Saturday, April 6, 2019

Giai đoạn chuyển tiếp bàn giao Miền Nam cho Hà Nội theo Hiệp Định Paris 1973, rồi sao?

 




Hiệp Định Paris 27/1/1973
Nhị-trùng, Ðại-tá bắc Việt cộng Bùi-Tín chỉ gọi là Ðường 559, chứ không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ (tặc).

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Sau Hiệp định Paris 27/1/1973, quân đội và chuyên viên Bắc-Việt cùng các kỹ-sư Cuba làm lại con đường Đông Trường-Sơn: khởi đầu từ Khe-Cát thuộc Huyện Bố-Trạch, Quảng-Bình, vượt Sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba-lòng ở khu vực Quảng-Trị và Thừa-Thiên, qua Aluối, Ashau, rồi đi nép theo biên giới Việt-Lào phía sau đèo Hải-Vân, Bạch-Mã vào Quảng-Nam, khi đến Khâm-Đức thì vòng lên Ngọc-Hồi thuộc phần đất Kontum, vùng đất nầy vô cùng hiểm trở núi non trùng điệp và cao nhất trong miền Nam Việt Nam. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê-Thuột đang do Quân-Lực VNCH trấn giữ nên BV phải làm con đường song song thứ 2, lấy tên là 14A đi sát biên giới Việt-Lào qua phần đất của Tỉnh Kontum Pleiku và Ban Mê-Thuột, tại đây hai đường Trường-Sơn Đông và Tây chụm lại với nhau, rồi đổ xuống Bà-Rá, Phước-Thành, Bình-Long, Lộc-Ninh (trong ống kính của trục ma/quỹ nó là Xa Lộ Liên Bang Đông Dương).

Kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy, nhiều khúc đường 14 từ Thừa-Thiên đến Ban Mê-Thuột đang được Cộng-quân ngang nhiên sửa chữa để chuyển quân, cạnh con đường nầy, có một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt nằm song song theo đó như từ xương Sống tiếp nối qua xương Sườn ra phía Ðông vào các vùng đông dân mà Không Quân Miền Nam, Hoa-kỳ không được quyền oanh tạc vì dựa vào điều khoản Hiệp định hòa bình Paris 1973, để chuẩn bị giai đoạn chuyển tiếp bàn giao Miền Nam cho Hà Nội. Ngoài ra phe thân Liên-Xô là Lê Duẫn đã yêu cầu Liên-Xô phụ giúp, nên Hoa-kỳ (sau Hiệp định Paris) a tòng với Liên-Xô, bí mật sắp xếp cho Cuba qua giúp CSBV, kết quả, tháng 9/1973, trong chuyến viếng thăm của Chủ Tịch Fidel-Castro tại Hà-Nội, chính quyền CSBV đã yêu cầu nước anh em XHCN Cuba trợ giúp kỹ thuật trong việc mở rộng mạng lưới Đường Mòn nầy.
Theo thỏa hiệp đạt được, một nhóm 43 người Việt sẽ đến Cuba vào tháng 11/1973 và sau khi được huấn luyện về các kỷ thuật xây dựng của công binh Cuba, họ đã trở về Bắc-Việt cùng với các huấn luyện viên người Cuba bắt tay vào việc. Đại-Tá Cuba, Roberto Leon sẽ làm Trưởng-Đoàn xây dựng Công-binh Cuba, gồm 23 kỹ sư cầu đường và khoảng 50 người chuyên viên Việt-Nam khẩn cấp bắt tay vào việc. Thế là bắt đầu năm 1973, Đoàn Công binh Cuba ra sức giúp mở đường giao liên cho CSBV; Đường 559 (Xa-lộ Harriman) mạng lưới gồm đường xá và hầm trú-ẩn trải dài hàng ngàn cây số, phần lớn xuyên qua rừng rậm, để giúp bộ-đội BV tiến vào xâm chiếm Miền-Nam.

Đó cũng là lý do tướng Ngô Q. Trưởng đã có chỉ thị rõ ràng: “Các anh em phi công khi thấy xe tăng, Molotova, bộ đội Bắc Việt di chuyển trên đường Hồ Chí Minh, dù trong tẩm oanh kích của ta thì cũng đừng hành động gì; cứ để cho chúng tiếp tục vào Nam!” Có nguồn tin cho rằng Tướng Trưởng muốn cho họ đi qua để nhẹ áp lực Vùng-1, nhưng có người cho rằng vì áp lực của Mỹ có dính dấp đến các điều khoản đã ký trong bản hiệp định Paris.
Có một lần phi tuần viên A.37 đã không tuân theo phi tuần trưởng oanh kích theo dấu đánh trái khói hướng dẫn của L-19 quan sát mà lại oanh kích vào đoàn xe nhỏ nên làm cho phái đoàn Việt cộng đàn anh bị tử thương. Viên phi công nầy bị tù trọng cấm vì không thả đúng mục tiêu như phi tuần trưởng dẫn đạo cho cuộc oanh kích; Anh giảng-giải nguyên nhân thả khơi khói trong núi phí bom đạn, khi có mục tiêu rõ ràng sao không thả. Hậu quả anh bị tù trọng cấm nhưng không nặng lắm.

Còn Nhị-trùng, Ðại-tá Việt cộng bắc kỳ Bùi-Tín thì được móm của trục Ma Quỷ nên cho rằng: “Mỹ [làm bộ] không hiểu thái độ “Trung Lập” của Cambodia, và đặc biệt của Lào, ông hoàng Sihanouk và Phouma đều nghiêng về phía Hà Nội; Hiệp Định Genève năm 1962 về nền trung lập của Lào không hề ngăn Bắc Việt Nam để nhiều quân ở Nam Lào và dùng Lào để thâm nhập qua Xa Lộ Harriman/hay đường mòn Hồ, được đơn-vị Ðoàn 959 của Pathet Lào bảo vệ. Mỹ (Harriman) làm rất ít để không tác động đến Vientiane và PnomPenh trong khi Hà Nội và Bắc Kinh tranh thủ và tận dụng nền trung lập nghiêng-ngả ấy với sự nháy mắt ngầm đồng ý của Harriman; Nếu phía Washington sớm nhìn thật rõ được những điều kể trên để có chủ trương thích hợp thì tình hình đã có thể đổi khác và sự kết thúc chiến tranh cũng không phải như chúng ta đã thấy! Ðại Tá Việt cộng Bùi Tín chỉ nói như con Vẹt do một kẻ bí mật ở sau lưng hối thúc. Làm gì Bùi Tín hiểu được sự tấn công qua Cambodia và Lào là “Một sự di tản chiến lược an toàn” qua tu chánh-án Cooper-Church 1970 (manage the defeat) và sẽ trở lại ở giai đoạn-3 màn kết (Overhauling the damage control to Roll-Back 2010-2020).

Cuối cùng thì Trung cộng đã chia ra nhiều tiểu quốc bằng “tối huệ quốc” của Hoa Kỳ (the U.S. Freedom Support Act) cũng tái diễn lại y chang trường hợp một nước độc tài như Liên-bang-Liên Xô bị chia cắt bởi tám nước Cộng Hòa.

Dĩ nhiên là những nước Cộng Hòa tách rời nầy mực sống của người dân cao hơn dân cư sống tại thủ đô Bắc Kinh và Moscova dựa vào cái dù che “The US Freedom Support Act”.

Vì trong guồng máy chiến tranh, Mỹ đã chuẩn bị và đang phải kiểm soát lại trong kinh tế và cả trên chính-lược Mỹ để phải đè bẹp Trung quốc bằng mọi giá; Năm 1962 Tình Báo MACV báo cáo Pentagon là quân Bắc Việt đang xây dựng đường Mòn Hồ bắt đầu từ phía Tây vùng phi quân sự; Được lệnh từ viên chức đứng hàng thứ Ba của Bộ ngoại giao là Harriman (người sáng lập ra đảng-hội Skull and Bones 1920) ngầm ra mật-lệnh cho Forrestal, thành viên Hội đồng An Ninh quốc gia Hoa-Kỳ (NSC) và Leonard Unger, Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào thông báo cho MACV không được đụng đến phần đất của Lào-quốc. Năm 1964, Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cảnh cáo Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara: Dù được lệnh như MACV không được quyền can dự ở Lào, nhưng ít ra phải để cho QLVNCH có quyền chống đở biên giới của họ chớ? Mc Namara không còn cách nào bèn cầu cứu với George Bundy, cố vấn TT Johnson để thả dây cương cho quân lực VNCH được quyền đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Dỉ nhiên TT Johnson rất bằng lòng chấp nhận ngay; Công điện đang chuyển qua MACV Saigon, thì liền sau đó có lệnh ngầm, Forrestal cảnh cáo ngay với Bundy:

- “Dù rằng TT Johnson đã ký lệnh, nhưng không có dấu “khán” của Harriman thì là một điều rắc rối: “Anh cũng thừa hiểu chữ ký của Johnson không thôi thì không có giá trị.” Bao nhiêu đó thôi thì đọc giả cũng hiểu ngay là ai nắm chính sách của Hoa Kỳ (to send the telegram without Averell w. Harriman’s approval, that the telegram was not enough).

Thế nên, Tôi tự cho rằng đây là Xa lộ Harriman! Đến khi vì quá sốt ruột đem lại sự chiến thắng tự vệ cho người dân miền nam, Tướng Westmoreland đòi hỏi ngay vị Tổng tư Lệnh quân đội Mỹ là Tổng Thống Johnson xin tổng thống cho lệnh quân đội Mỹ đánh sang Lào thì ông bị triệu hồi về Mỹ ngay. Sau nầy SOG xin phép được hành quân qua Lào và Cambodia để cấp cứu đồng đội lâm nạn nhưng vẫn bị từ chối; Vì thế Tôi tự cho rằng Đường 559 đả trở nên Xa Lộ Harriman từ dạo đó, Nó đã có ống dẩn dầu huyết mạch chạy song song với nó. Năm 1967-68 khi tôi đang học khóa Chỉ huy Tham Mưu tại Air University Maxwell Montgomery, Alabama Hoa-kỳ - Lúc nầy chiến tranh Việt Nam đang thời khốc liệt vào Tết Mậu-Thân, Cứ mỗi lần ‘coffee-break’ Tôi bị bao quanh bởi các bạn Mỹ, và sĩ quan Đồng minh cùng khóa, kể cả các giảng viên. Họ luân phiên hỏi Tôi về chiến tranh VN, Tôi còn nhớ rõ, Tôi chỉ đáp lại là: “phòng thủ Nam Việt Nam trở thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch vùng biên giới với các quốc gia Lào và Cambodia. Tôi không phản đối gì việc ngăn ngừa Cộng Sản bành trướng, nhưng chẳng thấy chiến lược nào đang áp dụng lại có triển vọng thành công; tuy nhiên, lòng yêu nước của tôi mạnh hơn nỗi bất mản về chiến lược lãnh đạo kém!”

Một viên chức cao-cấp về địa dư của quân đội Hoa Kỳ, ông John-Collins, ghi nhận rằng: Ðường Trường Sơn nầy cũng chẳng có gì lạ, ngoài một chuổi dài rừng núi bao la hiểm trở, có những đoạn đường Mòn dài cả chục cây số, lá rừng dầy đặt che khuất ba tầng đến nổi không thấy được ánh mặt trời. Dưới đó, nhứt là thời kỳ chống thực dân Pháp, biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ yêu nước hy sinh cả đời mình cho cuộc kháng chiến chống Pháp; hằng ngày họ phải cồng lưng khuân vác những trang cụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến; người Pháp với phương tiện không thám nghèo nàn và lỗi thời thì làm cách nào mà phát hiện nỗi. Ngoài ra kháng chiến quân ăn uống kham khổ, không cần tiếp tế như một đạo quân dả chiến, nên khó bị phát hiện. Trang bị vũ khí cướp được của Pháp hay những vũ khí mà họ tự tạo thô sơ qua các Công binh xưởng, ráp nối như đồ chơi trẻ con mà John. Collins cho là Rube-Goldberg Toys.

Giữa năm 1950, lực lượng Việt Minh bắt đầu khai mở Ðường Trường Sơn, tuy nhiên chỉ hoạt động cầm chừng, lẻ tẻ từng toán nhỏ giao liên, nhưng chỉ xuyên qua những đoạn đường thuộc phần đất thực dân Pháp tạm chiếm của các thành phố lớn như: Nha Trang, Qui Nhơn, Ðà-Nẳng, Huế, Quảng Trị… còn lại họ di-chuyển xuyên qua các vùng đồng bằng, cận đông của Dãy Trường Sơn do lực lượng Việt-Minh kiểm soát. Hiệp định Genève ngày 20 tháng bảy, 1954, Cộng Sản bị đẩy ra Bắc, ngoài vĩ-tuyến 17,

Quân đội Cộng sản buộc phải lên tàu của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, như Ba-lan, Hungary… từ các hải cảng như Quy Nhơn…Nhưng Cộng sản vẫn gài lại một số cán bộ nằm vùng. Ở những Làng Huyện cận sơn như Minh Long, Ba tơ, Gia Vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Cán bộ Cộng sản lấy vợ Thượng, chịu hội nhập phong tục “Cà răng căng tai” đóng chốt tại chỗ. Cộng sản chôn dấu một số vũ khí để mai phục về sau khi phát động tái vỏ trang xâm lược miền Nam; Một số cán bộ nồng cốt được đưa ra Bắc nhưng quyết không từ bỏ ý đồ trở lại thôn tính miền Nam bằng vũ lực vì mắc mớ gia đình còn kẹt lại tại Miền Nam. (Từ 1943 khi Harriman đang làm Ðại sứ Mỹ tại Liên Xô đã có ý đồ dời chiến tranh qua Triều-Tiên rồi Việt Nam (theo mô hình chia đôi thành hai nước như sẽ kết thúc chiến tranh và chia Đức ra làm hai theo chương trình “Aid to Russia 1941-1946 Plan) Sau khi móc nối được Cụ Hố Chí Minh vào Service of War Information 1943 (tôi tạm dich “Sở tin Chiến tranh ở Côn-Minh, chắc chắn thế hệ thứ tư thứ năm sẽ nói rõ những sự kiện nầy ra vì các sữ-gia luôn luôn sẽ làm sáng tỏ và công minh cho lịch sử VN sau nầy với vô số tài liệu bất thần lộ ra như cuốn DVD sự thật HCM).

Vì thế Ðường Trường Sơn được đổi tên lại là Ðường Mòn HCM do Nhóm tham mưu học giả của Harriman tung tin ra từ các nước Tây phương với mục tiêu chính trị, Họ muốn vinh danh HCM để bù đáp lại sự phản bội vì quyền lợi buộc Họ phải lừa gạt để kéo dài chiến tranh cũng như Họ tìm cách đưa tên HCM vào danh nhân thế giới tại UNESCO, Liên Hiệp Quốc sau nầy, nhưng thất bại vì sự đả phá của nhân dân Miền Nam chưa thấu hiểu.

Từ tháng Tư 1959, Bộ chính trị Cộng sản Hà Nội triệu tập một cuộc họp bí mật thứ 15 do áp lực ngầm của trục Ma Quỷ, để rồi Lê Ðức Thọ cương quyết đưa hàng ngàn cán bộ CS miền Nam trở về nằm vùng mai phục chờ chỉ thị mới của Bộ chính trị Trung ương Ðảng (trong khi Hồ đã ra lệnh rút 100.000 vế Bắc) Ðể thực hiện ý đồ nầy: Theo lệnh trục Ma/Quỷ, Lê Đức Thọ chỉ thị thành lập một đơn vị Mới để chuyên trách đưa người và tiếp liệu vào Nam. Ðó là “Ðoàn chuyển vận 559” do Tướng một sao Việt cộng Vỏ Bam chỉ huy. Quân đội Bắc Việt đặt tên là Đường 559 – Trong hồi ký của Ðại tá Việt cộng Bùi Tín “From Enemy to Friend” Paris, tháng 10-2003, chỉ gọi là Ðường 559. Phía Hà-Nội không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ. Sự thật HCM đả bị anh em Lê Ðức Thọ và Mai Chí Thọ cùng Lê Duẩn trở về Hà Nội nắm quyền, cách ly HCM, ngày ngày Hồ chỉ lo vui thú điền-viên qua vun tưới cây “Vú-Sữa” Miền Nam và chỉ chường ra làm cảnh khi phải đón tiếp phái đoàn ngoại giao mà thôi.

 

2

 




Hiệp Định Paris 27/1/1973

 

Nhị-trùng, Ðại-tá bắc Việt cộng Bùi-Tín chỉ gọi là Ðường 559, chứ không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ (tặc).
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Sau Hiệp định Paris 27/1/1973, quân đội và chuyên viên Bắc-Việt cùng các kỹ-sư Cuba làm lại con đường Đông Trường-Sơn: khởi đầu từ Khe-Cát thuộc Huyện Bố-Trạch, Quảng-Bình, vượt Sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba-Lòng ở khu vực Quảng-Trị và Thừa-Thiên, qua Aluối, Ashau, rồi đi nép theo biên giới Việt-Lào phía sau đèo Hải-Vân, Bạch-Mã vào Quãng-Nam, khi đến Khâm-Đức thì vòng lên Ngọc-Hồi thuộc phần đất Kontum, vùng đất nầy vô cùng hiểm trở núi non trùng điệp và cao nhất trong miền Nam Việt Nam. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê-Thuột đang do Quân-lực VNCH trấn giữ nên Bắc Việt phải làm con đường song song thứ 2, lấy tên là 14A đi sát biên giới Việt-Lào qua phần đất của Tỉnh Kontum Pleiku và Ban Mê-Thuột, tại đây hai đường Trường-Sơn Đông, Tây chụm lại với nhau, rồi đỗ xuống Bà-Rá, Phước-Thành, Bình-Long, Lộc-Ninh (trong ống kính của trục ma/quỹ nó là Xa lộ Liên Bang Đông Dương).

Kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy, nhiều khúc đường 14 từ Thừa-Thiên đến Ban Mê-Thuột đang được Cộng-quân ngang nhiên sửa chữa để chuyển quân, cạnh con đường nầy, có một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt nằm song song theo đó như từ xương Sống tiếp nối qua xương Sườn ra phía Ðông vào các vùng đông dân mà Không Quân Miền Nam, Hoa-kỳ không được quyền oanh tạc vì dựa vào điều khoản Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, để chuẩn bị giai đoạn chuyển tiếp bàn giao Miền Nam cho cộng Sản Hà Nội.

Ngoài ra phe thân Liên-Xô là Lê Duẫn đã yêu cầu Liên-Xô phụ giúp, nên Hoa-kỳ (sau Hiệp Định Paris) a tòng với Liên-Xô, bí mật sắp xếp cho Cuba qua giúp Cộng Sản Bắc Việt, kết quả, tháng 9/1973, trong chuyến viếng thăm của Chủ Tịch Fidel-Castro tại Hà-Nội, chính quyền CSBV đã yêu cầu nước anh em XHCN Cuba trợ giúp kỹ thuật trong việc mở rộng mạng lưới Đường Mòn nầy. Theo thỏa hiệp đạt được, một nhóm 43 người Việt sẽ đến Cuba vào tháng 11/1973 và sau khi được huấn luyện về các kỹ thuật xây dựng của công binh Cuba, họ đã trở về Bắc-Việt cùng với các huấn luyện viên người Cuba bắt tay vào việc. Đại-Tá Cuba, Roberto Leon sẽ làm Trưởng-Đoàn xây dựng công-binh Cuba, gồm 23 kỹ sư cầu đường và khoảng 50 người chuyên viên Việt-Nam khẩn cấp bắt tay vào việc. Thế là bắt đầu năm 1973, Đoàn Công Binh Cuba ra sức giúp mở đường giao liên cho CSBV; Đường 559 (Xa-lộ Harriman) mạng lưới gồm đường xá và hầm trú-ẩn trải dài hàng ngàn cây số, phần lớn xuyên qua rừng rậm, để giúp bộ-đội Bắc Việt tiến vào xâm chiếm Miền-Nam.

Đó cũng là lý do tướng Ngô Quang Trưởng đã có chỉ thị rõ ràng: “Các anh em phi công khi thấy xe tăng, Molotova, bộ đội Bắc Việt di chuyển trên đường Hồ Chí Minh, dù trong tầm oanh kích của ta thì cũng đừng hành động gì; cứ để cho chúng tiếp tục vào Nam!”

Có nguồn tin cho rằng Tướng Trưởng muốn cho họ đi qua để nhẹ áp lực Vùng I, nhưng có người cho rằng vì áp lực của Mỹ có dính dấp đến các điều khoản đã ký trong bản Hiệp Định Paris.

Có một lần phi tuần viên A.37 đã không tuân theo phi tuần trưởng oanh kích theo dấu đánh trái khói hướng dẫn của L-19 quan sát mà lại oanh kích vào đoàn xe nhỏ nên làm cho phái đoàn Việt cộng đàn anh bị tử thương. Viên phi công nầy bị tù trọng cấm vì không thả đúng mục tiêu như phi tuần trưởng dẫn đạo cho cuộc oanh kích; Anh giảng-giải nguyên nhân thả khơi khói trong núi phí bom đạn, khi có mục tiêu rõ ràng sao không thả. Hậu quả anh bị tù trọng cấm nhưng không nặng lắm.

Còn Nhị-trùng, Ðại-tá Việt cộng bắc kỳ Bùi-Tín thì được mớm lời của trục Ma Quỷ nên cho rằng: “Mỹ [làm bộ] không hiểu thái độ “Trung Lập” của Cambodia, và đặc biệt của Lào, ông hoàng Sihanouk và Phouma đều nghiêng về phía Hà Nội; Hiệp Định Genève năm 1962 về nền trung lập của Lào không hề ngăn Bắc Việt Nam để nhiều quân ở Nam Lào và dùng Lào để thâm nhập qua Xa Lộ Harriman/hay đường mòn Hồ, được đơn-vị Ðoàn 959 của Pathet Lào bảo vệ. Mỹ (Harriman) làm rất ít để không tác động đến Vientiane và PnomPenh trong khi Hà Nội và Bắc Kinh tranh thủ và tận dụng nền trung lập nghiêng-ngả ấy với sự nháy mắt ngầm đồng ý của Harriman; Nếu phía Washington sớm nhìn thật rõ được những điều kể trên để có chủ trương thích hợp thì tình hình đã có thể đổi khác và sự kết thúc chiến tranh cũng không phải như chúng ta đã thấy!

Ðại Tá Việt cộng Bùi Tín chỉ nói như con Vẹt do một kẻ bí mật ở sau lưng hối thúc. Làm gì Bùi Tín hiểu được sự tấn công qua Cambodia và Lào là “Một sự di tản chiến lược an toàn” qua tu chánh-án Cooper-Church 1970 (manage the defeat) và sẽ trở lại ở giai đoạn-3 màn kết (Overhauling the damage control to Roll-Back 2010-2020).

Cuối cùng thì Trung cộng đã chia ra nhiều tiểu quốc bằng “tối huệ quốc” của Hoa Kỳ (the U.S. Freedom Support Act) cũng tái diễn lại y chang trường hợp một nước độc tài như Liên-bang-Liên Xô bị chia cắt bởi tám nước Cộng Hòa.

Dĩ nhiên là những nước Cộng Hòa tách rời nầy mực sống của người dân cao hơn dân cư sống tại thủ đô Bắc Kinh và Moscova dựa vào cái dù che “The US Freedom Support Act”.

Vì trong guồng máy chiến tranh, Mỹ đã chuẩn bị và đang phải kiểm soát lại trong kinh tế và cả trên chính-lược Mỹ để phải đè bẹp Trung quốc bằng mọi giá.

Năm 1962 Tình Báo MACV báo cáo Pentagon là quân Bắc Việt đang xây dựng đường Mòn Hồ bắt đầu từ phía Tây vùng phi quân sự; Được lệnh từ viên chức đứng hàng thứ Ba của Bộ ngoại giao là Harriman (người sáng lập ra đảng-hội Skull and Bones 1920) ngầm ra mật-lệnh cho Forrestal, thành viên Hội đồng An Ninh Quốc Gia Hoa-Kỳ (NSC) và Leonard Unger, Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào thông báo cho MACV không được đụng đến phần đất của Lào-quốc.

Năm 1964, Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cảnh cáo Bộ Trưởng Quốc Phòng Mc Namara: Dù được lệnh như MACV không được quyền can dự ở Lào, nhưng ít ra phải để cho QLVNCH có quyền chống đỡ biên giới của họ chớ? Mc Namara không còn cách nào bèn cầu cứu với George Bundy, cố vấn T.T. Johnson để thả dây cương cho quân lực VNCH được quyền đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Dĩ nhiên Tổng Thống Johnson rất bằng lòng chấp nhận ngay; công điện đang chuyển qua MACV Saigon, thì liền sau đó có lệnh ngầm, Forrestal cảnh cáo ngay với Bundy:

- “Dù rằng T.T. Johnson đã ký lệnh, nhưng không có dấu “khán” của Harriman thì là một điều rắc rối: “Anh cũng thừa hiểu chữ ký của Johnson không thôi thì không có giá trị.” Bao nhiêu đó thôi thì độc giả cũng hiểu ngay là ai nắm chính sách của Hoa Kỳ (to send the telegram without Averell W. Harriman’s approval, that the telegram was not enough/not valid).

Thế nên, Tôi tự cho rằng đây là Xa Lộ Harriman! Đến khi vì quá sốt ruột đem lại sự chiến thắng tự vệ cho người dân miền nam, Tướng Westmoreland đòi hỏi ngay vị Tổng Tư Lệnh quân đội Mỹ là T. T. Johnson xin tổng thống cho lệnh quân đội Mỹ đánh sang Lào, thì ông tướng Westmoreland bị triệu hồi về Mỹ ngay. Sau nầy SOG xin phép được hành quân qua Lào và Cambodia để cấp cứu đồng đội lâm nạn nhưng vẫn bị từ chối; Vì thế tôi tự cho rằng Đường 559 đả trở nên Xa Lộ Harriman từ dạo đó, nó đã có ống dẫn dầu huyết mạch chạy song song với nó.

Năm 1967-68 khi tôi đang học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại Air University Maxwell Montgomery, Alabama Hoa-Kỳ - Lúc nầy chiến tranh Việt Nam đang thời khốc liệt vào Tết Mậu-Thân, Cứ mỗi lần ‘coffee-break’ Tôi bị bao quanh bởi các bạn Mỹ, và sĩ quan Đồng minh cùng khóa, kể cả các giảng viên. Họ luân phiên hỏi Tôi về chiến tranh Việt Nam, Tôi còn nhớ rõ, Tôi chỉ đáp lại là: “phòng thủ Nam Việt Nam trở thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch vùng biên giới với các quốc gia Lào và Cambodia. Tôi không phản đối gì việc ngăn ngừa Cộng Sản bành trướng, nhưng chẳng thấy chiến lược nào đang áp dụng lại có triển vọng thành công; tuy nhiên, lòng yêu nước của tôi mạnh hơn nỗi bất mãn về chiến lược lãnh đạo kém!”

Một viên chức cao-cấp về địa dư của quân đội Hoa Kỳ, ông John-Collins, ghi nhận rằng: Ðường Trường Sơn nầy cũng chẳng có gì lạ, ngoài một chuỗi dài rừng núi bao la hiểm trở, có những đoạn đường Mòn dài cả chục cây số, lá rừng dầy đặt che khuất ba tầng đến nổi không thấy được ánh mặt trời. Dưới đó, nhứt là thời kỳ chống thực dân Pháp, biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ yêu nước hy sinh cả đời mình cho cuộc kháng chiến chống Pháp; hằng ngày họ phải cồng lưng khuân vác những trang cụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến; người Pháp với phương tiện không thám nghèo nàn và lỗi thời thì làm cách nào mà phát hiện nỗi. Ngoài ra, kháng chiến quân ăn uống kham khổ, không cần tiếp tế như một đạo quân dã chiến, nên khó bị phát hiện. Trang bị vũ khí cướp được của Pháp hay những vũ khí mà họ tự tạo thô sơ qua các Công Binh xưởng, ráp nối như đồ chơi trẻ con mà John. Collins cho là Rube-Goldberg Toys.

Giữa năm 1950, lực lượng Việt Minh bắt đầu khai mở Ðường Trường Sơn, tuy nhiên chỉ hoạt động cầm chừng, lẻ tẻ từng toán nhỏ giao liên, nhưng chỉ xuyên qua những đoạn đường thuộc phần đất thực dân Pháp tạm chiếm của các thành phố lớn như: Nha Trang, Qui Nhơn, Ðà-Nẵng, Huế, Quảng Trị… còn lại họ di-chuyển xuyên qua các vùng đồng bằng, cận đông của Dãy Trường Sơn do lực lượng Việt-Minh kiểm soát. Hiệp Định Genève ngày 20 tháng bảy, 1954, Cộng Sản bị đẩy ra Bắc, ngoài vĩ-tuyến 17,

Quân đội cộng sản buộc phải lên tàu của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, như Ba-lan, Hungary… từ các hải cảng như Quy Nhơn…Nhưng Cộng sản vẫn gài lại một số cán bộ nằm vùng. Ở những Làng Huyện cận sơn như Minh Long, Ba tơ, Gia Vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Cán bộ Cộng sản lấy vợ Thượng, chịu hội nhập phong tục “Cà răng căng tai” đóng chốt tại chỗ. Việt Cộng chôn giấu một số vũ khí để mai phục về sau khi phát động tái võ trang xâm lược miền Nam; Một số cán bộ nồng cốt được đưa ra Bắc nhưng quyết không từ bỏ ý đồ trở lại thôn tính miền Nam bằng vũ lực vì mắc mớ gia đình còn kẹt lại tại Miền Nam. (Từ 1943 khi Harriman đang làm Ðại Sứ Mỹ tại Liên Xô đã có ý đồ dời chiến tranh qua Triều-Tiên rồi Việt Nam (theo mô hình chia đôi thành hai nước như sẽ kết thúc chiến tranh và chia Đức ra làm hai theo chương trình “Aid to Russia 1941-1946 Plan) Sau khi móc nối được ông Hố Chí Minh vào Service of War Information 1943 (tôi tạm dich “Sở Tin Tức Chiến Tranh ở Côn-Minh, chắc chắn thế hệ thứ tư thứ năm sẽ nói rõ những sự kiện nầy ra vì các sử-gia luôn luôn sẽ làm sáng tỏ và công minh cho lịch sử Việt Nam sau nầy với vô số tài liệu bất thần lộ ra như cuốn DVD sự thật HCM).

Vì thế Ðường Trường Sơn được đổi tên lại là Ðường Mòn HCM do Nhóm Tham Mưu Học Giả (think Tank) của Harriman tung tin ra từ các nước Tây phương với mục tiêu chính trị, Nhóm họ muốn vinh danh HCM để bù đắp lại sự phản bội vì quyền lợi buộc, Họ phải lừa gạt để kéo dài chiến tranh cũng như Họ tìm cách đưa tên HCM vào danh nhân thế giới tại UNESCO, Liên Hiệp Quốc sau nầy, nhưng thất bại vì sự đả phá của người dân Miền Nam chưa thấu hiểu.

Từ tháng Tư 1959, Bộ Chính Trị Cộng Sản Hà Nội triệu tập một cuộc họp bí mật thứ 15 do áp lực ngầm của trục Ma Quỷ, để rồi Lê Ðức Thọ cương quyết đưa hàng ngàn cán bộ Cộng Sản miền Nam trở về nằm vùng mai phục chờ chỉ thị mới của Bộ chính trị Trung Ương Ðảng (trong khi Hồ đã ra lệnh rút 100.000 về Bắc) để thực hiện ý đồ nầy: Theo lệnh trục Ma/Quỷ, Lê Đức Thọ chỉ thị thành lập một đơn vị Mới để chuyên trách đưa người và tiếp liệu vào Nam. Ðó là “Ðoàn Chuyển Vận 559” do Tướng một sao Việt cộng Võ Bam chỉ huy. Quân đội Bắc Việt đặt tên là “Đường 559 – Trong hồi ký của Ðại tá Việt cộng Bùi Tín “From Enemy to Friend” Paris, tháng 10-2003, chỉ gọi là Ðường 559. Phía Hà-Nội không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ. Sự thật HCM đã bị anh em Lê Ðức Thọ và Mai Chí Thọ cùng Lê Duẩn trở về Hà Nội nắm quyền, cách ly HCM. Ngày ngày Hồ chỉ lo vui thú điền-viên qua vun tưới cây “Vú-Sữa” Miền Nam và chỉ chường ra làm cảnh khi phải đón tiếp phái đoàn ngoại giao mà thôi.






 

===================================

 

 

Nước Tầu và Việt Nam

Người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chúa Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!

Trước hết, nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập” nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu. Các "vân đất” chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong.

Những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc.

Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm.

Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách di dân là:

1- Một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu. Họ dùng số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nền kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương.

2- Di dân còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng dòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay, cho nên chúng tôi nói: Trên 90% người Hoa Nam đi di dân từ thời nhà Minh.

3- Dù bất cứ ông vua nào khi "thống nhất" đất nước Tàu họ đều nghĩ ra phương thức hay phương pháp đồng hóa người Bách Việt và tìm cách xâm lăng Việt Nam..

4- Những cuộc chiến về văn hóa rất thâm độc nữa. Cuộc chiến tranh văn hóa lâu dài này khiến đa số người Việt chúng ta mắc phải một thứ bệnh: Bệnh này do sự cai trị lâu dài trải qua hàng ngàn năm của người Tàu đối với đất nước, dân tộc Việt Nam Họ đem cái "Hán Nho" của người Tàu vào Việt Nam và họ đã làm đảo lộn nếp sống, xã hội Việt Nam.

Có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thần thánh hơn nhiều và siêu linh hơn nhiều, một cuộc chiến tranh mà trong chúng ta ít biết hay nói đến - "chiến tranh siêu linh" - chuyện Cao Biền trong cuộc chiến tranh trấn yểm linh địa Việt Nam. Cuộc chiến tranh về trấn yểm giữa người Tàu đối với Việt Nam là cuộc chiến tranh hiển hiện từ ngàn xưa đã xảy ra và ngày hôm nay vẫn tiếp tục xảy ra. Cao Biền đã trấn yểm ở dòng sông Tô Lịch, đó là khoảng năm 865 trước đời nhà Đường và sau đời nhà Đường họ cũng vẫn tiếp tục như thế. Các học giả Việt Nam những người tinh thông về địa lý phong thủy như: Lưu Chi, Thiền Sư Định Không, Đinh Hương, Thiền Sư Thông Thiện v. v… họ là những người Việt Nam (Bách Việt) biết trước vụ Cao Biền qua Việt Nam, biết trước vụ Cao Biền sẽ trấn yểm các nơi linh địa, cũng như các Long Mạch trên đất Việt. Riêng La Quý An (852-936), ông là một người kiệt xuất và tinh thông về khoa địa lý phong thủy, La Quý An là học trò của Thiền Sư Thông Thiện, ông có thừa tài để phá các thế trấn yểm của Cao Biền. La Quý An mất với tuổi ngoài 80, ông đã để lại cả một gia sản đồ sộ về khoa phong thủy và địa lý, nhân văn cho đời sau. Vậy những môn học bí truyền này có còn lưu truyền hay tồn tại đến ngày hôm nay chăng? Chỉ những hậu thế và những ai có "duyên" mới có thể lãnh hội được đầy đủ những tinh hoa của tiền nhân.

Khi nhà Minh thống nhất Trung Quốc, thì Hoàng Phúc làm quân sư của nhà Minh (Hoàng Phúc sau này đã bị Vua Lê Lợi bắt sống, sau được trả về Tàu).

Trong cùng thời của Hoàng Phúc thì Việt Nam chúng ta lại xuất hiện những anh hùng tài ba như: Thiền Sư Không Đạo, Đức Vua Lê Lợi, hay thầy dạy của Nguyễn Văn An. Nguyễn An hay Nguyễn Văn An bị bắt đem về Tàu năm 11 tuổi, nhưng ông đã tinh thông về khoa thiên văn, phong thủy, địa lý. Năm 17 tuổi ông đã giúp nhà Minh xây dựng thành Bắc Kinh còn tồn tại đến ngày hôm nay. Thành Bắc Kinh được xây một phần lớn cũng có sự phác họa của Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn là một người tinh thông về khoa tướng số, phong thủy, dịch lý nên ông hiểu rằng sau khi giúp Chu Nguyên Chương thống nhất nước Trung Hoa, thì họ Chu sẽ tiêu diệt các công thần để trừ hậu họa. Sau này quả đúng như ông đã dự đoán và sau này duy chỉ có một mình họ Lưu trốn thoát (vì tinh thông dịch lý và tướng số nên Lưu Bá Ôn đã trốn thoát. Điều này cũng tương tự như Cụ Lý Đông A năm xưa, khi bị Cộng Sản bao vây ở Nga My và Hòa Bình, ông và một số đồng chí cũng đã trốn thoát) còn tất cả các công thần khác đều bị Chu Nguyên Chương giết sạch (có thể vì thấy thần đồng Nguyễn Văn An thông minh nên có lẽ họ Lưu cũng đã "góp sức" với Nguyễn Văn An để trấn yểm thành Bắc Kinh để trả thù nhà Minh?). Nguyễn Văn An đã khôn ngoan nghe lời thầy Việt Nam dặn và ông đã trấn yểm một số linh huyệt của nước Tàu, đồng thời ông đã phá được thế phong thủy trong thành Bắc Kinh. Khi Hoàng Phúc sang Việt Nam đã mang theo cuốn sách địa lý, phong thủy của Cao Biền. “Cuốn Cao Biền Kiểu Tự Tấu Thư" là một tấm bản đồ chi chít ghi rõ địa hình địa vật, nhân văn, kể cả những loài thảo mộc của nước ta).

Mỗi một thời người Tàu mạnh lên dù về mặt trí tuệ hay về mặt quân sự thì đều có những người Việt Nam tài giỏi đáp ứng hoặc trước, hoặc sau. Những người Việt tài ba này đều có sức mạnh về mặt trí tuệ, hoặc về mặt quân sự như lịch sử đã dẫn chứng.

- Thời nhà Đường có Cao Biền thì nước Nam có Thầy Định Không.

- Đến thời nhà Minh có Hoàng Phúc (người rất am tường về Dịch Lý, phong thủy. Hoàng Phúc cũng học các sách của Cao Biền trong việc trấn yểm Việt Nam), thì nước Nam có Sư Đạo Không, anh hùng áo vải Lê Lợi và Lê Lợi am tường nhiều binh thư, trong đó có khoa địa lý và phong thủy.

- Cho đến thời nhà Mạc chúng ta có Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Đến thời Lê - Trịnh chúng ta có tiến sĩ Hòa Chính Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao mà dân gian quen gọi ông là Ông Trạng Tả Ao.

Đây không phải là vấn đề lý số vớ vẩn, nhưng đây là khoa Huyền Học. Khoa Huyền Học này chứng tỏ cho thấy:

- Mỗi thời người Tàu mạnh về mặt trí tuệ, họ đều muốn sang để trấn yểm các long mạch Việt Nam, thì thế nào họ cũng gặp một số đối thủ người Việt có trình độ cao hơn, có như vậy người Việt mới phá được những thế trấn yểm thâm độc của Tàu tại Việt Nam. Ngoài việc đánh nhau với Tàu trên mặt Huyền Học, chúng ta còn đụng với Tàu về mặt quân sự qua những cuộc chiến tranh nơi chiến trường được thể hiện trong bốn bài học lịch sử mà người Việt Nam chúng ta đều đã nằm lòng mà chúng tôi đã có dịp nói qua trong bài "Cuộc Quật Khởi Của Toàn Dân Việt".

Cao Biền đã trấn yểm khi xây thành Đại La đồng thời phá cái thể phong thủy của nước Việt Nam trên sông Tô Lịch. Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La, viện cớ là thấy rồng bay lên cho nên ông đổi tên từ Đại La ra thành Thăng Long (Thăng Long có nghĩa là Rồng bay lên, như vậy vua Lý Thái Tổ biết chắc chắn rằng mình đã phá được các thế trấn yểm của Cao Biền năm xưa, nên cái lưới "Đại La” đã không còn linh nghiệm để có thể nhốt được con Rồng Việt nay đã bay lên "Thăng Long”).

Trong thực tế, Lý Khánh Vân và Lý Khánh Đản đã giúp Lý Công Uẩn phá hết các thế trấn yểm của Cao Biền trong thành Đại La. Những gì Cao Biền trấn yểm trên 13 thế kỷ thì cách đây chưa đầy một năm đã hoàn toàn bị phá hủy. Bị phá hủy ra sao? Xin thưa: Nơi dòng sông Tô Lịch bao quanh Hà Nội cách đây gần một năm đã nổi lên một lần ba cái xác người mà năm xưa Cao Biền đã cho chôn dưới dòng sông (do những đồng tiền cổ lấy được trong miệng từ các xác người này, người ta mới khẳng định là chính Cao Biền đã dùng các xác chết này để trấn yểm long mạch trên sông Tô Lịch). Một thời gian sau đó lại nổi lên thêm bảy xác nữa. Sự kiện này cho thấy: "Thế trấn yểm của Cao Biền ở 13 thế kỷ trước tại dòng sông Tô Lịch đã hoàn toàn bị phá hỏng".

Điều thứ hai chúng ta cần lưu ý là khi thành Thăng Long cổ xây cất từ thời nhà Lý mới đây vừa được khai quật, thì theo luật trấn yểm khi ánh sáng mặt trời chiếu vào sẽ làm mất đi âm khí, thì hiệu quả của thế trấn yểm do Cao Biền đặt trước đây đã bị Tán (nghĩa là bị phá tan).

Lăng Hồ Chí Minh hiện nay nằm ngay Soái Kỳ của Nhà Lý ngày xưa, điều này chứng tỏ rằng: "Các tay phong thủy và địa lý người Tàu đã giúp cho Cộng Sản Hà Nội một lần nữa trấn yểm lại Thành Thăng Long như Cao Biền đã làm ngày xưa, nhưng phúc cho dân tộc Việt Nam, là kinh đô Thăng Long đã hiện ra, như vậy thế trấn yểm của người Tàu cũng thật sự đã bị phá tan". Cho nên lần phát biểu trước đây, tôi có nói về chuyện lăng Hồ Chí Minh là "lăng trấn yểm” Tàu đã dùng những phương cách khác nhau và mượn ông "thầy bói" nào đó xúi cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ yểm xác Hồ Chí Minh tại đó (lăng Ba Đình).

Việc ướp xác này là hình thức trấn yểm mới của bọn Tàu đối với Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã đi Nga để yêu cầu Nga giúp Hà Nội bảo vệ xác chết của Hồ Chí Minh. Điều đó có nghĩa là: Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục làm công việc phản dân hại nước là dùng xác chết Hồ Chí Minh trấn yểm nơi linh thiêng của dân tộc ngay tại Soái Kỳ của Triều Lý ngày xưa.

Nhưng Hà Nội phải hiểu rằng "phúc đức” của họ đã không còn, nên cho dù họ có cố gắng dùng xác chết của Hồ Chí Minh trấn yểm ngay tại Thăng Long thì cũng vô hiệu quả. Đó là điều chúng ta phải thấy. hình thức chiến tranh đặc thù của Á Châu, nó chỉ xảy ra giữa người Tàu và người Việt, nhưng không xảy ra giữa người Tàu và người Nhật, hay người Tàu với người Triều Tiên. Cho nên tôi mới phán quyết lý do tại sao người Tàu mỗi một khi thống nhất đều phải đánh Việt Nam là vậy.

Nhà máy thủy điện Sơn La, vì vùng đó được coi là con mắt trái của Việt Nam. Khi xây nhà máy Sơn La thì Tàu có ý đồ thâm độc muốn đục thủng con mắt trái đó. Như vậy, nước Việt Nam bị mù một con mắt. Nếu con mắt phải là Hà Nội (Thăng Long) mở ra, thì con mắt trái lại bị mù. Đó là sự thật để cho mọi người Việt Nam chúng ta nhìn thấy sự thâm độc trong từng đường lối chi tiết của người Tàu đối với Việt Nam. Cuộc chiến tranh trấn yểm này là cuộc chiến tranh rất quan trọng chúng ta cần lưu ý. Cho nên chúng ta đi đến kết luận: Hà Nội là tay sai của Bắc Kinh, điều này không ngoa.

Thời Bát Quốc Liên Minh chống nhà Thanh, Từ Hi Thái Hậu có cho gom tất cả sách vở Trung Hoa lại để viết thành hai bộ sử ký, hai bộ sách này ghi lại tất cả lịch sử từ thiên văn, địa lý, phong thủy, chính trị, quân sự, tình báo, gián điệp v. v… cho đến cây kim sợi chỉ của nước Tàu từ xa xưa cho đến nay. Bà Từ Hi Thái Hậu đem một trong hai bộ sử ký nói trên tặng lại cho Hoa Kỳ. Tôi nghĩ rằng trong thời gian đó, người Mỹ không đủ sức để nghiên cứu đến sự thâm sâu trong nền văn minh Đông Phương. Bởi vì nền văn minh La Mã (Rome) kéo dài đến ngày nay là nền văn minh thiên về vật chất. Và cho dù về mặt tinh thần họ cao đi nữa, nhưng họ không nắm vững được cái tinh túy thật sự của văn minh Phương Đông; mà văn minh Phương Đông trong đó chính là văn minh Bách Việt.

Cho đến khi các Cụ Mỹ và các Cụ Việt Nam do thời thế xoay vần, đã gặp nhau và các tài liệu đó được đem ra xem xét mổ xẻ đến nơi đến chốn. Khi mổ xẻ đến nơi đến chốn thì những kế sách được mang ra áp dụng. Kế sách được gài như sau: Ai cũng biết rằng khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949, thì việc đầu tiên là Mao nghĩ đến là việc xâm lăng chung quanh (thí dụ chiếm Tây Tạng). Khi phương Tây giúp cho Tàu phát triển lên, thì lẽ đương nhiên người Tàu sẽ có tham vọng bành trướng bá quyền. Họ sẽ không từ bỏ mục tiêu tối hậu giống như lời nguyền - không thể bỏ được - của người Tàu đó là phải xâm lăng nước Việt Nam. Cho nên khi biết mục tiêu đầu tiên của họ Mao là xâm lăng Việt Nam, thì "người khác" họ cũng tương kế tựu kế và trấn yểm lại địa lý nước Tàu. Đứng về mặt phong thủy mà nói, thì khi người Tàu xây đập Tam Khẩu và cho xây một loạt đập nước trên thượng nguồn sông Cửu Long cùng vùng Lạng Sơn, thì điều này đã làm thay đổi phong thủy của nước Trung Hoa một cách rất tai hại. Tàu khi họ chận sông Dương Tử thì họ đã phá cái phong thủy của nước Tàu rồi. Khi họ xây dựng những đập trên thượng nguồn sông Cửu Long, tức là thêm một lần nữa họ đã phá phong thủy nước Tàu.

Nhưng cái đó chưa hay bằng chuyện nước Trung Hoa trúng thầu tổ chức thế vận hội Olympic năm 2008 tới đây. Các Cụ Mỹ - Việt đã bàn thảo tới việc "để” cho Tàu được trúng thầu tổ chức thế vận hội. Việc Tàu đang xây thế vận hội Olympic là một lần nữa làm cho họ tự phá phong thủy (linh địa) của thành Bắc Kinh (tương tự như Nguyễn Văn An đã nghe lời Thầy Việt Nam dặn là phải phá cho được cái thế phong thủy của nước Tàu cách đây 600 năm, cái khác là năm xưa chính Nguyễn Văn An tự vẽ kiểu xây và ngầm trấn yểm thành Bắc Kinh do sự đồng ý của Lưu Bá Ôn, còn bây giờ thì các Cụ Mỹ- Việt tạo điều kiện cho Tàu trúng thầu Olympic 2008 để cho giới lãnh đạo Tàu xây các công trình Olympic vào năm 2008 để Tàu vô tình phá phong Thủy của nước Tàu).

Cuộc "chiến tranh trấn yểm" về phong thủy và địa lý này là cuộc chiến tranh phải xử dụng rất nhiều mưu kế, mà những người biết xử dụng mưu kế này, có thể nói họ là những thánh nhân mới có thể áp dụng một cách hoàn hảo như vậy ("trời sinh Du sao còn sinh Lượng" là vậy). Vì quá tham lam người Tàu đã tự phá mình, khi thế phong thủy này bị phá thì nước Tàu không thể thống nhất được trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi có thể xác định! Lưu Bá Ôn là quân sư cho Chu Nguyên Chương đời nhà Minh, tức Minh Thái Tổ. Khi Lưu Bá Ôn và Chu Nguyên Chương thống nhất Trung Hoa để thành lập nhà Minh, Lưu Bá Ôn đã cho quật mồ Khổng Minh và Lưu Bá Ôn tìm thấy một cái hộp "cẩm nang"chứa đựng những câu sấm do Khổng Minh viết. Trong cẩm nang này có một đoạn viết về “nước Trung Hoa như sau:

“Trung Hoa sau này sẽ do một người tên là Lưu Bá Ôn thống nhất". Tức là:* - Thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn.

Sau đó Lưu Bá Ôn viết ra bộ "Trung Quốc Nhị Thiên Niên Dự Ngôn" (nghĩa là những điều đoán trước cho nước Trung Quốc sau thế kỷ 2000). Bộ sách này được coi là một "mật thư" của Trung Quốc chỉ dành cho những người nằm trong giới lãnh đạo cao cấp nước Trung Hoa được quyền xem mà thôi. Trong bộ sách này nói rõ là kể từ năm 2000 trở đi Trung Quốc bị chiến tranh, ly tán và tan vỡ, cũng từ năm 2000 thì dân Nam (Việt Nam) sẽ trở thành quốc gia hùng mạnh. Chính Lưu Bá Ôn đã ghi rõ trong bộ sách nói trên và khuyên người Tàu, khuyên giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là nên giao hảo với Việt Nam.

Nhưng giao hảo với Việt Nam nào? Chắc chắn không phải là Việt Nam dưới chế độ Việt cộng hiện nay. trong bộ sách này, Lưu Bá Ôn đã nói rõ là: Trung Quốc sẽ bị Bách Việt vây đánh và rồi cuối cùng nước Tàu sẽ đi đến tan rã. Cho nên những dữ kiện này thuộc về mật thư mà chính các giới lãnh đạo người Tàu ở trung cấp cũng không được quyền biết đến.

Một cuộc chiến tranh rất cao, mà ta tạm gọi là cuộc "chiến tranh siêu hình". Một cuộc đụng độ về trí tuệ giữa hai phía: Một bên là người Tàu Hán tộc phương Bắc, một bên là Bách Việt phương Nam.

Tôi không đi sâu trong việc phân giải vì các sấm truyền Việt Nam đã có nói rồi. Tôi biết một điều là Trung Quốc đã phạm quá nhiều sai lầm không thể sửa chữa được. Trong khi những cơ hội cho Việt Nam tiến lên lại đang rất gần kề và rất sáng lạn.

Bây giờ chúng ta cần phải trở lại vấn đề tình hình hiện nay. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Hoa Kỳ đã chuyển Bộ Tư Lệnh Chỉ Huy một lộ quân từ tiểu bang Washington (Hoa Kỳ) đến phía Nam của Tokyo (Nhật Bản). Biến động tại Miến Ðiện vừa qua đã làm cho giới lãnh đạo Bắc Kinh âu lo và hơn ai hết Trung Cộng hiểu rất rõ là: Nếu Hoa Kỳ có thể Pre-emptive (đánh phủ đầu) nước khác, thì Hoa Kỳ cũng có thể đánh phủ đầu nước Tàu nếu cần thiết và nếu Hoa Kỳ hành động thì Trung Quốc cũng phải có khả năng để Pre-emptive Hoa Kỳ (nhưng Tàu không có khả năng Pre-emtive Hoa Kỳ), hoặc là Trung Cộng có thể bất ngờ tấn công một vùng nào đó ở Á Châu, mà Trung Cộng nghĩ rằng họ có thế mạnh nhất. Ðã nhiều lần trên làn sóng này chúng tôi đã có trình bày cùng quý vị là: "Mặt trận chính vẫn là Đông Dương, mà Việt Nam vẫn là điểm chiến lược chính của Tàu để họ có thể ra tay”. Và ngày hôm nay, ai cũng hiểu rằng cán bộ tình báo Trung Cộng đã có mặt tại Việt Nam với một con số không nhỏ.

Các nguồn tin cho biết con số cán bộ tình báo người Tàu ở Việt Nam hiện tại đã lên đến một triệu người hay ít nhất cũng trên 500 ngàn. Một nguồn tin đáng tin cậy khác cũng cho biết rằng Trung Cộng đã tập trung khoảng 20 triệu người dọc theo biên giới Việt-Hoa, con số 20 triệu người này là bọn du thủ du thực (thành phần bất hảo) và bịnh hoạn đang được giam giữ trong các nhà tù khắp nơi bên Trung Quốc.

Họ được lệnh di chuyển về các vùng phía Nam Trung Quốc để chuẩn bị tràn sang Việt Nam khi tình hình biến động (rõ ràng là người Tàu đang áp dụng kế sách của nhà Minh ngày xưa khi xâm chiếm Việt Nam, họ đang xử dụng đám “Dân Binh” để đồng hóa và pha loãng dòng máu người Việt với người Tàu. Trung Cộng đang âm thầm xâm lăng, đồng hóa và diệt chủng dân tộc Việt Nam một cách có hệ thống.

1- Điều trước tiên chúng đánh nước Việt Nam bằng cách trấn yểm các linh địa trên đất Việt, phá phong thủy của nước Việt.

2- Điều thứ hai chúng dùng loại vũ khí sinh học và hóa học để giết người dân Việt Nam vô tội. Người Tàu xử dụng các loại hóa chất hay vũ khí sinh học như: Tẩm hóa chất độc vào các loại thực phẩm, ngũ cốc, thức uống một cách rất khôn khéo, để che mắt thế giới. Gần đây trong một bản báo cáo của một số bệnh viện Hoa Kỳ, nơi có đông người Việt sinh sống thì: Ða số các người Việt từ Việt Nam trở sang Hoa Kỳ hay một số người Việt từ Việt Nam sang đây sinh sống trong một thời gian gần trở lại đây, thì có 75% những người này đều mang mầm bệnh “viêm gan" hay đang mang trong người một loại bệnh lạ. Điều này người Mỹ họ biết rất rõ, nhưng họ vẫn im lặng để nghiên cứu tìm xem những chứng bịnh lạ này xuất xứ từ đâu. Với nền khoa học kỹ thuật tân tiến và tinh vi của họ, chỉ trong một thời gian ngắn, thì họ đã tìm ra nguyên nhân và chưa đầy vài tháng sau họ đã có loại thuốc trị giải. Một lý do khác tại sao Mỹ nghiên cứu các chứng bệnh lạ này là để họ tìm cách đối phó những trường hợp cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam dùng cộng đồng người Việt và Tàu ở Mỹ để phá hoại đời sống, dân sinh của xã hội Hoa Kỳ.



==============================================

 photo camou BQ_zpswt4fk5rm.jpg

https://oi682.photobucket.com/albums/vv190/doublenguyennguyen/doublenguyennguyen001/camou%20BQ_zpsa2zjiu8c.jpg

----------------------------------------------------

“Viễn giao cận công" của Nhà Tần

Thời gian 230 - 221 trước công nguyên nhà Tần dùng sách lược "Viễn giao cận công" để diệt dần từng nước lân bang, lần lượt chiếm cả sáu nước.

“Viễn giao cận công" Ở xa thì giao thiệp, ở gần thì tấn công. Đây là kế thứ 23 trong ba mươi sáu kế.

Nguyên văn là:

形禁势格,
利从近取,
害以远隔。
上火下泽。

Tể tướng nước Tần là Phạm Thư đề ra kế viễn giao cận công, theo đó với các nước gần, Tần sẽ dùng vũ lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh. Cứ như vậy Tần nhanh chóng trở thành bá chủ của cả sáu nước chư hầu, tạo điều kiện cho Doanh Chính thâu tóm các nước sau đó.

Khi Tần vương Doanh Chính lên ngôi, nước Tần đã rất lớn mạnh, có ưu thế áp đảo so với sáu nước chư hầu còn lại. Đất Tần từ phía Tây đã mở mang về phía đông rất rộng, lấy từ các nước lân cận như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở và nhà Chu (Nhà Chu bị diệt năm 249 Trước Công Nguyên).

Tần diệt Hàn
Trước tiên diệt Hàn, nước nhỏ yếu nhất ở cạnh Tần. Chỉ bằng cách dùng nội gián mà Tần buộc Hàn phải ra đầu hàng.
45 vạn quân nước Triệu đến giúp Hàn tuy đã ra đầu hàng nhưng vẫn bị giết hết. Vua Hàn Vương An bị xử tử theo hình phạt "Ngũ mã phanh thây". Sự tàn ác khủng khiếp của quân Tần khiến cho các nước chư hầu kinh sợ.

Nước Triệu
Nước Triệu duy nhất đủ sức chống Tần, nhưng do sai lầm chiến thuật mà lụn bại dần.
Tần dùng kế ly gián khiến vua Triệu giết tướng giỏi Lý Mục, vì thế quân Triệu thua phải đầu hàng, và vua Triệu bị giam cho tới chết.

Nước Ngụy
Thấy Hàn, Triệu bị Tần diệt nhanh và tàn ác thế, nước Ngụy mất hết sức chiến đấu. Kinh đô Đại Lương của Ngụy ở vào chỗ trũng; tướng Tần Vương Bôn tháo nước sông cho ngập thành làm chết 10 vạn người nước Ngụy. Vua Ngụy đầu hàng rồi cũng bị giết.

Nước Sở
Vua Sở là Xương Bình Quân, thủa nhỏ cùng sống với Doanh Chính, thân nhau lắm. Sau khi bị bức tử, Lã Bất Vi chết, vua Tần chọn Xương làm Thừa Tướng. Nhưng khi Tần cử Lý Tín đem 20 vạn quân đánh Sở thì Xương Bình Quân vẫn trở về tổ quốc mình, Xương Bình Quân đánh cho Lý Tín đại bại. Về sau Tần Thủy Hoàng cử Vương Tiễn đem 60 vạn quân đánh Sở, thì lần này Sở thua, Xương Bình Quân chết.

Nước Yên
Yên là nước thứ năm bị nhà Tần đánh. Nước Yên nhỏ yếu nên biết chắc nếu bị đánh là thua. Vả lại vua Yên vốn có tư thù với Tần Thủy Hoàng: Thái tử Đan từng phái Kinh Kha đi Hàm Dương ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành. Vua Yên hèn nhát, dâng nhà Tần thủ cấp Thái tử Đan để Tần hoãn chiếm Yên 4 năm. Nhưng cuối cùng nhà Tần vẫn cứ chiếm nước Yên rồi giết vua Yên.

Nước Tề
Tề quốc là nước thứ sáu trong "Chiến quốc Thất hùng" bị Tần "chinh phục, thâu tóm". Sau khi diệt năm nước, nhà Tần rất mạnh, khiến quân Tề sợ hãi, rối loạn. Tần Thủy Hoàng phái người đến bảo vua Tề là -- nếu đầu hàng thì sẽ ban cho 500 dặm đất. Vua Tề cả tin nên nước mất nhà tan, bản thân bị bỏ vào rừng sâu rồi cho chết đói.

Giết vua của sáu nước, nhà Tần lại biệt đãi các cung phi của họ. Ai xinh đẹp đều được đưa về ở Cung A Phòng tráng lệ làm nô lệ tình dục cho hoàng đế.

Cả sáu nước lân bang của Tần hoàn toàn bị thôn tính.



Nhà Tần chỉ tồn tại đúng 15 năm sau khi Tần Thủy Hoàng thâu tóm lục địa Trung Hoa.

Năm 206 trước công nguyên, nhà Tần cũng bị diệt vong do Hán Cao Tổ Lưu Bang lãnh đạo.

Tây An là địa điểm chôn giấu đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng.

Tần Thủy Hoàng chưa thỏa mãn: Năm 219 trước công nguyên, Nhà Tần lại sai Đồ Tuy và Triệu Đà đem 40 vạn quân vượt sông Trường Giang xuống phía nam đánh Bách Việt, chiếm vùng đất mênh mông. Khi đánh chiếm Lĩnh Nam, quân Tần gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Lạc Việt. Đồ Tuy tử trận, Nhâm Hiêu lên thay.

Đến năm 214 trước công nguyên nhà Tần mới chiếm xong Lĩnh Nam. Người Lạc Việt chạy về vùng núi phía tây, sau này gọi là người Tráng, sắc tộc thiểu số đông người nhất Trung Quốc hiện nay.

Tự xưng Hoàng đế, độc tài khét tiếng tàn bạo. Năm 210 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng chết sớm ở tuổi 49.

Sau Tần Thủy Hoàng, rồi lại đến phiên người Hán liên tục xâm chiếm các vùng xung quanh như: Lạc Việt (Quân Đông Hán đánh Hai Bà Trưng), Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Viễn Giao Cận Công

Ở xa thì giao thiệp, ở gần thì tấn công. Đây là kế thứ 23 trong ba mươi sáu kế. Nguyên văn là:

形禁势格,
利从近取,
害以远隔,
上火下泽。

Tần dùng vũ lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh.

Tể tướng nước Tần là Phạm Thư đề ra kế viễn giao cận công, theo đó với các nước gần, Tần sẽ dùng vũ lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh.

Cứ như vậy Tần nhanh chóng trở thành bá chủ của cả sáu nước lân bang, tạo điều kiện cho Doanh Chính thâu tóm sáu nước lân bang.

Khi Tần vương - Doanh Chính lên ngôi, nước Tần đã rất lớn mạnh, có ưu thế áp đảo so với 6 nước lân bang còn lại. Đất Tần đã mở mang về phía đông rất rộng, thâu tóm lấy từ các nước lân cận như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở và nhà Chu (bị diệt năm 249 TCN).

Các nước chư hầu Sơn Đông luôn bị đẩy vào thế chống đỡ, nhiều lần tổ chức liên minh chống Tần nhưng chỉ đạt được một số thắng lợi tạm thời, không ngăn cản được quân Tần đông tiến.

Tần vương tiếp tục duy trì chính sách "thân xa đánh gần", giao hảo với nước Tề, uy hiếp lấn chiếm Tam Tấn và Sở.

Nước Tề giữ quan hệ với Tần nên không ra quân cứu các chư hầu khác.

Tần vương Chính bên trong dùng Úy Liêu, Lý Tư bày mưu kế, bên ngoài dùng cha con Vương Tiễn, Vương Bí và Mông Ngao, Mông Vũ làm tướng đánh dẹp các nước.

Năm 230 TCN, Tần vương Chính dự định đi kinh lược đất Hàn. Nước Hàn trước đó bị Tần đánh bại nhiều lần, đã rất nhỏ yếu không còn khả năng kháng cự. Hàn vương An sợ hãi, vội thu hết sổ sách, địa đồ trong nước sang đầu hàng nộp đất. Tần vương chính thức thôn tính nước Hàn. Sau khi diệt Hàn, Tần vương Chính điều quân đánh Triệu.

Tướng Triệu là Lý Mục đẩy lui được quân Tần. Tần vương bèn dùng kế ly gián, sai người đút lót cho gian thần nước Triệu là Quách Khai, xui Khai gièm pha Lý Mục. Triệu U Mục vương nghe lời gièm, tin rằng Lý Mục có mưu phản, bèn giết chết Lý Mục. Tần vương Chính thúc quân đánh Triệu gấp. Năm 228 TCN, quân Tần phá vỡ kinh thành Hàm Đan, bắt sống Triệu vương Thiên.

Anh Thiên là Triệu Gia chạy lên đất Đại phía bắc xưng vương. Thái tử Đan nước Yên lo lắng nước Tần sẽ đánh tới nước Yên, bèn sai dũng sĩ Kinh Kha đi hành thích Tần vương Chính, trên danh nghĩa là dâng địa đồ đất Đốc Cương. Vụ hành thích không thành, Kinh Kha bị giết.

Tần vương Chính quay sang đánh Ngụy để hoàn tất chiến thuật diệt Tam Tấn đầu tiên trong sáu nước.

Năm 225 TCN, quân Tần hùng mạnh tấn công Đại Lương, tháo nước sông vào thành. Ngụy vương Giả không chống nổi phải ra hàng. Ngay trong năm 225 TCN, Tần vương Chính sai Lý Tín mang 20 vạn quân đánh Sở.

Lý Tín bị tướng Sở là Hạng Yên đánh bại. Tần vương Chính bèn nghe theo lão tướng Vương Tiễn, tổng động viên 60 vạn quân giao cho Vương Tiễn ra mặt trận. Vương Tiễn đánh Sở trong hai năm, đánh bại Hạng Yên, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên chạy thoát, lập vua Sở mới là Xương Bình quân lên ngôi. Vương Tiễn lại tấn công xuống phía nam, giết chết vua Sở và Hạng Yên, bình định nước Sở.

Chỉ còn hai nước Tề phía đông và Yên phía bắc. Năm 222 TCN, Tần vương sai con Vương Tiễn là Vương Bí mang quân tấn công Yên. Yên vương Hỷ sợ hãi bỏ Kế thành chạy sang Bình Nhưỡng, rồi lừa bắt giết thái tử Đan, nộp đầu cho nước Tần để tạ tội với Tần vương Chính. Nhưng Tần vương Chính vẫn hạ lệnh tiến quân, phá vỡ thành Bình Nhưỡng, bắt sống Yên vương Hỷ.

Quân Tần nhân đó tiến sang đánh đất Đại. Đại vương Gia (anh Triệu vương Thiên) bị bắt bèn tự sát. Còn lại nước Tề, vốn không quen việc chiến tranh suốt hơn 40 năm. Năm 221 TCN, Tần vương Chính lấy cớ Tề vương Kiến mang quân phòng thủ ở biên giới phía tây là hành động gây hấn, bèn sai Vương Bí mang quân từ nước Yên tiến thẳng xuống phía nam đánh úp kinh thành Lâm Tri.
Tề vương Kiến không chống nổi, phải đầu hàng.

Tần Thủy Hoàng phái người đến bảo vua Tề là -- nếu đầu hàng thì sẽ ban cho 500 dặm đất. Vua Tề cả tin nên nước mất nhà tan, bản thân bị bỏ vào rừng sâu rồi cho chết đói.

Giết vua của sáu nước, nhà Tần lại biệt đãi các cung phi của họ. Ai xinh đẹp đều được đưa về ở Cung A Phòng tráng lệ làm nô lệ tình dục cho hoàng đế.

Cả sáu nước lân bang của Tần hoàn toàn bị thôn tính.

Nhà Tần chỉ tồn tại đúng 15 năm sau khi Tần Thủy Hoàng thâu tóm lục địa Trung Hoa.

Năm 206 trước công nguyên, nhà Tần cũng bị diệt vong do Hán Cao Tổ Lưu Bang lãnh đạo.

Tây An là địa điểm chôn giấu đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng.

Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng nằm ở phía tây bắc tỉnh Thiểm Tây, lăng mộ gồm các cấu trúc trên mặt đất và ẩn ngầm dưới lòng đất với diện tích trải rộng tới hơn 56 km2, tương đương với gấp khoảng 78 lần cung điện Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh.



No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...