Saturday, April 27, 2019

Sử gia Đại Tá Phạm Văn Sơn chết trong ngục tù Việt Cộng!

 

Sử gia Đại Tá Phạm Văn Sơn chết trong ngục tù cải tạo Việt Cộng!



07 Tháng Bảy 2010

Hồ Quang

Lời người viết:

Tôi phải viết lại bài này một lần nữa cho rõ ràng hơn. Vì rằng, vừa qua cũng có những bài viết về cái chết của Đại Tá Sơn, nhưng phần chính không nói được tính khí kiên cường của Đại Tá mà chỉ nhắm vào mối liên hệ tình cảm cá nhân của hai bên với nhau...


Tôi tuy không phải là người được khiêng xác Đại Tá đi chôn (việc chôn cất tù nhân chính trị thường do nhóm tù hình sự đảm nhận vào ban đêm, nhằm khỏi gây dư luận xôn xao...) nhưng là người đưa xác Đại Tá Đại Tá Sơn từ trạm xá đến nhà Vĩnh Biệt trong khuôn viên nhà tù, do đó tôi rất rõ về cái chết của Ông ta.

***

Chúng tôi từ nhiều trại “tập trung cải tạo” thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, gồm đủ mọi thành phần “nặng ký” khác nhau, trong có cả nhà Quân Sử Đại Tá Phạm Văn Sơn đều bị chuyển xuống miền trung du, vì Trung Quốc sắp xua quân xâm lăng biên giới... Nói chung Việt cộng đã ghép chúng tôi vào loại “ác ôn” vì trong chế độ VNCH đã phục vụ ở các ngành: Tuyên Úy, Tình Báo, An Ninh Quân Đội, Cảnh Sát, Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý Chiến...

Giai đoạn này chúng tôi không còn được đi lại dễ dàng như cảnh sống trong núi rừng hồi còn Đoàn 776 thuộc Nha Quân Pháp (Bộ Quốc Phòng) Việt cộng trông coi... mà bị tống ngay vào buồng giam do công an “áo vàng” cai quản. Trên danh xưng bọn Công An Trại Giam (thuộc Bộ Nội Vụ Việt cộng) bắt chúng tôi phải thừa nhận mình là “Cải Tạo Viên” chứ không phải là “Tù Nhân”...

Ngay từ khi bước qua cổng để vào sân trại giam K1 Tân Lập, chúng tôi đã thấy một cái gì đó rờn rợn cả người. Mọi thủ tục khám xét thật là khắc nghiệt, nhìn mặt mày hầm hầm của những tên công an vừa nạt nộ, vừa đấm đá mấy tên tù “hình sự” phụ giúp việc khám xét các tù “chính trị” mới đến mà tất cả chúng tôi thầm nhìn nhau... lắc đầu!

Vài ngày sau khi bị gọi ra sân để chấp nhận sự “biên chế” mới, chúng tôi mới biết K1 là trại tù trước kia nhà cầm quyền “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” dùng để nhốt và tra khảo các thành phần “Địa Chủ, Phú Nông” ngoan cố... Ở đây có rất nhiều người đã treo cổ tự tử vì không thể sống nổi với cảnh hành hạ dã man của bọn cai tù.

Nhưng rồi chúng tôi cũng biết K1 là trại thế nào. Hôm đó lần đầu tiên trước khi các tù chính trị được xuất trại để lao động thì tên Thượng Sĩ Công An làm nhiệm vụ “Cán Bộ Giáo Dục” đã nói trước sân tù rằng:

— Tôi báo cho các anh biết, một khi đã vào trại này rồi thì phải chấp hành “nội quy” cho tốt! Ngược lại anh nào còn rơi rớt những tư tưởng phản động, chống đối “cách mạng” thì hãy liệu hồn, đừng trách chúng tôi sao lại nặng tay đối phó!... Chúng tôi cũng báo trước cho các anh biết, Trại Cải Tạo này là “trại kiểu mẫu” cho toàn quốc, nên không thể để xảy ra bất cứ một chuyện gì khiến cho các anh xao lãng trong việc “cải tạo”. Chúng tôi cũng nói thêm rằng giúp cho các anh “cải tạo tốt” là nhiệm vụ chính của chúng tôi. Vì phải làm tốt chuyện này, các anh mới sớm được đoàn tụ với gia đình, phần chúng tôi cũng một phần nào hoàn thành nhiệm vụ của Đảng,của Nhà Nước giao... Trước khi các anh được xuất trại để lao động, tôi thay mặt cho “trại” để nói chừng ấy lời, sau này có chuyện gì cứ đạo đạt thẳng với “cán bộ quản giáo” giải quyết, tôi không muốn các anh phải gặp tôi, vì tôi chỉ giải quyết những anh nằm ở khu “biệt giam” kia kìa...

Vừa nói hắn ta vừa chỉ tay về phía các hầm biệt giam ở khu cuối sân trại.

Không khí “cải tạo” do công an thuộc Bộ Nội Vụ cai quản làm chúng tôi ngột ngạt thật. Mấy ngày sau chúng tôi mới biết từ miệng các tù hình sự, các cảnh sát bảo vệ (mang súng dẫn “đội tù” đi lao động) như sau: Trại Tù Tân Lập là trại tù khét tiếng khắc nghiệt nhất tại miền Bắc, còn phân trại K1 là trại “điểm” của tỉnh Vĩnh Phú này.

Tỉnh Vĩnh Phú có hai trại tù lớn đó là Tân Lập và Phong Quan, nhưng Tân Lập lớn hơn (7 phân trại) và được Bộ Nội Vụ (Hà Nội) chọn làm trại tù kiểu mẫu cho toàn quốc.

Như chúng ta ai cũng biết chuyện “kiểu mẫu” của một trại tù dưới chế độ Cộng Sản luôn luôn phải hiểu rằng sự hà khắc, sự dã man do bọn cai tù áp dụng đối với tù nhân phải thật tàn bạo nhất mới được nâng lên làm “trại kiểu mẫu”. Phân Trại K1 Tân Lập đạt đủ các “tiêu chuẩn” gian ác đó, nên hàng năm mở Đại Hội Tù Nhân luôn được giữ lá cờ đầu. Người viết hơi dông dài về Trại Tù K1 vì chính Sử Gia Phạm Văn Sơn đã bị chết ở trại này.

Chúng tôi bị giam ở trại này từ tháng 10/1978, vì lúc đó những vùng biên giới phía Bắc là mục tiêu của quân Trung Quốc lăm le xâm chiếm. Thật không may cho chúng tôi lại bị về ngay Phân Trại K1 Tân Lập (Vĩnh Phú) này. Và quả thực vào đầu Xuân 1979, Trung Quốc đã xua quân xâm chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam để dạy cho Việt Nam Bài Học Thứ Nhất! (Lời của Hoa Quốc Phong, Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc lúc đó).

Trong số các tù nhân chính trị từ Hoàng Liên Sơn bị đưa về trại tập trung quỷ tha ma bắt này, có Đại tá Phạm Văn Sơn, tác giả của bộ Quân Sử thời VNCH, ông ta không chỉ là tác giả của Bộ Quân Sử mà còn là tác giả của nhiều bộ sách sử khác như Việt Sử Toàn Thư, được nhiều sử gia khác thán phục.

Mặc dầu bị nhốt cùng chung cùng một trại, nhưng lúc đầu anh em chúng tôi chưa biết hết nhau lắm, còn đối với Cộng Sản thì chúng quá rõ về lý lịch từng người chúng tôi. Họ phân chia chúng tôi thành nhiều đội theo “tội trạng” để nhốt chung vào một phòng và là Nhà (Phải gọi là “nhà” chứ không được gọi là phòng vì gọi “nhà” để phân biệt với “phòng” chỉ dùng cho “phòng giam”, phòng biệt giam”... Trong chúng tôi có nhiều người đã mỉa mai:

— “Phòng hay nhà gì cũng thế, cũng để nhốt tù chứ có gì khác đâu!”.

Câu chuyện chỉ nhằm vui tếu như thế thôi, nhưng nếu đến tai công an thì dĩ nhiên người đó phải bị “viết kiểm điểm”, nếu bị ghép vào tình trạng “nghiêm trọng” thì phải bị vào “phòng biệt giam” thật chứ không được ở trong Nhà Số... nữa rồi.

Phòng giam tập thể, hay nhà giam gì đi nữa cũng đều được bao bọc bởi bốn bức tường kiên cố, trần phòng giam được rào chằng chịt bởi những lớp kẽm gai, tất cả che khuất bằng tấm “pla - phông” cứng cáp. Các cửa sổ của phòng giam đều có những song sắt ngang dọc có đường kính chừng 18mm. Phòng giam tập thể nào cũng có một lối đi chung ở giữa, dọc theo tường của phòng là một dãy sạp dài hai tầng dùng làm chỗ ngủ cho tù nhân. Mỗi phòng giam chứa khoảng 200 tù nhân, tính trung bình mỗi tù nhân có chừng 0.4m bề ngang để nằm, do đó các tù nhân thường nằm ngược đầu nhau mới có thể cựa mình được.

Lúc đầu thì Đại Tá Sơn cũng như các anh em khác ở chung trong đội lao động. Chừng nửa tháng sau, không hiểu tình hình thế nào mà Đại Tá cùng Cha Thịnh (Đại Tá Giám đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo), Mục Sư Kỳ (Đại Tá Giám Đốc Nha Tuyên Úy Tin Lành) và một người khác nữa tôi quên tên bị đưa vào phòng “cách ly”. Để giải thích chuyện này, Công An Trực Trại K1 Tân Lập nói rằng: Để tránh “lây lan” cho các “cải tạo viên” khác, nên người này phải được cho ở riêng... Trên thực tế, Mục Sư Kỳ bị vàng da, Cha Thịnh bị bệnh “đồi mồi” loan đốm ở vùng môi và cằm, Đại Tá Sơn cũng bị bịnh này nhưng nặng hơn (khắp cả tay chân mặt mày), bọn cai tù cho đây là bệnh “phong cùi”, người còn lại ở đâu chuyển về, lai lịch không rõ, anh em chúng tôi ai biết...

Bệnh trạng chỉ có thế nhưng đều bị đưa ra giam riêng biệt với người lạ mặt, chính cá nhân tôi rất nghi ngờ... Trong tù chuyện nghi ngờ việc làm của Ban Giám Thị Trại là việc ngu xuẩn, nên có nghi ngờ thì chỉ để bụng mà thôi, nếu đem tâm sự với người khác, biết đâu chừng lại tự đưa mình vào tình trạng cách lý nặng hơn: “Biệt Giam”.

Tôi có hỏi một cán bộ y tế (Chuẩn Úy Công An lo về y tế trại Tân Lập) khi đến công tác tại trạm xá tù K1:

— Thưa Ban (đây là câu nịnh hót rất được lòng các tên công an cấp nhỏ, vì với cấp bậc ấy anh ta chỉ được gọi là cán bộ mà thôi. Ban chỉ dùng cho cấp “thủ trưởng” như Trưởng Trại chẳng hạn), các anh ấy có cần cho người vào dùng nước muối để rửa mụn ghẻ hằng ngày không ạ? Biết đâu chừng nó hết bệnh ngay đấy!

Tên Công An nói với tôi:

— Tình trạng các anh ấy không gì đâu, nhưng dầu sao cũng phải “cảnh giác”... chúng tôi lo cho các anh bị lây đấy thôi...

Rõ ràng chuyện bệnh tật của bốn người này chỉ là một trong trăm ngàn lý do mà Việt Cộng áp dụng nhằm ngăn cách những người nguy hiểm nhất trong tập thể anh em tù chúng tôi, vì sau khi gom bốn người đó vào với nhau rồi, họ thấy việc làm quá trơ trẽn nên mới đưa thêm một Thiếu Úy Ngành Quân Báo còn trẻ, bị mụn nhọt làm thối ngón út của bàn chân trái, vào ở chung để lý giải danh xưng “bệnh cùi” cho hợp lý.

Phòng “cách ly” bây giờ gồm năm người sinh hoạt chung với nhau, không được phép ra ngoài, đến giờ cơm nước, tù hình sự mang đến, không cho bất cứ tù chính trị nào lai vãng lại gần, mặc dù phòng cách ly này không phải là phòng kỷ luật (Phòng kỷ luật là một cái hầm nổi, xây gạch kiên cố, chật hẹp, chứa tối đa hai người, thiếu ánh sáng, có hệ thống cùm chân bằng các khoanh sắt hình móng ngựa). Tôi xin được giải thích thêm chỗ nầy là tại sao bọn công an cai ngục không cho tù chính trị lai vãng tới gần phòng cách ly mà tôi lại được đến nơi đó... Thường thì sau giờ tất cả các tù nhân theo “đội” đi lao động, toi ở nhà đi kiểm soát vệ sinh từ phòng giam này qua phòng khác nên lén tiếp xúc với những người trong phòng cách ly thì rất dễ dàng. Nếu gặp công an Việt cộng thì nói là mình trên đường đi xem vệ sinh tại phòng cách ly xong mới ghé vào “đội” Nhà Bếp (anh nuôi) để kiểm soát vệ sinh tiếp (Trại K1, Tân Lập, lúc mới về có phòng cách ly sát vách với khu nhà bếp, về sau dời xuống sau lưng trạm xá).

Chúng tôi biết rất rõ là -- không phải vì lý do “lây lan” mà Việt cộng nhốt cách ly các vị này lại mà là vì cố tình ngăn ngừa các mầm mống có thể gây nguy hiểm về an ninh của trại giam (những người này đều là những người lãnh đạo tinh thần nên lời nói của họ rất có giá trị đối với anh em tù nhân)...

Đại Tá Phạm Văn Sơn là tác giả của bộ quân sử, ông có trình độ hiểu biết cao về lịch sử, về mọi diễn biến của quân đội Việt Nam qua từng thời đại một cách rõ ràng. Riêng môn “Sử Học”, Việt Cộng cho là quan trọng vào bật nhất ở bất cứ thời đại chính trị nào. Sau khi ra khỏi tù, tôi có đọc những sách sử do Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng viết, họ đánh giá rất cao về công trình nghiên cứu bộ Quân Sử VNCH do Đại Tá Phạm Văn Sơn viết.

Ngày hai buổi, trong khi anh em tù nhân chính trị khác làm kiếp lao động khổ sai, thì trong phòng “cách ly”, bốn vị “bự” này phải viết kiểm điểm, nhất là Đại Tá Phạm Văn Sơn, ông phải trả lời hết mọi câu hỏi mà Việt Cộng (cán bộ chấp pháp trung ương từ Hà Nội về làm việc) đặt ra, gọi là lấy khẩu cung, nhưng thực chất họ có dụng ý muốn tìm hiểu để học hỏi thêm.

Thường thường cứ mỗi ba tháng, Ban Giám Thị trại giam có tổ chức vài ba ngày học tập gọi là “bồi dưỡng chính trị” là anh em chúng tôi đã thầm nói với nhau: “Lại phét nữa rồi”. Tôi nhớ rõ, mỗi lần “được” lên giảng đường để nghe “cán bộ bồi dưỡng chính trị” là mỗi lần chúng tôi thấy khỏe hơn, vì khỏi lên rừng phá nương, ra rẫy đào hốc trồng sắn, xuống ruộng thay trâu kéo cày kéo bừa... Và còn vui hơn nữa, là được phát biểu cảm nghĩ về nội dung bài học. Chính những lúc phát biểu như thế này, chúng tôi mới có dịp biết được sự thiếu hiểu biết của họ.

Trong anh em chúng tôi, có người vì muốn qua loa cho xong chuyện, nên khi được phát biểu đã làm đúng như sách vở, nghĩa là làm đúng theo nội quy thứ tự:

— Xác định tư tưởng (đứng về phía cách mạng, an tâm tin tưởng vào đường lối chính sách, v. v...).

— Học tập tốt, lao động tốt, phấn đấu đạt chỉ tiêu từng ngày từng giờ.

— Chấp hành nội quy không bao giờ sai phạm mặc dầu chỉ là một lỗi nhỏ.

— Chuyển biến: Đã làm được những gì trong học tập cải tạo vừa qua, phát huy những mặt tốt, khắc phục và luôn luôn phấn đấu vượt qua những tồn tại, biết kiểm điểm bản thân mình và bạn cùng nhau giúp đỡ cải tạo tốt... Cũng có những anh em tù chơi trội hơn trong mô hình trên ở mục liên hệ bản thân, mục đích duy nhất là vạch trần sự thiếu hiểu biết của cấp cán bộ giảng dạy chính trị Việt Cộng bằng cách đặt ra những chuyện nghe thật hấp dẫn của thời VNCH, như trường hợp Trung Tá Phan Lạc Phúc (tức Ký giả Lô Răng, hiện ở Úc)... phát biểu trong buổi học tập tám điều áp dụng cho “tù hàng binh”:

- Tôi có đọc một bài bình luận ở báo chí phương Tây hồi trước giải phóng, thì việc chia nhau quyền lãnh đạo thời “Mỹ - Ngụy” có thể gồm ba giai đoạn...

— Giai đoạn 1 là giai đoạn Chí Sĩ lãnh đạo,
— Giai đoạn 2 là giai đoạn Tướng Sĩ lãnh đạo, và
— Giai đoạn 3 là giai đoạn cuối đó là giai đoạn Tiến Sĩ...”.

Một sự ngạc nhiên đến cho toàn hội trường, phe ta thì biết ngay anh chàng đang dùng đường quyền “duy vật sử quan” để “logic”/hợp lý cách phịa chuyện của mình. Riêng các tên cán bộ Việt Cộng há hốc mồm nhìn bạn Phúc gật đầu. Tối hôm đó, bạn Phúc ta bị một phen hết hồn vì có một tên mũ cối đến cửa sổ phòng giam, với một giọng trịch thượng gọi lớn vào:

— Anh nào là Phan Lạc Phúc! Ra đây tôi bảo.

Đêm khuya mà nghe có công an gọi mình, anh chàng Phan Lạc Phúc có vẻ hơi run định giả vờ như không nghe thấy... thì một bạn tù cùng phòng, nằm sát cạnh cửa sổ đã gọi tiếp:

— Phúc ơi! Cán bộ gọi anh kìa!

Không tránh được nữa, Phúc đành bước tới gần cửa sổ, hỏi:

— Thưa cán bộ, cán bộ cần gì ạ?

— Anh là Phan Lạc Phúc?

Tên công an gắt giọng.

Nghe nạt nộ, Phúc hơi run, nhưng vẫn trả lời:

— Dạ đúng tôi đây...

Tên công an dõng dạc ra lệnh:

— Đây là cây đèn cầy, mấy tờ giấy, trong đêm nay anh phải dùng mấy trang giấy nầy viết hết những gì mà anh phát biểu phần liên hệ bản thân sáng nay... Sáng mai đưa sớm cho tôi trước khi đi lao động...

Phúc hú hồn, một tay cầm cây đèn cầy, tay kia cầm mấy tờ giấy đi về chỗ nằm... Thấy một người bạn nằm kế cạnh Phúc buột miệng nói:

— Thần khẩu buộc xác phàm rồi đó ông nội ơi!

Một chuyện khác nữa, đó là chuyện của bạn Nguyễn Văn Diệp (Khóa 3 BTV ố CSQG đang ở San Jose, USA), cũng tại một buổi “bồi dưỡng” khi đứng trên bục giảng để lên lớp, tên cán bộ muốn dò xem thử trình độ hiểu biết về triết học của các “sĩ quan ngụy” như thế nào, hắn ta nhìn xuống anh em tù nhân, hỏi:

— Này nhá, các anh có biết từ “Tiếp Thu” đến “Nhận Thức để có thể Chuyển Biến tốt” phải cần có yếu tố gì làm cầu nối?

Tên cán bộ vừa dứt câu trả lời, Diệp liền đưa tay phát biểu. Chờ sự đồng ý của hắn ta, Diệp dõng dạc:

— Thưa cán bộ, phải cần có yếu tố “tình cảm”!

Nói dứt câu, Diệp ngồi xuống, không cần chờ kết luận của tên công an đặt câu hỏi đố. Thấy câu đáp của Diệp quá chính xác, tên này khen rối rít, vì anh ta không ngờ trình độ của sĩ quan “ngụy” lại cao và giỏi đến thế, nhưng anh có biết đâu về cách chơi chữ “tình cảm” của Diệp (chơi chữ như thế nào thì độc giả cứ hỏi thẳng bạn Diệp, vì chỉ có anh ta mới trả lời chính xác câu nói này).

Trái ngược lại, đối với Đại Tá Phạm Văn Sơn, anh không bao giờ được phát biểu bất cứ điều gì để cho mọi người cùng nghe, có chăng chỉ xảy ra riêng tư giữa ông ta với viên chấp pháp mà thôi...

Cuộc sống của năm người cùng “phòng cách ly” vẫn ngày tháng trôi đều, cơm 9kg/tháng, chia làm hai bữa cho một ngày (tiêu chuẩn này áp dụng cho những người bị kỷ luật). Trên thực tế, tiêu chuẩn 9kg đã không bảo đảm cân lượng mà còn bị thay thế bằng sắn (củ mì) khô và bo bo, bắp hạt... tuổi già nếu cứ nhắm mắt nuốt đại vào, thì sẽ bị rách cuống cổ như chơi, chưa nói khi chúng rớt vào dạ dày sẽ không tiêu được, nên khi thải ra ngoài vẫn còn nguyên dạng...

Trưa, tối, bọn hình sự đem cơm tới, mỗi sáng thì ghé xem bên trong có ai bị việc gì không, tiện thể lấy phân để đem nó ra bón rau cải ở khu lao động, thỉnh thoảng năm ba ngày tên cán bộ trực trại cho họ đi tắm một lần trong giếng gần “đội nhà bếp” (tù nhân đi lao động bên ngoài thì thường ngày tắm rửa ở các hố nước nuôi cá, trâu tắm, sau khi đã rửa sạch các thúng gánh phân người để bón cây trồng trong ngày hôm đó)... Cha Thịnh, Mục Sư Kỳ thì trầm ngâm hơn, lâu lâu thở dài cho đoạn ngày đoạn tháng của cảnh tù đày, riêng Đại Tá Sơn thì viết liên tục, những bài viết của ông được bọn Việt Cộng cất giữ kỹ, không một ai được xem, ngay cả những người cùng buồng.

Mấy tháng trôi qua, một hôm cán bộ Việt Cộng phát hiện trong bài viết về lịch sử, khi so sánh hai chế độ “tù” thời VNCH và thời XHCN, họ cho đó là một việc làm “đại phản động hay cực kỳ phản động” gì đó... nên Ban Giám Thị Trại Tân Lập “đặc biệt chiếu cố” bằng quyết định “mật” cho anh Sơn vào ngay hầm biệt giam tại K1. Tất cả anh em chúng tôi khi vi phạm điều gì đều bị gọi tên ra trước sân, tên công an làm cán bộ trực trại đọc lệnh giam: bị giam kỷ luật... ngày: cùm một chân, hay cùm hai chân”, tùy theo mức độ vi phạm nhẹ hay nặng... trước sự chứng kiến của toàn thể tù nhân trong trại hôm đó. Riêng trường hợp Đại Tá Sơn thì quá đặc biệt, ngay cả Cha Thịnh và Mục Sư Kỳ cũng không biết nốt. Cả hai vị này khi gặp tôi chỉ nói rằng:

— Họ chuyển ảnh đi đâu mất rồi, vì có đem theo hết tất cả đồ dùng cá nhân... Ngay như tôi lúc đầu cũng không biết, mặc dầu tôi được thay mặt anh em làm trong “ban thi đua” phía bên tù chính trị, thường hay đi kiểm tra vệ sinh khắp các phòng giam trong trại...

Tôi xin mở ngoặc về “Ban Thi Đua” của trại tù K1 Tân Lập một chút:

— “Lúc đầu thi đua chỉ gồm toàn tù hình sự, họ đa số phạm những tội như cờ bạc, trộm cướp, hiếp dâm, giết người, bộ đội, cán bộ nhà nước hủ hóa, tham nhũng... Mọi sự đối xử của họ đối với chúng tôi mang tính dã man, vô học, gây nhiều phẫn nộ luôn được bọn cai tù “bật đèn xanh”. Nhờ có sự bê bối của các tên tù như Phú, Ninh trong Ban Thi Đua ăn chận bớt thịt cá làm hụt phần cấp cho các tù chính trị, bị anh em “đội nhà bếp” kêu ca, cán bộ quản giáo của đội này cho bắt quả tang Ninh và Phú lấy thức ăn cất giấu nơi ở của hai hắn ta (chuyện này bạn Hoàng Xuân Lưu lúc đó làm Đội Trưởng đội Nhà Bếp biết rất rành, và anh ta cũng bị phạt kỷ luật lây). Thấy nhóm hình sự có những hành động gây tác hại lớn cho việc an ninh của trại, nên Trại thấy cần phải có những “thường trực thi đua” là người bên nhóm tù chính trị mới tránh khỏi xung đột có thể gây án mạng giữa hai nhóm tù này. Lúc đó tên Thượng Sĩ Công An Bổn (cán bộ Giáo Dục trại) - người chủ trương không để tù nhân chính trị làm thi đua được đi “bồi dưỡng” nghiệp vụ ở Trại Hà Tây (chứ không phải được đi học bên Liên Xô) nên tên Thượng Sĩ Công An Hồng lên thay, chấp nhận tăng cường ba tù nhân chính trị làm thường trực thi đua (Lúc đó đã được bảy tháng từ khi K1 Tân Lập đảm nhận việc nhốt tù chính trị chúng tôi). Ba người được tăng cường đầu tiên là tôi và Kính (CTCT) và Lập K5-BTV/CSQG. Cường (K3-BTV/CSQG, hiện ở Canada) thì được tên Nhàn (Trưởng Ban Thi Đua) xin thêm để làm phần hành “văn hóa” (thay thế cho Hùng hình sự hay đánh các tù nhân khác) chứ không phải thường trực thi đua (việc này có ký giả Nguyên Huy - Nhật Báo Người Việt biết). Thời gian sau. thường trực thi đua được tăng cường thêm LV Đàn (Trung Tá Nhảy Dù), Cường thì được đưa về K3 (Tân Lập), tôi thì bị đưa về Trại Giam Hà Tây tiếp tục “cải tạo”. Từ đó trở đi tôi không còn biết gì về hoạt động của thường trực thi đua ở K1 Tân Lập nữa...

Nhàn là một tên “đâm thuê, chém mướn, lừa đảo, cờ bạc”. Tên này vẫn làm Trưởng Ban Thi Đua để kèm kẹp chúng tôi, hắn biết rõ việc của Đại Tá Sơn (y là người đưa cơm hàng ngày cho Đại Tá Sơn khi bị cùm trong phòng biệt giam, vì công an Việt cộng không tin tù chính trị như chúng tôi). Thấy tên Nhàn này hay rù rì với Cường, nên tôi đâm ra nghi ngờ... Với Cường thì tôi không thể tìm hiểu được rồi, vì lỡ đổ bể chuyện gì thì anh ta bị cùm ngay mà tôi cũng vạ lây, thôi thì phải tìm biết mọi chuyện cần biết nơi Nhàn khi có dịp thuận tiện...

Một hôm Nhàn than phiền với tôi:

— Cái tên Sơn này cứng đầu... từ hôm bị biệt giam đến nay không chịu ăn chịu uống gì cả, lại còn phóng uế bừa bãi, linh tinh... thối chịu “đếch” được!

Thấy có cơ hội, tôi nói ngay:

— Thế anh đưa cơm hằng ngày cho hắn ta, hắn ta có chửi mắng gì anh không?

— Anh ta đâu có thèm nói năng gì mà chửi với không chửi... Chỉ cái tội viết bậy mà vào cùm nên khổ thân đấy thôi! Các anh bảo nhau mà liệu hồn!

— Tôi nghe nói khi ở phòng cách ly, anh ta được viết những gì đúng theo cán bộ yêu cầu kia mà?

— Thì đương nhiên phải đúng yêu cầu, nhưng diễn ta mặt tích cực thì được, đằng này cứ phanh phui chuyện tiêu cực thì hỏng ngay...

Tôi giả vờ:

— Như thế nào là tiêu cực? Anh cho tôi biết để còn giữ mình có thể cải tạo tốt không chỉ riêng bản thân mà còn giúp anh em khác nữa chứ!

Nghe tôi hỏi có lý, tên Nhàn vênh mặt có vẻ như một cán bộ công an khi lên lớp cho các tù nhân:

— Anh ta khờ lắm! Viết gì không viết lại viết bài có nội dung đem so sánh hai chế độ tù giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Xã Hội... còn đem chuyện gian trá trong việc trao trả tù binh của hai bên ra phân tích... Chơi kiểu này thì chết thôi con ạ!

Chừng bốn ngày sau, tôi giả bộ đi ngang qua khu cấm này gọi là coi xem có vấn đề gì cho an ninh trại hay không (tôi có báo cho tên cán bộ trực trại biết; tên này dặn thêm: Anh phải cẩn thận chứ “tên Sơn” khá nguy hiểm đấy nhé), cũng từ câu nói của tên này, tôi mới xác quyết rằng Đại Tá Phạm Văn Sơn đang bị phạt kỷ luật.

Làm bộ như đang đi lo việc quan sát phía bên ngoài các phòng kỷ luật, nhất là ở các lỗ có song sắt và lấy tay giật giật thử có còn chắc hay không, cái nào bị mục cần thay để có cớ báo lại cho tên trực trại, hoặc tình hình có ai “quan hệ” với những người bị kỷ luật (đa số là bọn hình sự) hay không?

Nhìn quanh thấy không có ai, tôi nói nhẹ vọng vào:

— Anh Sơn, em là Q. đây, anh khỏe không? Đói lắm không? Em vứt vào nửa cái bánh bột nhé!

Giọng thật nhỏ, yếu, vọng ra:

— Q. đó hả?

(Sở dĩ anh Sơn, Cha Thịnh, Mục Sư Kỳ biết tôi vì hồi họ chung sống tại khu cách ly, tôi là người hay đến nói chuyện, lại nữa âm thanh lời nói của tôi cũng dễ nhận, nên bên trong dầu không thấy người cũng an tâm vì “không thể trao thân lầm tướng cướp” được).

— Tôi không cần gì cả, đừng vứt vào, bọn chúng đến kiểm soát thì chết cả lũ, ráng phải lo giúp các bạn khác nữa... Hôm nay đã bốn ngày tôi nhịn ăn rồi, ít hôm nữa thì anh sẽ rõ những việc tôi làm, anh mau đi khỏi đây, và từ nãy giờ coi như anh chưa lại chỗ tôi, và cũng đừng nói với ai là tôi đang ở đây, nếu lỡ việc ra thì anh sẽ bị nguy, mà ngay chính tôi cũng không thể thực hiện ý nguyện của mình...

Tôi rón rén bước về phía các phòng giam khác để gọi là đi kiểm soát tổng quát... Sau giờ xuất trại đi lao động chiều hôm ấy (Trại đang cho các đội thi đua nhau đào hốc trồng sắn), một tên tù hình sự đến nói với tôi:

— Chú à, cháu đề xuất với chú chuyện này khó khăn thật đấy, nếu vỡ ra thì cháu chết ngay, nhưng nếu không nói thì không được.

Tôi bảo ngay:

— Mầy lại lèng èng chuyện gì đây, linh tinh nữa phải không? Nhanh lên kẻo đến giờ tao phải phát dầu cho các buồng rồi đây!

Tên hình sự ngập ngừng:

— Vâng ạ, vâng ạ! Chú Sơn bảo chú cho chú ấy xin tờ giấy trắng, còn cháu thì có cây bút chì để chú ấy viết cái gì gì ấy mà...

Tôi như điếc cả hai lỗ tai, không biết nghe có lầm không, nếu nó gài mình thì ngày mai lại phải vào cùm, nếu nó thật lòng thì mình phải làm sao đây? Tôi giả vờ nạt nộ một hồi, xong nói tiếp:

— Thôi, tao không giải quyết được việc gì đâu, tao bận lắm, mầy ở đây coi văn phòng giúp tao một tí, đừng cho giấy tờ trên bàn gió bay lộn xộn, và không cho bất cứ ai sờ vào món gì cả nghe chưa? Tao phải xuống bệnh xá một tí là về ngay!

Nói xong tôi đi thật vội, không dám nhìn lại cho đến khi phải trở về lấy dùi trống đánh lên ba tiếng gọi các “trực sinh” (danh xưng dùng cho những tù nhân lo việc vệ sinh, cơm nước cho anh em tù khác ra ngoài lao động) của các phòng đến nhận dầu về thắp trong đêm, chủ yếu để có lửa hút thuốc lào...

Ngoài ra, trong đêm, có ánh sáng leo lét của ngọn đèn tuy làm bằng vỏ chai cưa cổ, nhưng cũng giúp được nhiều việc như rủi có anh em nào đau nặng, cần cấp cứu là phải hô to: “Báo cáo cán bộ, phòng X có người đau nặng, xin được cấp cứu”. Hô to lên như vậy nhiều lần cho tới khi các tên cán bộ vào mở cửa thì anh em mới có thể thấy đường để khiêng người bệnh lên trạm xá. Nếu bệnh quá nặng thì để lại luôn tại trạm xá, nếu bệnh nhẹ hơn thì chỉ nhận hai viên “xuyên tâm liên” rồi phải khiêng trả lại phòng giam ngay.

Nói là “trạm xá” cho oai thôi, chứ thật ra cũng vẫn là một phòng giam bị khóa cửa cẩn thận như mọi phòng giam tù khác. Có nhiều anh em tù chính trị được cấp cứu trong những đêm như vậy, sáng hôm sau đã phải vĩnh viễn ra đi, có khi ngay tại trạm xá, đôi khi ngay tại phòng giam chung. Nói chung, tù chính trị chết nhiều hơn tù hình sự. Gần hai năm bị giam tại trại Tân Lập, tôi chưa gặp một trường hợp nào tù hình sự bị mạng vong cả.

Hai ngày sau nữa (Tổng cộng sáu ngày), tên cán bộ trực trại gọi tên Nhàn (Trưởng Ban Thi Đua) đưa hai tù hình sự khỏe mạnh khiêng Đại Tá Sơn từ phòng Kỷ Luật xuống trạm xá (lúc đó đã 8g tối, các tù nhân khác đã vào chỗ ngủ). Màn đêm xuống, từ lâu... Tại trạm xá chả có thuốc men gì để giúp cho Đại Tá Sơn khỏe lại mặc dầu biết Đại Tá kiệt sức vì nhịn đói lâu ngày... Thế rồi Đại Tá bắt đầu đi vào mê sảng... Đến 2g sáng hôm sau, Đại Tá Sơn được đưa về lại Phòng Cách Ly cùng với Cha Thịnh, Mực Sư Kỳ, nhưng lúc này ông ta yếu lắm rồi, không nói được lời nào với các người chung phòng. Tình trạng dần dần đi vào mê man... cho đến 8 giờ sáng hôm sau.

Thường thì 7 giờ 30 sáng tên công an làm cán bộ trực trại vào mở cửa phòng cách ly để những người này làm vệ sinh cá nhân, sau đó phải vê than đá bột lại thành từng nắm vừa trong hai bàn tay, đem phơi khô để những người bạn tù thuộc đội nhà bếp lấy về đun bếp. Công việc “vê” than này chỉ dành riêng cho 5 người trong phòng cách ly mà thôi. Hôm đó anh chàng Thiếu Úy Quân Báo, sau khi làm vệ sinh cá nhân xong, thấy Đại Tá Sơn quá yếu sợ để nằm trong phòng sẽ ngộp thở vì thiếu không khí, nên đã đề nghị mấy người còn lại phụ khiêng Đại Tá Sơn ra bên ngoài bên đống than đang “nắm” dở... để hưởng chút không khí trong lành. Lúc đầu Đại Tá còn gượng ngồi được giống như một người đang làm việc “nắm” than như nhiều người khác...

Ngoài sân trại, lệnh xuất trại đi lao động được tên công an trực hách dịch ban hành, thì cũng là lúc Đại Tá không còn ngồi nổi nữa, ông gục mặt trên đống than dang dở, và bất động... Cũng đúng lúc đó anh tù chính trị làm ở nhà bếp Nguyễn Văn An (BTV Khóa Rạch Dừa) đem xe cải tiến đến... Thay vì chở than về đun bếp, anh ta phải dùng ngay xe nầy để chở Đại Tá Sơn lên trạm xá cấp cứu... Khi vượt qua sân trại thì đúng vào lúc chỉ còn một đội tù cuối cùng xuất trại, những người đi sau ngoái đầu nhìn ngơ ngác, không biết chuyện gì đã xảy ra... An kéo Đại Tá Sơn đến trạm xá, những người tù trong này chạy ra để phụ khiêng vào cấp cứu... lúc đó Đại Tá đã tắt thở rồi...

Đại Tá Phạm Văn Sơn đã vĩnh biệt anh em như vậy đó!

Khoảng 11 giờ trưa khi tất cả các tù nhân còn đang ngoài bãi lao động, thì xác Đại Tá Sơn được nhóm tù hình sự và tôi đưa đến “nhà vĩnh biệt”, một cái chòi mái lợp tranh, vách tô bằng đất sét nhồi với rạ do chính anh em tù chúng tôi dựng lên phía Tây đằng sau khu nhà giam của chính mình.

Những bộ quần áo tù rách nát, vá víu chằng chịt được khoác thêm vào người anh Sơn để gọi là tạm ấm khi phải trở về lòng đất lạnh. 8g tối, các phòng giam của khu tù chính trị được khóa cẩn thận, thì cũng là lúc chiếc hòm bằng cây “vông đồng” sần sùi, tồi tàn đựng xác Đại Tá được đặt trên xe “cải tiến”, một loại xe do một người kéo, hai người đẩy, có nơi còn gọi là xe “cộ” (hình thức giống hệt như chiếc xe dùng cho trâu, bò kéo nhưng nhỏ hơn), do bốn tên tù hình sự kéo đẩy đi. Họ chôn anh Sơn cạnh bên kia bờ suối nhỏ, phía bên này là một rừng sắn đang tươi tốt cao ngang lưng, thành quả lao lao động bằng máu và mồ hôi trong những ngày khổ sai của số người còn sống sót...

Tin về cái chết của Đại tá - sử gia Phạm Văn Sơn được giữ kín. Điều này chứng tỏ đã không có sự bình thường như mọi lần trước khi có một trong những anh em chúng tôi ra đi.

Đại Tá Sơn nằm xuống yên lặng như thế, nhưng mọi việc còn lại gây nhiều chấn động không phải chỉ trong anh em tù với nhau mà ngược lại có sự bàn tán, tranh luận... thể hiện ngay trong nội bộ của bọn chỉ huy trại Tân Lập (K1). Trưởng Trại Tân Lập tên Thùy (Thiếu Tá Công An), phải tức tốc từ K5 (Trại trung ương của Tân Lập) đến K1 tìm hiểu sự việc. Việc xì xầm với nhau giữa các tên Việt Cộng trực trại, giáo dục, hàng quản giáo, an ninh, về phía tù nhân có tên Nhàn (Trưởng Ban Thi Đua) cùng nhau bàn bạc tìm biện pháp đối phó... Nhờ những tên tù hình sự “phục dịch cán bộ” (lo cơm nước, giặt giũ áo quần...) về thuật lại, tôi mới biết được chút ít:

- Đó là nội dung lá thư viết bằng bút chì trên một trang giấy “tự túc” (giấy màu vàng ố do tên hình sự tự ý lấy tại phòng thi đua mà tôi nói trong trường hợp nêu trên; dĩ nhiên việc này chỉ có tôi và tên tù hình sự ấy biết mà thôi, nhưng bảo tôi là người cung cấp giấy thì không thể có bằng chứng được, hắn ta tự lấy trong lúc tôi vắng mặt kia mà). Trong thư Đại Tá Sơn nói rằng: “Xin các ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi phải nhân đạo, những hình thức dã man như vừa qua đã áp dụng hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây trong lịch sử sẽ nguyền rủa...”.

Sau biến cố này, bộ mặt sinh hoạt tù khác hẳn, kỷ luật nghiêm ngặt hơn. Về phía ban thi đua được tăng cường thêm 2 người tù chính trị làm trật tự, các đội trưởng phải chịu trách nhiệm hết mọi hành vi của đội viên mình trong mọi nhất cử nhất động; ăn uống thì ấn định rõ ràng (vì trước đó tên cán bộ lo về phần bếp núc của anh em tù, đã trừ quá nhiều vào sự hao hụt bằng cách tự phân phối lương thực thực phẩm hàng tháng theo ý riêng của hắn ta! Tên này bị thay thế bằng một tên khác).

Bên ngoài tuy phải áp dụng hình thức lao động khổ sai như cũ, nhưng bên trong bọn Việt Cộng đã ngầm bảo nhau cần nhẹ tay hơn. Trước đó, việc nấu nướng riêng tư không cho phép, nay thì có lệnh mỗi tù nhân vào sáng Chủ Nhật có thể xuống bếp trại để hâm lại những thức ăn riêng, nhưng phải biết chia nhau giờ giấc tránh cảnh gây ồn ào xáo trộn.

Hôm nay ngồi suy ngẫm lại chuyện cũ thì cái chết của Đại Tá Sơn nào có khác gì những anh hùng Nguyễn Tri Phương (Thà nhịn đói chịu đau mà chết chứ không bao giờ khuất phục giặc Pháp), Hoàng Diệu (Lên thành treo cổ tự vẫn chứ không đầu hàng)... Đại Tá Phạm Văn Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho các anh em tù nhân chính trị khác được hưởng đúng theo quy chế của một tù binh theo luật quốc tế, tuy kết quả không như ông mong muốn, nhưng dầu sao cũng làm cho những anh em còn sống được dễ thở hơn...

Với lá thư gởi cho Đảng và Nhà Nước XHCN - nhờ Trại Tân Lập chuyển, nội dung hoàn toàn được bọn Việt Cộng giữ bí mật, nhưng tên Nhàn lỡ lời vì bị sập vào bẫy moi tin do tôi gài. Với thời gian 20-21 năm trôi qua, tôi chỉ nhớ đại khái:

“Xin các ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây trong lịch sử phải ghi thêm vào đấy vết ô nhục mãi ngàn đời sau cho dân tộc Việt Nam... vì đã có một thời mà người cộng sản từng đối xử dã man ngay với đồng bào, đồng loại của mình!” (Thực ra câu này, tôi chỉ viết dựa theo ý chính của tên Nhàn, còn nguyên văn thì không cách nào cá nhân tôi có thể xem được).

Đại Tá Sơn chịu chết để cho anh em chúng tôi sống...

Viết bài này với ước mong có thể thay mặt cho các anh em cùng sống chung với Đại Tá - sử gia Phạm Văn Sơn tại trại K1 Tân Lập, xin được thắp nén nhang vái linh hồn Đại Tá luôn được siêu thoát.

Trường Xuân Phu Tử

Hồ Quang

Viết lại vào ngày 18/5/2010

https://hung-viet.org/a127/su-gia-dai-ta-pham-van-son-chet-trong-nguc-tu-viet-cong

 

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...