là Bình Thuận - Bình Định.

Để xâm lược miền nam, cộng sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao lộ đã có sẵn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ Chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma Giải Phóng Miền Nam sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải, men theo rặng Trường Sơn, tới Đỗ Xá, Kòn Tà Nừng, Chulya, Khánh Hòa. Tại đây đường phân làm hai nhánh:
- Nhánh một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài Gòn.
- Nhánh hai tới Ninh Thuận, Bình Thuận, Rừng lá, rừng sát, Biên Hòa…

Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần như vô chính phủ, rối nát tan hoang do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra,Việt cộng lợi dụng trong lúc chính quyền VNCH bõ ngõ, đã cho tuồn vào miền nam với số cấp quân tăng gấp bội tại các vùng xa xôi, cài đặt phiến quân Việt cộng nằm vùng khắp nơi và đánh phá dữ dội, mãi tới cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH, tình thế mới tạm ổn định về mặt nổi, nhưng mặt chìm việc chúng cho cài dặt tình báo, đăc công VC nằm vùng, VNCH cũng chưa dẹp được.

Bình Thuận là một trong các tỉnh ở miền Trung cùng chịu nhiều nạn kiếp, khiến cho tình hình an ninh toàn tỉnh kể luôn thị xã Phan Thiết tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ khi phải tới miền đất này. Dù Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị thất bại, không có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn của một số Việt công nằm vùng và có người thân ra bưng, tập kết nhưng hoàn cảnh lúc đó hết sức bi quan, 95% lãnh thổ bị địch chiếm, vùng còn lại ban ngày là của ta và thuộc về giặc ban đêm.

Tại Phan Thiết, Việt cộng về ám sát, đốt, tấn công các trụ sở ấp Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long, Đức Long... coi như chỗ không người, thậm chí ngay trong Tòa Hành Chánh và tiểu khu, tỉnh trưởng khi di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các viên chức xã ấp, công chức, cảnh sát kể luôn các cấp chỉ huy Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân, Địa Phương Quân... ban đêm phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an ninh ở Sông Mao, Phan Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong tỉnh luôn bị tấn công, Việt cộng pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và tàn nhẫn gài mìn khắp nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng ngày khi di chuyển cũng như lúc ra đồng làm ruộng.

Các trục giao thông tại Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 8, Tỉnh Lộ Phan Thiết - Mũi Né.. bị tắt nghẽn, nhiều trạm thu thuế gần như công khai của Việt cộng tại cây số 25, Thiện Giáo, Tuy Hòa, Tà Dôn, Đá Ông Địa, Vĩnh Hảo... làm cho mọi người lo sợ, phải dùng phương tiện ghe thuyền thay vì đi xe đò. Đã vậy trong tỉnh còn thêm vụ học sinh các trường trung học xuống đường biểu tình đòi Mỹ rút về, kêu gào bảo vệ đạo pháp và các thầy cha, và còn thêm màn mổ bụng rạch ngực viết huyết thư, tạo đủ đắng cay máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh chiến tranh tận tuyệt.

Tóm lại, theo lượng giá của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, trong ngày nhậm chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, thì Bình Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay Việt cộng. Theo Trung Tá Ngô Văn Xuân, nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2, Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23 Bộ Binh từng tham chiến nhiều ngày tại Bình Thuận, thì chính Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn 2 nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đã thành công trong việc tách rời các cơ sở cũng như vô hiệu hóa Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho tới ngày miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an ninh và mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối cùng trong đêm 18 tạng ngày 19-4-1975.

Họ là những chiến sĩ của QLVNCH không tên với những chiến công hiển hách, đã đánh những trận để đời như sử gia Chánh Đạo đã hết lòng khen ngợi trong tác phẩm “55 Ngày Đêm - Cuộc Sụp Đổ Của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu trên là cách trả lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh dự cho người lính miền nam, những người đã vì nước vì đời, mà tự tìm lấy cái chết bình thản tại chiến trường, cũng như ngay lúc giặc đã tràn ngập.

1. NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐỊA PHƯƠNG QUÂN & NGHĨA QUÂN/QLVNCH
Tại Bình Thuận vào năm 1952, trước ngày đình chiến, Quân Đội Quốc Gia đã thành lập hai Trung Đoàn Vệ Binh, mỗi Trung Đoàn có 5 Đại Đội. Trung Đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, Trung Đoàn số 4 đóng tại Phan Thiết.
Đầu năm 1953, các Trung Đoàn Vệ Binh được biến đổi thành Tiểu Đoàn Bộ Binh. Do đó, Trung Đoàn Vệ Binh số 4 thành Tiểu Đoàn 264 B1 (Bataillon d’infanterie), còn Trung Đoàn 2 thành Tiểu Đoàn 265 B1.
Ngày 1-8-1954 lại thành lập Trung Đoàn 404 Bộ Binh tại Phan Thiết với các Tiểu Đoàn 83 (nguyên TĐ 264 B1), Tiểu Đoàn 84 (nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 biệt lập đóng tại Phan Thiết.

Đầu năm 1955, Trung Đoàn 404 được cải danh là Trung Đoàn 43 Bộ Binh với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc Sư Đoàn 15 Khinh Chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ Bình Xuyên, Hòa Hảo năm 1955 tại Nam phần.
Từ năm 1964 Trung Đoàn 43 biệt lập qua các Trung Đoàn Trưởng tài danh như Thiếu Tá Võ Văn Cảnh, Thiếu Tá Quách Đăng, Trung Tá Lý Bá Phẩm, Đại Tá Đàm Văn Quý... trấn đóng tại Biệt Khu Bình Lâm, sau đó di chuyển vào nam.

1966 cùng với các Trung Đoàn Biệt Lập 48 Bộ Binh, 52 Bộ Binh thành lập Sư Đoàn 10 Bộ Binh, sau đổi thành Sư Đoàn 18 Bộ Binh vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, đã tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong Việt Sử Cận Đại.
Cũng tại Bình Thuận vào tháng 7/1954 có 4,800 quân nhân người Nùng, thuộc Sư Đoàn 3 Khinh Chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao, nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Hòa, sau đó đổi thành Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Để thay thế, Trung Đoàn 44 và 53 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ Bình Thuận và Ninh Thuận.

Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích Việt cộng kể luôn chính quy Việt cộng gần như bị tiêu diệt, khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong đó có tỉnh Bình Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn Văn Ngàn chỉ huy cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, Việt cộng sử dụng hai Tiểu Đoàn chính quy miền bắc là 481 và 482 tấn công vào Trung Đoàn 44 Bộ Binh tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích, phá rối trên Quốc Lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 nam về tới Phan Thiết và khúc ngang qua mật khu Lê Hồng Phong, từ Long Thành tới Lương Son, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong.

Thời gian này Bình Thuận còn có sự yểm trợ của Chi Đoàn 3/8 Thiết Kỵ/QLVNCH và Tiểu Đoàn 3 thuộc Lữ Đoàn 506 Nhảy Dù Hoa Kỳ và Toán Viễn Thám Lực Lượng Đặc Biệt/Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực VNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ - Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời, nên đã bẻ gãy tất cả.
Nhưng rồi giai đoạn Việt Nam Hóa Chiến Tranh và Hiệp Định Ngưng Bắn 1973 đã thành hình, theo đó, các đơn vị chủ lực của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc bình định và gìn giữ an ninh cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của tỉnh lúc đó lên tới 13.000 người đảm trách.

Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại Tá Nghĩa đã áp dụng chiến lược mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả các trưởng ty sở, phó tỉnh trưởng, phó quận... không bỏ đồn bót lẻ loi cho giặc về đêm. Theo lời các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm Ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng Văn Đối quận trưởng Hòa Đa rồi Hàm Thuận, Đại Úy Mai Xuân Cúc ĐĐT/ĐĐ 948 Địa Phương Quân.. thì chính Đại Tá Nghĩa là người đầu tiên xung phong làm gương mẫu cho thuộc cấp, ông đã noi gương cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu binh lửa, bom đạn còn ngun ngút, Đại Tá Nghĩa đã lần lượt ngủ đêm tại 173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các tiểu Trung Đội Nghĩa Quân hoặc toán Xây Dựng Nông Thôn trấn giữ. Nhờ vậy đã tạo được nềm tin trong quân đội cho tới khi mất nước.

Một chiến thuật khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là sử dụng hàng rào mìn claymore làm ấp chiến lược lưu động. Với phương pháp này đã làm Việt cộng bị tổn thất nặng và gần như hoàn toàn tê liệt, bẻ gãy kế hoạch nuôi ăn cán binh vì ai cũng sợ toi mạng khi vướng mìn vào ban đêm khi ra vào ấp.

Song song còn có chương trình "đập cỏ bắn rắn", tức là ủi quang hai bên Quốc Lộ 1 từ cây số 25 nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp giới Ninh Thuận, các vùng cây cỏ rậm rạp mà trước đây Việt cộng dùng làm địa bàn để hoạt động quân sự, thu thuế, phục kích, chặn xe đò... chương trình "đập cỏ bắn rắn" đã mang lại tình hình an ninh hoàn toàn trong tỉnh và tại thị xã Phan Thiết.
Cũng kể từ đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ xã ấp, công chức không còn phải sống lưu vong và việc Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với Tỉnh Trưởng săn bắn ban đêm ngay trên địa bàn của mật khu Lê Hồng Phong, hay đi xe jeep trên Quốc Lộ 1 từ Phan Thiết về Phan Rang như lời tự sự của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, trong Quân Sử VNCH, là một xác nhận đáng khích lệ.

Từ sau Hiệp Định Ngưng Bắn 1973, lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã được tổ chức và phối trí lại để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực tiếp thuộc Tiểu Khu, chi khu và các phân chi khu. Quân số cũng được cải tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn, liên đội và Liên đoàn.

Tính đến năm 1973, Quân Lực VNCH đã có 360 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, quân số từ binh sĩ, Hạ Sĩ Quan tới Sĩ Quan một số là chủ lực quân biệt phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có đủ khả năng thay thế các Sư Đoàn Bộ Binh kề cả các Lực Lượng Tổng Trừ Bị trong các cuộc hành quân cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hổ trợ đắc lực cho các đơn vị chủ lực. Theo tài liệu từ quân sử, cho tới tháng 4-1975, lực lượng Địa Phương Quân - Nghĩa Quân gần 500.000 người và số tử vong cũng nhiều lần so với các lực lượng chủ lực, điều đó chứng tỏ sự chiến đấu dũng mãnh và can trường của họ.

Trong Hiệp Định Paris năm 1973, có điều khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N và Bình Thuận được coi là thí điểm, nơi Việt cộng miền Bắc luôn đòi trở thành vùng vỹ tuyến. Các xã giáp tỉnh lỵ như Đại Nẵm, Phú Long, Tuy Hòa, Phú Lâm có nhiều thành phần nằm vùng và người thân vào bưng hoặc tập kết, nên luôn là địa điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt Bộ Chỉ Huy. Với quân số lúc đó là 13.000 Địa Phương Quân - Nghĩa Quân, nhưng vì phải bảo vệ 197 ấp nên đã dàn mỏng, trong khi Việt cộng luôn tập trung được ba Tiểu Đoàn Địa Phương, ngoài ra còn có một Trung Đoàn chủ lực từ Quân Khu 6 tăng phái và cán binh cơ sở, nên tình thế lúc đó cũng thật nguy hiểm. Rồi giờ G cũng tới, Việt cộng tấn công một lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm.

Nhờ đã chuẩn bị trước, nên sau hai ngày giao tranh, Việt cộng thất bại trong âm mưu cắm cờ giành đất, một phần là do đồng bào có ý thức quốc gia không chịu hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ tai bay đạn lạc nên đã bồng bế nhau tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xã chỉ còn thuần túy là chiến địa, điểm hợp đồng của pháo binh và phi pháo, trước khi các đơn vị Địa Phương Quân - Nghĩa Quân mở cuộc tấn công, làm Việt cộng phải lẫn trốn, mang theo nhiều xác chết đồng bọn khi tháo chạy sau hai ngày giao tranh đẫm máu, nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm 121 xác chết..

2. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI BÌNH THUẬN
Ngày 7-4-1975, Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh Quân Đoàn 2 từ Nha Trang đáp trực thăng ghé thăm Bộ Chỉ Huy tiểu khu Bình Thuận lúc đó đang đóng tại lầu ông Hoàng, thuộc xã An Hải quận Hải Long. Lúc này, Tướng Phú đã bị tước chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và do Tướng Nguyễn Văn Hiếu thay thế. Tình hình đã bắt đầu hỗn loạn vì Ninh Thuận, Bình Thuận đã trở thành vùng hỏa tuyến.

Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp xúc với những giới có thẩm quyền của Bình Thuận trong phút giờ hấp hối như Đại Tá tỉnh trưởng Ngô Tấn Nghĩa, ông Phạm Ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng Văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận và các Đại Úy Nguyễn Chánh Trúc, Đại Đội Trưởng giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại Úy Mai Xuân Cúc, Đại Đội Trưởng ĐĐ 948 Địa Phương Quân là đơn vị giữ an ninh trong thị xã Phan Thiết cho tới giờ phút cuối cùng.

Tóm lại, không giống như nhiều tỉnh thị khác, Bình Thuận vào những giờ phút hấp hối, đã không có những trận đánh không có đại bàng như một tác giả nào đã viết trong mấy năm trước, vì tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như Thiếu Úy Phùng Thế Xương Phân Chi Khu trưởng Phân Chi Khu Hòa Vinh, Trung Úy Lê Ngữ Phân Chi Khu Trưởng Phân Chi Khu Thiện Khánh cho tới các đại bàng cao cấp ở quận như Trung Tá Dụng Văn Đối, Thiếu Tá Phạm Minh, trung tâm trưởng Trung Tâm Tiếp Vận. Các vị Phó tỉnh trưởng, quận trưởng, trưởng ty và trên hết là Đại Tá tỉnh trưởng Ngô Tấn Nghĩa đều không bỏ chạy.

Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH bắt đầu từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, tiếp theo là cuộc di tản đẫm máu trên Liên Tỉnh Lộ 7-B và Quân Đoàn 1, cuộc lui binh tại Qui Nhơn, Quảng Ngãi... khiến cho vòng vây bao quanh Sài Gòn càng lúc càng thu hẹp. Mặt bắc, Phan Rang và Phan Thiết trở thành vùng hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân hùng hậu của cộng sản Bắc Việt có đầy đủ xe tăng, pháo hiện đại do Liên Xô, Trung Cộng và các nước Động Âu trong toàn khối Cộng Sản Quốc Tế viện trợ, trong lúc đó, VNCH đang lâm vào tuyệt lộ vì đồng minh Hoa Kỳ đã cúp viện trợ đạn dược, xăng nhớt và phương tiện chiến đấu. Ngoài ra còn đem danh lợi làm cò mồi cho một số tướng lãnh miền nam bỏ nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ địch, chỉ còn chờ chết mà thôi.

Ngày 4-4-1975, hai tỉnh còn lại của Quân Đoàn 2 là Ninh Thuận và Bình Thuận được sáp nhập vào Quân Đoàn 3 lúc đó do Tướng Nguyễn Văn Toàn làm tư lệnh, bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, chỉ huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của Tổng Thống Thiệu. Trong dịp này Phan Thiết cũng được tăng cường Trung Đoàn 6 và một pháo đội thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh vừa di tản từ Quãng Ngãi vào Bình Tuy.

Tại Phan Thiết, thời gian này đã có cuộc giao tranh ác liệt với Trung Đoàn 812 chính quy và các tiểu đoàn địa phương Việt cộng, nhưng đã giữ vững được phòng tuyến nhờ sự yểm trợ của phi pháo và hỏa pháo VNCH.
Ngày 16-4-1975 mặt trận Phan Rang tan vỡ, các tướng lãnh Nghi, Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương và nhiều sĩ quan cao cấp khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó Bình Thuận là chiến tuyến về hướng tây bắc, phía nam Bình Tuy vẫn còn nhưng đường bộ bị bít vì giao tranh long trời lỡ đất đang nổ tung tại Xuân Lộc, Long Khánh từ ngày 9/4/1975 cho tới 14/4/1975.

Vào ngày 2/4/1975, Đại Đội 948 Địa Phương Quân đang đóng tại Ấp Hiệp Hòa, xã Chợ Lầu, quận Hòa Đa thì được lệnh Trung Tá quận trưởng Kiều Văn Út theo chỉ thị của P3 Tiểu Khu, về tăng cường thị xã Phan Thiết, nhưng đóng quân tại trường Nông Lâm Súc Phú Long, bảo vệ Trung Đội pháo binh đóng gần cầu đang yểm trợ hỏa pháo cho chi khu Thiện Giáo.

Ngày 3-4-1975, đoàn di tản từ Nha Trang - Đà Lạt về trong đó có đủ mọi quân binh chủng kể luôn trường Võ Bị Quốc Gia, nổ súng bắn loạn xạ làm cho dân chúng sợ hãi và trước khi ra đi đã cướp bóc cũng như đốt chợ lớn Phan Thiết được xây dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long và các vùng lân cận, ngoài Đại Đội 948 của Đại Úy Cúc từ Hòa Đa về tăng cường, còn có Đại Đội 283 Địa Phương Quân của Đại Úy Nguyễn Văn Ba giữ Tuy Hòa, DD 3/TD 249 Địa Phương Quân của Đại Úy Hòa phụ trách xã Hòa Vinh, nên tình hình an ninh cũng khả quan, ngoài các vụ pháo kích, bắn sẻ vào ban đêm mà thôi.

Vào ngày 15-4 75 chi khu Thiện giáo tại huyện lỵ Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật vì không chịu nổi đại pháo 130 ly của Việt cộng. Các đơn vị của chi khu do Đại Úy Lê Văn Tuân, Chi Khu phó chỉ huy đoàn xe, qua cầu Phú Long về Phan Thiết. Ngày 16-4-75 lại thêm một đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như Dù, Biệt Động Quân, Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Địa Phương Quân... từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di tản về Sài Gòn sau khi Ninh Thuận mất.
Lúc này tình hình trong thị xã Phan Thiết đã bắt đầu hỗn loạn, nhiều gia đình kể cả công chức đã cuốn gói ra đi bằng thủy lộ, trong phố hầu như chỉ còn lại người nghèo không có phương tiện đào sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh sát, và đoàn Xây Dựng Nông Thôn ở lại mà thôi.

Từ ngày 10/4/75 Đại Đội 948 Địa Phương Quân của Đại Úy Cúc đổi vùng, di chuyển về đóng cạnh căn cứ của Duyên Đoàn 28 Hải Quân sát cửa Thương Chánh thuộc ấp Vĩnh Phú, để bảo vệ cho Bộ Chỉ Huy hành quân của Trung Tá Trì, TKP/TKBT. Lúc đó Đại Tá Nghĩa cho thành lập hai Bộ Chỉ Huy hành quân, Bộ Chỉ Huy chánh do ông trực tiếp điều động toàn bộ lực lượng Địa Phương Quân - Nghĩa Quân đóng tại Lầu ông Hoàng, còn TKP làm việc với các phòng 2,3 hành quân. Cũng trong ngày, Đại Úy Cúc nhận lệnh trực tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn Đại Đội 948 Địa Phương Quân biệt phái cho yêu khu châu thành tại trại Đinh công Tráng của Thiếu Tá Cư, trước sân vận động Quang Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung Học tư thục Bạch Vân và Dân Y Viện Phan Thiết. Lúc này Việt cộng đã pháo kích nhiều hỏa tiễn 122 ly vào phố, các khu vực quanh Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh thường hứng đạn. Sở dĩ Việt cộng bắn rất chính xác vì Tiền Sát Viên của chúng là bọn nằm vùng:
- Một tên giả làm ngư ông câu cá dưới chân cầu Phan Thiết,
- Tên khác là cận vệ của Đại Tá Nghĩa,
- Một tên nữa làm tùy phái cho Tòa Hành Chánh...

Theo Đại Úy Cúc, thì Phan Thiết lúc đó hầu như chỉ còn có lính mà thôi, Đại Đội 948 Địa Phương Quân phòng thủ ấp Đại Tài, Đại Đội 206 trinh sát tỉnh của Đại Úy Lê Văn Trò giữ xã Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa hơn có Tiểu Đoàn 202 Địa Phương Quân do Đại Úy Nguyễn Văn Hoàng, thế thiếu tá Bích làm XLTV tiểu đoàn trưởng, đóng tại Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẳm. Trên Liên Tỉnh Lộ 8, Tiểu Đoàn 275 Địa Phương Quân bao vùng từ cầu Bến Lội, xã Lại An trên Quốc Lộ 1, qua tới các ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan Thiết - Ma Lâm. Về phía nam giao cho một Đại Đội/Địa Phương Quân và một Liên Đội Nghĩa Quân giữ cổng chữ Y, bảo vệ các ấp Kim Hải, Bình Tú và Đức Long.

Trong phố, phần an ninh được giao cho các đơn vị Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ do Thiếu Tá Nguyễn Thanh Hải, xã trưởng xã Châu Thành Phan Thiết chỉ huy. Tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Bình Thuận nằm trên đường Cao Thắng, phía sau Câu Lạc Bộ Sĩ Quan và Trung Tâm Tiếp Vận, là phần phòng thủ của một tiểu đoàn Cảnh Sát Dã Chiến do Trung Tá trưởng ty điều động. Tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ còn các quân nhân cơ hữu do Y Sĩ Đại Úy Lê Bá Dũng và Trung Úy Công, Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị của Đơn vị chỉ huy.

Cũng theo lời Đại Úy Mai Xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một nhân chứng thật của Bình Thuận trong lúc đó, thì vị Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch đã di tản chiến thuật về Sài Gòn từ đầu tháng 4/1975 khi Bình Thuận đang bước vào giờ thứ 25 định mệnh.

Trong ngày 17/4/75, Việt cộng pháo kích ban ngày lẫn đêm, một vài quả bích kích pháo và hỏa tiễn rơi rớt quanh các khu quân sự, trước tiểu đội quân cảnh điều tra tư pháp và ty bưu điện, thành phố thật sự đã chết, nhà nhà cài chặt cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố thô sơ tránh đạn làm bằng bao cát mua ngoài chợ. Nơi nơi đều im vắng não nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức Thắng vẫn còn hoạt động tấp nập vì ai cũng chạy.

Giờ N đã tới lúc 17g 30 chiều ngày 18-4-1975, phòng tuyến Phú Long vỡ nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An Hải, kể cả Hải Long, Lầu ông Hoàng vẫn chưa vỡ tuyến, Đại Tá Nghĩa cùng Bộ Chỉ Huy vẫn đủ giờ di chuyển về cửa thương chánh, trong lúc ngoài khơi có hằng hà tàu chiến của Hải Quân VNCH nhưng không làm gì được vì tàu lớn không áp sát ven bờ được, hơn nữa sợ pháo kích như đã từng xảy ra ở Qui Nhơn, Phan Rang, Cà Ná... Bên Quốc Lộ 1, đoàn âm binh của Việt cộng miền bắc với xe tăng, pháo và hàng hàng lớp lớp cán binh cỡ lộ quân, chừng mấy chục ngàn người, ào ào hơn sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẽo đường phố thị. Tất cả các phòng tuyến Địa Phương và Nghĩ Quân gần như bị đè bẹp trước đạn súng tối tân của Nga - Hoa.

Tại phòng tuyến ở Đại Tài, Đại Úy Cúc nhận được lệnh từ Thiếu Tá Cư, yếu khu trưởng trên máy PRC 25 cho biết: Việt cộng đã chiếm được Tòa Hành Chánh, Tiểu Khu nhưng tại Trung Tâm Tiếp Vận, Thiếu Tá Phạm Minh đã đốt được các kho quân nhu trước khi di tản, Bình Thuận coi như đã mất, Đại Đội 948 của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về Bình Tuy.

Nửa đêm rạng sáng ngày 19/4/75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về quận đường Hàm Thuận, mới biết Trung Tá Dụng Văn Đối Chi Khu Trưởng cùng Đại Úy Lê Viết Lợi Chi Khu Phó, cũng đã nhận được lệnh di tản. Đêm khuya thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run vì quần áo ướt sủng nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngả hai Phú Lâm vào lúc 2 giớ sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất thì mọi người cũng choàng dậy, băng Quốc Lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, Bình Tú để xuống bến tàu cạnh phi trường, đợi Hải Quân vào rước theo lệnh của TKBT.

Trong đêm 18/4/75, qua máy truyền tin vẫn còn liên lạc 24/24, Đại Úy Cúc biết được Thiếu Tá Cư yếu khu trưởng Châu Thành cùng Trung Tá Trí đã xuống được thuyền của Duyên Đoàn 28 Hải Quân. Theo Diệp Mỹ Linh trong tác phẩm "Hải Quân VNCH Ra Khơi Năm 1975" thì giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu Hải Quân 505 nghe tiếng cầu cứu của Đại Tá Nghĩa trong máy PRC 25 nhưng bất lực, tuy nhiên như lời ông Phạm Ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, thì Đại Tá cuối cùng nhờ được một ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đã rớt xuống biển khi hai chiếc va chạm, cũng may mọi người cứu ông kịp thời.

Sáng ngày 19-4-75 tuy Việt cộng đã làm chủ Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc ấp Kim Hải, phía sau Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch và phi trường vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên bãi có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, Sư Đoàn 2, Biệt Động Quân tại mặt trận Phan Rang còn đọng lại, cho tới các đơn vị Địa Phương Quân -Nghĩa Quân tỉnh.

Cũng trong ngày 19-4-75, một chiếc L19 của Không Quân/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực lượng Địa Phương Quân - Nghĩa Quân đang bị thất lạc, phải tìm cách xuống bến tàu để được lực lượng Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F.5 có nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên dòng sông Mường Mán, hầu ngăn cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngả tư quốc tế, làm hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Tri Phương.

Cuối cùng nhờ kỹ luật và bình tĩnh, tất cả các quân nhân mọi binh chủng có mặt trên bãi biển Bình Tú vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-4-75 đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên đoàn tàu lớn phải đậu xa bờ hơn nữa cây số. Tuy nhiên nhờ những chiếc tàu đổ bộ LCM nên tất cả các đơn vị kể cả chi đoàn TQV thuộc thiết đoàn 8 kỵ binh hành quân tại Phan Thiết, cũng được theo tàu về nam, ngoại trừ một chiếc bị chìm tại bãi Vĩnh Phú.

Tóm lại, đoàn tàu Hải Quân thuộc Bộ Tư Lệnh vùng 2 duyên hải đã hoàn thành nhiệm vụ, chở hơn 3,000 quân nhân các cấp thuộc Địa Phương Quân - Nghĩa Quân Bình Thuận trong đó có Ðại Ðội 948 Địa Phương Quân của Đại Úy Mai Xuân Cúc, cùng các lực lượng Dù, Biệt Ðộng Quân, Sư Ðoàn 2 Bộ Binh và mọi quân binh chủng tham chiến tại Phan Thiết – Phan Rang trong những giớ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn tàu Hải Quân đã cặp bến Vũng Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các đơn vị lại được Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn, vào trú đóng tại doanh trại cũ của Trung Đoàn 43/Sư Ðoàn 18 Bộ Binh ở Bà Rịa, cùng góp phần tham chiến với các đơn vị bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc.

Riêng Trung Tá Dụng Văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận, ngày 18-4-1975 cho người đốt các kho đạn, kho quân tiếp vụ, sau đó cùng Liên Đoàn Địa Phương Quân - Nghĩa Quân, một pháo đội và một chi đội Thiết Giáp V100, mở cuộc hành quân từ Hàm Thuận vào tới Bà Rịa một cách an toàn. Đoàn quân di tản này được bổ sung cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh chiến đấu tại Bến Lức Long An, cho tới ngày tàn cuộc.

Như vậy, trong những ngày cuối cùng QLVNCH đã có hai cuộc lui binh thành công:
- Một: Cuộc lui binh tại bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do Bộ Tư Lệnh/V2DH thực hiện, vớt Địa Phương Quân - Nghĩa Quân - Bình Thuận và nhiều quân binh chủng tham dự trận Phan Rang.
- Hai: Cuộc lui binh bằng đường bộ từ Long Khánh về Phước Tuy của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh và các đơn vị do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy.

Đời lính với sống chết trong gang tấc, những thanh niên thời đại VNCH họ đã làm tròn nhiệm vụ và làm hơn cả những gì họ có thể làm để bảo vệ miền nam và người dân miền nam, thời gian càng lúc càng sáng tỏ chính nghĩa của họ khi mặt thật của bọn cộng sản Hà Nội trơ trẽn lộ ra: hại dân, bán nước và hèn nhát.

Mường Giang







 photo amcr2p.jpg
Hình: Một vị chỉ huy trưởng Địa Phương Quân


 

 

 

Tiểu đoàn 229 ĐP/BT tại Tân Nông (Thiện Giáo) trong ngày 27-01-1973 thi hành hiệp định Ba Lê


Cao Hoài Sơn –

Ðể chuẩn bị đối phó với những biến chuyển của đất nước, sau khi hiệp định Ba Lê do Mỹ và Bắc Việt đồng thuận ký kết và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 27-1-1973. Vì vậy Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa đã cho phối trí lại các đơn vị DPQ từ cấp Tiểu Ðoàn và các Ðại Ðội Biệt Lập thuộc các chi khu, nhằm thích ứng với tình hình quân sự tại địa phương. Do đó TÐ229 ÐP do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu Ðoàn Trưởng, được tăng phái cho Nam BT giữ an ninh tại hai Ấp Tân An, Tân Ðiền thuộc xã Tân Phú Xuân, quận Thiện Giáo.

Cao Hoài Sơn – Năm 1964 tại Trường Bộ Binh Thủ Ðức

Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 229 đóng tại ấp Tân An, các đại đội cơ hữu trách nhiệm phòng thủ trụ sở ấp Tân Ðiền và xã Tân Phú Xuân nằm trên Liên Tỉnh Lộ 8 Phan Thiết-Ma Lâm. Lúc này, Tôi (Cao Hoài Sơn) là sĩ quan hành quân của tiểu đoàn 229/ÐP đang có mặt tại Tân An. Hiệp định Ba Lê chính thức có hiệu lực vào lúc 0 giờ ngày 27-1-1973 nhưng CS Bắc Việt đã vi phạm trắng trợn. Do đó vào lúc 4 giờ sáng, TÐ chỉ định Ðại Ðội 2/229 của Ðại Úy Lê Viết Duyên, xuất phát từ ấp Tân Ðiền chuyển quân gấp trong đêm để tái chiếm Ðồn Tân Nông đã bị bỏ hoang từ lâu.

Ðồn này đã có từ thời Pháp thuộc, được xây dựng rất kiên cố bằng bê-tông cốt sắt, được bao bọc bởi các hệ thống giao thông hào và ba vòng đai bằng kẽm gai. Tân Nông ở về phía tây ấp Tân Ðiền và LTL8 chừng 2 km, coi như nằm lọt thỏm trong phạm vi khống chế của mật khu Tam Giác của Việt cộng.

Vì trời tối như mực nên Ðại Ðội 2/229 vô tình lọt vào giữa vị trí đóng quân của một Trung Ðoàn cộng sản Bắc Việt cũng vừa mới di chuyển tới đây từ tối đêm qua, trước khi hiệp định Ba Lê có hiệu lực. Ðến khi trời tờ mờ sáng, bên ta nghe tiếng nói chuyện bằng giọng Bắc phát ra chung quanh, chừng ấy mới biết quân mình và địch đang đóng quân xen kẽ vào nhau.

Cùng lúc VC cũng đã biết được sự hiện diện của ÐÐ2/229 nên viên chỉ huy yêu cầu Ðại Uý Duyên rút quân ra khỏi vị trí đang đóng. Ông đã trả lời với phía bên kia là mình được lệnh tiếp thu Ðồn Tân Nông. Vì vậy muốn gì phải xin lệnh của cấp trên mới giải quyết được.

Trong khi chờ quyết định từ Tiểu Khu, binh sĩ hai bên đã tiếp xúc thật vui vẻ, còn mời nhau thưởng thức các thức ăn mang theo. Nhìn nét mặt rạng rỡ một cách ngây thơ của bộ đội miền bắc lúc đó, cho thấy họ đã bị cấp chỉ huy tuyên truyền lường gạt nên rất tin tưởng vào hiệp định Ba Lê, qua chiêu bài ‘hòa hợp hòa giải dân tộc’. Vì vậy nên tới đây để tiếp thu đất đai và dân chúng, không cần gì phải đấm đá bởi ngụy đã đầu hàng rồi.

Ðang lúc hai bên còn đấu hót tưng bừng, thì phía VC ra lệnh cho cán binh trở về vị trí chiến đấu. Còn Ðại Úy Duyên thì được lệnh TK đi vào đồn Tân Nông gặp cấp chỉ huy Việt cộng, yêu cầu họ rút quân để ta vào tiếp quản nhưng bị từ chối. Do đó Ðaị Ðội 2/229 được lệnh di chuyển gấp ra khỏi vòng kềm tỏa của địch, theo Ðại Uý Duyên báo cáo vào khoảng một Trung Ðoàn Chính Qui cộng sản Bắc Việt, vì có cối 82 ly, đại bác 57 ly không giật và nhiều khẩu phòng không được ngụy trang rất khéo dấu ở các lùm cây. Lúc đó là 8 giờ sáng ngày 27-1-1973.

Tại Tân An, nơi đặt BCH của Tiểu Ðoàn 229 ÐP, nhìn về phía tây hướng ấp Tân Ðiền, từ sừng bò đang gặm cỏ, cho tới ngọn cây, bờ ruộng.. đâu đâu cũng thấy cờ là cờ nửa xanh nửa đỏ chính giữa có ngôi sao vàng, của cái được gọi là Mặt Trận GPMN. Tiểu đội Tình Báo của Tiểu Ðoàn đang nằm tiền đồn, đã báo về là VC với một lực lượng rất đông đang áp sát vào ấp Tân An và Tân Ðiền.

Lúc này Ðại Tá Nghĩa và BCH nhẹ đã có mặt tại Tân An. Cùng lúc VC cũng rà kiếm được tầng số hoạt động của TÐ229 ÐP nên chỉ huy địch muốn nói chuyện với ông. Ðại ý cuộc đối thoại hôm đó của hai bên, mà tôi may mắn được nghe qua loa khuếch đại của máy PRC25:

– Xin chào anh, tôi là Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh kiêm Tiểu Khu Bình Thuận, không biết đang được tiếp chuyện vói ai bên kia đầu giây?

– Bên kia có giọng người Nam trả lời ‘tôi là Mười, hiện là chỉ huy miền, có trách nhiệm tại vùng này’.

Sau đó Ðại Tá Nghĩa đưa ra đề nghị với phía bên kia là phải rút quân ra khỏi vị trí đang cưỡng chiếm vì đã vi phạm tinh thần hiệp định Ba Lê tháng 1-1973 qua hành động công khai ‘dành dân lấn đất’ của VNCH.

Phía bên kia trả lời đề nghị của Ðại Tá Nghĩa, bằng luận điệu cố hữu nhai đi nhai lại cái điệp khúc tuyên truyền của đảng đã được phổ biến liên tục trên báo đài của chúng, nhằm bôi lộ bóp méo sự thật. Hắn còn nói ‘ QLVNCH là công cụ của Mỹ, được đào tạo để đánh giặc mướn cho đế quốc’.

Nhưng Ðại Tá Nghĩa đã đáp lại phía bên kia bằng những lời lẽ đanh thép, bác bỏ những vu khống một chiều của đich, chứng minh sự độc lập và tự do của quân đội cũng như chính quyền miền Nam, chứ không như sự lệ thuộc nô lệ của miền Bắc đối với quan thầy Nga-Tàu. Trước khi cúp máy, Ðại Tá Nghĩa đã gửi tới địch một tối hậu thư ‘phải rút quân ra khỏi phạm vi Ðồn Tân Nông vào lúc 1 giờ trưa cùng ngày. Nếu không, QLVNCH sẽ tấn công chiếm lại lãnh thổ đã bị lấn chiếm‘. Sau đó Ðại Tá Nghĩa cho giải tỏa tầng số hoạt động hiện hữu của TD229/DP để địch không còn lải nhải quấy phá các đơn vị trực thuộc đang hoạt động tại đây.

Ðể đáp ứng với tình thế tại mặt trận này, Ðại Tá Nghĩa đã tăng cường thêm Chi Ðội 2/8 Thiết Vận Xa do Ðại Uý Hòa chỉ huy, đặt dưới quyền điều động của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Tiến, TÐT Tiểu Ðoàn 229 ÐP lúc bấy giờ với ba đại đội tác chiến 1,3,4 (Ðại Ðội 2/229 đang có mặt tại Tân Nông). Trung Ðội Vũ Khi Nặng của ÐÐ3/229 làm trừ bị phòng thủ Ấp Tân An. Lúc đó kim đồng hồ chỉ đúng 12 giờ trưa ngày 27-1-1973.

Rồi thì thời gian qui định của Ðại Tá Nghĩa cũng đến (1 giờ) nhưng cộng sản Bắc Việt vẫn ngoan cố ở lỳ tại chổ. Do đó bên ta bắt buộc phải khai hỏa, TÐ229/ÐP với sự yểm trợ hỏa lực của Chi Ðoàn 2/8, mở cuộc tấn công vào các vị trí của địch. Một chiếc L19 xuất hiện trên bầu trời Ðồn Tân Nông, dùng loa khuếch đại yêu cầu bộ đội Bắc Việt phải rút khỏi vị trí đang chiếm đóng, thì được trả lời bằng những tràng phòng không từ dưới đất bắn lên. Lập tức hai chiếc A-37 của Không Lực VNCH xuất hiện, trút xuống các vị trí của địch hằng loạt bom đủ loại. Trong đồn, phòng không của địch cũng bắn trả quyết liệt.

Trong lúc đó Tiểu Ðoàn 229 ÐP và Thiết Vận Xa càng lúc càng áp sát vào các vòng đai phía ngoài đồn Tân Nông. Cuộc giao tranh thật đẫm máu và dữ dội kéo dài hơn nữa giờ thì Cộng Sản Bắc Việt chém vè, bỏ lại tại chỗ nhiều xác đồng bọn tại các đường giao thông hào, lùm cây nơi đặt các loại vũ khí cộng đồng. Bên ta tịch thu nhiều súng đạn, trong đó có hai khẩu cối 82 ly và 2 đại bác không giật 57. Trước khi rút quân ra khỏi vùng giao tranh, Ðại Tá Nghĩa ra lệnh san bằng Ðồn Tân Nông, để tránh địch trở lại chiếm đóng.

Tại Tân An, Việt cộng mở cuộc tấn công vào Tiểu Ðội Tình Báo của Tiểu Ðoàn lúc đó đang nằm tiền đồn. Vì Việt cộng quá đông nên đơn vị này được lệnh rút lui bằng cách băng qua các cánh đồng trống đã gặt xong. Phía sau định vẫn mở cuộc truy sát để trả thù cho đồng bọn vừa bị hạ tại Tân Nông. Ðể tiếp cứu quân bạn đang lúc nguy khốn, ta phải dùng cối 82 ly cơ hữu bắn chận địch với khoảng cách hai bên không quá 20m. Cũng may các binh sĩ thuộc Tiểu Ðội Tình Báo đều là những quân nhân chuyên nghiệp, từ các binh chủng Nhảy Dù, BÐQ, LLÐB... thuyên chuyển về. Vì vậy họ đã tìm đủ mọi cách rút lui an toàn tới vị trí của Ðại Ðội 3/229 vừa mới đến tăng viện. Trận đánh kết thúc không lâu sau đó, Việt cộng chém vè chạy vào rừng, ta lại tiến lên dẹp bỏ tất cả cờ máu mà địch vừa bày ra, qua cái gọi là thi hành ‘hiệp định ngưng bắn’. Nhờ đó đồng bào lại được yên ổn làm ăn thêm một thời gian ngắn, cho tới ngày 19-4-1975 mới chịu cảnh nô lệ lầm than, khi Tỉnh/Tiểu Khu Bình Thuận không còn nữa.

Hoa Kỳ Ngày 27-4-2009

Posted on October 10, 2012

Trung úy Cao Hoài Sơn

.......................................................

NHỮNG CHIẾN SĨ THẦM LẶNG Xây Dựng Nông Thôn
– Xuân An. Cao H Sơn
Xuân An. Cao H Sơn

Ngày 16-6 năm 1954, Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là Bửu Lộc từ chức, thì ngay ngày hôm sau 17-6-1954, vua Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm ra làm Thủ tướng và lập nội các. Ngày 21-7-1954 lúc 3 giờ 50 sáng, hiệp định Geneve được ký kết, thiết lập một giới tuyến tại vĩ tuyến 17, quy định thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày. Sở dĩ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản phải chịu ký chia đôi đất nước là vì sức ép của Trung cộng và Liên Xô, và bị kiệt quệ nặng nề sau trận đánh Điện Biên Phủ, cần có một thời gian dài để khôi phục . Chu Ân Lai đã tuyên bố: “trong trường hợp cuộc xung đột ở Đông dương mở rộng, chính phủ của ông ta không thể viện trợ cho Việt Minh được nữa”. Cộng sản đã chuẩn bị cho cuộc xâm lăng sau này bằng cách đưa 4500 người từ miền Nam ra Bắc để huấn luyện và cho trở về miền Nam trước khi Hiệp định Geneve được ký kết, chứng tỏ Cộng Sản BV đã có âm mưu gây chiến tranh từ trước.

Nhóm này thực hiện khủng bố phá hoại làm đặc công nằm vùng, hổ trợ cho các cuộc tấn công, pháo kích dự trù trong tương lai. Trong số tập kết sau hiệp định Geneve có nhiều cán bộ cao cấp của Cộng Sản bí mật nằm lại để chỉ huy đánh phá miền Nam sau này có tên đầu sỏ Lê Duẩn. Và chính phủ miền Nam do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng không đặt bút ký vào văn bản trên, và quyết tâm xây dựng một miền Nam dân chủ, tự do vững mạnh để chuẩn bị đương đầu với Cộng sản Bắc Việt tay sai của Đệ tam quốc tế Cộng sản.

Kết quả là gần 2 triệu người Bắc sau ngày 20-7-1954, ngày ký Hiệp định Geneve, vì đã hiểu rõ sự tàn bạo của Cộng sản nên bất kể sống chết tháo chạy, bỏ tất cả tài sản, mồ mả cha ông để vào Nam tìm tự do. Không chạy sao được vì Cộng sản chủ trương vô thần, ai không ủng hộ Cộng sản, hoặc ở lại vùng quốc gia quản lý đều bị Cộng sản chụp cho cái mũ là phản động chỉ có con đường chết. Với thủ đoạn tàn bạo của Cộng sản đã từng thanh toán các đảng phái yêu nước chống Pháp, những người bị cho là “ngụy tề” không theo Việt Minh đề bị liệt kê vào danh sách cần thanh toán. Trước hoàn cảnh đó những người yêu chuộng tự do miền Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm không còn cách nào hơn là tìm cho mình một đồng minh, lúc bấy giờ không ai bằng người Mỹ để chống lại sự xâm lăng của Cộng sản BV lúc này được sự giúp sức tận tình của Đệ tam Quốc tế Cộng sản đứng đầu là Nga Hoa. Nhưng hỡi ôi! người bạn đồng minh Mỹ lại đặt “Chiến lược toàn cầu” và quyền lợi của của nước Mỹ lên hàng đầu nên cuối cùng miền Nam bị bán đứng.

Ngày 20 tháng 12 năm 1960, theo nghị quyết của Đại hội Đảng Cộng Sản lần thứ III tháng 9-1960 “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” là con bài của Bắc Việt ra đời, nhằm có cớ xâm lăng miền Nam, do Nguyễn Chí Thanh được Hồ Chí Minh giao quyền lãnh đạo đánh phá miền Nam, căn cứ đặt tại khu rừng Tanot bên Miên. Do đó để ngăn chận làn sóng đỏ người Mỹ đã nhảy vào nội tình miền Nam càng ngày càng sâu. Sau khi cấu kết cùng đám phản tướng loạn quân để giết TT Ngô Đình Diệm năm 1963, qua hai năm biến động tìm lực chiến đấu của QLVNCH sa sút nghiêm trọng, năm 1965 toán quân Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng và theo đó ngày càng gia tăng. “Mỹ hóa chiến tranh” là một sự sai lầm nghiêm trọng, 500 ngàn quân Mỹ tràn ngập miền Nam. Quân Lực VNCH đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương lãnh thổ, tài sản của đồng bào miền Nam, có đầy đủ chính nghĩa được thế giới ủng hộ, thì với “Mỹ hóa chiến tranh” dưới con mắt của thế giới QLVNCH thành ra tay sai, bù nhìn, lính đánh thuê cho Mỹ. Nhưng nếu không dựa vào Mỹ thì làm sao miền Nam chống lại sự xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt với cả khối Cộng sản Đệ tam quốc tế yểm trợ . Theo thống kê gần đây cho biết Trung cộng đã đưa vào miền Bắc VN 320 ngàn quân để yểm trợ cùng với Cu Ba, Bắc Hàn và trên 10.000 cố vấn Liên Xô.

Trong thời kỳ đầu từ 1956 đến 1963, để ổn định tình hình nông thôn Việt Nam kế boạch “Bình Định Phát Triển Nông Thôn” do giáo sư Nguyễn Ngọc Huy điều hành ra đời, người Mỹ và một số chính trị gia VN cho rằng sở dĩ người dân nông thôn theo Cộng sản chỉ vì nghèo nên chỉ cần làm cho nông thôn miền Nam phát triển giàu mạnh sẽ lôi kéo được dân không theo Cộng sản nữa . Từ đó Chính phủ VNH lập ra Bộ Xây Dựng Nông Thôn và Đoàn cán bộ XDNT ra đời. Đây là những chiến sĩ thầm lặng chống cộng có hiệu quả mà Cộng sản muốn tiêu diệt nhất vì là mũi dao chí tử đánh trúng tim họ.

Ngoài ra còn có chương trình “Bình Định Nông Thôn” do ông Nguyễn Bá Cẩn chỉ huy, ông cho áp dụng phương cách sinh hoạt và kỹ thuật hoạt động của cán bộ Cộng sản VN, nhiệm vụ là tổ chức mạng lưới tình báo bí mật trong xã, tổ chức mạng lưới tuyên truyền nổi chìm, áp dụng phương pháp tam cùng “Cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân” Song song với hai chương trình trên người Mỹ còn cho lập các Ấp Chiến Lược để chống lại du kích Cộng Sản, phải thừa nhận rằng có nhiều nơi thành công như tại Lương Sơn, Bình Thuận vì dân nơi đây sống tập trung nhưng cũng có chỗ không áp dụng được vì người dân quê VN sống rải rác nay phải tập trung lại gây cho họ bất bình, sau năm 1963 các Ấp Chiến Lược bị hủy bỏ thay thế bằng Ấp Tân Sinh vì người Mỹ không chịu cấp kinh phí. Để bảo vệ các Ấp Chiến Lược này, Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa ra đời, với tính cách tự nguyện, không ăn lương.

Thời kỳ này (khoảng 1958-1963) Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa hoạt động rất hăng say và có hiệu quả, chỉ với vũ khi thô sơ, gậy gộc dây thừng mà đã tóm được Việt Cộng gài lại vì đói quá, lại không thấy đồng chí mình quay về như đã hứa trong 2 năm nên mò về làng kiếm ăn như tại Chợ Lầu . Còn tại Lương Sơn thì phá vỡ nhiều cơ sở của địch, VC không dám mon men về vì lúc này lực lượng chúng chưa mạnh chỉ lén lút ám sát các cán bộ chính quyền VNCH. Nhưng sau khi biến thành Ấp Tân Sinh lực lượng Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa biến thành Dân Vệ, ăn lương bán thời gian, sau này khi Mỹ sắp rút về nước và trong kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” LL Dân Vệ được đôn lên thành Nghĩa Quân. Lực lượng này là kẻ thù không đội trời chung với Cộng Sản, vì thế họ thường bị ám sát.

Tại xóm Me, Xuân An, Chợ Lầu, một Nghĩa Quân đã bị chính cô em vợ dùng lựu đạn giết chết khi đang ngủ trưa tại nhà và thị đã bỏ theo VC, ít lâu sau thị đã bị Đại đội 118/ĐPQ tiêu diệt tại Xuân Quang trong một trận phục kích. Và trong trận tết Mậu thân tại Bắc Bình Thuận, Nghĩa quân là lực lượng chính đánh bại quân Cộng sản đột nhập vào thôn xóm, và bị hao tổn nhiều nhất. Ngoài ra tại các vùng biên địa dọc hành lang Trường Sơn mọc ra các Ấp Chiến Đấu, tuyển dụng 45 ngàn tay súng vào lực lượng Biệt Kích Mỹ, tại Bình Thuận có trại Trung Dũng Biệt Kích Mỹ Lương Sơn, lực lượng này làm Việt cộng không ngóc đầu lên nổi trong một thời gian dài, hầu như toàn khu Lê Hồng Phong bị giẫm nát bởi lực lượng này.

Tổng kết cho biết, từ sau Hiệp định Geneve đến tháng tư 1975 có hơn 924 ngàn quân Cộng Sản VN bị chết và hơn 300 ngàn mất tích tại chỉ riêng miền Nam Việt Nam và trong số này 80% là do lính VNCH tiêu diệt . Về công tác tình báo ghi nhận “Chiến Dịch Phượng Hoàng” đã làm Cộng sản tại miền Nam một thời sắp bị tiêu diệt . Những nhân viên này được CIA Mỹ tài trợ, tiếc rằng chương trình này không được kéo dài lâu vì không có ngân sách.

Mặc dù trong hàng ngũ QLVNCH có rất nhiều vị tướng lãnh tài ba như Đỗ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng cùng những vị tướng tá sĩ quan trẻ tài ba khác nhưng lực bất tòng tâm. Vì nằm trong sách lược “be bờ” của Mỹ nhằm ngăn chận Cộng Sản nhuộm đỏ thế giới còn lại. Trong sách lược dùng cộng sản tiêu diệt cộng sản thì không gì thích hợp bằng lợi dụng cuộc chiến Bắc Nam Việt Nam để xé nát hệ thống Cộng sản Quốc tế, có như vậy Hoa kỳ mới là bá chủ thế giới duy nhất.

Vì vậy mọi cản trở cho sách lược này đều bị san bằng như việc giết anh em Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm chỉ vì ông là người nhìn xa hiểu rộng nên không đồng ý cho Mỹ đem quân vào miền Nam làm mất đi chính nghĩa, ông chỉ muốn Hoa kỳ viện trợ kinh tế và vũ khí để tự miền Nam đánh Cộng sản Bắc Việt . Tập đoàn diều hâu Mỹ còn dập tắc kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” của TT Mỹ Nixon chỉ vì ông ta chủ trương Mỹ rút khỏi miền Nam nhưng chính quyền miền Nam vẫn đứng vững, cuối cùng ông ta bị hạ bệ bởi một tội danh kỳ quái “Tội nghe lén”.

Để hoàn thành sách lược trên, người Mỹ cho áp dụng sách lược “Đánh mà không được thắng” . Nên mặc dù có lúc hiện diện tại VN trên 500 ngàn quân với các khí tài tiên tiến so với Bắc Việt và với một ngân khoản chi tiêu vô cùng lớn lao 354 tỷ Đô la trong một cuộc chiến không cân sức . Nếu cần thì Mỹ sẽ cho Bắc Việt thành bình địa, quay về thời kỳ đồ đá chỉ trong vài ngày, thế mà sau khi cuộc chiến chấm dứt ta thấy Hà Nội và các thành phố lớn ở miền Bắc vẫn còn nguyên trạng vì số bom đạn mà Mỹ đổ xuống chỉ xuống sông xuống biển, rừng núi không người.

Người Mỹ lại dở trò sa lầy tại cuộc chiến miền Nam để điều đình xin tháo chạy trong danh dự qua cái hiệp định quái thai “Hiệp Định Ba Lê” . Quả nhiên Nga Tàu trúng kế nên tự đắc nghĩ rằng cọp giấy Mỹ đã hết thời không còn dám can thiệp chuyện bao đồng nữa . Một nước nhỏ như miền Bắc VN mà Mỹ không thắng nổi nên Nga Tàu sinh ra kiêu căng, ngạo mạn vì thế xua quân xâm lược Afganistan năm 1979, yểm trợ khí tài tiền bạc cho CSBV xâm chiếm Campuchia, thuê Cuba đánh Mozambique, Ethopia, dành quyền lợi với Trung Cộng tại biển đông, dàn trận đánh nhau với Trung Cộng tại Hắc Long Giang . Cuối cùng y như sách lược của Mỹ , Nga-Hoa thi nhau sụp đổ, kéo theo Cộng sản Đông Âu sụp theo . Cộng sản Việt Nam bơ vơ nên khi bị Liên Xô bỏ rơi, cũng bị sa lầy ở Campuchia và quay sang xin xỏ Mỹ rút khỏi Campuchia và Lê Duẩn cùng Lê Khả Phiêu lén lút qua Thành Đô bên Tàu ký hiệp ước bán đất, dâng biển cho Tàu cộng để bảo vệ đảng.

Lướt qua diễn tiến cuộc chiến Quốc Cộng trên cho ta thấy không chỉ nhân dân miền Nam bị tai họa của Cộng sản vì bị xâm lược mà chính nhân dân miền Bắc còn đau khổ hơn . Cộng sản Bắc Viết với một chính sách bạo tàn, xem nhân dân miền Bắc như bầy súc vật, cả nửa nước là một địa ngục A Tỳ. Chế độ tem phiếu, và tập trung ruộng đất, bóp nghẹt bao tử, chính sách hộ khẩu làm cho không ai dám chống lại chế độ vì vậy hầu hết thanh niên miền Bắc đều “Sinh Bắc, tử Nam”. Những em bé mới 14-15 tuổi phải ra trận, phụ nữ cũng ra chiến trường đến nỗi khi về lại nhà chỉ còn lại bộ xương biết đi vì bệnh tật, không làm sao có chồng được vì hầu như thanh niên miền Bắc đều chết ở chiến trường lót đường cho Bác và Đảng vinh thân phì gia.

Trong cuộc chiến không biên giới, kẻ thù và người thân không phân biệt. Ngày ra đi hạn chót tập kết bộ đội ra bắc tháng 9-1954, cộng sản đã cài lại miền Nam một số cán bộ nằm vùng rất lớn, chôn dấu vũ khí đạn dược và quan trọng nhất là lấy được vợ để gieo cấy một sợi dây tình cảm ràng buộc sau này . Chuyện lấy vợ của các “Chiến sĩ cách mạng” trước khi tập kết được nhiều người biết đến và trở thành chuyện khôi hài cười ra nước mắt, số là đảng ta vận động những cô thôn nữ hiến dâng trinh tiết cho những “Chiến sĩ cách mạng” trong những buổi lửa trại tập thể có liên hoan ca hát và nhậu nhẹt say sưa, để rồi các cô này mang những bào thai mà không biết chính xác ai là cha đứa bé. Vì thế ta không lạ gì sau này những người chồng tập kết trở về, các người vợ, cha mẹ, những người có con hoang với “chiến sĩ cách mạng” thường che giấu nuôi dưỡng chúng. Cộng thêm sự nhân từ của một chính thể có nền pháp trị tiên tiến nhất Đông Nam Á là miền Nam VN lúc bấy giờ nên vô tình giúp cộng sản nằm vùng sinh sôi nảy nở.

Sau khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, miền Nam tang hoang trong đổ nát, thù trong giặc ngoài, mãi tới năm 1960 mới bình định xong tạm yên thì cái bóng ma cộng sản lại ập đến. Mặt trận Giải phóng Miền Nam, một mặt trận ma ra đời làm bàn đạp cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam. Từ đây miền Nam sống trong chiến tranh, một cuộc chiến mà đâu đâu cũng thấy toàn là bóng ma. Từ những mối ràng buộc dây mơ rể má trên, cuộc chiến tại miền Nam bước sang giai đoạn mới. Cuộc chiến thầm lặng nhưng âm ỉ đấu tranh giữa Quốc – Cộng càng ngày càng khốc liệt.

Những Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh sát đặc biệt, Phượng hoàng ra đời, một lớp cán bộ xã ấp được đào tạo để thích ứng với nhu cầu chiến trường mới. Các Sư đoàn Chủ lực quân, Nhảy dù, TQLC, BĐQ tảo thanh diệt địch nơi chiến trường, giao lại cuộc chiến thầm lặng cho những Phượng Hoàng, Cảnh sát, Nhân viên xã ấp nơi mà chỉ có những bóng ma, nhưng vô cùng nguy hiểm vì ai chiếm được, làm chủ được nông thôn tức kẻ đó chiến thắng. Như đã nói ở trên vì phải nhờ người Mỹ giúp đỡ tài lực để đánh Cộng sản xâm lược nên cũng bị Mỹ ràng buộc về nhân quyền. Chính quyền miền Nam với một thể chế tự do, dù không ưu việt lắm nhưng cũng đáng tự hào lúc bấy giờ, không thể nào dùng thủ đoạn để tiêu diệt đám nằm vùng này. Ấp Chiến lược ra đời nhằm chống lại sự xâm nhập của Cộng sản rất thành công, nhưng khốn nạn thay vì nằm trong sách lược “Mỹ Hóa chiến tranh” và kế tiếp là“be bờ” của Mỹ nên miền Nam chỉ có đánh mà không được thắng và kết quả là TT Ngô Đình Diệm bị giết hại, toàn bộ Ấp Chiến Lược bị đập phá để biến thành Ấp Tân Sinh.

Cũng từ ngày ấy, Nhân viên xã ấp, Cảnh sát đặc biệt, XDNT lâm vào tình trạng chiến đấu nguy kịch vì kẻ thù xen kẽ . Việt cộng mạnh lên nhờ được gia đình tiếp tế, bọn chúng sắp bị tiêu diệt, một số lớn đã ra đầu thú thì nay như một ngọn gió thổi bùng tàn lửa . Đường sá, cầu đường, bệnh viện, trường học, các cơ sở hành chính bị đốt phá hầu hết trong vùng quê . Trong tỉnh Bình Thuận đường xe lửa bị lật ngang, Quốc lộ 1 bị cắt làm hai đoạn, một ở xã Vĩnh Hảo cho đến gần Cà Ná, một ở tại đoạn Cây Táo. Bọn nằm vùng trỗi dậy len lỏi vào chức vụ đầu tỉnh như Đinh Văn Đệ làm cho tinh hình tại Bình Thuận từ năm 1965-1969 thêm bi đát lại càng bi đát hơn.

Có ai thấu hiểu cho những chiến binh thầm lặng này, chính họ đã là những anh hùng đáng được ghi ân trong cuộc chiến chống cộng sản trước 1975. Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng đó, họ âm thầm lặng lẽ kiên trì bám trụ, những ấp trưởng, xã trưởng và nhân viên tại các xã vùng Bắc Bình Thuận, ngoại trừ quận Hải Ninh, Song Mao nơi có Trung đoàn 44/23BB trấn giữ là được an lành tối có thể ngủ ở nhà, còn lại kể cả thị trấn lớn như Long Hương, Phan Rí Cửa, các cán bộ xã ấp mỗi khi đêm về thì chính họ cùng với NDTV tuần tra bảo vệ cơ sở và chiến đấu bảo vệ mạng sống của họ. Còn tại Chợ Lầu thì càng bi đát hơn vì địa thế trống trải, gần mật khu Lê của địch nên ban đêm là nỗi ám ảnh.

Trong một lần tuần tra cùng Nghĩa quân và NDTV một cán bộ xã đã bị VC phục kích bắn chết, một lần đâu chừng 8 giờ 30 tối, một trái lựu đạn đã được quăng vào nhà giết chết anh Nguyễn Hai một cán bộ xã khác và làm người vợ của anh bị thương. Từ đó cứ mỗi chạng vạng tối là từng đoàn người lũ lượt từ các thôn ấp Xuân Quang, Hiệp Thành, Xuân Hội, Xuân An kéo về xã Hựu An Phan Lý Chàm trú ẩn và sáng lại lũ lượt kéo nhau về. Trong số này có anh Ấp Trưởng Xuân Quang anh Nguyễn Xin sáng nào anh cũng theo chân đoàn quân mở đường của Đại đội 118/ĐPQ để về thôn Xuân Quang làm việc. Một lần khác VC tiềm phục trong nhà của Sáu Bạn tại Xuân An, là một cán bộ Cảnh Sát Đặc Biệt của chi khu Hoa Đa chờ ông về để bắn, nhưng may mắn ông đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng chúng nó theo dõi điều nghiên thói quen của ông, cuối cùng chúng cũng thành công trong việc hạ sát người chiến sĩ Cảnh Sát đặc biệt can trường này trên đường về nhà tại khu vực giữa Xóm Vàng và Quán Mía trên QL1 (khu ba Liêm Bình) vào lúc 9 giờ sáng, chỉ vì anh triệt để chống cộng, phá nát cơ sở của VC trong vùng. Ông cựu xã trưởng Chợ Lầu tên Ích bị Việt cộng bắt nhốt trong khu Lê gần 10 năm mới được chúng thả, Sáu Quạt một Liên gia trưởng bị chúng bắt giết để lại đàn con 10 đứa nheo nhóc, và chúng bắt đi một số thanh thiếu niên theo chúng gây nợ máu, số này chết gần hết khi gần tàn cuộc chiến. Anh Tê một cán của thôn Xuân An cũng bị nó bắt giết thảm khốc tại gốc me xóm Bún, và rất nhiều Liên gia trưởng bị chúng bắt vào rừng học tập cảnh cáo, còn rất nhiều những chiến sĩ thầm lặng hy sinh trong cuộc chiến này.

Tại Phan Rí Cửa, mặc dù là một thị trấn tương đối an ninh, nhưng thỉnh thoảng VC cũng bất thần mò về như trong năm 1968, chúng bắt đi và giết thầy cựu Hiệu trưởng trường Bán Công Phan Rí Cửa Trương Minh Huệ và đốt nhà Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh một dân biểu từng nối giáo cho giặc nhưng chúng cũng không tha. Những lần về như vậy chúng đều bị đền tội, đầu năm 1969, bọn chúng đánh úp chi khu Hòa Đa gây cho ta tổn thất nghiêm trọng, và chúng đền tội ngay sau đó khi tấn công vào BCH/LĐ2/8/ĐP tại Yếu Khu PRC.

Một lần trong chuyến đi công tác mật từ Phan Rí Cửa đến Lương Sơn, Tr/sĩ Cảnh Sát đặc biệt Hào đã bị Việt cộng chận bắt tại khúc đường vắng gần Hiệp Hòa, nhưng với mưu trí nên khi bị dẫn vào động Thái An anh đã dùng súng ngắn còn dấu trong người bắn hạ một tên và chạy thoát, vì hành động này sau ngày 30-4-75 anh bị bọn chúng đầy ải qua những trại tù tàn khốc nhất, kém may mắn hơn một Nghĩa quân bị chúng chận bắt khi đi từ Chợ Lầu lên Lương Sơn và bị bắn ngay tại chỗ. May mắn ở Lương Sơn có một Ấp chiến lược tốt và dưới sự chỉ huy tài ba và can trường của xã Dược nên Việt cộng không đột nhập được, nhưng những cán bộ xã ấp XDNT, cảnh sát phải chiến đấu kiên cường để bảo vệ mảnh đất quê hương thân yêu và bản thân cùng gia đình họ. Thật là một sự hy sinh to lớn đáng vinh danh, thường thì mọi người cứ nghĩ đến những chiến sĩ can trường đấu tranh giữa trận tuyến với địch mới là những người con kiêu hùng, và thường hay quên đi số phận hẩm hiu của những chiến sĩ thầm lặng nhưng đầy can trường này. Chính họ đã giữ vững an lành cho hậu phương để cho tiền tuyến an tâm đánh giặc.

Qua bao nhiêu năm rồi vinh danh họ có muộn màng không? Thưa có như vậy, nhưng chúng ta phải tri ân họ vì chính họ mới là những anh hùng thật sự trên trận tuyến chống Cộng sản xâm lược. Chiến tích của họ thật thầm lặng nhưng không kém phần quan trọng trong công cuộc chiến. Xin đốt nén nhang nghiêng mình trước những chiến sĩ thầm lặng đã nằm xuống, và xin tri ân những người còn sống sót sau cuộc chiến. Dù đang ở một phương trời nào cũng xin nhận nơi đây lòng biết ơn sâu sắc.

Xuân An. Cao H Sơn

Nguồn: http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/02/nhung-chien-si-tham-lang-xay-dung-nong.html

Posted on February 22, 2020 by dongsongcu

https://dongsongcu.wordpress.com/2020/02/22/nhung-chien-si%cc%83-tham-lang-xay-dung-nong-thon-xuan-an-cao-h-son/

 

 

Đọc thêm về những người lính Nghĩa Quân và Địa Phương Quân

 



Nghĩa Quân
https://caybut2.blogspot.com/2016/06/nghia-quan.html

 

 photo Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
https://caybut2.blogspot.com/2017/02/ia-phuong-quan-va-nghia-quan.html

 

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...