Năm 1985, tôi viết xong hai tập hồi ký Thép Đen I & II. Hai năm sau mới tìm được nhà in và phát hành. Năm năm sau Thép Đen tập III mới ra đời. Từ khi Thép Đen I & II được in đến nay đã 15 năm. Trong thời gian đó phần vì sức khoẻ, phần vì gánh nặng gia đình, tôi hầu như không viết lách gì, cũng không sinh hoạt báo chí gì cả. Nhưng thật ngạc nhiên, cứ thỉnh thoảng tôi nhận được một lá thư độc giả nói về Thép Đen. Cả thảy có hơn 300 lá thư. Đài phát thanh Việt Ngữ Quê Hương ở Bắc Cali, Đài Sống Trên Đất Mỹ ở Nam Cali… cho đọc Thép Đen. Có cả những đài cho đọc mà tôi không được biết, chỉ biết do thính giả quen. Bây giờ thì ngoài sách Thép Đen, còn có cả băng audio và đĩa CD Thép Đen nữa.
Trong hân hạnh ấy, tôi tự hỏi làm sao mà Thép Đen được đón nhận như vậy? Trước và sau Thép Đen có biết bao hồi ký về lao tù và thời cuộc. Có nhiều bí mật chính trị được phanh phui. Bao nhiêu vị tướng lãnh thuật lại những giai đoạn gay go của đất nước. Bao nhiêu nhà văn tên tuổi ghi lại những cảnh sống tù đầy mà nếu không có văn chương tài năng, khó có thể nói lên những trạng huống cũng như cảm xúc day dứt và cùng cực. Trong khi đó tôi chỉ là một điệp viên không tên tuổi, thi hành một công tác giới hạn, hầu như bị bịt mặt trước thời cuộc, cũng chưa bao giờ viết văn, và ngoài Thép Đen cũng chưa viết gì đáng kể. Hỏi bạn bè, mỗi người cho một ý kiến. Cuối cùng tôi đoán rằng, ngoài một số yếu tố về văn mà Thép Đen cùng góp phần với các tác phẩm khác, có lẽ tính xác thực một cách mộc mạc của Thép Đen đã lôi cuốn độc giả suốt mười mấy năm nay chăng? Có độc giả gửi thư sửa cho tôi số nhà ở phố Hàng Bạc. Có người nhận là vợ của một trung tá cho tôi biết rõ nhiều chi tiết của sự việc ngày ấy v.v… Nhiều độc giả hỏi cô Vân bây giờ ra sao?
Nếu các độc giả muốn biết về cô Vân ra sao một phần, thì tôi muốn biết đến một trăm phần, và không phải chỉ có cô ấy mà là tất cả cảnh cũ người xưa của 40 năm trước. Tôi mơ ước có một ngày được về rờ những bức tường xà lim, cái cùm chân và cùm mồm. Tôi khát khao được nhìn thấy cô Vân để tìm xem cô còn những nét gì ngày xưa, và cô còn nhớ tôi không. Tôi muốn được tay bắt mặt mừng với những bạn tù, nếu họ còn sống, để ôn lại những ngày bị đầy đọa trong kiểu tù đầy chắc chỉ còn sót lại cuối cùng trong bước tiến hóa của con người nhân tính từ thế kỷ này.
Đã gần 20 năm, tôi chưa về được. Nhưng may cho tôi, có một vị linh mục trẻ và một bạn trẻ độc giả đã lần theo giai đoạn của Thép Đen để đến tận nơi, ghi lại bằng hình ảnh, và quí nhất một anh chị bạn đã gặp “người muôn năm cũ”, của đất Hưng Yên nhiều mầu mỡ, còn thu vào băng hình video mang về cho tôi. Xin quý vị tha lỗi, nếu tôi nói rằng, không ai có thể hiểu hết được tôi sung sướng đến mức độ nào! Có đến vài tháng trời, tôi như sống trở lại những ngày xưa ấy, chỉ trừ không có cái xà lim và không có cùm.
Cho nên, một phần để đáp lại sự đón nhận của độc giả, một phần Thép Đen những lần in trước đã không còn, tôi quyết định cho tái bản với sự bổ sung nhiều hình ảnh mới có được. Một điều ngạc nhiên cho chính tôi là, cũng như viết văn, tôi chưa hề vẽ bao giờ, vậy mà chỉ bằng trí nhớ, tôi vẽ được cái cùm mồm, cùm chân, xà lim… trong khi viết Thép Đen gần giống như cái hình chụp bây giờ, cả về hình dáng cũng như kích thước. Vậy, chính vì tính xác thực tạo nên sự hấp dẫn và thuyết phục cho Thép Đen thì lần tái bản này, tôi hy vọng có thể góp thêm vào sự xác thực ấy.
Sau hết, tôi xin cảm tạ vị linh mục trẻ, anh chị bạn thân và một độc giả thanh niên nhiều nghĩa tình. Đã giúp tôi giải tỏa được phần nào nỗi niềm trong lòng tôi.
Boston ngày 29 tháng 10 năm 2002.
Đặng Chí Bình
– Tựa –
Trong xà lim Hỏa Lò của Việt Cộng, người tù bị cùm hai chân trên bệ xi măng, bề ngang chừng 65 phân. Cùm sắt dầy và lạnh, được đóng đai kiên cố để nghiến chặt cổ chân của nạn nhân. Hai tay bị xiềng ngược ra sau, nên tù nhân phải nằm nghiêng. Và dịch, lết ra mép sàn xi măng để giải quyết nhu cầu vệ sinh, phân rơi vãi tung toé ra khỏi mặt bô đặt dưới đất. Ngày này qua ngày khác, nạn nhận bị liệt cả hai chân, và sống trong hôi thối ẩm mốc của xà lim như một con thú.
Nhưng nạn nhân còn cái mồm, nghĩa là còn được một chút tự do có giới hạn của những tiếng thều thào, những lời rên xiết, hay những tiếng la hét chưởi rủa.
Và khi đó, một vật dụng kỳ quái tượng trưng cho nền dân chủ ưu việt của chế độ Cộng Sản mới được đem ra áp dụng. Đó là cái cùm mồm. Bằng sắt, có bắt đinh ốc và lò xo, để khóa cứng hàm nạn nhân. Để người tù không thể chửi chế độ, chưởi lảnh tụ hay la hét gì được nữa. Người tù đã nêu đích danh Hồ Chí Minh ra chửi, ngay giữa Hỏa Lò Hà Nội, để mong được giết, hoặc được bắn, để sớm chấm dứt cảnh dở sống dở chết của mình. Nhưng Việt Cộng, chúng không nóng ruột hấp tấp như vậy, chúng đã phát minh ra cái cùm… mồm.
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Câu nói mới thấm thía và khốn nạn làm sao!
*
Trong dãy xà lim, tù nhân được một con chuột nhắt, gầy bé như ngón tay, chui vào thăm.
Trong tù, ngoài đá, mồ hôi và máu kết đen trên nền xi măng, còn có gì để quyến rũ một con chuột? Vậy mà con chuột đã chui vào, bị bắt, chạy thoát, rồi ít bữa sau lại bò vào. Vì ở bên ngoài, trong vùng tự do của súc vật, nó đói. Trong nhà tù, nó con hy vọng mong manh là tranh hạt cơm với người tù bị xiềng, bị liệt.
Mỗi ngày, người tù để dành vài hạt cơm cho người bạn bốn chân này. Đấy là cõi giải thoát của người tù, một chút tình cảm san xẻ với một con vật xấu số, để thấy là mình vẫn còn sống.
Con chuột nhắt này cũng có tội, nó đã bị tên công an quản giáo lấy chân di chết. Trong Hỏa Lò tù nhân không có một sự giải thoát nào, dù chỉ bằng cách kết bạn với một con chuột nhắt đã bị bẻ răng.
Không có gì quí hơn độc lập tự do. Câu nói mới hiểm độc và ghê khiếp chừng nào.
*
Cũng trong Hỏa Lò, tù nhân được biết đến một người đã có hình ảnh nổi tiếng thế giới. Người anh hùng Điện Biên, trong Đại đội năm xưa đã hồ hởi cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy của de Castrie. Anh đã kết thúc cuộc đời vẻ vang của anh trong Hỏa Lò, như một tù chính trị. Tội của anh là đã lầm tưởng những điều Việt cộng nói là sự thật. Không, điều đó chưa phải là một cái tội. Tội của anh là đã nêu lên câu hỏi về sự thật đó. Người bộ đội gốc tiểu tư sản yêu nước này, là một điển hình của biết bao người khác đã vỡ mộng và chết kẹt, giữa những điều đảng nói và những điều đảng làm. Bị nghiền nát không âm vang.
Trong Hỏa Lò, điều ghê rợn nhất chính là sự im lặng. Đời sống im lặng và cái chết im lặng. Tất cả đều âm u một mùi tử khí của nghĩa địa. Và, khác biệt giữa sự sống và cái chết có khi chỉ là một tiếng thở nhẹ trong xà lim số 7, không ai hay biết. Làm sao con người có thể nghe thấy cái chết khi bị bao vây giữa đám quỷ sống.
Cũng vì vậy, dù chẳng được ai nói, chỉ qua những dấu vết còn ghi trên mặt đá, người tù cũng được biết nơi đây đã có thời cùm hãm Thụy An. Nhà văn nữ một thời nổi tiếng vì cái chết tức tưởi của nhà cách mạng Đỗ Đình Đạo. Cũng tưởng là mình có công với chế độ.
Trong Hỏa Lò Hà Nội, có rất nhiều người đã tưởng lầm như vậy. Họ là cán bộ, là đảng viên, là thường dân, là trí thức… Họ là chiếu rọi của xã hội bên ngoài, với những điển hình kinh hãi như dưới một ống kính hiển vi. Chỉ vì tưởng lầm.
*
Tác giả thì không nhầm lẫn về bản chất chế độ. Ông là người đã di cư vào Nam thời Genève. Ông được huấn luyện bởi Cục Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tung ra Bắc hoạt động. Ông là một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối, đã tìm ra tới Hà Nội, để thi hành những điệp vụ, cho đến nay vẫn còn được giữ bí mật.. Công tác vừa hoàn tất, thì ông bị bắt. Năm đó là năm 1962, thời mà miền Nam chúng ta vẫn còn mù mờ về thực trạng miền Bắc. Mười tám năm tù đã cho ông một kinh nghiệm hiếm có.
Ông đã sống, và đã thấy tận mắt với cái nhìn tỉ mỉ, những cảnh tượng, tưởng chỉ có thể xảy ra trong trí não một người bất bình thường. Một cuốn phim kinh dị được dựng lên bởi nhiều tên đạo diễn bịnh hoạn. Toàn thể chế độ Việt cộng, và trong đáy sâu của Hỏa Lò, đời sống lao tù Việt cộng, và kết quả những phát minh ghê khiếp nhất.
Nếu sự thực có vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta, chỉ vì chúng ta đánh giá sai chế độ Cộng Sản, đánh giá sai cái bệnh quỷ quái của chúng.
Điều đáng nói ở đây, tác giả Đặng Chí Bình, bút hiệu hay bí danh điều đó thực không quan trọng, đã không đi vào một cuộc thi đua kinh tởm. Nghĩa là không phải nhớ lại, hay nặn ra những chi tiết ghê người nhất. Sự thật bình thường vốn đã đủ làm ta khiếp hãi…
Tác giả Đặng Chí Bình không phải là một nhà văn. Ông chưa khi nào cầm bút viết văn. Và, chính như ông tâm sự “Trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác”.
Ông chỉ bị thúc giục phải thực hiện một bản di chúc sống cho những người hiện vẫn kéo lê kiếp sống trong lao tù Việt cộng. Ông phải viết để nhắc nhở mọi người là dưới ánh mặt trời, vẫn còn một cõi mờ mịt u tối của chế độ Việt cộng phi nhân. Ông muốn thắp một ngọn nến nhỏ để soi vùng quỷ dữ, để vuốt mắt những người đã gục ngã vì đại nghĩa dân tộc, để vuốt ngực cho những người đang ứa máu bầm gan trong gông cùm Việt cộng.
Chính vì ông không muốn làm văn chương, mà chỉ viết theo ký ức được lần giở như tháo dần một cuộn chỉ từ đầu tới cuối, hồi ký của ông mới làm ta khiếp sợ. Tất cả ngôn ngữ ông dùng, lối nhìn lối nói, và cả cách đem chính mình ra hồn nhiên châm biếm. Tất cả bút pháp của ông đều phản ảnh một điều: Ông nghĩ sao, và nhớ thế nào thì viết ra như vậy. Có cái gì đó làm ta muốn run bắn lên trong cách ông thản nhiên kể lại câu chuyện.
Hơn hai mươi năm đã qua rồi. Ông bình thản lần giở cuộn chỉ của đời mình trong tù… Những tiếng rên xiết, tiếng người tra tấn người, tiếng xích lê trên sàn đá, và cả sự yên lặng cuồng nộ vẫn vang lên từng nhịp, theo giòng chỉ kéo dài từ những ngày tháng âm u của cõi chết.
Ông không làm văn chương, nhưng khi văn của ông mới làm ta rùng mình.
*
Tuy nhiên, điều đáng nói nhất trong hồi ký vẫn chưa phải là những mô tả về vùng đất của quỷ. Điều làm ta sững sờ nhất cũng không phải là sự sống trong cõi chết âm u, mặc dù sức phấn đấu của con người vẫn làm ta bàng hoàng theo từng trang sách.
Điều đáng nói, và đây là sự kỳ diệu nhất của tập hồi ký, chính là sự trỗi dậy của tình người trong thế giới của loài thú.
Ngay trong Hỏa Lò, đêm đêm tù nhân vẫn biết là có ai đó kín đáo qua lại giúp đỡ họ. Nhiều khi chỉ là một câu hỏi thăm ngắn gọn, lạc giọng, hoặc một tiếng thở dài thông cảm. Hay một mẩu thuốc lào được luồn qua kẽ cửa, để giúp người tù cầm máu… Vào giờ đó, chỉ có quản giáo canh giữ Hỏa Lò mới được đi lại bên ngoài. Người đó là ai? Tù nhân không biết, chỉ biết là trong đám quản giáo, vẫn còn có người có được một chút nhân tính, và lặng lẽ làm cử chỉ của con người. Lặng lẽ thôi, nếu không, chính họ sẽ bị đổi vị trí, từ ngoài vào trong xà lim.
Việt cộng muốn biến con người thành loài thú. Nơi chúng có thể thành công nhất, chắc phải Hỏa Lò Hà Nội. Nhưng, cũng tại nơi đây, tác giả đã sống và đã thấy sự chiến thắng của loài người. “Cộng sản không thể nhuộm đỏ được hết tâm hồn loài người”. Ông kết luận như vậy.
Và ông đã nhìn ra rất đúng. Vì công tác của ông chỉ có thể hoàn tất, khi ở miền Bắc có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, từ những năm 1960. Một vị linh mục, một người bác sĩ, một thiếu nữ áo nâu quần ka ki… Và biết bao nhiêu người anh hùng vô danh khác. Ngay cả những người nông dân hồn hậu, những nạn nhân hàng đầu của chế độ Việt cộng, họ sống chật vật trong cảnh tăm tối mà vẫn có những hành động chói sáng tình người…
Sự kiện Đặng Chí Bình đã trải qua tuổi thanh xuân trong một thế giới thú vật, và đã trở lại nguyên vẹn cùng chúng ta, với những mô tả tinh nghịch, những lời nói thành thật về những lầm lẫn của chính mình, với những phê phán rất bình thản và độ lượng về thói xấu của con người, sự kiện đó cũng chẳng là một điều kỳ diệu sao?….
Ông là người đã đội mồ sống dậy, và cái sống nhất trong tác phẩm của ông, chính là cái chất “người” mà nhiều khi ông đã sợ mất, nhiều khi ông đã thấy mất ở nơi khác…
Cũng vì vậy, Thép Đen là một tác phẩm lớn. Không chỉ ở nội dung, tình tiết, mà còn ở ý nghĩa rất nhân bản của tác giả. Xin cảm ơn Đặng Chí Bình, đã tranh đấu để tồn tại, để vượt thoát, và để ghi lại cho chúng ta sự thắng thế của loài người trên loài quỷ.
(Lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến, năm 1987)
– Tâm Sự Người Viết –
Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ tới lại có một ngày ngồi viết câu chuyện của đời tôi. Từ bối cảnh của đất nước, do những xô đẩy của giòng đời, tôi đã nhận một nhiệm vụ nhỏ bé để xâm nhập vào đất địch, và tôi đã rơi vào tay kẻ thù. Như vậy, trước sau gì tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có gì đáng kể lại cho người khác. Hơn nữa, một số bạn bè thân quen còn ngăn cản tôi đừng viết.
“Anh hãy lo cho cuộc đời của anh trước đã, đời anh đã khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, tác phẩm của anh rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác, của những người đã đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ, không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ còn phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày và lo cho tương lai, họ đâu còn quan tâm đến những chuyện đã qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi tìm một công việc làm nào đó, là thực tế nhất.”
Nhìn vào thực tế, rồi nghĩ lại hoàn cảnh tỵ nạn của mình, tôi thừa nhận những lời khuyên của bạn bè là xác đáng, và tôi đã xông vào cuộc đời mưu sinh. Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm sự trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thấp thỏm không yên về quê hương đất nước và đời sống, bao nỗi giằng co vò xé, gậm nhấm cõi lòng. Những tiếng kẻng của nhà tù Cộng Sản, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh, quấn chặt hồn tôi:
Thoảng nghe “phôn” réo bên tai,
Giật mình tưởng kẻng sớm mai nhà tù!
Hình ảnh những bộ xương vẫn còn di động trên chốn lao trường, những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu; dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn những tiếng rên xiết quằn quại trong đêm dài tăm tối… Và những cặp mắt khát khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như đang khẩn nài, gào thét, đòi hỏi tôi phải thực hiện “bản di chúc sống” của họ.
Tôi biết, dù mình sức hèn tài mọn, nhưng vẫn còn may mắn hơn biết bao các bạn bất hạnh còn lại trong tù. Cho nên, tôi tự cảm thấy mình đang khoác lấy một trách nhiệm, mang một bổn phận – nếu có thể được phép nói như vậy – để vuốt mắt cho những người đang uất hận, ứa máu bầm gan trong gông cùm xiềng xích của bè lũ cộng nô Hà Nội.
Tôi ước mong tập hồi ký nhỏ mọn này, sẽ là một ngọn nến nhỏ trong trăm ngàn ngọn nến to lớn khác, được thắp lên trong mờ mịt u tối của chế độ phi nhân Việt cộng. Nếu đốt được ngọn nến đó. Dù leo lét, tôi cũng cảm thấy vui sướng đã thể hiện được phần nào trách nhiệm của mình đối với “bản di chúc sống” kể trên.
Lời chót, tôi chỉ biết lần lượt tường thuật lại sự việc, như tháo dần một cuộn chỉ ra từ đầu đến cuối. Và, vì vấn đề an ninh cùa năm, bẩy người đặc biệt, nên tôi bắt buộc phải đổi tên và địa điểm sống ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Cũng từ ý thức tôn trọng sự thật, kính mong quý vị thông cảm và tha thứ.
Chiều nay, một nguồn vui bất ngờ làm xôn xao cả trại. Do
tinh thần lao động hăng say của các toán, Ban giám thị mua về cho cả trại hai
con lợn, mỗi con nặng hai mươi lăm ký và đặc biệt chiều nay cơm không độn.
Nguồn tin rộ ra khi đã
xuất trại rồi vậy mà nó lan tràn rất nhanh ra khắp các toán ở ngoài rừng cũng
như trong lán thủ công.
Nhiều con “phe” đã thập thò, thì thầm đặt hàng mua bán,
đổi chác cái món ăn tuyệt vời mà từ Tết tới giờ hơn ba tháng rồi mới có. Ngay ở
trong lán, mùi hành, mùi tỏi từ phía nhà bếp trại lách vào trong gió theo nhau
ra cả đến chỗ người ta làm mộc. Nhiều anh, dù đang cưa, bào đục đẽo cũng phải
ngửng lên hếch mãi cái mũi lên cao hà hà, hít hít, mắt sáng long lanh nhìn nhau
như muốn nói: đấy…có ngửi thấy không?
Phần tôi, dù đang cắm
cúi bào mấy cái mặt ghế đẩu sồn sột, trong lòng vẫn cứ nhấp nhổm tính. Ngay từ
mấy ngày trước, tôi đã nhìn thấy mấy cây ngò gai của bác Chánh trồng bên cạnh
gốc cây muồng cụt phía sau lán vernie. Dứt khoát bằng mọi giá tôi phải ngoại
giao để kiếm được hai lá về để “xịa” vào mấy miếng thịt chiều cho đời lên hương
sắc. Nhưng cho đến khi toán về, khi vào qua cổng trại, một mùi thơm của thịt
thật lạ lùng, nó nồng nồng, ngái ngái phả khắp đó đây. Anh em vẫn khẩn trương
hơn mọi khi như thôn, làng chuẩn bị vào đám. Nhưng cũng có nguồn tin đang được
rỉ tai: “Thịt lợn chết ấy mà”. Mới nghe, mọi người có vẻ hơi buồn một chút,
nhưng rồi hầu như mọi người lại gượng vui chấp nhận: “Có còn hơn không”.
Nguồn tin càng gần đến
giờ lấy cơm lại càng bành trướng to mãi ra rồi đẻ dài ra nhiều chi tiết cụ thể:
“Ân huệ chó gì đâu, mấy con lợn này là của cán bộ mua từ miền xuôi lên. Trời
thì nóng, xe thì chậm chạp cũ kỹ nên lợn bị chết đã từ hai ngày ở dưới Hải
Phòng. Cán bộ quyết định mổ, lấy ruột ra rồi nhân những thùng mắm cùng mua về
cho cơ quan, đem hai con lợn chết ướp vào đấy trên đường về cho thịt khỏi hư.
Nhưng có lẽ hai con lợn chết đã lâu, thịt đã ươn nên dù có ngâm vào thùng mắm,
nó vẫn có cái mùi khăn khẳn. Chính vì thế, ngoài cơ quan cán bộ không ăn, nhưng
lại không muốn mất tiền, cho nên mới bán lại cho bếp trại.
Đấy là lòng thương yêu
của ban giám thị!
Dù đã nghe mọi người rì
rầm bàn tán như thế, nhưng hầu hết anh em do thèm khát, thiếu đói lâu ngày nên
đều nhất trí: có mà ăn là tốt rồi! Vả lại thịt đã được ngâm mắm lại càng thơm
càng đậm đà.
Nhưng chả hiểu đường
dây báo cáo “chó chết” nào cũng thật nhanh và nhậy. Chỉ mới đến lúc ba tiếng
kẻng rống lên ở cổng trại báo hiệu giờ hạnh phúc, giờ lấy cơm của anh em đã
điểm. Anh em đang ồn ào, chen chúc nhau chạy túa về phía nhà bếp thì tên Đức,
thiếu úy trưởng ban giáo dục và tên Cẩn trực trại từ phía cổng hộc tốc đi vào
nhà bếp. Một tin lại làm tê điếng lòng mọi người: nghiêm lệnh đột xuất của ban
giám thị, bắt đem toàn bộ số thịt lợn đó đi chôn. Lệnh giao cho thiếu úy Đức,
trưởng ban giáo dục trực tiếp thi hành triệt để.
Lần này trong trại còn
xôn xao hơn cả buổi trưa, kêu trời chửi đất râm ran lên như vịt đẻ. Người ta
kéo nhau ra đầy sân, đầy cửa đứng nhìn mấy anh tự giác gánh gồng, cuốc xẻng do
cán bộ áp giải đem thịt đi chôn. Mọi người nguyền rủa, căm thù tên gian tặc nào
đó đã báo cáo. Nó ngu quá, khôn như người ta thì hãy để ăn xong rồi hẵng cáo
cầy, để bây giờ nhỡ nhàng chỉ có cơm trắng với muối rang. Câu chuyện thịt chết
đến đó vẫn còn chưa xong.
Hai hôm sau, vào ngày
Chủ Nhật. Trời đã vào Hè, nắng chang chang. Buổi trưa, không hiểu sao trong
trại nhiều nhặng xanh thế? Buồng nào nhặng xanh cũng kéo vào như đàn ong. Đuổi
chúng cũng không bay đi, lại cứ xấn cồ vào trong buồng. Một cái mùi tanh tanh,
khăn khẳn buồn nôn, cái mùi của thịt chết lâu ngày nồng nặc trong khu trại.
Ngửi thấy cái mùi này, tôi lại liên tưởng đến cái mùi thịt của những xác chết
ươn đã nhiều ngày ở nghĩa địa Đô thành trong ngày binh biến 11/11/1960, và cái mùi
của chiếc chân thối của vị linh mục ở Cassô, Hỏa Lò ngày nào. Chẳng còn ai ngủ
trưa được nữa, người ta dậy để đuổi nhặng, và mọi người mới hiểu được nguyên
nhân: có những đường dây ngầm, móc ngoặc giữa tự giác với con buôn và người có
tiền. Họ đã bí mật đào lấy mấy bọc thịt lợn chôn về, lén lút bán một đồng một
cóng bơ sữa bò. Nhiều người có tiền ở các toán đã bắt mối nhau mua. Người mua,
chủ trương sẽ cho nhiều muối vào kho mặn rồi giấu kỹ để ăn dần. Nhưng có lẽ một
phần vì thịt lợn chết đã quá lâu, đã ươn rữa, phần khác, muối đâu có thể kiếm
được đủ dễ dàng. Vả lại, người ta cũng chả ngờ được những con nhặng chó chết,
mũi thật tuyệt vời. Người ta đã đậy kỹ, giấu mãi trong rương, trong bọc vậy mà
chúng cũng đánh hơi thấy nên đã lăn xả vào con mồi.
Oan khổ hai anh tự giác
vừa mất chân béo bở, lại vừa phải nằm nghỉ ngơi, nhưng bụng rỗng ở trong nhà kỷ
luật. Mọi người đã mua thịt đều phải tự giác đem ra, không tự giác cũng không
được vì những con nhặng sẽ tìm ra ngay; hơn nữa còn bị áp lực gắt gao của những
người nằm bên cạnh không mua thịt. Tuy vậy, do quá thèm khát lâu ngày và do
tiếc đồng tiền đã bỏ ra nên đại đa số đã ngấu nghiến nhai vụng, nếm ngầm, nuốt
bớt để rồi đi ỉa chảy trở thành cái dịch kiết lỵ cho hơn hai chục người trong
trại. Cuối cùng ba người đã phải đền mạng vì đợt thịt chết này là: Trần Đóa, một
ông quận trưởng già ở Nam Định thuộc toán 4, Nông A Dzìn và Lò Đót thuộc toán
6. Trong cuộc đời có nhiều cái chết thật rẻ và cũng thật vô duyên!
Thời gian thấm thoát
thoi đưa đã chảy dần vào cái Hè oi ả của tháng 6 tháng 7. Cái tháng của mặt
trời đốt khô cảnh vật, nhưng cũng có hôm nước đổ ào ào trong những trận mưa
rừng dằn dỗi làm ngập lụt cả đường đi. Tôi đã được chuyển lên tổ mộc của Phan
Thanh Vân hơn hai tháng rồi. Vân đã tận tình truyền dạy tay nghề cho tôi, phần
khác, do tự tìm tòi học hỏi thêm ở những người thợ vững tay nghề khác, cho nên
tôi đã làm được bàn và giường cá nhân khá về kỹ thuật cũng như về năng suất.
Ông cán bộ Kích, quản giáo toán đã đổi đi nơi khác hơn một tháng rồi. Phải nói tôi
rất có cảm tình với ông Kích, tuy theo cộng sản nhưng vẫn giữ được ít nhiều cái
bản tính bộc trực, thẳng thắn của người miền Nam gốc Long Xuyên. Một buổi,
chính ông đã gọi tôi lên phòng; trong những câu chuyện trò, hỏi han vẫn có một
sợi tơ tình luồn lách, lẩn quất bên trong. Ông đã nói ý cho tôi: “cứ lao động
vừa thôi thì tôi cũng đã được ăn 18 kg rồi, phải biết giữ sức mình.”
Đây là một ý tưởng rất
hiếm, rất quý của một cán bộ trở thành đến lạ lùng nên tôi không thể quên được
ông. Ngược lại, tên cán bộ toán mới này, y cũng là người miền Nam tập kết,
nhưng tôi không biết quê quán ở đâu. Hơn một tháng nay từ khi về nhận toán 2, y
năng nổ đi sâu, đi sát các khâu và mọi phạm nhân trong toán. Y tận dụng mọi
thời gian luôn luôn thúc giục tù làm việc. Họp hành, kiểm thảo phê bình càng
được tăng cường về cả nội dung cũng như thời gian. Tên y là Sỹ, cũng chỉ có cái
lon trung sĩ từ mầu đỏ gạch đã phai đi thành cái mầu lá chết. Da y đen thẫm mầu
bánh mật, hai má hóp lại nên đôi gò phía trên gồ ra đối với chiếc cằm nhọn làm
cho cái mặt y choắt lại. Nét mặt y như vậy là thể hiện nội tâm của một con
người suốt ngày đêm lo toan, tính toán để làm sao vươn cao, nổi bật hơn người
chung quanh. Tôi tin rằng những ưu lo của y đã cuốn chặt cả vào những giấc ngủ
ban đêm và bữa ăn của y ban ngày.
Một loại người như vậy,
thì sống ở bất cứ một cái tập thể nào thì cũng làm phiền toái, gây ra nhiều bực
dọc cho cái tập thể đó mà thôi. Ngoài xã hội thì kích bác, ghen ăn, ghen ở, tức
ở, thủ đoạn, nịnh bợ. Trong nhà tù thì tất yếu sẽ làm chó không sai. Người như
vậy mà có quyền hành thì thật là khốn khổ cho toán 2 chúng tôi trong giai đoạn
này. Tôi nhớ một nhà tư tưởng có nói một câu: “Một tội ác nghiêm trọng của loài
người là lại giao quyền hành vào trong tay một kẻ ngu.”
Chẳng hiểu tên Sỹ ác ôn
này đề xuất, phát kiến sao đó; y lọc chọn toán 2 ra một bộ phận chính gồm toàn
những anh trẻ khỏe hơn 30 người. Y đặt cái tên cho cái nhóm này là: “đội mũi
nhọn tiên phong”. Số già yếu còn lại của toán gồm gần hai chục người ở lại lán
làm việc do một tên công an vũ trang quản lý. Số già yếu này phải nhận một phần
việc gấp 2 lần để thay cho đội “mũi nhọn” phải nhận một công việc đột xuất đặc
biệt.
Hơn hai năm trước,
khoảng giữa năm 1966, lúc này chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ bằng không
quân đang được mở rộng. Vào một buổi chiều thứ Bẩy, những đoàn tù lũ lượt gánh
gồng những sản phẩm như ngô, khoai, sắn ở ngoài đồng về kho trại (trại chính).
Chiếc kho này gồm 3 căn nhà xây ngay cạnh trại. Trời trong xanh, phía Đông dăm
ba chùm mây trắng lững lờ, ngắc ngư theo gió mò về phía mặt trời lặn. Hai chiếc
máy bay trên cao tít, lẫn vào trong mây, chẳng hiểu đi bắn phá mục tiêu ở đâu
bay trở về. Có thể mấy anh phi công Mỹ nhà mình, nhìn thấy mấy khu nhà bên
ngoài trại giam lại có mấy cái nhà xây. Trong khi, khu nhà của ban giám thị và
khu công an vũ trang cũng như những căn nhà trong trại lại là tre, gỗ và lợp
nứa. Các anh có biết đâu rằng, đối với công an kho lương thực là quan trọng
nhất, nên phải xây gạch để bảo trì; cho nên các anh đã sà xuống ngắt chơi cho hai
quả bom nhẹ, loại 100 pounds, vì tưởng đấy là lũ người coi trại.
Kết quả cả ba căn nhà
kho đều đổ nát, 18 người tù được tha bổng, sáu người bị thương. Riêng phía công
an chết 5 tên, có một nữ cán bộ đang ở tuổi trăng tròn, hơ hớ tuổi xuân. Thế là
tù được lệnh phân tán di chuyển về các phân trại. Nhà tù ở cũng được rỡ xuống
đem gỗ cất giấu. Riêng có năm căn nhà dài được rỡ về, xếp thành mấy đống lù đù ở
cạnh tại E hiện nay, vẫn bao lợp bằng nứa đan.
Bây giờ giữa năm 1968,
Mỹ đã tuyên bố hạn chế bắn phá. Do thế, đội mũi nhọn được lệnh chuyển tất cả
những cột, kèo gỗ lạt của 5 căn nhà đó trở về trại xây. Đường từ trại E ra trại
xây chỉ khoảng 4 cây số nhưng nhiều ngoắt ngoẻo, dốc đồi.
Hầu hết số biệt kích,
gián điệp ở trong Nam ra đều được chọn vào cái đội “mũi nhọn” chết người này.
Kể cả Đinh Sơn, tổ trưởng, tổ kỹ thuật và Nguyễn Huy Lân toán trưởng cũng không
thể thoát cái lệnh quái ác của tên Sỹ. Tên Sỹ đứng ốp ngay tại đống gỗ. Cột cái
bốn người trong người kia, ai cũng phải vác những cái mà tên Sỹ nhìn được.
Hai tên bộ đội vũ trang
áp giải cũng thật vất vả. Chúng cũng phải chạy theo những người mang vác. Phần
vì mang vác nặng thường phải chạy nhanh một đoạn đường để nghỉ dăm phút cho đỡ
đau vai. Phần khác, cũng do tên Sỹ thúc ép quát tháo, giục chạy ở phía sau.
Buổi sáng một chuyến, chiều một chuyến; như vậy cả đi và về tất cả 4 lần, tức
16 cây số mỗi ngày. Cái điều đáng sợ là phải triệt để thực hiện khẩu hiệu: “đi
có về có” của tên Sỹ. Ở gần trại chính khoảng 500 mét, có mấy đống củi gỗ lớn
chẳng hiểu có từ bao giờ. Vì thế, sau khi khênh, vác gỗ làm nhà vào trại chính
xếp gọn ghẽ, lại trở ra chỗ đống củi, vác củi về trại E cho bộ đội và cán bộ
thổi nấu và sưởi về mùa Đông.
Tuy được bồi dưỡng đặc
biệt, anh Lý A Chén, tự giác toán, được quyền mỗi ngày đào 30 kg sắn, bóc vỏ,
luộc để đội “mũi nhọn” ăn thêm cho có sức lao động. Bóc vỏ rồi luộc, chia ra
thì mỗi người cũng được 7 lạng sắn chứ có ít đâu. Ngày đầu ai nấy đều hăm hở ăn
hết, nhưng những ngày hôm sau thì đã có nghiều người nhai không muốn nuốt, chỉ
vì người quá mệt.
Tôi với Vân thường hai
người vác một cột quân. Vân cao lớn hơn tôi, nên đi sau. Kẻ trước người sau đều
è vai, mặt đỏ tía tai đẩy kéo nhau chạy. Một vài ngày đầu, ai cũng hăng say
phấn khởi, nhẩm bụng mỗi ngày có gần 1 kg sắn thì hẳn phải được ăn no. Những
ngày hôm sau, phần vì mệt, hết hơi, hết sức, phần khác, người và vai đau như
giần. Đang là một thân tù ốm yếu, hàng ngày chỉ ra lán thủ công lao động, bây
giờ mỗi ngày chạy 16 cây số, chưa nói là phải mang vác nặng nề thì ai mà không
sợ. Những ngày nắng gắt, mặt trời như đổ lửa xuống núi rừng, mồ hôi chảy tong
tong ướt đẫm cả áo quần. Những buổi mưa gió dầm dề, đường trơn lầy lội, anh
chàng Vân chỉ to xác, tôi có cảm tưởng 2 cái chân ấy, không phải là của cái
thân hình dài ngoẵng của anh ta. Nó chòng chành, run rẩy, xiêu vẹo cứ như lúc
nào cũng muốn đổ kềnh ra. Thân tôi cũng đang ngắc ngư con tầu đi, nhưng nhìn
Vân tôi cũng thấy não lòng ái ngại. Rõ ràng Vân đi không vững, có lần trượt
chân, Vân ngã xấp xuống đám bùn lỗ chân trâu, hất tung cái cột lăn ra mé đường
kéo tôi nằm ngửa hơ hơ cũng trên bùn với nước. Những lúc quá nặng, quá mệt, Vân
và tôi ghệ chiếc cột vào một bụi nứa bên đường để nghỉ. Thắc mắc, hỏi Vân, tôi
mới hiểu: anh đi không vững, một khía do bàn chân mất một ngón, khía nữa chỉ có
một con mắt nên cứ chổng chểnh chạy theo, chứ nhiều khi Vân chả nhìn thấy vũng
nước hay ổ gà. Thảo nào, những hôm đường trơn toàn bùn, Vân ngã xiêu, ngã vẹo
xoành xoạch, quần áo, mặt mũi lấm be, lấm bét. Trông mặt Vân méo xẹo, nhưng tôi
cũng chả hơn gì, chẳng qua đã là tấm thân tù rồi. Hữu thân, hữu khổ phàn nàn
cùng ai?
Được gần một tuần thì
anh Phạm Tấn Tích tổ trưởng tổ 3 ngã, bị cây cột cái đè gẫy xương sống, phải
khênh về bệnh xá trại. Dù đã có người bị thuơng nặng, nhưng đội “mũi nhọn” vẫn
bị tiếp tục duy trì cường độ lao động, cho tới xong để đạt chỉ tiêu thi đua mà
tên Sỹ đã đăng ký lập công, với cấp trên, với tổ đảng. Chỉ hơn nửa tháng trời,
mắt anh nào cũng trắng ra, má hóp vào, mặt vêu vao như sau một trận ốm nặng.
Điều vui mừng cho Vân
là sau đợt lao động của đội “mũi nhọn” này, Vân đã có lệnh tha. Vân đã được tha
ra trước án mấy tháng. Tôi vừa mừng vừa gạt được cái nỗi nặng nề, vẫn canh cánh
trong lòng. Mừng vì Vân được tha ra đúng như tôi đã lý luận dự đoán. Lòng tôi
nhẹ đi, vì dù sao chăng nữa, từ ngày tôi nhặt được 4 đồng bạc, mà tôi đã đoán
đến 90% là của Phan Thanh Vân. Bởi vậy, mỗi lần nhìn thấy Vân, lòng tôi lại gờn
gợn lên nét sượng sùng. Bây giờ cuộc đời của Vân đã được đi ra con đường rộng,
đã ra chỗ sáng, lòng tôi sẽ không còn áy náy nhiều nữa. Tuy vậy, khi viết đến
mấy giòng này, tôi chưa biết Vân đang ở đâu, nếu tìm được, tôi sẽ trả cả vốn
lẫn lời cho cái món nợ trong chốn khốn cùng của quê hương ấy.
Cho tới lúc này, tôi
tin rằng Vân cũng không thể quên tôi được, bởi vì Vân còn nhớ chăng? Đôi bát to
tráng men mầu xanh lá chuối non. Đôi bát lúc ấy là một thứ quý giá nhất đối với
đời một người tù, Vân đã dành riêng để lại cho tôi. Đôi bát ấy đã quyện chặt
nghĩa tình của Vân. Chúng đã lầm lủi, sắt son theo tôi cho đến ngày cuối ngục
tù của đời tôi.
Vân được làm công nhân
ngay trong trại I. Những tháng sau đó, đôi ba lần tôi thoáng thấy Vân mặc bộ đồ
nâu đi giăng mắc dây điện cho trại. Nghe đâu, lương của Vân mỗi tháng 36 đồng.
Rồi do những đổi thay
xê dịch của đời tù, mãi đến năm 1974 sau hội nghị Paris một năm. Lúc này tôi
đang ở trại trung ương số II Phong Quang, thuộc tỉnh Yên Bái. Tình cờ nghe mấy
em tù hình sự kể chuyện lại: Phan Thanh Vân được về Hà Nội làm công nhân, rồi
vì sao đó bị bắt lại trại I. Do sự bất mãn nên đã ương ngạnh với chính quyền mà
phải vào nhà kỷ luật. Trong nhà kỷ luật, hơn một tháng sau bị đi kiết lỵ rồi
chết. Từ dạo biết tin ấy, tôi rất buồn cho đời Vân. Chẳng thể ngờ đời một con
người đã chịu khổ cực tù đầy bao nhiêu tháng, năm cho tới khi được tha, kết quả
là như thế hay sao?
Mới đây, tôi nghe có
người nói: hiện nay Vân đang ở Pháp. Nghe tin tôi vừa bàng hoàng vừa mừng, nếu
như đó là sự thực, tôi tin rằng những ngày tới tôi sẽ tìm thấy Vân. Như vậy,
phải chăng nguồn tin Vân bị bắt lại và bị chết là do cộng sản đưa ra?
Hôm nay là Chủ Nhật,
lao động xã hội chủ nghĩa buổi sáng. Toán 2 được công an vũ trang dẫn giải dùng
dao phát quang chung quanh trại. Sửa sang buộc lại hàng rào trại. Khi lao động
xong về trại, đang lúc trại ồn ào chia cơm canh, đột nhiên phía ngoài cổng trại
lao xao, náo nhiệt hẳn lên. Một đoàn tù đến sáu, bảy chục người, già, trẻ lôi
thôi, lếch thếch gồng gánh rương hòm, chăn mùng xếp hàng theo nhau vào trong
sân trại. Bên ngoài cổng lố nhố một lũ cán bộ áo vàng. Tên trực trại Cẩn, tay
cầm quyển sổ vừa ghi điểm nhận số tù nhập trại xong, y chỉ tay quát bảo đoàn tù
vừa nhập trại ngồi xếp hàng 4 ngay tại sân. Tên trật tự Tân và tên Thái y tá
đang lăng xăng người ôm hộp con dấu, người xách chiếc sọt tiến ra đám tù thì 6
– 7 tên cán bộ khác cũng từ cổng đi vào. Tên Cẩn đứng ở đầu sân cao giọng:
- Lệnh của ban giám
thị, các anh hãy mở hết tư trang ra để cán bộ kiểm tra. Lần lượt từng anh, hết
khám người rồi lục lọi từng thứ một. Quần áo, mùng mền, cái nào chưa đóng dấu
đều bị đóng dấu. Ca, gô, bát đĩa, mỗi người chỉ được giữ lại một cái: hoặc gô,
hoặc ca và một đôi đĩa bát, còn bao nhiêu đều bị tịch thu hết.
Nhiều anh em trong
trại, tuy chưa dám đến gần đám tù mới vào nhưng từ xa, ai cũng đứng nhìn ra
mong tìm gặp người quen. Sau khi khám xong, đám tù mới được lệnh ôm quần áo vào
hội trường ngồi chờ có lệnh sắp xếp, biên chế về các toán. Lúc này, đã có một
số người trong đoàn tù mới đến, quen biết với những anh em ở trại. Họ còn đang
í ới gọi, nói, chào hỏi nhau thì Hoàng Thanh lững thững từ ngoài cổng trại đi vào.
Chỉ thoáng thấy bóng
dáng tên hung thần, hầu hết anh em ở trại đã lấm lét lủi đi hết, kể cả tôi.
Chúng tôi đã được biết đây là anh em ở trại Vĩnh Tiến chuyển về. Đám tù mới,
ngồi ở hội trường, có thể nhiều người chưa biết tiếng Hoàng Thanh, mà chỉ thấy
một cán bộ trung úy bình thường nên họ cứ ngồi trân trân nhìn. Nhưng khi thấy
anh em cũ ở trại lủi đi hết nên cũng có người chột dạ cúi xuống ngồi im.
Hoàng Thanh dáng người
cao lêu nghêu, hai tay vắt sau lưng, lững thững lách vào đám tù ở hội trường
nhìn mặt từng người cứ như nhận diện. Y thấy ai ở cổ đeo thánh giá hay mẫu ảnh,
thò tay cầm, mân mê xem rồi y giật đứt, ném mạnh xuống đất cho tên Tân đang đi
sau nhặt bỏ vào sọt rác. Miệng Hoàng Thanh nói với vẻ dằn dỗi, trách móc:
- Các anh bậy thật!
Tượng ảnh là một thứ thiêng liêng để tôn thờ. Các anh làm bậy, làm bạ thế này
mà đeo, tôi cấm các anh từ nay không được đeo nữa! Làm ô uế cả tôn giáo ra!
Cứ thế, y đã giật đứt
tượng ảnh của 3 – 4 người rồi. Những người khác vội vàng tháo ra giấu đi thì
thôi, nhưng có 2 anh, trông chừng 25 – 30 tuổi đã nói to phản kháng.
- Đây, các anh xem, cái
miếng sắt, miếng tôn thế này mà bảo là ảnh Chúa à? Đúng, nhà nước không cấm,
nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng nên nhà nước có trách nhiệm bảo vệ tôn
giáo. Bao giờ những tượng ảnh này có giấy xác nhận của tòa thánh La Mã thì tôi
đồng ý cho các anh đeo. Vả lại, quyền tự do tín ngưỡng là đối với người dân,
chứ các anh là những kẻ tội phạm rồi, mất tự do thì cũng không còn được hưởng
quyền đó nữa. Các anh hãy cố gắng cải tạo tốt, khi chính phủ tha về, bấy giờ
các anh muốn đeo gì thì đeo.
Hai anh đó (sau đấy tôi
biết) đều ở Nghệ An, là tu sĩ ở đại chủng viện tên là: Nguyễn Thanh Đương và
Trần Quốc Anh. Tuy hai anh em đều tím ruột, tím gan, nhưng trước cường quyền
hai anh đành nén, nuốt xuống những giọt máu trào, phải tưởng úa ra tai, ra mắt,
ra miệng. Vậy mà, ngay sau đó dù chưa được phân bố về toán nào, hai anh đã được
lệnh ôm chăn chiếu vào nhà kỷ luật do tên Cẩn và tên Tân dẫn đi.
Buổi chiều, toàn trại
cũng sắp xếp, chuyển đổi chỗ nằm theo bản sơ đồ chỉ định của từng toán do ban
giáo dục đưa vào. Số người ở trại Vĩnh Tiến chuyển về được phân bố về toán 2
(mộc) 12 người như sau:
- Trần Lào (Thái Lan về
nước, vượt biên) tập trung, cải tạo.
- Nguyễn Văn Gôm (phản
cách mạng) án 12 năm.
- Lê Văn Bưởi (gián
điệp) án 20 năm.
- Nguyễn Thanh Đương
(tu sĩ) tập trung cải tạo.
- Lộc Mù (phản cách
mạng) tập trung.
- Lê Liễu (đảng phái)
án 20 năm.
- Lò Văn Lui (phản cách
mạng, dân tộc Lào) tập trung.
- Hoàng Đức Tùng (Thái
Lan về nước, vượt biên) tập trung.
- Thân Lân (bộ đội tập
kết, xét lại) tập trung.
- Nguyễn Văn Tiến (phản
tuyên truyền) tập trung.
- Trần Thanh Tùng (tân
đảo về nước, vượt biên) tập trung.
- Nguyễn Văn Cường (tu
sĩ) tập trung.
Phân bổ về toán 3 (xẻ)
ở cùng buồng với toán 2 gồm 9 người, trong đó có:
- Lê Triết (em ruột Lê
Liễu) án 15 năm.
- Trần Như (phản cách
mạng) tập trung.
- Đoàn Giám (tu sĩ) tập
trung.
- Vũ Hàm (tu sĩ) tập
trung.
- Trần Quốc Anh (tu sĩ)
tập trung.
Tôi cũng bị chuyển chỗ
nằm, tuy vẫn ở sàn dưới nhưng gần sát nhà cầu, nằm cạnh bác Nguyễn Văn Tiến.
Gần tuần sau, tôi được
biết sơ lược: cục lao cải quyết định bỏ trại Vĩnh Tiến. Một số người tội nhẹ,
bị bắt đi tập trung cải tạo một cách ồ ạt năm 1963 thì tha về địa phương. Còn
lại những loại ngoan cố và án nặng được chuyển phân tán về nhiều trại khác.
Riêng chuyển về trại số I này là 68 người. Trong số những người được chuyển về
toán 2, người mà tôi chú ý nhất là anh Lê Văn Bưởi. Chúng tôi chỉ mới chào hỏi
nhau sơ sơ nhưng qua người khác, tôi được biết anh là đại úy. Một điệp viên qua
sông Bến Hải và cũng bị bắt năm 1962.
Một đồng cảnh, lại đồng
nghiệp, do đấy tôi phải lựa thế để biết về anh. Tôi nói lựa thế, bởi vì lúc này
mắt của những con chó săn đang xục xạo chờ đón ghê lắm. Hàng ngày, ai tiếp xúc
với ai, hiện tượng thế nào? Cho nên để khỏi phiền toái về sau, tốt nhất hãy
thong thả, để cho thời gian làm loãng đi đã, vội gì. Hơn nữa, kỳ này các toán,
các tổ đang khẩn trương làm việc và sắp xếp công việc của toán, của trại cho
tạm ổn theo kế hoạch. Lệnh của ban giám thị, mừng lễ quốc khánh xong, ngày 4
tháng 9 toàn trại sẽ dự lớp học tập chính trị dài ngày: “Lập công chuộc tội,
chống Mỹ cứu nước” Theo các tên các bộ, đây là một đợt học tập thật quy mô cho
toàn dân, toàn quân. Có nghĩa, bên ngoài dân chúng, các cơ quan, nhà máy cũng
như tất cả các trại giam trên toàn miền Bắc đều phải học tập lớp học đặc biệt
này.
Chỉ còn hơn một tuần
nữa đã bước vào đợt học tập. Do những yêu cầu của viết, vẽ các khẩu hiệu phục
vụ cho ngày 29 và cho lớp học, tôi lại được phân công lên lán vernie để phụ
giúp Lê Sơn.
Tôi thật vui và không
ngờ được nằm cạnh bác Tiến, một người thực uyên bác về nhiều lãnh vực. Đấy là
điều tôi vẫn hằng sở nguyện từ khi vào tù là được gần những nhân vật lỗi lạc để
học hỏi những điều mới lạ của xã hội và những kinh nghiệm trong cuộc đời. Tuy
vậy, một đêm tôi chợt nhớ đến tên Đức, trưởng ban giáo dục. Có thể đây là nó cố
ý sắp xếp để tôi nằm cạnh bác Tiến để theo dõi, hiểu về tư tưởng của bác Tiến,
vậy sẽ có một ngày nó sẽ hỏi tôi về bác Tiến.
Cái điều tôi phải cân
nhắc, tính toán suy nghĩ sao để tìm ra một giải pháp như một phương châm, một
mẫu mực thích hợp để hành sử, noi theo suốt những tháng năm còn ở trong tù,
trong tay cộng sản: do toàn bộ sự việc từ lúc đầu, không có cách thứ hai, tôi
luôn luôn phải đóng một vai là một người tù tiến bộ rồi. Vậy điều cần soi kỹ,
rọi sâu là triệt để không làm một điều gì thiệt hại không thể chấp nhận cho lý
tưởng, cho đường đi của mình. Điều này tôi hiểu không phải là dễ dàng, nó đòi
hỏi phải thường xuyên cân nhắc, ý thức trước mỗi sự việc. Tôi cũng hiểu nữa
rằng, trong cuộc đời phải chấp nhận: muốn câu được cá thì đành phải bắt, giết
mấy con giun dể làm mồi.
Phải nói, do những anh
em ở Vĩnh Tiến về, chúng tôi ở trại E mới biết một cách xác định về vụ Tết Mậu
Thân vừa qua, cộng sản đã bị thất bại hoàn toàn. Chúng bị bao vây ở khắp nơi,
nhất là ở Sài Gòn. Bộ đội của chúng bị tiêu diệt và bị bắt sống làm tù binh rất
nhiều. Tuy vậy, trong thời gian chúng chiếm thành phố Huế, chúng đã bắt và giết
rất nhiều người đã làm việc cho chính phủ quốc gia. Tàn sát hàng loạt, chúng đã
giết hại hàng ngàn người vô cùng dã man, tàn bạo trước khi chúng rút lui.
Theo bác Tiến, đây là
một mưu đồ của bộ chính trị công an để giải quyết những mâu thuẫn cục bộ chống
chính quyền Sài Gòn và Mỹ giữa Bắc và Nam. Đồng thời, để đánh động, gây tiếng
vang với dư luận thế giới nhất là nhân dân Mỹ. Tóm lại, cũng theo ý kiến của
Tiến: tuy vụ Mậu Thân, cộng sản ở miền Nam bị thất bại, nhưng bộ chính trị cộng
sản Việt Nam đã thắng. Chúng đã đạt được hai mục đích: giảm bớt những sức mạnh
mang tư tưởng cục bộ, không chịu sự lãnh đạo triệt để của bộ chính trị. Hai là
lôi kéo lương tâm và sự ủng hộ của thế giới, nhất là nhân dân Mỹ.
Sở dĩ chúng làm được
như vậy là do những thủ đoạn tuyên truyền vô cùng hữu hiệu của chúng. Nhân dân
thế giới và ngay nhân dân miền Nam dưới sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa vẫn còn đa số người mơ hồ, có thiện cảm với cộng sản.
36.
Nghệ Thuật Tuyên Truyền Của Cộng Sản
Thấy bác Tiến nhận định và có nhìn sắc bén như vậy làm cho
tôi suy ngẫm riêng về lãnh vực tuyên truyền của cộng sản và thế giới tự do của
chúng ta. Tôi đã hùng hồn bộc lộ cái nhìn của tôi về lĩnh vực này với bác Tiến,
nội dung như sau:
Tôi đã ở miền Nam, tôi
đã ra miền Bắc. Tôi đã nhìn góc này, khía kia qua cả thực tế cũng như trên sách
báo. Tôi lấy một hình tượng rất giản đơn để so sánh:
Tôi nhớ lại những ngày
tôi còn lang thang trên khắp phố phường của Hà Nội trước khi bị bắt vào Hỏa Lò.
Một lần tôi vào một hiệu sách Nhân Dân trước cửa chợ Đồng Xuân. Tôi lục lọi
xem, tìm một số sách vở, thoáng thấy một cuốn tự điển chính trị thật dầy của
Liên Xô đã được dịch ra tiếng Việt. Mở thoáng đọc một số trang, tôi nhìn thấy
chữ “nghệ thuật tuyên truyền” được định nghĩa như sau: “Cái không có, mà nói
cho người ta tin là có, đó là nghệ thuật tuyên truyền.”
Ngày nay, hầu hết chúng
ta, qua thời gian và thực tế đều để hiểu: thế giới tự do, thực sự đã mang cơm
no, áo ấm, tự do hạnh phúc cho mọi người. Nhưng trước đây, người dân lại không
tin như vậy. Họ chỉ thấy là đế quốc, thực dân bóc lột, là “Ngụy”, là phi chính
nghĩa v.v… Như vậy “ta có mà người ta lại không tin là ta có.” Ngược lại, cộng
sản, ai cũng thấy chúng bóc lột đến giấc ngủ cũng không yên. Nhưng trước đây,
khi người ta chưa nhìn thấy thực chất của cộng sản thì hầu hết lại tin rằng
cộng sản là chính nghĩa, là đã đem độc lập, tự do, hạnh phúc lại cho nhân dân.
Xã hội cộng sản là xã hội công bằng, không có cảnh người bóc lột người.
Như vậy, hiển nhiên ta
thấy: cộng sản không có cái công bằng, dân chủ, nhưng chúng đã tuyên truyền để
mọi người tin là chúng có. So sánh, chúng ta thấy rõ ràng như ban ngày: cộng
sản tuyên truyền cái “không có” cho người ta tin là “có”. Đấy là nghệ thuật
tuyên truyền! Là nghệ thuật bậc thầy. “Có” mà tuyên truyền cho người ta tin là
“có”. Là nghệ thuật học trò.
Nhưng đây, thế giới tự
do của chúng ta “Có” mà ngườii dân lại không tin là có. Như thế, về lãnh vực
tuyên truyền ta chỉ là bậc cháu của cộng sản. Nghĩa là ta chỉ đáng là học trò
của học trò cộng sản mà thôi!
Huống chi, cộng sản đã
tìm và nhìn đúng loại đối tượng để tuyên truyền. Đó là những đám nông dân, công
nhân, những người lao động nghèo khổ, ít học. Mà trong nước ta thành phần này
chiếm đến 90% của dân số. Họ chỉ biết suốt ngày cặm cụi làm việc vất vả để mưu
sinh cuộc sống. Bởi thế, giả dụ: khi cộng sản nói trên đài, đăng trên báo: ở
một khu vực nào đấy, có một tiểu đội du kích. Do lòng căm thù giặc sâu sắc, do
đường lối anh minh của đảng và cách mạng soi sáng chỉ đường, đã dùng mưu lược
đánh đuổi được một tiểu đoàn của “ngụy” chạy tóe cứt, vãi đái ra quần v.v… Họ
vẫn tin đấy! Vì họ có thì giờ và kiến thức đâu mà suy luận, phân tích thời cuộc
làm gì cho nó mệt óc, nhức đầu? Mà một khi quần chúng có niềm tin thì trở thành
sức mạnh rồi.
Ngược lại, phía chúng
ta, những người Quốc Gia của thế giới tự do. Nếu có một tờ báo nào đó cũng đăng
một cái tin: ở một địa khu nào đó có một tiểu đội địa phương quân, do lòng sôi
sục hận thù Giặc Cộng; do lý tưởng nhân bản, tự do dẫn đường, vạch lối, đã dùng
mưu lược trận đồ đánh tan một tiểu đoàn chính quy của cộng phỉ. Tiêu diệt hơn
100 tên, bắt sống 26 tên và thu nhiều vũ khí quân trang v.v…
Chưa nói về độc giả.
Ngay những tờ báo bạn, những cơ quan thông tin cùng một phe đã gửi thư, viết
bài đăng báo phản đối, chửi bới là nói láo; nói còn để cho người ta nghe được
chứ! Nói ngu như thế mà nói được à v.v…. Độc giả như bác với cháu, hay Gôm, Nhu
chẳng hạn, sẽ ném vất tờ báo đi, không thèm đọc. Tờ báo đó còn đăng những tin
láo khoét như vậy, thì sẽ không mua nữa. Như vậy, tờ báo đó nếu không muốn bị
các bạn chửi bới và sẽ bị chết vì không còn ai mua báo nữa thì chỉ còn một
cách: không bao giờ dám đăng những tin tuyên truyền loại đó nữa.
Từ đấy suy ra, vô hình
chung các cơ quan ngôn luận tuyên truyền của ta chỉ tập trung cố gắng để làm
vừa lòng, chiều theo thị hiếu của cái số độc giả có học, có kiến thức hiểu
biết. Mà cái thành phần này trong quần chúng chỉ chiếm 10 phần trăm. Nhưng lại
nực cười nữa là cái số 10 phần trăm có kiến thức này như bác, Gôm, Vân, Khải
v.v… không những không cần tốn công sức, giấy mực để tuyên truyền, lôi cuốn; mà
có đẩy, xô sang phía cộng sản thì chắc chắn cũng bỏ cả cha, cả mẹ chạy vội về
phía quốc gia tự do rồi. Tóm lại, chúng ta phải nghiên cứu toàn bộ lại phương
cách tuyên truyền của chúng ta hiện nay. Dù không nói láo như cộng sản, nhưng
phải hữu hiệu hơn.
Nghe tôi nói xong, bác
Tiến bò nhỏm dậy, vừa kéo tay tôi ra chỗ hút thuốc lào vừa nói trong nét hưng
phấn:
- Sự việc này lùng
bùng, phức tạp phải dùng cả một bài báo, một cuốn sách để chứng minh diễn giải
mà cháu lý luận đơn giản như thế thành ra sáng tỏ dễ hiểu.
May quá! Trời đã tối,
chiếc bóng điện 40 watts mới bắt ở giữa nhà không đủ sáng để bác Tiến thấy được
nét ngượng ngùng của tôi. Dù vậy, như một sự khích lệ, hút xong điếu thuốc, về
chỗ, tôi hăng say thuật lại cho bác Tiến nghe một sự việc cụ thể về nghệ thuật
tuyên truyền của cộng sản. Sự việc này do chính Hoàng Công An đã thuật lại tỉ
mỉ cho tôi nghe, trước khi dẫn tôi đến gặp sư bà Đàm Hướng trong vỏ bọc thứ 3
của tôi. Nội dung như sau:
Ngay từ khi cộng sản
chuẩn bị sẽ ký kết hội nghị Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, chúng hiểu rằng,
khi đất nước chia làm hai miền, với những thủ đoạn độc tài, phát xít nham hiểm,
quỷ quyệt trong những năm qua của chúng đã lộ ra ít nhiều cho một số quần chúng
đã biết được, thì tất yếu có rất nhiều người dân sẽ bỏ chúng để đi vào miền Nam
theo phía bên kia.
Như vậy, cả về mặt
chính trị cũng như xã hội, chúng sẽ bi lao đao, khủng hoảng. Do đấy, bộ chính
trị, chủ chốt là tên cáo già Hồ Chí Minh họp bàn để tìm ra một phương kế hòng
lấp bớt cái hố sâu lo này của chúng. Cuối cùng chúng đã tìm ra được một nhân
vật lá chắn, đầu cầu là dược sĩ Thẩm Hoàng Tín, đương kim thị trưởng thành phố
Hà Nội. Một nhân vật điển hình, vừa danh tiếng, vừa uy quyền và giầu có.
Chúng tin rằng, nếu
chúng lôi kéo được Thẩm Hoàng Tín ở lại với chúng thì có thể kéo lại một mảng,
có thể đến hàng chục ngàn người cũng ở lại theo. Do đấy, chúng đã nghiên cứu
một kế hoạch tỉ mỉ, công phu ngay từ khi hội nghị Genève sắp được ký kết. Chúng
đã triển khai thực thi kế hoạch từng bước. Chúng chỉ định một cán bộ trung ương
đảng có khả năng thuyết phục và có tình cảm lôi cuốn là Nguyễn Duy Trinh (sau
này được vào bộ chính trị và đã từng nắm giữ bộ ngoại giao).
Nguyễn Duy Trinh đã bí
mật vào Hà Nội để gặp Thẩm Hoàng Tín. cộng sản đã nắm vững là trong giai đoạn
này, dù cho Thẩm Hoàng Tín có không đồng ý chăng nữa cũng không dám ra lệnh bắt
giữ người của chúng gửi vào. Những ngày ráp ranh, thế lực cộng sản đang lên như
diều ở Hà Nội, ai mà không rét?
Thẩm Hoàng Tín lúc đầu
còn ngỡ ngàng, ngạc nhiên, lo lắng khi gặp một cán bộ trung ương của cộng sản.
Nhưng người cán bộ này đã hân hoan nồng nhiệt mang lời nhắn nhủ của bác Hồ vào
thăm hỏi sức khỏe của chú Tín. Từ trong chiến khu chống giặc Pháp, bác vẫn để ý
xem xét, theo dõi khít khao hành động của chú Tín. Cụ thể năm này, tháng nọ đã
ra lệnh tha bao nhiêu người tù (nhà tù nào của chúng ta hàng năm lại không tha
người?). Đã dựng trường học này, đã xây chiếc cầu kia v.v… Thẩm Hoàng Tín nghe
mà bàng hoàng, nhưng cũng dội lên một chút hưng phấn trong dạ. Trong lúc hưng
phấn, Thẩm Hoàng Tín không kịp thấy rằng, khi muốn tìm điểm tốt của một người
thì bao giờ và ai chả có cho nên niềm vui, lòng hãnh diện cứ thấm dần vào tâm,
nên óc Tín đã mờ dần.
Là một dược sĩ tầm thường,
chỉ giữ cái chức thị trưởng thành phố Hà Nội. Trước đây, ông Tín nghĩ rằng mình
có tội với cộng sản, thế mà nay được hẳn một cán bộ trung ương từ ngoài chiến
khu mang lời thăm hỏi, khen ngợi của bác Hồ vĩ đại kính yêu, thì thật nằm mơ
cũng không thấy.
Tín đêm ngày suy ngẫm,
mình được bác Hồ khen cũng là đúng (tâm lý, ai được khen thưởng thấy đúng),
mình đối với dân cũng có lương tâm lắm chứ! Bởi vậy, Thẩm Hoàng Tín đã gửi kính
thăm sức khỏe của bác, không quên gửi kính biếu bác ít sâm nhung đặc quý. Rồi
cho tới khi ký hiệp định Genève, nhiều cán bộ trung ương ra vào gặp Thẩm Hoàng
Tín nói là bác Hồ nhớ chú Tín lắm, bác cảm ơn chú Tín đã tặng quà cho bác. Bác
muốn chú Tín ở lại gặp bác.
Tuy trong lòng có thiện
cảm phần nào với bác Hồ, với cách mạng nhưng trong lòng Thẩm Hoàng Tín vẫn còn
nhiều băn khoăn, lo lắng. Chưa biết đâu được, chẳng có gì chắc cả, không chơi
dại, ở lại với cộng sản nhỡ có chuyện gì thì chạy đâu được. Những cán bộ tiếp
xúc với Tín đã thấy mối băn khoăn, giằng co lưỡng lự của Tín. Cho tới còn hơn
một tháng trước ngày tiếp quản thủ đô Hà Nội 10/10/1954. Nguyễn Duy Trinh lại
vào gặp Tín một lần nữa; mang theo lá thư của Hồ chủ tịch gửi cho chú Tín, nội
dung:
“Do những thành tích
sáng ngời vì dân vì nước của Thẩm Hoàng Tín. Với tư cách là chủ tịch nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trang trọng đặc biệt đảm bảo riêng cho Thẩm Hoàng Tín,
gia đình, họ hàng và toàn bộ tài sản của Thẩm Hoàng Tín an toàn triệt để cùng
toàn dân đón chờ tới 1956, ngày tổng tuyển cử, đất nước thống nhất một nhà.”
Lá thư có đóng đấu và
chữ ký của chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Hồ Chí Minh.
Còn nỗi mừng vui hãnh
diện nào to lớn hơn. Trong lòng Tín còn chút băn khoăn ngập ngừng nào đã tan
thành khói bay theo mây chiều về phương Nam xa xôi. Hãy giữ chắc lá thư lịch sử
này, nó như một lá bùa, một bảo bối bảo vệ cho Tín và gia đình an toàn sau này.
Một mối lắt lay thầm kín trong lòng Tín từ mấy tháng nay. Bao nhiêu của cải,
tài sản nhà cửa, xe cộ cả một đời tạo lập, nếu phải bỏ lại để ra đi thì rồi
cũng héo mòn trong luyến tiếc. Không ngờ, ngày nay đã ổn đẹp, mà cuộc đời lại
có chiều hướng đi lên. Thế là Thẩm Hoàng Tín quyết định ở lại, không đi vào Nam
xa xôi vời vợi dù bạn bè và chính phủ quốc gia khuyên can bao nhiêu cũng không
lay chuyển được tấm lòng đã đổi chiều của Thầm Hoàng Tín.
Nguồn tin dược sĩ Thẩm
Hoàng Tín, đương kim thị trưởng thủ đô Hà Nội, một người vừa danh tiếng, vừa
giầu có ở lại không đi vào Nam được cộng sản thổi phồng tung ra lan tràn khắp
miền Bắc.
Trong cảnh đất nước
chia đôi, lòng người ai cũng vậy. Nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông cha, nơi chôn
nhau, cắt rốn, ai đâu bỗng dưng cắt ruột mà ra đi về một phương trời chưa hề
biết. Cho nên trong lòng mỗi người đều có mối giằng co gay gắt giữa ra đi và ở
lại. Hơn nữa, giai đoạn này có phải ai cũng hiểu được cộng sản như sau này.
Vì thế, mấy ông chủ sự,
chánh văn phòng, giám đốc v.v… đều nghĩ nếu như ông Thẩm Hoàng Tín, một đương
kim thị trưởng của một thủ đô, giàu có như vậy mà còn ở lại, ông ta còn hiểu
biết cộng sản cũng như thời cuộc còn bằng mấy mình ấy chứ. Thế là họ quyết định
ở lại. Những ông trưởng đồn cảnh sát, thiếu úy, trung úy v.v… lại nhìn từ ông
Thẩm Hoàng Tín cho đến những ông giám đốc, chủ sự. Cứ người này ở lại, kéo theo
người kia, để rồi biết bao nhiêu người đã quyết định ở lại theo sự liên đới mà
chủ chốt là Thẩm Hoàng Tín.
Về phần Thẩm Hoàng Tín,
khi đã quyết định ở lại rồi thì lòng càng mở rộng để nhìn về cách mạng. Thôi
thì cứ như thoi đưa, hết cán bộ cấp này đến cấp kia ra vào gặp Tín như cơm bữa.
Để rồi nhiều đêm nằm suy tưởng. Tín đã tưởng chính mình cũng là người của cách
mạng. Càng gần ngày cộng sản tiếp quản Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn vật, càng
lổn nhổn lên những con người xôi với đậu, kẻ ở, người đi. Bóng người xưa thưa
vắng dần dần. Nhìn cảnh phố phường rệu rạo, đổi màu đôi lúc lòng Tín cũng vẩn
lên nỗi man mác, bâng khuâng về những cảnh đời quen thuộc, quyền hành của mình
đã qua. Nhưng rồi cái màu đỏ chói của cách mạng đã lôi hồn Tín trở về với những
xốn xang, xởi lởi của những buổi ban đầu giao duyên với cách mạng.
Rồi cho tới ngày 10
tháng 10 năm 1954, cộng sản vào tiếp quản Hà Nội, lòng Tín như mở hội. Tín làm
nhiều bữa tiệc tưng bừng để đón chào những người con cưng của Tổ Quốc, những
cán bộ ruột thịt của cách mạng huy hoàng. Họ muốn cái gì, Tín cũng tặng. Họ
muốn xe, có xe; muốn mũ, có mũ; muốn giày, có giày. Những thứ quí giá, đắt tiền
nhưng Tín không hề do dự tặng, dâng. Tín làm như vậy là để thể hiện tấm lòng
thương yêu, sắt son đối với cách mạng. Nhưng chỉ vài ngày sau đó, những cán bộ
ân tình, quen thuộc thường xuyên ra vào nhà Tín trước đây, Tín đã đối xử với họ
như những anh em đồng chí bây giờ bằn bặt đi đâu, hầu như không còn ai lai
vãng. Tín chỉ cho là vì công việc tiếp quản bề bộn quá nhiều nên cán cán bộ đều
bận.
Ít tháng sau, nhà nước
ra thông báo có lệnh kiểm kê toàn bộ tài sản khắp miền Bắc mà các thành phố là
điển hình. Tín cũng có lắng lo nên để ý, nghe ngóng. Các cán bộ kiểm kê ở khu
phố Tín ở và những khu có nhà của Tín. Họ đã khẩn trương làm hết các nhà xung
quanh nhưng không hề động chạm gì đến nhà đất, xe cộ của Tín. Lòng Tín và vợ
con Tín tươi như hoa. Tín nằm ngủ mơ còn cười: thế chứ! Bác Hồ mà, chủ tịch
nước và chủ tịch đảng chứ có chơi đâu.
Tín và gia đình suy
nghĩ: bác và cách mạng đã đối xử với mình như thế, mình cũng phải biết điều
chứ. Tín có nhiều xe, nhiều nhà, Tín tự nguyện tặng cho thành phố mấy cái xe
mấy cái nhà để giúp phương tiện cho các cơ quan làm việc. Nhà nước càng hoan
nghênh Tín.
Lệnh của ban kiểm kê
tài sản: anh có bao nhiêu nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn không cần biết. Tất cả nhà
anh lớn bé có bao nhiêu người, sẽ chia theo đầu người và tùy theo người lớn trẻ
con, chính sách đã quy định rõ ràng là được ở bao nhiêu thước vuông. Ruộng,
vườn, xe cộ cũng theo thế mà quy định. Của cải của nhân dân, cũng là của nhà
nước, không nên để thừa thải, không hợp lý. Bởi vậy, khi di cư vào Nam, có
nhiều người viết giấy ủy quyền với những thủ tục pháp lý đầy đủ như: bố để lại
cho con, con cho bố, cho anh em vợ chồng v.v… đều không còn giá trị nữa.
Mãi gần ba tháng sau, về
cuối đợt kiểm kê vào nhà gặp Thẩm Hoàng Tín, lý do:
- Ban kiểm kê tài sản
đã biết ông Tín có giấy bảo lãnh của bác Hồ, cho nên không một cán bộ nào dám
đụng chạm gì đến tài sản của ông. Chúng tôi đến với ông hôm nay, xin ông vui
lòng cho phép chúng tôi kiểm kê toàn bộ tài sản của ông. Bao nhiêu nhà cửa,
ruộng đất, xe cộ cũng như những vật dụng đáng giá trong nhà. Mục đích, để nhà
nước biết được cái tiềm năng của cải của đất nước mà thôi, chứ chúng tôi không
hề làm suy chuyển, dù là một cái đanh, một miếng gỗ thuộc về tài sản của ông.
Tín nghe thì cũng có
chút phật lòng, bỡ ngỡ. Nhưng nghĩ cho kỹ, cũng thấy hợp lý, vì nhà nước cũng
cần phải biết mức độ của cải, giầu nghèo của toàn dân. Vả lại, mình đã có là
bùa hộ mệnh thì còn e dè, sợ sệt cái quái gì nữa. Nghĩ thế, nên Tín đã hân hoan
tạo điều kiện cho các cán bộ kiểm kê làm việc được dễ dàng, thuận tiện. Sau mấy
ngày khẩn trương làm việc nghiêm túc mới kiểm kê xong, cuối cùng người trưởng
đoàn căn dặn Tín:
- Tất cả những đồ đạc,
xe cộ v.v… mà chúng tôi đã kiểm kê, yêu cầu không được di chuyển hay cho ai vì
nhà nước còn nghiên cứu và thẩm tra lại.
Tin nghe căn dặn, điếng
cả người, của mình mà mình không được cho, không được di chuyển và càng không
thể được bán (mà có bán lúc này thì ai mua của ai?) như vậy đâu có còn là của
mình nữa. Cả nhà buốn, lo rười rượi, ăn không ngon, ngủ không yên. Tín bàng
hoàng tức tối, nhất định phải hỏi cho ra nhẽ mới được. Nhưng dạo này những cán
bộ cao cấp có còn thấy mống nào đến nhà nữa đâu. Hỏi những cơ quan lớn của
thành phố thì họ đều trả lời không biết. Hỏi thẳng cơ quan kiểm kê cũng như cục
nhà cửa thì họ chỉ biết trả lời là họ thi hành lệnh trên. Trên là trên nào thì
may ra chỉ có ông trời mới biết. Đầu óc cứ như muốn nổ tung ra vì nghĩ với suy.
Cùng thì tắc. Tắc rồi thì phải thông, đó là lẽ trời, vì thế Thẩm Hoàng Tín
quyết định.
Một hôm trời đẹp như
thơ, Thẩm Hoàng Tín khăn gói quả mướp quyết định vào thẳng phủ chủ tịch xin gặp
bác Hồ. Năm lần, bẩy lượt đều được trả lời là bác đi công cán không có nhà.
Thôi bây giờ cái thế chơi dao đã lú lẫn cầm phải đàng lưỡi rồi. Nghĩa là ở vào
cái thế phải chạy theo thì cũng đành vậy. Quyết tâm, Tín bỏ nhiều công thập
thò, chờ đợi cho đến một buổi đó, trời cũng giúp ông Tín: một đoàn xe đang hộ
tống chiếc xe của chủ tịch đi ở giữa tiến vào cổng phủ, rõ ràng có bác Hồ kính
yêu ngồi ở trong. Không thể chần chờ, Tín đã xông ra, nhiều người hộ tống bác
Hồ ngăn cản, giằng co với Tín. Bác Hồ đã trông thấy, ra hiệu cho Tín đến gặp.
Tín hãy còn hổn hển vì vừa bị đám cận vệ ngăn cản, lôi kéo, chỉ biết cúi đầu
thật thấp, xin được gặp bác 5 phút thôi.
Hồ Chí Minh gật đầu
chấp nhận và Tín được vào phòng khách của phủ chủ tịch ngồi chờ. Sau gần 20
phút đợi chờ, Tín còn đang rụt rè đưa mắt nhìn những cảnh trang hoàng mới lạ
của chiếc phòng khách mà trước đấy, thuở vang bóng ngày xưa Tín đã ra vào nhiều
lần thì bác Hồ từ một cửa ngách đi ra. Mặt rồng hớn hở, bác tiến lại giơ tay
cho Tín bắt. Lòng Tín xốn xang, cúi đầu thật thấp, run rẩy đưa hai tay ra nắm
chặt bàn tay quyền lực của bác. Bác Hồ vồn vã:
- Đã mấy lần, tôi định
đến thăm chú, nhưng việc nước bề bộn, không có rảnh rang được chút nào. Thế hôm
nay chú đến thăm tôi hay có việc gì?
Ngập ngừng, Tín trả lời
trong hồi hộp nguồn cơn:
- Thưa bác, cháu muốn
kính thăm sức khỏe của bác và xin ý kiến bác về một việc.
Hồ Chí Minh giọng vẫn
xởi lởi thúc giục:
- Chú cần việc gì thế,
cứ nói đi! Tôi sẵn sàng làm cho chú vừa ý!
Được lời như cởi tấm
lòng, Tín nói thẳng những điều đang ấm ức trong lòng:
- Được bác thương yêu
bảo lãnh cho cháu và gia đình, nhưng nay cán bộ đến kiểm kê hết tài sản của
cháu và ra lệnh cấm tuyệt đối không cho di chuyển hoặc cho ai.
Mắt Minh mở to, mặt mất
sắc, trắng ra vì ngạc nhiên. Minh quay lại ông bộ trưởng phủ chủ tịch đang đứng
phía sau:
- Đồng chí, cho gọi
ngay đồng chí bộ trưởng chịu trách nhiệm kiểm kê tài sản toàn quốc, vào đây
ngay.
Khi tên bộ trưởng phủ
chủ tịch ra ngoài rồi, Minh quay lại, nét mặt còn giận dữ nói với Tín:
- Láo thật! Như thế này
thì không còn thể thống pháp lý gì cả.
Chỉ 3 phút sau, ông bộ
trưởng đặc trách kiểm kê tài sản rụt rè tiến vào. Minh đứng giật dậy, nhìn ông
bộ trưởng vừa vào, hỏi dằn giọng vẫn còn đầy tức tối:
- Tôi đã viết thư, ký
nhận bảo đảm tài sản của chú Tín, vậy sao đồng chí còn cho lệnh vào kiểm kê nhà
cửa, xe cộ của chú Tín?
Tên bộ trưởng cúi đầu
rụt rè, ngập ngừng không nói ra lời. Minh đập tay xuống bàn quát:
- Tại sao?
Tên bộ trưởng nói ngắt
quãng:
- Dạ…..thưa bác…..không
phải tại cháu ạ!
- Thế, tại ai? Ai ra
lệnh?
Minh hỏi dồn dập, tên
bộ trưởng giơ hai tay lên xoa tai nói nhỏ:
- Thưa bác…..nhân dân
ạ!
Hồ Chí Minh giơ cả hai
tay lên trời, đầu lắc quầy quậy nhìn Tín:
- Ồ, nếu là nhân dân
thì tôi xin chịu. Bởi vì cả cuộc đời tôi được sinh ra là để phục vụ nhân dân.
Nhân dân bảo chết, tôi xin chết. Nhân dân bảo sống, tôi được sống. Tôi chỉ là
một cá nhân nhỏ bé, vô giá trị trước nhân dân.
Tin như từ trên trời
rớt xuống; đầu choáng, mắt hoa; ra về mà cái chân đi không còn thấy lối. Uất
hận, đau thương ngập trời chỉ còn biết mình tự trách mình:
Than ôi! Tay trót nhúng
chàm.
Dại rồi, còn biết khôn
làm sao đây?
Sau đó, nghe đâu Thẩm
Hoàng Tín đã tự tử nhưng được cứu sống, rồi bị bắt hay bị quản thúc thì không
được nghe ai nhắc đến nữa.
Chuyện bị bắt hay có
tội dưới chế độ cộng sản miền Bắc nó rất bình thường, đơn giản. Nó đơn giản đến
cái độ mà người ở thế giới bên ngoài không thể hiểu được, cho nên dù có ai nói
cũng không tin. Anh có của, có nhà, chính phủ đến lấy, đến tịch thu; anh cứ
phải vui như Tết. Từ ở trong lòng, cũng như anh phải thể hiện với người chung
quanh là chính phủ đã làm đúng, anh hoàn toàn bằng lòng. Nếu anh lại tỏ ra buồn
phiền, phàn nàn hay tức tối, như vậy là tội đấy. Cán bộ sẽ có biện pháp kỷ
luật, không cho anh ra khỏi nhà, không được tiếp xúc với ai. Anh lại càng tức
tối nữa, phẫn uất như điên, lời nói phản đối nhà nước càng nặng hơn, như vậy
tội càng lớn hơn. Cứ như thế, để rồi cuối cùng phải vào trại giam
Anh đang làm trưởng
phòng của một cơ quan nào đó. Do những ý riêng hoặc yêu cầu của nhà nước, họ sẽ
tìm một vài khuyết điểm vu vơ của anh. Chính phủ hạ anh xuống làm một nhân
viên, anh phải vẫn hân hoan, vui vẻ tích cực làm việc ở cương vị đó một cách
thực lòng. Nếu anh tỏ ra tiêu cực trong công tác, như vậy là tội đấy, anh đã
hờn oán chính phủ. Họ sẽ có biện pháp kiểm thảo, hạch sách, kỷ luật hành anh đủ
điều. Anh lại càng hận, tức hơn, tất nhiên sẽ thể hiện trong lời nói và việc
làm, anh lại bị nặng hơn nữa, cuối cùng chỗ anh ở vẫn là nhà giam. Nói một cách
dễ hiểu: anh đang tự do, trói anh lại, anh đừng giẫy, vẫn vui vẻ thì không sao.
Nhưng cả ngàn người khi tự nhiên bị trói thì đều tức tối, giẫy dụa kêu trời,
thậm chí còn chửi bới. Vậy, đó là tội đấy!
Tóm lại, với cộng sản,
xin những nhà nước và những cá nhân đừng tin, đừng ký kết với họ cái gì cả. Ký
một hợp đồng đầu tư xây dựng một nhà máy gì đó trong đất cộng sản là bạn đã ký
giấy cam kết với con hồ ly tinh. Chắc chắn, không sớm thì muộn bạn sẽ bị xiểng
liểng với nó. cộng sản sau đó sẽ có trăm ngàn lý do làm cho bạn phải đau đầu.
Cũng như Cam Ranh của Việt Cộng bây giờ (1990). Rất ngon lành mời gọi, nếu Mỹ
cứ mó vào. Tôi chắc chắn rồi Mỹ sẽ phải điên đầu, xiểng liểng thất cơ lỡ vận,
lúc đó xin đừng kêu trời.
Phải nói rằng giai đoạn
này, bác Tiến và tôi, một già, một trẻ thường say mê chuyện trò với nhau. Tôi
cố hạn chế không muốn cho nhiều người biết sự thân mật, chuyện trò giữa tôi và
bác Tiến. Thường thường những buổi tối khi đã bỏ màn, chúng tôi ngồi trong màn
nói chuyện, bên cạnh lại là mấy người dân tộc nên cũng không đáng ngại. Do cách
sống đạo đức, hiền hậu của bác, và nhất là uy tín của bác trước đây nên có
nhiều người, nhất là thanh niên, trong đó có những tu sĩ, vẫn thầm kín giúp đỡ
bác trong những khó khăn của đời tù vì tuổi già, sức yếu. Năm nay bác đã 65
tuổi rồi (1968).
Trông bác phúc hậu,
hiền lành, ăn nói từ tốn cho nên được hầu hết anh em trong tù trọng mến. Ngược
lại tụi cán bộ lại ghét cay, ghét đắng bác. Có lần một buổi trưa, bác Tiến đang
ngồi ở hội trường nói chuyện với mấy thanh niên tu sĩ, tên Đức trưởng ban giáo
dục từ ngoài cổng trại đi vào. Đến hội trường, thấy vậy, y bước đến, chỉ bác
Tiến, bắt bác nhặt hết những lá khô, rác rưởi ở dưới rãnh dọc theo mái hiên của
hội trường. Nó không cho ai giúp bác, chủ trương của nó là chỉ muốn hành hạ bác
chơi vậy thôi. Phần do bản tính hiền lành, phần biết nhẫn nhục thích ứng nên
bác đã lẳng lặng làm theo lệnh của nó với quan điểm “nín thở qua đò”.
Tên Cẩn trực trại cũng
thế. Một buổi Chủ Nhật nó đi lang thang vào nhòm ngó các buồng. Khi nó vào
buồng 2, nhìn thấy bác Tiến đang ngồi nói chuyện trong một đám người, mặt nó
lạnh tanh như da trâu ngâm nước, nó bước thẳng vào nhà cầu của buồng rồi trở
ra. Vẫy tay gọi bác Tiến, nó dẫn bác vào nhà cầu chỉ chỗ đi ỉa, đi đái đầy mùn,
bựa dơ bẩn. Nó ra lệnh cho bác Tiên phải xuống giếng lấy nước, dùng bàn chải cọ
cho sạch ngay trong ngày hôm ấy. Chiều nó vào kiểm tra mà còn bẩn thì đừng
trách nó. Mọi người thấy nó hành hạ bác Tiến như vậy đều mủi lòng thương, nhưng
không ai dám giúp đỡ. Chờ cho đến khi tên Cẩn đi ra, mới có mấy thanh niên đi
xách nước cọ giúp cho bác. Mặc dù việc cọ rửa nhà cầu đã có anh Lương Yên, một
người Lào gốc Việt vẫn hàng ngày làm vệ sinh trong trại chịu trách nhiệm.
Vậy mà sáng hôm sau,
các toán đang chờ xuất trại đi lao động thì có lệnh của ban giáo dục: Phùng Văn
tại (toán 2), Hoàng Mạnh Hùng (toán 3) ôm chăn chiếu đi kỷ luật. Hai cậu này
hôm qua đã giúp bác Tiến cọ nhà cầu.
Sau một số ngày chuyện
trò với bác Tiến, cũng như qua mấy người khác cùng ở trại Vĩnh Tiến với bác,
tôi được biết sơ lược về bác như sau:
Là một thanh niên trí
thức của Hà Nội, cũng như nhiều thanh niên trí thức có tâm hồn khác. Thấy lòng
uất hận, tủi nhục nhìn cảnh quê hương dân tộc bị giặc Pháp thống trị, bóc lột
nên ngay từ 1925, bác đã tìm đường trốn ra nước ngoài, hòng tìm ra một phương
cách, một giải pháp cứu giúp đồng bào, đất nước. Bác đã lặn lội, lang thang gần
khắp châu Âu, hết Anh, rồi Đức lại đến Pháp. Cuối cùng bác đã gia nhập đảng
cộng sản Pháp. Từ tấm lòng hướng về quê hương, bác đã nghiên cứu, học tập hoạt
động hăng say dần dần trở thành một đảng viên xuất sắc. Uy tín của bác được
đảng cộng sản Pháp đề cao.
Theo sự suy nghĩ của
bác, muốn hoạt động cho nền độc lập của nước nhà, không những phải vận động ở
bên ngoài, mà còn cần phải có quần chúng, có hậu thuẫn ở trong nước nữa. Vì thế
bác đã cậy cục trở về nước bí mật hoạt động vào thời gian Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930). Sau vì những điều kiện trong cũng như ngoài chưa đủ chín mùi, nếu manh
nha sẽ bị thực dân Pháp nhận chìm vào biển máu nên đổi chiến thuật, bác quay ra
làm sách, làm báo công khai để vận động quần chúng, khích lệ, gieo mầm nuôi
dưỡng các phong trào. Cho tới ngày 19 tháng 8 năm 1945 toàn dân đã cướp được
chính quyền từ trong tay thực dân Pháp. Do mâu thuẫn nặng nề về chính kiến với
những phương cách nham hiểm, tàn bạo của những người lãnh đạo đảng cộng sản
Việt Nam, bác lại ra đi trở về Pháp.
Bác không những là bạn
đồng chí mà còn là bạn thân của Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,
cả ngay Hồ Chí Minh nữa. Trước đây ở Pháp, bác đã gặp gở và giúp đỡ Minh vượt
qua nhiều trở ngại, khó khăn.
Khi trở về Pháp lần
này, bác miệt mài nghiên cứu, đào sâu chủ nghĩa Marx và Lénine cùng với một số
học thuyết khác. Rồi trong một lần bác được yết kiến Đức Giáo Hoàng, Chúa Kitô
soi sáng tâm hồn bác, bác thấy bừng lên một chân trời sáng bao la, cao siêu,
đầy nhân hòa trong xã hội loài người. Bác sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng
với thực dân, phong kiến và đế quốc, nhưng bác cũng không ưa sự tàn bạo, quá
khát máu của cộng sản Đệ Tam Quốc Tế. Một thời gian nghiên cứu về thần học, bác
đã tìm ra một đường lối giao hòa giữa cộng sản và Thiên Chúa giáo. Bác càng nổ
lực nghiên cứu thấu đáo con đường bác đã nhìn thấy, hòng cứu vãn dung hòa cái
khắc nghiệt của máu sẽ chảy nhiều của thời đại.
Bác đã từ chối hết mọi
danh vọng, lời mời mọc của Đồng, Giáp, Liệu. Nào là họ sẽ giao mặt trận Tổ Quốc
cho bác, hoặc bác sẽ nhận trách nhiệm hành chính của một tỉnh v.v… Rất nhiều
những lá thư tay, lôi kéo, dụ dỗ của Đồng, Giáp, Liệu gửi cho bác cho tới ngày
bác về nước đợt này.
Lúc này bác trở về quê
hương (1960), mục đích của bác là để vận dụng, thực thi con đường giao hòa giữa
cộng sản và Thiên Chúa giáo. Trần Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp cùng một số cán bộ
cao cấp đã đến chỗ ở của bác ở gần Hà Nội gần Nhà Thờ Lớn, nhiều lần đe dọa, áp
lực bắt bác phải từ bỏ con đường bác đã chọn. Dù bác không chống họ, nhưng cho
tới đầu 1962, họ đã bắt bác vào Hỏa Lò với lệnh tập trung cải tạo.
Khi nghe nói bác bị bắt
vào Hỏa Lò 1962 trùng một năm với tôi, tôi chợt nhớ lại. Khoảng 1963 khi tôi
được chuyển từ xà lim 3 về xà lim 2 ở buồng số 4 với Phạm Huy Tân. Có một lần
Tân nói: trong buồng này, có một bác già tên là Tiến vừa được chuyển đi thì anh
đến. Buồn cười lắm! Ông ta nghiện thuốc lào, vì có tiếp tế nên có diêm, có
thuốc mà lại không có điếu. Ông ta có một miếng xà phòng giặt, lấy một chiếc
đũa thọc xuyên qua thành một cái lỗ, rồi khoét rộng một đầu để có thể vê điếu
thuốc nhét vào. Mỗi khi hút, ông ta tỳ miệng vào một bên của cục xà bông, bên
kia đánh diêm hút. Ông ta hút một điếu thuốc thật vất vả, nhưng có thể vì xà
phòng sao đó ông ta bị đi ỉa chảy mấy ngày nên không dám hút nữa. Khi ỉa chảy
đơ đỡ, thèm thuốc quá, ông ta lại hút và lại tiếp tục bị đi ĩa, toàn ra nước
với bọt thôi.
Lúc đó nghe Tân nói,
tôi nghĩ, ông ta cũng như trăm ngàn người khoác nên tôi cũng chả hỏi thêm làm
gì. Nhưng bây giờ tôi đoán, hẳn là bác Tiến chứ không ai khác, và như thế tên
Tân hiện đang làm trật tự ở trại này chẳng còn lạ gì bác. Có điều y lờ đi, coi
như chưa từng quen biết bác. Giòng suy tư của tôi lững lờ chảy đến đây, tôi qua
lại hỏi bác Tiến ngay:
- Thế ở Hỏa Lò ai tiếp
tế cho bác?
Bác cười trả lời:
- À, thời gian ở ấy thì
có mấy con cháu, nó vẫn tiếp tế cho bác. Nhưng từ ngày chuyển đi các trại, họ
không cho gửi thư, nên các cháu chả biết bác ở đâu.
Những lúc ngồi nghe bác
tường thuật lại những cảnh đời bôn ba, lúc thuận tiện cũng như những lúc khó
khăn trong quá trình của đời bác. Nhìn mái tóc đã gần trắng hết đầu, nét mặt
đôn hậu, hiền hòa, phương phi, tôi chợt nhớ đến gương mặt của Hồ Chí Minh.
Dòng suy tưởng của tôi cứ trôi dài vào cái lẽ thăng trầm của thế sự ngược
xuôi, thành công và thất bại.
Có tài, nỗ lực làm việc
mới chỉ là một điều kiện. Còn một điều kiện, một yếu tố nữa là may mắn gặp
thời.
Thời lai, đồ điếu thành
công dị.
Vận khứ, anh hùng ẩm
hận đa.
Ngày xưa, tôi nhớ trong
sách toán học trong miền Nam từ đệ nhị cấp trở lên, ngoài bìa thường in cái
phương trình làm việc của nhà bác học Albert Einstein như sau:
X + Y + Z = THÀNH CÔNG
Với ba ẩn số: Z = Cố
gắng, nỗ lực. Y = Làm việc, nghĩa là phải bắt tay vào làm cái việc mình định
làm. X = May mắn, thời cơ.
Theo lẽ thông thường,
yếu tố nào quan trọng hơn người ta đặt trước. Như vậy, dù Albert Einstein, một
nhà đại bác học mà cả khối tự do cũng như cộng sản đều phải thừa nhận. Nghĩa
là, ông là một nhà khoa học đến chân răng, kẽ tóc, thế mà, ông ta vẫn thấy, và
thừa nhận yếu tố may mắn trong cuộc đời là quan trọng và cần thiết. May mắn là
nói theo khoa học; nói theo lối thông thường là số phận, là định mệnh.
Từ những chứng kiện
trên qua óc liên tưởng, cho phép tôi tin: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh
hùng áo vải đã lập được một chiến công lẫy lừng đại phá quân Thanh năm 1789.
Chúng ta là kẻ hậu thế chỉ thấy cái sáng chói hiển hách của vị anh hùng dân
tộc. Nhưng cùng đồng thời với ông hẳn cũng có nhiều người tài ba nhưng vì không
may mắn, không gặp thời nên đã mai một đi, trở thành vô tên tuổi. Thời Hồ Chí
Minh cũng vậy, và cả thời Ngô Đình Diệm cũng thế. Tóm lại, người thành công
nhất, chưa hẳn đã là người tài giỏi nhất.
Hai anh Nguyễn Thanh
Đương và Trần Quốc Anh bị đi kỷ luật hôm Hoàng Thanh giật dây ảnh, mãi hơn một
tuần sau mới được thả ra. Hai người lặc lè về buồng 2. Mặt mũi anh nào cũng phờ
phạc, xanh tái, hẳn đã phải làm bản kiểm điểm, một hình thức nhận lỗi, nhận sai
lầm thì mới được ra. Tôi hiểu, Hoàng Thanh chỉ muốn dằn mặt buổi ban đầu với
người vừa ở trại khác chuyển đến mà thôi.
37. Một Mảnh Đời Của Nữ Sĩ Thụy An
Trời càng ngày càng nóng, chẳng biết ngày tháng Âm lịch hôm
nay là bao nhiêu. Ngày mai toàn trại đã vào đợi học tập dài ngày rồi, nghĩa là
đã đầu tháng 9 Dương lịch. Nếu chẳng đầu Thu thì cũng cuối Hè rồi vậy mà sao
trời còn nóng đổ mỡ suốt ngày đêm. Cái nóng khủng khiếp, suốt đêm như trong lò
đốt không ngủ được.
“Cái nóng nung người
nóng nóng ghê!”
Hàng đêm, với một chiếc
quần đùi rách, tôi lăn xuống nền đất, chui mãi vào gầm sàn; mặc cho mồ hôi đất
cát bẩn dơ, để tìm được một chút hơi ẩm của đất. Hàng 120 người nhét trong một
căn buồng mà trước đây 100 người đã chật. Ban ngày còn cái nạn nước để tắm rửa
mới tái tê. Toán nào cũng khẩn trương làm công việc cho hoàn tất, để cán bộ cho
về trại sớm mươi mười lăm phút, để tranh thủ còn it nước trong mà tắm rữa. Vì
thế toán nào cũng vậy, từ lao động ở ngoài đồng cũng như trong khu thủ công. Ai
bước chân vào khỏi cổng trại là chân chạy, tay cởi giải rút quần, (không phải
cởi áo, mùa Hè hầu hết tù ở trần) chưa vào tới giếng thì đã tụt xong quần.
Hằng trăm người, già
trẻ trần truồng vây quanh cái giếng nhưng chỉ có khoảng hai chục cái gầu (gầu
gỗ, tôn, nứa). Người có gầu thì múc dội xối xả. Người không gầu thì chui đại
vào dưới háng, kẽ nách để hứng lại ít nước thừa vào đầu óc, cơ thể cho đỡ nóng
và cái nhờn của mồ hôi. Vậy mà chỉ vài chục phút là nước giếng đã đục ngầu rồi
cạn dần cho tới đáy. Nước dù đục, lẫn bùn vẫn còn mát và vẫn còn đỡ hôi hám hơn
mùi mồ hôi. Những ngày đầu thực ngượng ngùng, tôi không dám cởi quần ra, nhưng
bị khó khăn trở ngại rất nhiều, như vướng vít, không sạch, thay quần, giặt quần
v.v… Thôi thì nhập gia tùy tục, bởi vậy tôi cũng đành tô hô và cứ nhìn nhau mà
cười. Toán nào về muộn, hay chậm chân thì chỉ còn nước đục; đôi khi không còn
nước, đành tối về buồng ngồi “tắm cạn”. Nghĩa là ngồi vo ghét khắp mình, cổ,
thành từng cục như hòn bi con rồi búng ném tứ tung khắp buồng.
Sáng hôm nay, một buổi
sáng gió rừng thật lộng. Cụm nứa già phía cuối hội trường ngả nghiêng, có lúc
như cúi rạp, sát xuống để thầm thì, tâm sự với chiếc mái nứa của hội trường.
Những chiếc lá con thon dài, nhọn hoắt ríu rít khua vào nhau thành những tiếng
xào xạc như nhắc nhở mọi người: hôm nay khai giảng lớp học tập, chỉ một tí nữa
thôi sẽ có một tổ nữ tù ngoài trại nữ cùng vào dự chung lớp học hôm nay.
Thực ra cái nguồn tin
tươi sáng này chẳng biết từ đâu rỉ vào, anh em đã bàn tán xôn xao từ mấy hôm
nay rồi. Vì thế sáng hôm nay hầu hết những thanh niên, kể cả những chủng sinh
và những người còn tre trẻ đều mặc những bộ quần áo đẹp và sạch nhất. Mặt mũi,
đầu tóc được làm kỹ hơn mọi ngày. Dù ai cũng tỏ với mọi người khác là mình sạch
sẽ để tôn trọng lớp học mà thôi. Buồn cười nhất là anh chàng Hoàng Đức Tùng,
chừng khoảng 27 hay 28 tuổi. Nghe đâu anh này cũng ở Thái Lan về nước như Trần
Lào hay Trần Thanh Tùng trong nhóm chuyển từ trại Vĩnh Tiến về. Tùng có cái áo
sơ mi ca rô màu xanh nhạt bằng ny lông với chiếc quần tergal màu cà phê sữa.
Tuy có mấy dấu cải tạo, hắc ín to tướng đóng phía trước và đàng sau, nhưng nó
vẫn nổi bật màu riêng biệt giữa đám quần áo màu xám đậm của trại. Đầu Tùng chải
kiểu đít vịt bóng loáng, kết hợp với đôi xăng đan da màu nâu, kiểu hai quai
chéo. Rõ ràng đúng dáng dấp của một anh công tử nông thôn ra thành phố. Ngay từ
sáng sớm, Tùng cứ hết vào buồng lại trở ra, rồi đi xuống giếng lại lên phía đầu
hội trường, trước những con mắt ngẩn ngơ, trầm trồ của những người…dân tộc.
Hôm nay tôi cũng có nét xốn xang đợi chờ. Đây là một lớp
học chính trị vì thế tôi tin những người tù nữ vào dự lớp học này đều phải là
chính trị. Hơn nữa, hôm qua Lê Sơn đã nói, trong đám này có cả nữ sĩThụy An.
Như đã trình bầy trước
đây, tôi chưa bao giờ trông thấy bà. Khi còn ở trong Nam, tôi theo dõi đọc
thiên phóng sự “Bên kia bức màn sắt” của nhà văn Hoàng Hải Thủy đăng trên nhật
báo Tự Do; có nói sơ đến cuộc đời hoạt động cũng như tình cảm của nữ sĩ Thụy An
với Đỗ Đình Đạo và Hoàng Quốc Việt v.v… Cho tới khi tôi ra Hà Nội bị bắt; khi
chuyển đến buồng số 12 ở xà lim I, tôi đã thấy giòng chữ viết trên tường của
bà, nói đã chọc mù một mắt. Không ngờ, hôm nay tôi lại có thể gặp để nhìn thấy
con người của bà cụ thể mà từ lâu tôi vẫn hằng ngưỡng mộ.
Chẳng phải chờ lâu,
khoảng 8:30, một đám cán bộ nam, trong đó có một cán bộ nữ hãy còn trẻ chỉ
chừng tuổi đôi mươi tiến vào. Chính vì cùng đi chung với một cán bộ nữ mà đám
cán bộ nam cười nói vui như Tết; trong đó có cả tên Đức thiếu úy trưởng ban
giáo dục. Tiếp theo đám cán bộ là một đoàn tù nữ chừng 14 – 15 người. Đa số còn
trẻ, dù vậy cũng phải từ hai mươi mấy tuổi trở lên. Có mấy người già khoảng 60
hoặc 60 ngoài. Người thì vấn khăn, người thì cặp tóc, hầu hết đều ăn mặc quần
áo trại màu xám nhạt.
Khi đoàn tù nữ đi qua
sân để vào hội trường, có nhiều tiếng chào hỏi với anh em trong trại, chứng tỏ
họ đã quen biết nhau từ trước. Ngay từ sáng, vì tôi nóng lòng muốn biết mặt nữ
sĩ Thụy An nên tôi đã rủ Lê Sơn lên chỗ cuối hội trường đứng chờ. Thực ra lúc
này, chẳng phải chỉ có một mình Lê Sơn biết bà Thụy An mà có rất nhiều người
đang chỉ, chỏ kia là bà Thụy An.
Trước đây đọc sách báo,
biết về bà, trong óc tôi đã tự vẽ lên một hình ảnh tưởng tượng của nữ sĩ. Rồi
cứ thế nó cứ nằm dài theo năm tháng trong lòng tôi. Bây giờ nhìn thấy bà, tôi
đã bàng hoàng ngẩn ngơ đến độ đờ đẫn. Một bà chừng 45 đến 50 tuổi (1968) tuy
tóc chưa bạc nhưng đã khô cằn, đỏ quạch. Da mặt bà trắng xám, nhăn nhúm thành
nhiều vết hằn nhỏ con chạy túa về hốc chiếc mắt chột, hoắm sâu vào như một cái
lỗ. Mấy chiếc răng cửa hàm trên, chẳng biết do bà hút thuốc hay ăn trầu, cáu
xỉn lại, giồ hẳn ra ngoài môi, chĩa ra hai bên. Chiếc lưng hơi còng còng ra
phía trước đã nói lên nó đã phải gánh quá nặng những nỗi truân chuyên thương
đau của đời người chủ nó. Vì chỉ còn một mắt nên đầu bà thường phải nghiêng bên
này, nghiêng bên kia. Thỉnh thoảng bà mỉm cười để đáp lễ những người quen.
Tôi hiểu rằng, sau buổi
khai giảng lên lớp này, họ sẽ chia thành từng tổ học tập nên sẽ bị chỉ định chỗ
ngồi mỗi khi vào hội trưởng. Ngay lúc này, để tranh thủ tiếp cận với bà tôi đã
chen vượt qua mấy người để ngồi ngay sau lưng bà vì bà là người ngồi phía dưới
cùng của tổ nữ.
Bây giờ thì chỉ cách bà
50 – 60 phân, tôi đã nhìn rõ từng sợi tóc của bà. Đầu bà đã có dăm mười sợi tóc
trắng . Tôi ngồi phía sau cứ chằm chằm nhìn mãi tóc phai màu và đôi vai gầy của
bà, trí óc tôi cứ rỉ dần vào giòng đời. Tôi không thể hình dung ra được ngày
xưa, cái ngày ngập tròn hương sắc của đời bà đã làm cho biết bao người nghiêng
ngả, nó như thế nào? Dù tôi hiểu rằng, tất cả mọi người, nếu mà không biết, sẽ
đều phải trở về già. Tre già thì tre tốt, nhưng người già, mà lại buồn phiền
nữa thì ôi thôi, phải gánh chịu mọi cái bẽ bàng, tủi hận của một đời người. Tôi
vẫn không kìm hãm được tiếng thở dài nhè nhẹ xì ra:
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu
rồi! Chết dần từng nấc thang mai một, Chết cả mùa Xuân, chết cả đời.
Hội trường đầy ắp
người. Nhiều tiếng ồn ào, rì rầm bàn tán, chuyện trò. Không khí mỗi lúc một oi
nồng. Cả hội trường, chả ai nhắc nhở nhưng vẫn im bặt, khi một tên thượng sĩ
cán bộ trong ban tuyên huấn của trại tiến đến chiếc micro giới thiệu ông chánh
giám thị lên bục nói chuyện và khai mạc lớp học. Toàn thể mọi người tù đều phải
đứng dậy, khi tên Toán, thiếu tá giám thị trưởng trại cải tạo trung ương số I,
rời khỏi hàng ghế tiến vào bục nói chuyện. Người y to lớn, da dẻ hồng hào với
mọi người đều phải thẳng đứng người chào y. Mặt tươi lên, miệng y nở một nụ
cười thỏa mãn. Tay y vẫy vẫy ra hiệu bảo những tên tù ngồi xuống. Sơ lược nội
dung y nói:
Do sự chiếu cố thương
yêu của đảng; đứng đầu là Hồ chủ tịch kính yêu, chính phủ quyết định mở một lớp
học tập chính trị dài ngày: “Lập công chuộc tội, chống Mỹ cứu nước” cho toàn
thể những trại viên trên toàn miền Bắc. Riêng ban giám thị trại I đã không tiếc
thời gian và công việc, tạo điều kiện cho trại viên học tập kết quả. Vậy toàn
thể mọi trại viên hãy quyết tâm ra sức học tập cho thật tốt để gặt hái những
thành quả tiến bộ cho riêng mình và cũng là thể hiện lòng biết ơn ban giám thị
và nhà nước…..
Tôi liếc nhìn toàn bộ
các toán đang hướng mặt lên phía tên Toán nói chuyện. Tôi đưa mắt nhìn hàng ghế
các tên cán bộ đang ngồi trên khán đài. Năm sáu tên lúc nhúc trong đó có cả
Hoàng Thanh, đặc biệt không thấy tên Nguyễn Chuân.
Lòng tôi còn bồng bềnh,
lãng đãng vì tôi chưa hiểu mục đích chủ trương của chúng muốn cái gì trong lớp
học này. Tuy tôi vẫn biết ngoài những đòi hỏi dụng ý riêng của từng lớp học,
chúng còn có một mục đích chung là thường xuyên không để cho trí óc người tù
ngơi nghỉ. Mãi cho tới khi tên Mạch, trung úy trưởng ban tuyên huấn của trại I
nói về nội dung lớp học tôi mới hiểu: lập công ở đây là mỗi người đều phải đào
sâu suy nghĩ; vắt lòng vắt óc trong suốt quá trình của đời mình. Lục soát từng
không gian, từng thời gian xem đã nghe, thấy, biết bất cứ cá nhân hay một đảng
phái tổ chức chính trị nào dù là bạn bè hay thân quen; còn ở ngoài xã hội hay
đã vào tù; ở trong Nam hay ngoài Bắc, xét ra có hại cho cách mạng, cho nhà
nước, đều phải viết tỉ mỉ, chi tiết trình bầy sáng tỏ v.v… với nhà nước.
Để làm loãng, làm mất
cảnh giác mọi người về cái mục đích này của chúng, hàng ngày những buổi lên lớp
rồi về thảo luận, chúng giảng về tinh thần bất khuất, truyền thống chống giặc
ngoại xâm của dân tộc qua các thời đại. Từ bà Trưng, bà Triệu cho đến thời đại
Hồ Chí Minh.
Về kinh tế, chúng khích
lệ, khêu gợi nào là Tổ Quốc giang sơn gấm vóc giầu đẹp, tiền rừng bạc bể. Chúng
vẽ ra một bức tranh huy hoàng đầy tươi sáng của ngày mai khi quân và dân cả
nước tiêu diệt xong Mỹ và tay sai ở miền Nam v.v…
Đã mấy lần, trong những
giờ giải lao (15 phút) giữa hai buổi lên lớp, tôi đã định xông bừa đến chỗ bà
Thụy An để làm quen và thăm hỏi. Nhưng tôi cứ thập thò ngập ngừng mãi chỉ vì có
bao nhiêu người cứ xâu xâu vây quanh đám đàn bà con gái. Mà tính tình của tôi ở
những giai đoạn ấy còn rất nhiều lẩm cẩm. Tôi thập thò là chủ trương muốn đến
nói chuyện với nữ sĩ Thụy An, nhưng mấy cô gái đang được mấy cậu vây quanh
chuyện trò có thể tưởng tôi cũng ngất ngây muốn đến với các cô, là điều mà tôi
kỵ, chúa ghét. Khi thấy một cô gái có nhiều cậu trai quấn quít thì tôi tránh
xa, không bao giờ tôi lại xông vào cũng săn đón chuyện trò chung với họ. Điều
này chẳng hiểu sao tôi lại kỳ cục như vậy.
Do cái tính kỳ cục một
cây ấy mà mãi chiều ngày hôm sau tôi mới có dịp nói chuyện với bà Thụy An. Lúc
đó vừa mãn một giờ giảng bài, thấy bà vội vàng đi một mình xuống phía giếng,
tôi lẹ làng lách đám đông chạy theo. Khi đi ngang qua, hơi hồi hộp và ngường
ngượng vì tôi chưa biết gọi là bà hay là chị, nên đành phải nói trống không,
không có chủ từ. Tôi nghiêng đầu chào rồi nói một hồi:
- Xin chào, tôi ở trong
Nam ra Hà Nội hoạt động tình báo, bị bắt vào Hỏa Lò. Tại xà lim I, khi bị giam
ở buồng 12, tôi thấy chữ viết trên tường của…ở gần chỗ cái cùm.
Bà Thụy An ngừng hẳn
lại, hơi ngạc nhiên nhưng rồi có lẽ bà đã nhìn thấy thái độ lúng túng của tôi
nên bà cười, vồn vã hỏi lại:
- Cậu còn đọc được cơ
à, thế cậu lên trại lâu chưa?
Thấy gọi tôi bằng cậu
và sự ân cần tự nhiên của bà, phần khác, tôi thường chỉ lấn cấn lúc đầu, bởi
vậy tôi cũng niềm nở tỏ ân tình:
- Chị có khỏe không?
Chị hơi ngập ngừng rồi
trả lời:
- Khỏe!
Tôi hiểu cái ngập ngừng
của chị là chị không được khỏe, nhưng để cho qua nên chỉ đã trả lời như vậy.
Sau khi chị nói “khỏe” xong, mặt chị tươi lên rồi nói như thân tình:
- Chờ một chút nhé, tối
ra mình sẽ nói chuyện tiếp.
Đột nhiên chị cúi sát
gần vào tôi hạ giọng:
- Cậu tên gì?
- Bình ạ!
Chị vừa gật nhẹ đầu vừa
tất tả bước lên thêm để vào buồng y tá. Quý Cụt đi ngang qua tôi miệng cười
cười:
- Quen đấy ư?
Tôi chỉ gật đầu để trả
lời Quý vì một ý nghĩ khác đã xộc vào óc tôi. Trông mặt chị ấy như vậy mà lại
đã từng giết người hay sao? Bởi thế tôi có ý định cứ hỏi thẳng xem chị trả lời
thế nào. Tôi cũng biết làm gì có điều kiện để nói chuyện với chị nhiều. Vừa lúc
đó tiếng còi ở phía hội trường đã ré lên như thúc giục mọi người vào lớp nghe
giảng bài tiếp vì giờ giải lao đã hết.
Chị từ trong phòng y tá
hấp tấp bước xuống sân đi nhanh về phía tôi. Chị khẽ đập tay vào vai tôi ra ý
cùng chị đi vào lớp. Thái độ cởi mở như chị đã quen tôi lâu ngày càng làm tôi
mạnh bạo thực hiện ý định lúc nãy khi cùng chị đi đến giữa sân:
- Xin lỗi chị, chẳng có
điều kiện gặp được chị lâu. Có phải chính chị đã đánh thuốc độc giết ông Đỗ
Đình Đạo?
Đang bước những bước
dài, đột nhiên chị ngừng hẳn lại, quay sang nhìn tôi. Mắt mở to trán chị cau
lại như ngạc nhiên, như dò xét rồi mặt chị như dãn ra, mềm hẳn lại:
- Không phải đâu, câu
chuyện dài lắm. Có dịp tôi sẽ nói cho cậu nghe.
Chị vừa lắc đầu vừa trả
lời, cũng là lúc cả chị và tôi đã chìm lẩn vào đám đầy người ở hội trường. Lớp
học trong một tuần lễ, cứ hết lên lớp nghe giảng lại về tổ sinh hoạt, thảo
luận, thu lượm rồi lại lên lớp. Tổ học tập phân chia không tùy thuộc theo toán,
mà theo toàn trại. Vì vậy mỗi tổ từ 15 đến 20 người gồm người của nhiều toán
khác nhau. Mỗi tổ học tập có một cán bộ đi sát phụ trách. Tôi ở tổ 4, cán bộ
phụ trách tên là Hoàng. Y chỉ định cho anh Phán thuộc toán 7 làm tổ trưởng, còn
tôi là thư ký ghi chép biên bản sinh hoạt. Tổ tôi 19 người mà chỉ có 4 người
thuộc toán 2 là Nguyễn Văn Gôm, Lò Văn Lui, Nguyễn Thanh Đương và tôi.
Trong đợt học tập này,
tôi nhớ nhất một chuyện ở ngay trong tổ của tôi. Sáng hôm đó, trên lớp giảng ở
hội trường, chủ đề sinh hoạt là: “Cuộc kháng chiến thần thánh oai hùng của vị
anh hùng Lê Lợi đất Lam Sơn đã kiên trì, chiến đấu gian khổ trong 10 năm. Cuối
cùng đã đuổi được giặc Minh ra ngoài bờ cõi. Người góp công sức nhiều nhất và
cũng đầy tài ba mưu lược nhất của cuộc kháng chiến đó là Nguyễn Trãi”.
Tên Mạch trung úy
trưởng ban tuyên huấn cứ thao thao bất tuyệt trên bục giàng: nào là Nguyễn Trãi
trong giai cấp nông dân. Một giai cấp đồng chí của giai cấp công nhân sau này
của đảng. Nào, tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, cứ như là của một người cộng
sản thời bấy giờ. Mọi người nghe, thấy ngứa cả tai. Vì vậy khi đến phần thắc
mắc về bài giảng; chỗ nào học viên chưa hiểu, hoặc chưa sáng tỏ cứ việc hỏi.
Nguyễn Thanh Đương một tu sĩ ở trại Vĩnh Tiến mới chuyển về, giơ tay xin hỏi.
Tên Mạch, mắt sáng lên, mặt hớn hở ra hiệu tay cho anh Đương đứng lên phát
biểu..
Nguyễn Thanh Đương,
dáng người lùn thấp. Tôi nhớ anh nhất vì phía đuôi hai con mắt của anh có nhiều
tia ngoằn ngoèo đỏ như máu. Chả hiểu đó là do bệnh đau mắt của anh hay từ khi
bẩm sinh? Anh phát biểu rất từ tốn, nằng nặng giọng Nghệ An:
- Thưa ông, theo tôi
hai ông Nguyễn Trãi và Lê Lợi rất phong kiến. Đi đến đâu cũng kẻ hầu người hạ,
thường ngồi trên ngai, trên kiệu. Tư tưởng thống trị và bóc lột đã thể hiện ra
cách sống. Bởi vậy, nếu hai ông ấy sống lại bây giờ, chắc chắn đảng ta sẽ cho
hai ông đi cải tạo mút mùa.
Ai nghe cũng tươi mặt
lên và buồn cười, nhưng chỉ có vài người cười thành tiếng. Trên bục nói chuyện,
tên Mạch xạm hẳn mặt lại, sượng sùng một lúc rồi y nói ngập ngừng:
- Nguyễn Trải và Lê Lợi
là hai vị anh hùng của dân tộc, làm sao lại cho đi cải tạo?
Nói đến đây tự nhiên
mặt y đanh lại, mắt quắc lên chỉ tay vào anh Đương:
- Vì máu anh là máu
phản động, nên mới hỏi bậy bạ như vậy. Về tổ học tập, mọi người trong tổ phải
giải phẫu thật kỹ càng tư tưởng phản động ấy.
Rồi để khỏa lấp cái
không khí nặng nề đã đọng lại từ khi có câu hỏi của anh Đương, y khỏa tay hỏi
nhanh: “Còn ai thắc mắc điều gì khác?” Sau đó y chuyển sang mục thi đua học
tập. Chắc tên cán bộ Hoàng phụ trách tổ tôi có chỉ thị đặc biệt, nên y đã bắt
tổ sinh hoạt kiểm điểm về chuyện anh Đương mãi tận lúc kẻng lấy cơm mới thôi,
trong khi hầu hết các tổ khác đã nghỉ trước đấy gần một giờ rồi. Chưa xong, sau
một tuần lên lớp. Đến giai đoạn cá nhân ngồi viết tường thuật cuộc đời, anh
Đương lại phải vào nhà kỷ luật. Anh mới ra khỏi kỷ luật hơn nửa tháng trước vì
chuyện giật tượng ảnh của Hoàng Thanh.
Về chuyện của chị Thụy
An những ngày sau đó, tuy có mấy lần gặp lại chị nhưng chỉ cười hoặc gật đầu
chào nhau chứ chưa có dịp nào để tôi nghe tiếp câu chuyện của chị.
Sau một tuần lễ lên lớp
nghe giảng và thảo luận, đến phần viết tường thuật cuộc đời của mỗi người. Một
tuần sau nữa, tổ nữ lại vào trại E để dự buổi lễ bế mạc của lớp học. Người nào
viết xong thì nộp cho cán bộ phụ trách rồi tiếp tục đi lao động. Người nào chưa
viết xong thì cứ tiếp tục. Cán bộ đã nhắc nhở rõ ràng:
“Viết tỉ mỉ chi tiết,
khẩn trương nhưng không hạn chế thời gian”.
Hơn một tuần lễ sau, số
người viết xong đến 90 phần trăm, vì thế lớp học đã coi như bế mạc. Chính cái
buổi bế mạc lớp học này tôi gặp lại chị Thụy An một lần nữa. Cũng vào giờ giải
lao, tôi đang ngồi nói chuyện với Nguyễn Văn Gôm ở hàng ghế phía cuối hội
trường, thì chị Thụy An đã đến với tôi. Tay chị đang cầm một tập giấy dầy đã
viết rồi. Có thể đấy là bản viết tường thuật cuộc đời của chị, cũng có thể là
bản thâu hoạch ghi chép những ý tưởng của cán bộ giảng. Bởi vì ngay từ hôm nọ,
tôi đã hiểu chị là tổ trưởng của tổ nữ duy nhất ấy. Tôi và nhiều anh em khác đã
trầm trồ bán tán nhìn chị ngồi ghi những ý của cán bộ trên bục giảng. Tay chị
thoăn thoắt ghi chép như máy. Tôi có cảm tưởng như chị viết tốc ký.
Sau khi tôi và Gôm vồn
vã chào chị, chị ngồi ngay xuống chiếc ghế dài bên cạnh, đặt tập giấy trên đùi,
chị vừa cười vừa hỏi tôi:
- Thế cậu Bình ra Bắc
từ bao giờ và bị bắt lâu chưa?
>
- Tôi ra năm 1962, gần
một tháng sau thì bị bắt vào Hỏa Lò.
Tôi trả lời chị như
vậy, vì Gôm cũng đã biết. Chị nhìn tôi mắt chị loáng lên một chút tiếc nuối:
- Bị bắt sớm quá!
Do hoàn cảnh và thời
gian hạn chế, tôi hơi gật đầu như đồng ý với chị. Tôi nghĩ chả cần thanh minh,
thanh nga lôi thôi; nhưng Gôm lại bật lên, tỏ ra như một người bạn thân của
tôi:
- Công tác của Bình
ngắn hạn có 25 ngày thôi mà.
Nỗi băn khoăn của chị
như được vơi hẳn, chị quay sang Gôm đon đả:
- Thế còn cậu?
Gôm thì mồm mép một cây
nên cũng vồn vã xưng với chị là em:
- Em ở Hà Nội.
Sau khi biết Gôm ở số
42 Khâm Thiên, chị Thụy An lại hỏi Gôm về một người ở Hà Nội mà Gôm cũng biết.
Mắt tôi cứ nhìn vào tập giấy chị đang để trên đùi. Mục đích muốn nhìn nét chữ
của chị, nhưng tôi lại thấy một góc trang giấy phần ghi lý lịch: “Lưu Thị Yến,
thôn Hòa Xá, tổng Thái Bình, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông”. Óc tôi vẩn vơ thấy
chiều hướng không thể nói chuyện được với chị lâu nữa, phần nữa tôi có nghĩ đâu
rằng, có một ngày tôi sẽ phải ngồi viết về chị. Cho nên lẽ ra tôi phải hỏi ngay
chị một số chi tiết cần thiết, tôi lại lửng lơ hững hờ buông trôi theo sự việc.
Để rồi mãi gần ba năm
sau, tôi đã được chuyển về trại chính (trại xây), thời gian ấy tôi ở toán làm
nhà. Một lần toán tôi phải dựng một chòi gác phía sau trại nữ, tôi thoáng thấy
một bà già chít khăn vuông thâm, khòm lưng đang đưa dài mái chổi quét con đường
đi phía sau trại. Khi bà ta ngẩng đầu lên, tôi đã bàng hoàng đến thộn người ra;
không ngờ đó lại là chị Thụy An. Người chị gầy đi, bé nhỏ hẳn lại.
Nhìn thấy tôi chị mừng
rộ ra nét mặt. Chị thăm hỏi tôi ríu rít như người thân lâu ngày mới gặp lại. Vì
sợ lão cán bộ của toán tôi biết, cho nên sau những câu thăm hỏi về sức khỏe,
tôi chỉ biết chị được ra làm tự giác hơn một năm nay. Do tù lâu, và do tuổi già
sức yếu nên giám thị trại cho chị hàng ngày đi lao động tự giác (không có cán
bộ dẫn giải). Phần việc là làm vệ sinh quét dọn ở trong trại cũng như những khu
vực bên ngoài trại.
Chừng hơn nửa giờ sau,
trong lúc tôi còn đang mải mê lao động với toán, thừa một lúc tên cán bộ toán
không có ở đấy, chị đã lén đưa cho tôi hơn 1 kg sắn đã luộc rồi. Và đấy là lần
cuối cùng tôi nhìn thấy chị cho tới bây giờ. Vào đầu năm 1976. Lúc tôi đang ở
trại tù Phong Quang, trại trung ương số II, nằm trong tỉnh Yên Bái. Trong một
lần nói chuyện vui với anh Kiều Duy Vĩnh, anh cho biết loáng thoáng: nghe đâu,
cuối năm 1973, chị Thụy An bị bệnh nặng, gần chết (không rõ bệnh gì) nên cộng
sản đã thả chị về Hà Nội. Không hiểu từ đấy, cuộc đời chị rồi ra sao? Sau nhiều
những năm, tháng nổi trôi trong tù, tôi không hề còn nghe ai nhắc về chị nữa.
Tóm lại, sau đợt học
tập “Lập công chuộc tội, chống Mỹ cứu nước” qua Nguyễn Văn Gôm và bác Lẫm tôi
chỉ được biết sơ một chút về cuộc đời của bà Thụy An như sau:
Bà là con gái ông thủ
quỹ họ Lưu. Người ta thường gọi là ông Quỹ Lưu ở Hà Đông. Bà nói tiếng Pháp rất
rành, thường giao du với những đặc phái viên của hãng thông tấn xã Pháp
(A.F.P.). Không những bà viết sách báo, mà còn đôi khi bán tin tức cho các nhật
báo Việt ngữ ở Hà Nội nữa. Bởi thế có dư luận bà là người thân Pháp mới có
những tin tức đặc biệt như vậy. Hơn nữa, bà lại rất hăng say, năng nổ về lãnh
vực chính trị nên cũng có tiếng vang trong nữ giới ở Hà Thành.
Khoảng cuối 1946, cuộc
chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Dần dà Pháp dùng Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân kỳ
cựu của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông Đạo được Pháp giao trách nhiệm thành lập
hai tiểu đoàn khinh quân tự trị do Pháp võ trang hoàn bị, gọi là quan thứ lưu
động. Mục đích để bình định, mở rộng vòng đai thuộc vùng quốc gia và quấy phá
Việt Minh. Tất nhiên cả về tài chính cũng như những phương tiện khác cho hai
tiểu đoàn đều do Pháp đài thọ. Đỗ Đình Đạo lại không khá tiếng Pháp vì vậy Pháp
đã gài bà Thụy An vào làm chánh văn phòng để giao dịch bằng văn thư với Pháp
hoặc thông dịch trong những khi giữa Pháp và Đạo cần đàm thoại.
Đại bản doanh của hai
tiểu đoàn khinh quân thuộc thứ lưu động kể trên đóng căn cứ tại Ngã Tư Sở, ranh
giới giữa Hà Nội và Hà Đông. Dư luận của chính giới cũng như của Hà Nội bấy giờ
đều cho rằng: do điều kiện và cảnh sống tiếp cận như vậy đã tạo lên một mối
tình luyến ái giữa hai người. Vả lại họ thường thấy hai người đi đôi như một
cặp bài trùng. Nhất là lúc này, mỗi khi bà viết báo hay truyện lại thường lấy
bút hiệu là Thụy An Hoàng Dân. Mà Hoàng Dân lại là bí danh của Đỗ Đình Đạo.
Mỗi tháng Pháp phải trả
lương cho hai tiểu đoàn này số tiền 350.000 đồng tiền bấy giờ. Vào đầu năm
1954, lúc này tình hình chiến sự rất căng thẳng ở khắp nơi thuộc ba nước Việt +
Miên + Lào, mà gay go nhất là trận chiến Điện Biên Phủ. Một lần vào cuối tháng
cũng như mọi khi, buổi chiều Đỗ Đình Đạo đánh xe đi Hà Nội nhận tiền về, để
phát lương cho binh lính dưới quyền. Nhưng sáng hôm sau, người lính cận vệ
không thấy Đỗ Đình Đạo ở đại bản doanh cũng như ở văn phòng làm việc tại nhà.
Anh ta vào gõ cửa buồng ngủ cũng không có tiếng trả lời. Anh đi kêu mấy người
đồng đội phá cửa vào phòng thì thấy Đỗ Đình Đạo chỉ còn là cái xác không hồn,
nằm cứng đơ ở cạnh tủ áo. Còn Thụy An là chánh văn phòng thì mất tích. Sau hai
ngày im lặng để nhà chức trách điều tra, báo chí Hà Nội đã tung tin rùm beng:
“Đỗ Đình Đạo bị chết vì thuốc độc. Dư luận kết tội Thụy An đã đầu độc Đỗ Đình
Đạo.” Sau đấy hai tiểu đoàn khinh quân trở thành địa phương quân thuộc tỉnh Hà
Đông.
Theo dư luận báo chí
thời gian ấy, chả hiểu là đúng hay sai: Thụy Anh ẵm số tiền kếch xù về quê
thuộc vùng kiểm soát của Việt Minh, đem dâng nộp cho ủy ban hành chính kháng
chiến huyện Ứng Hòa để lập công chuộc tội. Nhưng nghe đâu Việt Minh không tin,
chúng đặt vấn đề đây là do Pháp làm mồi để cài Thụy An vào hàng ngũ kháng
chiến; cho nên tiền thì chúng lấy, còn người thì chúng giam để khai thác.
Sau hội nghị Genève về
Đông Dương, chúng đem bà về quản chế tại địa phương. Nhưng vào đầu năm 1958, bà
bị bắt lại trong chiến dịch cộng sản đánh phá văn nghệ sĩ miền Bắc xuyên qua
phong trào “Nhân văn giai phẩm” đã gián tiếp phản đối sự lãnh đạo văn hóa tuyệt
đối của đảng. Lợi dụng dịp “Trăm hoa đua nở” này, bà cũng viết mấy bài báo đăng
trên tuần báo Văn tỏ ý gián tiếp chống đối lề lối văn nghệ chỉ huy của đảng.
Lần này chúng bắt bà với tội danh: phản tuyên truyền và làm gián điệp cho CIA
Mỹ. Khi khai thác cung bà ở Hỏa Lò, chúng cứ gán ghép, truy hỏi: những mạng
lưới tình báo thuộc phòng nhì của Pháp ở miền Bắc, bây giờ đã được chuyển sang
cho tình báo Mỹ.
Tôi ngồi nghe bác Lẫm
kể về chị Thụy An, nhưng lòng vẫn bán tin, bán nghi chưa hiểu đâu là sự thật
của vấn đề, bởi vì dư luận có phải bao giờ cũng chính xác đâu.
38. Đời Tù Cũng Có Cái Vui
Tôi đã nói nhiều về Nguyễn Văn Gôm chỉ vì Gôm đã trở thành
người bạn tư tưởng của tôi. Hàng ngày chúng tôi chuyện trò với nhau thật là
thoải mái tâm đắc, tin cậy lẫn nhau. Tôi nhớ lại, chỉ sau mấy ngày Gôm ở trại
Vĩnh Tiến chuyển về. Tôi để ý một anh cứ vào những buổi trưa, hoặc buổi tối sau
giờ sinh hoạt của toán hay tổ. Anh có một ngọn đèn con tí làm bằng chiếc lọ
Peniciline; anh ngồi miệt mài đọc sách. Cho đến một buổi tối hôm ấy, một tên bộ
đội đi đi, lại lại gác bên ngoài đã đập báng súng vào cửa sổ chỗ anh ta đang
ngồi đọc sách quát inh ỏi:
- Anh này đọc sách gì
đấy, đưa đây coi!
Tiếng quát làm cho
nhiều người quay lại theo dõi. Từ mấy hôm trước tôi cũng đã hơi tò mò muốn biết
anh đó đọc loại sách gì nên tôi đã tiến lại gần chỗ tên bộ đội. Tên bộ đội, lôi
cuốn sách ra ngoài song cửa, dùng đèn bấm coi; y lật, mở các trang sách; y cho
sát miệng vào cửa sổ dằn từng tiếng như hạch hỏi:
- Sách gì mà toàn hình
thế này?
Anh đọc sách có một cái
cười thật đáng ăn quả thụi, anh ta còn nhay nháy mắt trả lời:
- Sách “Maths” của Liên
Xô đấy!
Chắc thấy nói tới Liên
Xô nên giọng tên bộ đội dù còn vẻ thắc mắc nhưng đã dịu hẳn lại. Y thò cuốn
sách vào trong song cửa trả lại:
- “Mát” là cái gì? Cứ
vẽ bậy, vẽ bạ thôi à!
Anh đó cầm lấy cuốn
sách, nụ cười riễu cợt lại càng xòe rộng thêm ra. Anh quay lại cũng vừa bắt gặp
cái cười đồng tình của tôi. Khi tôi nhìn chiếc bao tải nằm một đống trên cái kệ
phía đầu nằm của anh tôi mới chợt nhớ lại. Hôm tên Cẩn khám, đổ bao tải ra chỉ
toàn là sách, đủ loại to, nhỏ, dầy, mỏng, nặng chịch. Đến bây giờ tôi mới hiểu
toàn là sách toán. Cho nên khi thấy anh muốn mời tôi ngồi nói chuyện, tôi đã sà
ngay xuống, rồi chúng tôi quen và thân nhau từ đấy.
Chúng tôi quen và thân
nhau, phải nói vì nhiều lý do Gôm tỏ ra rất sắc sảo, khôn quái. Anh có những
cái nhìn bén nhậy, sâu sắc về cộng sản. Về mặt nào đó anh cũng là một con người
có chí. Anh tâm sự với tôi: “Chương trình toán cao cấp, bên ngoài thường phải
học 8 năm. Nhưng trong tù thiếu sách vở lại không có thầy, tôi chủ trương sẽ
đeo đuổi ròng rã 12 năm cho xong. Tôi sẽ đi được, bởi vì toán học độc lập với
chính trị, càng lại không có tư tưởng cho nên chúng sẽ chẳng làm gì tôi được.”
Gôm đã đeo đuổi được bốn năm rồi.
Thấy một người có chí
dài như vậy tôi càng khích lệ, động viên để họ đi đến đích. Tôi ngưỡng mộ và
mến Gôm vì Gôm là con người sắc sảo và có chí. Ngược lại, Gôm có thiện cảm với
tôi chỉ vì từ lâu anh rất thích ngành điệp báo. Anh đã từng xem nhiều sách, báo
phim ảnh về loại này, nay anh gặp tôi một điệp viên do CIA đào tạo, huấn luyện từ
trong Nam ra. Theo cái óc tưởng tượng có sẵn của anh trước đây, hẳn tôi cũng
phải ít nhiều có cái gì đó khác người, nhất là trí thông minh. Anh có biết đâu
rằng, nếu anh đọc rõ được những suy nghĩ trong óc tôi, anh sẽ thấy tôi đang
ngưỡng mộ, phục anh sát đất. Tôi đang buồn và tự trách tôi: “tại sao trong cuộc
đời lại có nhiều người thông minh, thế mà cái óc của mình lại tồi như vậy.”
Chính vì những cái lắt
léo của tình đời như trên, nên đã đẻ ra một kỷ niệm khó quên giữa tôi và Gôm.
Tôi còn nhớ Gôm có một trò chơi ngộ nghĩnh, để thử thách tôi trong những buổi
ban đầu chúng tôi quen nhau; để rồi đến hàng chục năm sau chúng tôi còn buồn
cười khi nhắc tới:
Một buổi sáng, tôi và
Gôm ngồi bên nhau trong hàng đôi của toán, chờ tên Cẩn gọi xuất trại đi lao
động. Gôm quay sang tôi nhỏ nhẻ, tỉ tê. Đại cương như sau: để cho đỡ buồn, để
óc đỡ phần nào suy nghĩ về những cảnh đen tối của đời tù, Gôm sẽ đố chơi tôi
một bài toán, nội dung: có một nhà tư sản Mỹ đi công cán kinh doanh ở Âu Châu.
Sau một số ngày, ông ta gặp được một chuyện làm ăn không dự trù trước. Ông ta
phải cần có thêm một số tiền, vì thế ông ta gửi một bức điện gấp về Mỹ cho ông
tổng quản lý của ông ta, bảo cần gửi ngay tiền cho ông ta. Óc thực tế của người
Mỹ đã trở thành truyền thống “không trả, không tiền, dù một xu cho những cái gì
thừa thải, vô ích.” Vì vậy bức điện càng ngắn gọn bao nhiêu, để càng trả ít
tiền thì càng tốt bấy nhiêu. Với điều kiện công viêc hết quả thỏa đáng. Hơn
nữa, ông ta cũng tin vào khả năng minh mẫn, bén nhậy của người quản lý thân tín
mà ông đã thử thách, thực nghiệm nhiều lần.
Nguyên văn bức điện như
sau: SEND MORE MONEY. Nếu đúng theo trọn ý của câu thì phải viết: “Send me more
money”. Nhưng bỏ chữ “me”, người quản lý vẫn hiểu đầy đủ bức điện mà không phải
trả tiền cho chữ “me”. Với sự sáng suốt của ông tổng quản lý, nhà tư sản tin
chắc chắn sẽ nhận được đúng số tiền mà ông ta muốn.
Nếu bạn là người quản
lý, bạn sẽ gửi bao nhiều tiền? Toán thì chỉ có một đáp số, vậy số tiền phải là
duy nhất”. Theo Gôm, bài toán này, trước đây có người đã đố Gôm. Sau một tuần
Gôm đã tìm ra đáp số. Bây giờ, do nhiều năm tháng tù đầy đau thương khổ cực,
đầu óc sẽ giảm sự linh anh, bén nhậy; do đấy Gôm sẽ cho tôi thời hạn là một
tháng. Nếu trả lời đúng, Gôm sẽ thưởng cho một gói thuốc lào hai hào.
Tuy trong lòng vẫn đầy
ắp mối băn khoăn, lắng lo vì sự hiểu biết và trình độ của mình chỉ có hạn.
Nhưng dù sao thời gian ấy, tôi vẫn còn cái tính sục sạo, háo thắng của người
thanh niên. Vì thế sau khi hỏi lại biết là không còn một chi tiết nào nữa bổ sung
cho bài toán, tôi đã bắt tay Gôm nhận lời.
Như trên tôi đã trình
bầy, do bản tính hãy còn sôi nổi; điều gì còn mập mờ, ẩn giấu trước mặt, tôi sẽ
phải tìm cho ra với khả năng tối đa của mình. Ngoài khả năng và điều kiện thì
chịu. Chính vì vậy, từ buổi nhận lời với Gôm, bất cứ ở đâu hay làm gì; lúc lao
động cũng như lúc ăn uống; ỉa đái tắm rửa, thậm chí ngay trong giấc ngủ; bài
toán cũng chen lấn vào làm cho giấc ngủ không yên. Còn một điều nữa, tuy không
rõ nét nhưng nó nằm sâu trong một ngách của lòng tôi, cũng thúc đẩy sự quyết
tâm, tôi phải tìm ra đáp số của bài toán. Đó là tôi cứ tưởng như nếu tôi không
giải được bài toán này không những Gôm chỉ coi thường cá nhân tôi mà Gôm còn
coi thường dù không nhiều cả cái miền Nam tự do thân yêu của tôi nữa.
Chính vì có nhiều những
cái ngấm ngầm kéo lôi như vậy nên chỉ tới ngày thứ ba tôi đã tìm Gôm để giải
bài toán này. Gôm đã vồ cả hai tay vào vai tôi đập bành bạch, chào mừng một
người bạn trí óc hãy còn tương đối tốt. Dĩ nhiên là tôi không quên nhận gói
thuốc lào hút cho nó đã, cho nó sướng cái đời gió mưa.
Kỳ này trong trại cũng
có một câu chuyện buồn cười, dù nho nhỏ nhưng tôi vẫn không quên được. Chẳng
hiểu từ bao giờ và do ai bắt đầu thì cũng khó mà ai biết. Về cái tục lệ lưu cữu
từ hàng bao nhiêu năm nay là đêm đêm bất cứ trại viên nào muốn dậy đi đái, đi
ỉa đều phải báo cáo cán bộ, dù có cán bộ hay không cán bộ. Nếu ai phát giác
được anh nào dậy vào nhà xí mà không báo cáo là anh đó bị vi phạm nội quy. Bị
kết tội là có ý tưởng mờ ám hoặc định trốn tù.
Vấn đề này đã gây ra
biết bao nhiêu cảnh cấu xé, chụp mũ cho nhau; thậm chí gây thành thù oán muôn
đời. Bởi thế hàng đêm, khúc nhạc đi ỉa, đi đái đã làm quen tai mọi người cũng
như tiếng ho tiếng hắng dặng.
“Báo cáo ông cán bộ,
tôi xin đi ỉa!”
Phải nói rằng trong
lòng mọi người tù, dù là ai; tiến bộ hay không tiến bộ thì cũng đều ít nhiều
tức bực cho cái việc phải báo cáo phiền toái, miễn cưỡng này. Có lẽ vì vậy, câu
báo cáo, điệu nhạc đêm đi ỉa, đi đái cứ rút ngắn lại dần theo năm tháng.
- Báo cáo ông, tôi xin
đi đái!
- Báo cáo ông, xin đi
đái!
Nhưng từ ít lâu nay,
chẳng biết có ai bảo ai mà hầu như buồng nào cũng vậy. Khúc nhạc đi đái đã đổi
nốt thành như sau:
- Báo cáo ông…..đi đái!
- Báo cáo….. ông đi
đái!
- Báo cáo…... ông đi ỉa!
Cứ thỉnh thoảng khúc
nhạc lại được tấu lên giật đùng đùng trong đêm khuya. Bất cứ ai nghe thấy cũng
phải buồn cười, thinh thích. Mà tụi cán bộ đi tuần đêm bên ngoài, chắc sẽ tức
ói mật, lộn ruột ra ngoài. Lúc đầu ban giáo dục còn chỉ thị xuống toán, buồng sinh
hoạt, tìm cho ra kẻ nào lại dám báo cáo láo lếu như vậy. Nhưng có thể đây là
một quyền lợi chung của mọi người tù, dù cho là loại chó má, antenne, chỉ điểm
cũng không muốn cho nên các buồng đã cọ sát, sinh hoạt mấy buổi tối liền nhưng
đều vô hiệu. Hơn nữa, vấn đề này rất tế nhị, người ta có muôn ngàn lý do để trả
lời. Thí dụ:
Rõ ràng tôi nói: “Báo
cáo ông, xin đi ỉa!” nhưng ai đó, một khi đã có ấn tượng trước nên mới nghe ra
thế khác; hoặc đang báo cáo thì bị nghẹn v.v…
Tóm lại, khi mọi người
đã ít nhiều đồng tình thì chả bao giờ tìm ra thủ phạm cả. Và từ đấy, cho đến
sau này, chúng tôi không còn ai nghe thấy khúc nhạc đêm “bất đắc dĩ” ấy nữa.
Chắc rằng ban giáo dục cũng thấy khó mà tìm ra được thủ phạm; vậy thà cho chúng
nó miễn báo cáo đi, còn đỡ tức. Chứ cứ đêm đêm nghe chúng nó báo cáo, về nhà
lòng cuộn lên anh ách, ăn cơm cũng mất cả ngon.
39. Chiếc “hồ lô” Của Thân Lân
Có lẽ trời đã vào giữa hay cuối Thu. Những chiếc lá nứa
từng ngày đổi thành mầu vàng đậu phụ rán. Một vài làn heo may lảng vảng làm ráo
hoảnh những đám rêu đầu hè, làm những làn da tay chân căng ra lăn tăn, gờn gợn
ngứa. Hương Thu nồng nồng, ngai ngái thấp thoáng trong bụi chuối đầu giếng. Hẳn
trong rừng sâu đã có những chú nai vàng ngơ ngác đang đạp trên những lá vàng
khô.
Sáng hôm nay đang lúc
trại chia sắn sớm, có tiếng một con chim kêu rất lạ trong bụi nứa già phía cuối
hội trường. Cứ một đợt 3 tiếng một: hù lú… hù lú… hù lú…
Gợi trí tò mò, cầm đĩa
sắn luộc chạy về phía bụi nứa, tôi vừa ăn vừa ngấp nghé nhìn trong đám lá nứa
rậm xì. Kìa rồi, cho tới lúc nó hót tôi mới nhìn thấy. Những hai con, mà chỉ có
một con hót. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy loại chim này. Chiếc mào mầu nâu tươi
gồ lên, một chiếc lông trắng như bông đang ngoe nguẩy với gió trên chỏm của
chiếc mào, trông như chiếc ngù của một vị hầu tước. Đặc biệt là cái đuôi mầu
xanh cánh chả dài thuổng, nhọn hoắt, cứ ưỡn lên rồi hạ xuống liên hồi. Cái con
mình hơi nhỏ hơn, cứ thỉnh thoảng lại cất tiếng hót lạ; trong khi con lớn hơn
đứng bên cạnh, có lẽ là con trống, thỉnh thoảng lại quay nhìn con mái. Mỗi khi
con mái hót, tôi nhìn và lắng nghe kỹ; rõ ràng con trống lại hơi gật gật cái
đầu và có tiếng ừ ừ … rất nhỏ.
Cứ mỗi lần con mái kêu
“hù lú” thì con trống lại “ừ” rồi chúng cùng nhìn xuống chiếc hè phía sau hội
trường. Ở đấy có anh chàng Thân Lân, người tù đơn độc, cách biệt hết với mọi
anh em tù trong trại. Anh đang ngồi riêng biệt một mình nhai sắn, bên cạnh
chiếc lọ thần kỳ mà từ anh em trong trại cho đến những tên cán bộ đều gọi là
chiếc “hồ lô” của Thân Lân.
Tôi ngồi bần thần, đôi
khi đưa mắt nhìn đôi chim vẫn đu đưa trong bụi nứa. Tai thẫn thờ chờ nghe tiếng
chim hót lạ hòa với gió heo may như tiếng của mùa Thu gọi nhịp cho núi rừng.
Tiếng chim hót lúc này tôi lại nghe ra là hồ hô… hồ lô… hồ hô… vì cũng là lúc
Thân Lân đã ăn sắn xong, anh đang dốc ngược chiếc “hồ lô” vào miệng để đón nhận
một ngụm đầy cái nước đùng đục, lờ lờ mầu cánh cam phía bên trong.
Chiếc “hồ lô” có sức
kéo tôi khỏi bụi nứa, rời đôi chim lạ để tiến về chỗ Thân Lân. Hơn nữa gần 4
tháng nay, từ ngày Thân Lân ở trại Vĩnh Tiến chuyển về, hầu như anh chẳng nói
chuyện với ai. Anh chỉ thích lủi thủi riêng biệt một mình nên càng gợi trí tò
mò của tôi.
Ngay từ những ngày đầu
tôi đã để ý thái độ lạnh lùng, cách ly với mọi người của anh. Gôm và các anh em
ở trại Vĩnh Tiến về cho biết, anh là cán bộ tập kết, hình như ở Quảng Nam hay
Quảng Ngãi gì đó. Người ta không biết cấp bực của anh, chỉ biết anh là bộ đội
chính quy. Anh bị bắt vì tội phát biểu rộng rãi, bậy bạ, không đúng đường lối
chính sách của đảng nên bị ghép vào tội có tư tưởng xét lại v.v… đã ở tù 6 – 7
năm rồi. Anh cũng mang cái án cao su tập trung cải tạo ba năm. Trông người của
anh rất khó đoán tuổi. Có thể 30 mà cũng có thể 40 (1968). Bởi vì anh không có
râu, nước da lại mai mái, chỉ cao khoảng 1 mét 55 hay 57. Ngay cái tên Thân
Lân, từ các cán bộ cho đến anh em cả trại đều gọi như vậy, cho nên không rõ
“Thân” là họ của anh, hay chỉ là tên đệm?
Mùa Hè, bất cứ ngày hay
đêm lúc nào anh cũng cởi trần trùng trục, mặc mỗi chiếc quần đùi từ chiếc quần
dài cũ của trại xé ra. Đặc điểm là anh có cái bụng tương đối vĩ đại. Thành ra
nhiều lúc trông người của anh nó giống hệt con ễnh ương. Về tính tình của anh
cũng có cái đặc biệt. Anh lao động trên tinh thần tự nguyện, tự giác. Nghĩa là
có cán bộ cũng vậy; không có cán bộ cũng thế. Tổ, toán hay cán bộ giao cho anh
ta làm phần việc gì (làm riêng), anh làm có ý thức trách nhiệm cho tới xong. Ai
ngồi chơi mặc, anh chưa làm xong thì cứ lầm lủi làm. Ngược lại, ai làm cứ làm,
xong việc là anh ngồi chơi. Hoặc khi thấy bụng đói quá là ngồi, dứt khoát không
làm nữa dù có đưa anh ta vào cùm. Anh không hề gian tham hay tố giác bất cứ một
ai bao giờ.
Chẳng biết từ khi nào,
và anh kiếm ở đâu; ngay từ ở trại Vĩnh Tiến, anh đã có một cái chai thủy tinh
trắng, cổ rụt, cao độ 25 phân, dung tích khoảng chừng một lít rưỡi. Không có
nút nên anh đã nhờ ai hay chính anh đã làm một cái nút bằng gỗ thay vào.
Chiếc chai này đã làm
cho Thân Lân phải đi cùm mấy lần ở trại Vĩnh Tiến cũng như ngay ở trại E này.
Khi anh mới về đây được hơn nửa tháng cũng đã phải vào nhà kỷ luật 12 ngày vì
cái chai đó mà Hoàng Thanh cuối cùng phải nhượng bộ. Chiếc chai của anh dùng để
chứa tất cả những cái gì có thể ăn hay uống được trên cái cõi đời này. Bữa cơm
anh đi lang thang nhìn các chỗ, nơi người ta ăn uống. Có những anh tài ba xoay
xở kiếm chác được con cá, lá rau, đôi khi con chuột hoặc bồ nhông v.v… Đĩa bát
của họ ăn rồi thừa tí chút anh đến xin rồi trút, vét hết vào chiếc lọ của anh:
mấy cái xương cá, tí nước rau thừa, dăm ba cái xương chuột, xương ếch. Đôi khi
anh bắt được con gián, con ngóe, con bọ xít… nghĩa là bất kể con gì; ngay những
đồ ăn của chính anh; những ngày trại có tươi, ngày lễ, ngày Tết, còn bao nhiêu
anh đều dồn vào chiếc lọ đó.
Do nhiều ngày tháng
dài, tất cả mọi vật trong chiếc lọ đó đều rữa mục, không những thịt, da, rau cỏ
mà cả xương chuột, ngóe, rắn v.v… cũng đều tan ra nước hết, chỉ có những mảnh
xương ống chân của lợn hay trâu thì mới không thể tan được mà thôi, để thành
một thứ nước đùng đục, nhờn nhờn; có khi là mầu xanh xám, có khi là mầu nâu
đậm. Chẳng ai biết cái vị của cái nước ấy ra sao.
Cơm nước, anh thường
tìm một xó hay một chỗ riêng biệt ngồi một mình. Cứ sau mỗi bữa cơm, anh thường
tu một ngụm cái nước đó. Nước cứ vơi đi lại đầy lên, bao giờ cũng gần lưng lọ,
không bao giờ cạn. Anh chẳng ốm đau, bệnh tật gì, lại không hề làm phiền hà gì
ai, do đấy cũng có nhiều người có thiện cảm gọi anh, để cho anh ít thức ăn thừa
hay canh thừa.
Chiếc lọ luôn luôn gắn
liền với anh như tay hay chân của anh vậy. Ngày đêm, khi ăn, khi ngủ, khi lao
động, lúc nào anh cũng đeo nó ở cạnh sườn. Cũng có nhiều lần, nhiều anh em,
thậm chí cả cán bộ cũng đồng ý, chờ rình lúc anh ngủ say đã lấy chiếc lọ của
anh giấu đi. Mục đích giúp anh, ngăn anh, không cho anh dùng cái loại nước mất
vệ sinh như vậy. Nhưng khi anh tỉnh dậy, thấy mất cái lọ, anh đã lăn ra giẫy
đành đạch kêu ban giám thị, kêu cán bộ, kêu chính phủ trả lại cho anh chiếc lọ
đó. Dứt khoát không chịu đi lao động, dù đưa vào nhà kỷ luật; mặc ai nói sao,
thí đố anh thế nào cũng chỉ một mực yêu cầu trả lại anh chiếc lọ.
Anh em trong tù cũng
như cán bộ thấy rằng, anh không hề chống đối ai, lao động thì tốt. Anh cũng
không làm ảnh hưởng hay làm mất vệ sinh đến người chung quanh. Cuối cùng rồi
cũng đành trả lại chiếc lọ nước thánh cho anh, và anh lại ngoan ngoãn tiếp tục
đi lao động như thường.
Nhưng rồi chắc Hoàng
Thanh cũng đã được nghe cán bộ báo cáo về Thân Lân. Và hẳn Hoàng Thanh cũng
nghĩ rằng chỉ vì các cán bộ yếu tay, thiếu bản lĩnh cho nên đã không trị được
Thân Lân chứ hắn vẫn có bàn tay sắt mà biết bao nhiêu những tên phản động trước
đây, mọc bao nhiêu cái sừng. bao nhiêu cái ngà cũng đều hoặc bị tiêu diệt, hoặc
lậy van xin chừa. Có một điều Hoàng Thanh đã quên là ở đây Thân Lân không hề
chống đối ương ngạnh.
Bởi vậy, một buổi trưa
Hoàng Thanh vào trại, y lững thững đến toán 2, tới chỗ Thân Lân đang ngồi ăn
cơm một mình ở góc hè. Y cúi xuống cầm chai nước lên hỏi Thân Lân, nước gì bên
trong? Thân Lân đã trả lời đấy là nước uống của anh.
Hoàng Thanh quay lại
đưa chiếc lọ cho tên trật tự Tân đi theo phía sau, ra lệnh:
- Đem quẳng chiếc lọ này
đi! Và cấm Thân Lân từ nay không được uống cái nước bậy bạ mất vệ sinh như vậy
nữa.
Thân Lân đã nằm lăn ra
gào thét đòi lại, để cuối cùng phải vào kỷ luật. Ngày đêm từ nhà kỷ luật, Thân
Lân vẫn ầm ĩ kêu xin đảng, nhà nước, ban giám thị xin trả lại cho anh chiếc lọ.
Thân Lân bị vào kỷ luật đã được mấy ngày; đêm qua lúc gần sáng, tôi giật mình
thức giấc vì một cơn mộng hãi hùng. Nằm ngay cạnh cửa sổ phía sàn trong, trằn
trọc mãi tôi vẫn chưa dỗ lại được giấc ngủ còn dang dở. Trong cái vắng lặng của
đêm khuya, thỉnh thoảng một vài tiếng kêu của thú rừng văng vẳng vọng về, nhưng
tiếng kêu nài than thở của Thân Lân từ nhà kỷ luật lại nghe rõ mồn một. Giọng
anh hơi lạ, đùng đục, khàn khàn như thiếu nước hoặc đã phải nói quá nhiều hay
quá mệt. Lúc thì nức nở, tha thiết:
– Thưa bác Hồ kính yêu,
cháu đã phải chia tay với cô Lành, mối tình đầu và rời xa cả bố mẹ của cháu,
nghe theo lời bác kêu gọi, trở về quê hương của cách mạng để được gần bác, đến
nay đã mười mấy năm rồi.
Nhưng có lúc thì nghe
sôi nổi, dứt khoát:
- Dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa, hơn 6 năm dài trong đơn vị, cháu đã nổ lực liên tục phấn đấu gian
khổ trong công tác cũng như trong học tập. Kết quả cháu đã được toàn tiểu đoàn
bình bầu là chiến sĩ thi đua và vinh hạnh to lớn là được kết nạp vào đảng Lao Động
Việt Nam vinh quang. Ngày nay cháu xin trả lại đảng tịch và cả bằng “chiến sĩ
thi đua” để đổi lại cái lọ. Xin bác hãy ra lệnh cho ban giám thị trả lại cái lọ
cho cháu.
Lòng tôi đã não nuột, ê
chề, nằm nghe Thân Lân kể lể, than van trong đêm lạnh càng làm cho hồn rã rời
lịm dần vào biển đắng.
Ba ngày, năm ngày rồi
cả tuần lễ vẫn thế. Chắc rằng cũng có một số cán bộ mủi lòng nên đã đề ý kiến
với Hoàng Thanh chăng? Mãi đến ngày thứ 12, buổi chiều Hoàng Thanh vào nhà kỷ
luật. Chả hiểu có cuộc chuyện trò qua lại giữa Hoàng Thanh và Thân Lân sao đó.
Chỉ biết, sau đấy Hoàng Thanh ra lệnh thả cùm cho Thân Lân và bắt tên trật tự
Tân mang chiếc lọ trả lại cho anh ta. Và từ đấy, không những anh em trong tù mà
cả cán bộ đều gọi chiếc lọ ấy là cái “Hồ Lô” của Thân Lân.
Nhìn cái bụng của Thân
Lân nhiều lúc tôi và Gôm hỏi đùa nhau: chẳng biết ở trong đó chứa cái gì mà to
thế? Mỡ thì chắc chắn chả có rồi; vậy thì giun, sán hay một thứ ký sinh trùng
gì khác? Chúng tôi cũng tự bàn tán, đây là một luật trừ, một trường hợp đặc
biệt của một con người do hoàn cảnh tạo nên. Chúng tôi tin rằng bất kể một ai,
nếu uống cái nước nhờn nhợn đó vào, nếu không ngỏm củ kiệu thì cũng nằm ốm liệt
giường, liệt chiếu; vậy mà Thân Lân lại không sao cả. Biết bao nhiêu loại vi
trùng và dơ bẩn ở trong nước ấy. Hẳn cơ thể của anh đã tạo lập được một chất
miễn dịch đặc biệt, khác với mọi người.
Chưa hết, Thân Lân còn
một việc làm đặc biệt nữa mà ai ở trong trại cũng không thể quên được. Anh ta
chẳng có thân nhân, nên cả năm chả gửi hay nhận thư của ai. Tuy vậy, suốt năm
đi lao động làm việc ở chỗ này hay chỗ khác; thấy từng mảnh giấy to, nhỏ dù dơ
bẩn, anh ta cần cù rửa sạch rồi phơi phóng. Những buổi trưa, hay những ngày Chủ
Nhật không có lao động xã hội chủ nghĩa, lủi thủi một mình mầy mò, anh ta ghép,
dán thành từng tờ giấy to tương đối rồi xếp cất đi. Cứ như vậy cho đến gần ngày
Quốc Khánh mồng 2 tháng 9 mỗi năm. Năm thì anh ta viết lá đơn to như tờ báo xin
đề nghị Quốc Hội sửa lại điều khoản này, điều khoản kia trong hiến pháp. Năm
thì làm đơn gửi chủ tịch nước là bác Hồ, xin cho sửa sang lại thành phố Hà Nội.
Mồng 2 tháng 8 vừa qua,
trước ngày có lớp học tập “Lập công chuộc tội, chống Mỹ cứu nước”, tôi, Gôm và
nhiều anh em khác đã theo dõi để ý. Thân Lân hý hoáy bao nhiêu ngày để vẽ một
số kiểu xe tăng, một số khẩu pháo, mìn và lựu đạn. Anh ta vẽ tượng trưng và có
chú thích từng bộ phận. Rồi anh viết một lá đơn khác, lời lẽ rất trang trọng,
nghiêm chỉnh. Đề nghị ông bộ trưởng bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp; cải tiến một
số xe tăng, một số pháo hiện nay của quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuy
không có phong bì, nhưng anh gấp gọn ghẽ. Sáng ngày mồng 2 tháng 9. Khi Hoàng
Thanh và đoàn cán bộ tề chỉnh, quần áo tươm tất trong ngày lể trọng đại hàng
năm, vào trại dự lễ. Chờ cho ban giám thị trên bục nói chuyện vừa dứt, ở dưới,
bất ngờ anh xông lên. Hai tay anh đưa nộp tận tay ban giám thị tờ đơn và bản sơ
đồ nói trên.
Lần đầu, thấy Thân Lân
xồng xộc đi lên chỗ khán đài, Hoàng Thanh và các cán bộ đều ngỡ ngàng, ngơ
ngác. Mãi cho tới khi Lân hai tay đưa tập đơn nhờ ban giám thị chuyển lên đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Thanh mới thấy là chuyện vớ vẩn, lằng nhằng, nên y
quắc mắt, gạt tờ giấy ra, không nhận và bắt Lân về chỗ. Nhưng Lân vẫn cứ lỳ ra
dứt khoát không về chỗ nếu ban giám thị không nhận lá đơn của anh ta. Có lẽ cán
bộ giáo dục đã đọc kỹ hồ sơ của Lân rồi, nên đã nói nhỏ cho Hoàng Thanh biết.
Bởi vậy Hoàng Thanh quay lại nhận lá đơn của Lân đưa. Lúc đó anh mới chịu trở
xuống ngồi vào chỗ.
Rồi từ đấy thành cái
lệ, cứ mồng 2 tháng 9 nào cũng vậy. Từ giám thị cho đến các cán bộ, cũng như
anh em trong trại đều đã hiểu. Ban giám thị cứ nhận đơn rồi ném vứt đi, bởi vì
trong lá đơn không hề có lời xỏ xiên, hỗn xược. Vả lại, dù sao cán bộ cũng đánh
giá Lân đã là người ít nhiều bất bình thường.
Cứ như thế, thời gian
trôi chảy mãi cho đến hơn một chục năm sau. Năm 1980, tôi vẫn gặp Thân Lân ở
trại Thanh Phong, Thanh Hóa. Vẫn chiếc “hồ lô” ấy, vẫn cũng đơn từ hàng năm vào
dịp mồng 2 tháng 9, và vẫn chiếc bụng to của con ễnh ương ngày xưa, tuy da mặt
Lân có nhăn thêm, và tóc của Lân đã có sợi đổi màu. Anh vẫn sống nhăn ra; trong
khi nhìn lại những người cùng thời gian ấy, đã nhiều người vĩnh viễn nằm xuống
trong lòng đất lạnh của quê hương nhiều năm máu lửa rồi.
40. Một Trời Quan Tái Mấy Cho Say …
Chiều nay, khi toán 2 vừa xuất trại ra tới lán thủ công,
tôi đang háo hức, say mê làm những phần việc cuối cùng để hoàn thành chiếc
giường đôi đầu tiên do tôi đóng, thì anh Nguyễn Huy Lân toán trưởng, từ trên
phòng cán bộ xuống gọi tôi mặc quần áo ra gặp cán bộ. Thoáng nhìn ra thấy tên
Cẩn trực trại đang đứng ở gần cổng lán nói chuyện với tên cán bộ vũ trang. Một
thoáng băn khoăn thoảng qua trong đầu; cán bộ nào gặp mình đây? Mọi khi, mỗi
lần cán bộ giáo dục cần gặp, tôi thường được lệnh ở lại trại ngay lúc xếp hàng đi
lao động. Vậy đây là ai? Nghĩ đến đây thì tôi đã ra tới cổng trại. Tên Cẩn cũng
như thường lệ, y ra hiệu tay để tôi đi trước, trong khi y quay lại gật gật đầu
với tên bộ đội với tên bộ đội như bảo: “Tôi nhận tên phạm này nhé”.
Thoáng nhìn vào căn
phòng giáo dục nhỏ, tôi đã thấy dáng của Hoàng Thanh. Đã lâu, hôm nay tôi mới
lại gặp y. Thái độ của y có vẻ lạnh lùng, khác hẳn với sự đon đả lần trước.
Sau mấy câu hỏi chung
chung về sức khỏe, y vẫn thấy tôi ngồi cúi đầu trên chiếc ghế đẩu phía trước
mặt y. Tuy tôi hơi cúi đầu, không nhìn y, nhưng trong trường mắt của tôi, mọi
cử chỉ của y đều được ghi nhận. Một tay y để trên bàn cứ cầm cái bút lên rồi
lại bỏ xuống mấy lần; tỏ rằng y đang cân nhắc, tính toán một thái độ, một biện
pháp trấn áp hay lôi kéo gì đó. Lòng tôi từ ít lâu nay đã có chủ định cho nên
vẫn mở cửa ngồi chờ cho y chủ động. Giây phút thinh lặng có lẽ làm cho người y
ngứa ngáy, y đứng dậy và gọi hẳn tên tôi:
- Anh Bình!
Tôi ngửng lên, mặt y
càng lạnh băng. Tay y chỉ ra phía sau lưng tôi dưới nền đất, miệng y chậm rãi:
- Anh có nhìn thấy cái
loại gì kia không?
Tôi quay lại, chỉ có
cái nền đất trống trơn. Đây đó mươi nhánh cỏ mọc lên trong những đường nứt nẻ
trên nền đất. Bên ngoài, một vài dây thài lài thò vào qua kẽ liếp. Một thoáng
ngần ngừ vì tôi chưa nắm được chủ ý của y thì y đã nói tiếp, mang một ẩn ý chính
trị:
- Anh có thấy những đám
cỏ dại đó không? Chúng nó lợi dụng những chỗ yếu, chỗ nhược; những kẽ hở để tồn
tại và phát triển. Nếu ta không nhổ nó đi thì một ngày kia chúng sẽ mọc che kín
hết cả cái nền này.
Nói tới đây, y lại ngồi
xuống rồi nói như ra lệnh:
- Anh hãy nhổ hết những
đám cỏ dại đó đi. Đó là trách nhiệm tôi giao cho anh đấy!
Tôi vừa nhổ cỏ, dòng
suy tưởng của tôi vẫn chảy dài trong óc. Phải, đây là những cỏ dại, nhưng nó là
thiên nhiên, nó sẽ trường tồn mãi mãi với đất trời. Mảnh đất nào ngừng canh
tác, trông nom dọn dẹp thì sẽ bị cỏ cây bao trùm.
Tóm lại, sớm hay muộn,
mọi mảnh đất sẽ phải trở về với thiên nhiên. Nếu như tôi chưa có chủ định, thì
trong trường hợp này dứt khoát tôi sẽ nói thẳng những ý tưởng đang cuồn cuộn
dâng đầy trong đầu tôi, cũng sẽ nằm trong ẩn ý đối lại với y. Nhưng lúc này tôi
cứ im lặng nhặt cỏ.
Thấy tôi nhặt hết đám
cỏ dại dưới nền, y lại chỉ mấy ngọn thài lài ở trên vách:
- Anh dứt cả mấy cái
dây dại đó đi! Ở trong ngóc lên, ở ngoài thò vào!
Để cho chủ trương của tôi
có nhiều bức tường che, tôi nói một câu vừa tỏ ra đã hiểu những ẩn ý bóng bẩy
của y lại vừa đóng góp thêm vào sự năng nổ, tích cực của mình:
- Thưa ông, với những
cỏ dại phía bên ngoài, biện pháp hữu hiệu nhất là ra hẳn ngoài để nhổ tận gốc,
chứ không hẳn chỉ ngăn chặn từ phía bên trong.
Mặt y bừng sáng, tươi
hẳn ra. Y nghiêng người với cái “phíc” rót một chén nước trà nóng, xì xụp uống.
Nét thỏa mãn ánh lên trong đôi mắt y. Sau đó y hỏi tôi về tình hình trong trại,
về một số cá nhân ở trong tổ, trong toán. Y cũng đặt vấn đề tại sao tôi thân
mật với Nguyễn Văn Gôm và bác Nguyễn Văn Tiến, cũng như tiếp xúc với nhiều
người. Tôi mượn ngay cái bọc của y để che cho mình nên trả lời, muốn hiểu ai
thì phải tiếp xúc với họ.
Cuối cùng, y đưa cho
tôi một tờ giấy trắng, y chỉ một chiếc bàn con ở góc nhà đã có sẵn lọ mực và
cái bút. Y bắt tôi ngồi viết những điều tôi vừa trình bầy về tình hình trong
trại và một số cá nhân. Qua buổi nói chuyện với y, tôi khẳng định đã có nhiều
người báo cáo về tôi. Hầu như mọi sinh hoạt của tôi y đều nắm được.
Những ngày trước, tôi
và Gôm đã nhiều lần trao đổi. Chúng tôi đều đã nhận định: cộng sản đã khéo léo
lợi dụng quy luật đấu tranh để sinh tồn của mọi sinh vật, kể cả thực vật. Chúng
áp dụng quy luật ấy với những người tù đói khổ lại càng hữu hiệu hơn nữa. Chúng
dùng sự đói khát, cùm kẹp, lao lực, kết hợp với dụ dỗ, phỉnh phờ gây ra ly
gián, đói khổ tranh sống. Hình dung như những con cua trong một cái giỏ, suốt
ngày đêm giẫy dụa chen chúc con nào cũng tìm cách để trèo lên miệng giỏ. Do sự
tranh giành này, phải đạp lên nhau, cấu xé nhau để vượt lên. Bởi vậy, con thì
sứt mai, con thì gẫy còng. Nhưng khi leo lên tới miệng giỏ lại vướng cái hom để
rồi mỏi mệt lại rơi xuống đáy giỏ. Cuối cùng, con nào cũng chỉ quanh quẩn trong
cái giỏ cua mà thôi.
Trong những con cua
này, nếu có con nào tỉnh táo hiểu rằng, có nỗ lực, cậy cục, trăn trở lắm thì
cũng thế mà thôi. Hãy biết thân phận trèo lên một chỗ nằm đấy cho đỡ mệt. Nhưng
nếu nó biết như vậy, thì nó đã không còn là con cua nữa. Bởi vậy có những con
trèo lên đến miệng giỏ, đã ngã xuống rồi, thế mà lại vẫn hì hục, cố gắng bò lên
nữa. Cho nên, tôi càng cần phải tỉnh táo, cân nhắc, ý thức từng sự việc, sao
cho không thiệt hại đến những điều chủ chốt của lý tưởng, đường đi của mình.
Điều này tôi tin rằng
tôi sẽ làm được. Với những năm kinh qua đấu tranh với phòng 44 chấp pháp của Hà
Nội. Hoàng Thanh tuy là một tên quái, nhưng không thể có nghiệp vụ chuyên môn
như phòng 44. Dù như vậy, tôi cũng không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác. Tôi
vẫn thừa nhận Hoàng Thanh là một tên sắc sảo, tinh quái. Mỗi một lời nói, một
việc làm đều có dụng ý. Y là loại người đóng cửa trước, mở cửa sau, gieo mầm
bây giờ để gặt hái về sau.
Nhìn lại suốt quá trình
từ ngày tôi ra miền Bắc. Tôi đã gặp biết bao nhiêu loại người của đối phương,
nhưng y là người thứ hai mà tôi nhờn, tôi phải để tâm nhất. Người thứ nhất là
cái lão già chó chết, một buổi chiều Chủ Nhật đã gặp tôi ở Hỏa Lò chỉ có 15
phút ở phòng ban giám thị. Y đã ngoay ngoáy ngón tay chỉ vào mặt tôi.
Tôi tin rằng tên Hoàng
Thanh này, tuy hiện nay y chỉ đeo chiếc lon trung úy, làm giám thị cho một phân
trại nhỏ bé. Nhưng trong tương lai, chắc chắn y sẽ tiến cao mãi, sẽ vượt qua
nhiều những tên hiện nay đang là cấp trên của y để ngoi lên trên con đường hoạn
lộ của chủ nghĩa này.
Như trên tôi đã trình
bầy, do những tình tiết toàn bộ sự việc của tôi, khi còn ở Hỏa Lò cũng như lên
trại trung ương, tôi luôn luôn phải ở tư thế một người cải tạo tiến bộ rồi. Hơn
nữa mới đây, chỉ hơn hai tháng trước, trong một buổi ngồi tâm tình, chuyện trò
với Nguyễn Văn Gôm, đầu tôi đã chợt lóe lên một ý tưởng mà trước đây chưa bao
giờ tôi nghĩ tới.
Công tác của tôi ra Bắc
một phần chính là tuyển mộ và huấn luyện. Nghĩa là cấu tạo và hình thành những
hạt nhân, những đường dây để hoạt động bí mật trong một mạng lưới riêng rẽ hay
từng chuỗi. Tôi đã thất bại, bị bắt vào tù; trong một môi trường cùng khổ đầy
xương, đầy máu này nhưng lại cũng rất đặc biệt, không thiếu gì nhân tài, không
thiếu gì hạt nhân, cốt cán, nhan nhản ra chung quanh.
Tôi hiểu rằng trong
cuộc đời, bất cứ việc gì cũng đều có hai mặt. Trong sự việc không may, thất bại
đi tù của tôi cũng có cái mặt tích cực của nó, chỉ cần ta biết nhuần nhuyễn
khéo léo, chuyển hóa, đôi khi nó không còn là sự thất bại, hay không may nữa.
Tôi đã có nghiệp vụ, tôi đã có thực tiễn kinh qua. Hãy chọn lựa, ấp ủ hạt giống
rồi gieo đi khắp các nẻo đường của đất nước.
Mai đây những hạt giống
nào chẳng may rơi vào vùng đất xấu không mọc được thì tôi cũng chả mất gì thêm.
Còn những hạt giống may mắn rơi vào vùng đất mầu mỡ, thuận tiện thì sẽ trưởng
thành nở hoa, kết trái cung cấp trái ngon, trái ngọt cho cuộc đời, cho lý
tưởng.
Dân tộc, người Kinh, kẻ
nông thôn, người thành thị, từ núi rừng hẻo lánh cho đến đồng bằng phì nhiêu,
tôi cứ làm những cái gì tôi có thể làm được. Thời gian và hoàn cảnh thật là
thuận tiện, còn an toàn hơn cả ngoài xã hội nữa. Vì những chủ trương này, tất
yếu tôi phải tìm một chỗ đứng tốt. Hiện nay, không có bức tường chắn tốt nào
bằng bức tường của Hoàng Thanh cả.
Ngay Hoàng Thanh, trước
đây cứ mỗi lần y tiếp xúc với tôi, y luôn luôn phải đắn đo, thủ đoạn như trong
tay y thường phải sẵn sàng lăm le một khẩu súng mà đạn đã lên nòng…nhưng rõ
ràng càng về sau y đã bỏ khẩu súng xuống bàn hay đã đút vào ngăn kéo rồi. Nghĩa
là tôi đã tạo cho y tưởng rằng y đã nắm được tôi. Tôi không còn là đối tượng y
cần khoanh vòng nữa. Mà tôi thì cũng cần và chỉ mong như vậy.
Chiều hôm nay, nhìn cụm
thuợc dược phía đầu luống gần chái hồi nhà số 2. Mấy đóa nhung vươn dài ngượng
ngập mà tôi vẫn gọi là mấy “cô tiểu thư con gái nhà lành” đang lè ra mấy chiếc
yếm xanh bọc túm cái duyên nửa chừng như báo cáo cho thế nhân, mùa Đông đã lại
về.
Nhanh thật, vừa mới
nóng xong đã lạnh rồi! Đã nghe rét mướt luồn trong gió, Đã vắng người đi những
nẻo đường…
Thấm thoát tôi đã lên
trại xấp xỉ một năm rồi. Hồn tôi bập bềnh nổi trôi trong làn mưa bụi cứ dần dà
dạt về miền xuôi. Chợt lảng vảng chiếc lưng ong và làn tóc buông dài dưới gốc
cây bàng giữa sân Hỏa Lò, cũng một chiều mưa bay đã ùa vào tràn ắp lòng tôi.
Một nỗi nhớ niềm thương quắt quay, cộng với cuộc đời mưa gió, cứ xoáy mãi cõi
hồn.
Không biết giờ này
người ấy ra sao? Một ý thơ da diết của thi gia Nguyễn Bính thì phải, đã lách
vào tim tôi thắt lại:
Chiều nay ….. thuơng
nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong
cốc rượu đầy.
Anh uống cả em và …..
uống cả,
Một trời quan tái mấy
cho say.
Bây giờ tôi đâu có cốc
rượu đầy, mà chỉ có một trời cay… cay hơn ớt. Tôi còn đương mơ màng trong một
trời chiều mây tím thì những tiếng huyên náo ầm ầm ở nhà số I. Những tiếng
huỳnh huỵch vật lộn phía trong buồng khi tôi chạy xấn vào. Máu me văng vãi tứ
tung, Lê Văn Kinh, người to như hộ pháp đang đè Phạm Công Thành gò người lại
như con tôm chiên ở dưới nền nhà.
Công Thành mắt trợn
ngược, đang khò khè tưởng không thở được nữa, tuy tay vẫn cầm chặt con dao nhọn
dài đến 15 phân. Dưới má Lê Văn Kinh, một vết dao rộng chừng 3 phân. Máu từ
đấy, vung vẩy khắp nhà.
- Biệt kích đánh biệt
kích!
Có người nói to như
vậy. Anh em, một số người đã xông đến. Tôi lẹ tay giật lấy con dao ở tay Công
Thành. Mọi người hò trói Công Thành lại và họ đã trói thực. Một số người khác
dẫn tay đưa Kinh xuống bệnh xá để băng bó vết thương. Sau một lúc câu chuyện đã
được sáng tỏ:
Tên Công Thành (trong
toán Boone biệt kích của Nguyễn Huy Lân) ở dưới nhà bếp, thường hay quát tháo,
xua đuổi, đập gô, đập bát của các anh em trên các buồng xuống xin nước sôi. Hầu
như cả trại không ai ưa y. Nhiều người căm tức nhưng không dám làm gì y vì y
núp dưới bóng những tên áo vàng.
Lê Văn Kinh là người
miền Nam rất thẳng tính, và nghĩ rằng nó đã làm xấu lây anh em biệt kích với
những người tù miền Bắc. Bởi vậy, nhiều lần Kinh trông thấy Thành, Kinh chửi
nên Thành rất hận. Đã có nhiều trận chửi nhau trước đấy, bao giờ anh em cũng
bênh vực về bè với Kinh. Nếu Lê Văn Kinh không là người lao động tốt thì đã bị
đi cùm nhiều lần rồi do sự báo cáo của Công Thành. Tất nhiên mỗi lần Kinh chửi
Công Thành cũng đều phải lấy những cớ, lỗi của Thành trong sinh hoạt; chứ chẳng
ai dám chửi Thành là kẻ đã làm chó, làm Joóc.
Thành xây hận lâu ngày,
tuy Công Thành cũng to khổ vì làm nhà bếp, nhưng so với tấm thân đồ sộ Người
Nhái của Kinh thì không đi đến đâu. Vì vậy Thành đã thủ sẵn một con dao, chờ
dịp. Và hôm nay, sau một hồi cải vã, bất ngờ Thành đã rút dao ra, chồm sang sàn
Kinh để đâm.
Kinh người to, nhưng
cũng rất nhanh. Kinh bị đâm một nhát, vội nhẩy đến, hất dao và vật Thành ra.
Hôm nay cũng là dịp, anh em trong trại dồn cơn căm tức Thành đã lâu; bởi thế
khi trói, mấy người đã cố ý kéo gò, riết chặt. Công Thành nằm như con heo, ư ử
rên la ở giữa nhà. Ai cũng mượn cớ tên Thành đã dùng dao đâm người, trong khi
chờ cán bộ vào giải quyết thì phải trói lại vì sợ anh ta tiếp tục hành hung.
Khi tên Đức trưởng ban
giáo dục và tên Cẩn trực trại vào. Y thấy tên tay chân của chúng bị trói gô, y
ra lệnh cởi trói. Tên Đức và tên Cẩn, hẳn cũng đã hiểu những điều ẩn tàng bên
trong sự việc; nhưng vì nhát dao đâm Kinh quá sâu nên đã ra lệnh đưa Công Thành
vào kỷ luật để xoa dịu sự bất mãn của trại. Tuy thế Công Thành cũng chỉ bị kỷ
luật 2 ngày rồi lại được trở về nhà bếp như cũ. Sự việc này càng tỏ rõ bộ mặt
tay sai, chó má của Công Thành, cho nên anh em càng không ai tiếp xúc với y.
Tối nay, sau khi toàn
buồng sinh hoạt tổ như thường lệ, tôi vừa ra chỗ chiếc đèn con “Hoa Kỳ”; cầm
cái điếu cầy về chỗ để “bắn” một điếu với bác Tiến thì Gôm đến. Chẳng biết Gôm
thâu lượm được nguồn tin từ đâu, đã thì thầm cho biết: “Hòa nghị Paris về chiến
tranh Đông Dương đã bắt đầu họp từ đầu tháng 5 rồi. Hiệp nghị gồm có 4 thành
phần: Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, miền Bắc Việt Nam và một bộ phận của chúng ở miền
Nam là Mặt Trận Giải Phóng. Tuy đã họp hơn 6 – 7 tháng nay rồi, nhưng lập
trường của các bên cách xa nhau một trời, một vực, nên chưa đến một kết quả
nào: Nguồn tin này cũng làm cho bác Tiến và tôi sững sờ suy nghĩ. Thảo nào,
cũng từ mấy tháng nay, trại cũng chả có đài, hay báo chí gì cả. Tên Mạch,
trưởng ban tuyên huấn lại giải thích ở ngoài hội trường hơn một tháng trước là
để cho toàn thể trại viên tập trung tư tưởng theo học lớp chính trị dài ngày:
“Lập công chuộc tội, chống Mỹ cứu nước” nên tạm ngừng đài và báo.
Vì ở trong một cái hòm
đóng kín, thiếu nhiều cơ sở để nhìn, để cọ sát, tham khảo; dù vậy bác Tiến cũng
bảo:
- Chúng (chỉ cộng sản),
nhìn từ bản chất thì chúng chỉ muốn dùng hội nghị Paris như một cơ quan tuyên
truyền, cầm chân Mỹ mà thôi. Tuy vậy, đây cũng là một dấu hiệu, chúng đã phải
từ bỏ phần nào cái quyết tâm cao ngạo lúc đầu của chúng là sẽ “cướp cho được
miền Nam bằng võ lực”. Vấn đề lớn ở đây là nếu Mỹ và Sài Gòn không tỉnh táo,
thì sẽ bị hố với tụi này.
41. Ân Tình Của Chúa Sơn Lâm
Một câu chuyện bình thường về một con trâu nhưng nó đã gợi
nhớ cho tôi một cái mốc thời gian trong cái hố sâu của dĩ vãng. Hôm đó, vào một
đêm mưa dầm thứ Bẩy, giữa tháng Ba năm 1969. Lúc này trại đã ăn Tết Âm lịch đã
được gần một tháng. Trời hãy còn lành lạnh của cái rét nàng Bân. Trại đang ngủ
yên ắng, gần nửa đêm về sáng; đột nhiên có những tiếng huỳnh huỵch, ầm ầm như
cây đổ phía chuồng trâu đằng sau trại. Một số người tỉnh ngủ trong buồng đã
ngồi dậy nhớn nhác, ngác ngơ nhìn ra cái khoảng đen tối của rừng khuya.
Bác Tiến đã thò tay
sang màn tôi, lay tôi dậy; nhưng tôi đã tỉnh lâu rồi, mà vẫn nằm yên nghe
ngóng. Bỗng có tiếng gầm như rung chuyển cả núi rừng, làm đong đưa ngọn đèn 40
nến đang treo lủng lẳng ở giữa nhà. Tiếng gầm làm hầu hết mọi người đều choàng
dậy. Trong buồng có nhiều người dân tộc thiểu số mà núi rừng là quê hương, nhà
cửa của cả đời họ nên họ đã biết ngay, đó là tiếng hổ về bắt trâu.
Tiếng hổ gầm cũng có lẽ
đã đánh thức tụi cán bộ phía khu nhà giám thị, vì bất chợt một tràng súng AK rú
lên. Âm thanh như mũi giáo ngoáy vào màn đêm tịch mịch.
Trong buồng chúng tôi
đều hiểu, chúng bắn tràng súng là để dọa đuổi hổ đi, chứ sức mấy đứa nào dám mò
ra rừng khuya, giữa lúc mưa lạnh thế này. Chẳng ai dám bàn tán, nhưng nhìn
nhau, mắt ai cũng ánh lên niềm vui. Hẳn trong lòng mỗi người, ai cũng đều hớn
hở chào mừng “bác” hay “cụ” mồi. Bởi vì, theo anh em, những năm trước đã có
nhiều cụ hổ về bắt trâu của trại. Mỗi lần như vậy, thể nào trại cũng có bữa tươi;
vì thường thường ông hổ chả ăn hết con trâu. Đó là ân huệ của ông để lại cho
đám người cùng khổ.
Sáng hôm sau, nguồn tin
sốt dẻo đã có sớm: cụ hổ đã bắt con trâu mộng đầu đàn đem đi mất tiêu hôm qua!
Người ta nhìn thấy vết chân hổ to như bàn tay xòe, dẵm nát cỏ cây chung quanh
chuồng trâu. Có một cái điều làm cho cán bộ cũng như tù ồn ào, bàn tán không ít
là cửa và hàng rào của chuồng trâu vẫn không sao cả. Hàng rào cao khoảng 1 mét
rưỡi gần ngang cổ của người lớn. Người ta tự hỏi, con trâu mộng to như vậy, chả
lẽ cụ hổ cõng nhẩy qua? Nghĩa là sự việc đó khó tin được; nhưng cụ thể là con
trâu đã mất.
Ngay từ sáng sớm, 4 tên
vừa cán bộ vừa bộ đội dẫn theo 4 tên tù tự giác. Cơm đùm, cơm nắm dõi theo vết
chân của lão chúa sơn làm vào nơi thâm u của núi rừng hoang dã. Cả trại đi lao
động ngày hôm ấy đều phập phồng mang theo niềm hy vọng đợi chờ.
Nhưng cho tới chiều
tối, đoàn người đi tìm mệt mỏi trở về không và niềm đợi chờ, mong ngóng của anh
em cũng xẹp xuống. Mặc dù thế, toán đi tìm hôm sau vẫn tiếp tục. Nhưng người ta
cũng kháo nhau nhiều chuyện chung quanh cụ hổ bắt trâu này như những huyền
thoại thần bí, linh thiêng của rừng già.
Hôm su, gần về trưa
trại xôn xao, náo nhiệt hẳn lên. Đoàn đi tìm đã hì hục khênh, gánh về cái đầu,
2 đùi trước với bộ lòng của con trâu. Cụ hổ đã ăn hết hẳn nửa sau của con trâu.
Hai đùi và chỗ thịt ngon, gồm trên 50 kg thì được khênh về khu vũ trang và giám
thị (như vậy cụ hổ cũng là ân nhân của lũ cán bộ nữa). Đầu, cẳng chân, xương,
da và ruột thì phần trại tù. Tất nhiên cũng phải cân lường kỹ càng để tính tiền
trong những kết toán hàng quý, hàng năm của trại. Nhưng phải nói rằng, giữa
rừng núi hiếm hoi, có thịt, xương mà mua là tuyệt rồi. Xương lọc kỹ không kể,
thịt được 15 kg, với bộ da và bộ lòng cho nhân số hơn 400 thì mỗi người cũng
chỉ được một vài miếng nho nhỏ.
Nhưng điều tôi chú ý
hơn cả, và có thể nhiều người khác cũng vậy. Chúng tôi chen lấn nhau đổ xô
xuống sân nhà bếp để nhìn cái đầu con trâu mộng. Tôi chả nhìn thấy mình con
trâu, nhưng cứ nhìn cái đầu đồ sộ ngoại cỡ của nó thì tôi đã hình dung ra con
trâu đầu đàn to khỏe như thế nào rồi. Một bên sừng bị gẫy một nửa, để lòi ra
một đám tủy trắng đỏ, nhờn nhợt. Một mắt lõm sâu, lua tua vài miếng thịt, con
ngươi văng đâu mất. Hàm răng nhe ra, rãi và máu đóng lại thành bờ. Da mặt bị
cào xé rách nát. Tôi cứ đứng hàng giờ chằm chằm nhìn con trâu. Tôi hình dung
một cuộc chiến đấu ác liệt, dai dẳng giữa con hổ và con trâu mộng này. Hẳn rằng
trước khi chết, đành gục xuống phó mặc cho con hổ nhai thịt của mình; con trâu
đã vì sự sống của mình, nó vừa run sợ, vừa phải chiến đấu dù với một cách não
nề, vô vọng với một kẻ thù có truyền thống ăn thịt loài của mình. Tôi cứ nhìn
con mắt thất thần còn lại của nó, trợn ngược, trắng dã. Hẳn nó phải chết trong
nỗi kinh hồn, khiếp đảm, thảm thương.
Như trên tôi đã nói,
chuyện con trâu này đã gợi nhớ cho tôi một cái mốc của thời gian, đến đây cũng
chưa phải, mà chính là một sự việc như sau: do cái tài xoay sở, khéo léo của
Gôm đã quan hệ thế nào đó với một đường dây tự giác rất đặc biệt. Gôm và tôi
góp nhau mỗi người một đồng. Ngày hôm sau ra lán thủ công, đã có một bọc da
trâu đến 2 kg thui rồi, giấu trong một đống vỏ bào đã dặn trước. Do những yêu
cầu về nấu nướng, chúng tôi chỉ bí mật cộng tác với bác Chánh già làm vệ sinh.
Người canh, người cạo rửa rồi cho vào một cái gầu bằng tôn ninh nhừ. Gôm còn
ngoại giao đổi chác với nhà bếp để có ít muối.
Buổi chiều hôm ấy, làm
sao tôi quên được. Ba chúng tôi: bác Chánh, Gôm và tôi hò hẹn chui vào một bụi
bìm bìm phía sau lán. Do sự quy ước chặt chẽ với nhau là không cho người thứ tư
biết, vì thế tuyệt đối không được cho ai và phải ăn hết tại chỗ.
Thôi thì nắng hạn gặp
mưa rào. Rét nhiều nên mới có ngày mồ hôi!
Chúng tôi vừa trợn
trừng nhai vừa nhìn nhau. Mồm nhai chưa nuốt xong, tay đã cầm sẵn miếng khác
chờ chực đút vào rồi. Ăn nấy, ăn để quên hết cả đất trời, tổ quốc, quê hương.
Thế mà chỉ một loáng đã sạch trơn. Hai ký da trâu đã chui béng vào bụng ba
người. Nhưng mà trời đất hỡi! Cái đêm hôm ấy người tôi như có ai thổi lửa vào
hậu môn. Bụng nóng hừng hực, người nôn nao quay cuồng. Tôi bỏ màn đi ngủ sớm.
Tôi liếc nhìn lên sàn trên chỗ Gôm, cũng đã thấy bỏ màn rồi. Tôi cố dằn nằm
yên, tay xoa bụng. Thỉnh thoảng thấy Gôm mặt đỏ rừ chạy vào nhà cầu.
Nhưng thật oan gia là
bác Chánh, có lẽ vì bác già yếu nên đã không chịu nổi như chúng tôi. Bác ngồi
trên sàn ồng ộc, nôn thốc, nôn tháo xuống đất. Bác cứ vặn vẹo người, nước mắt,
nước mũi dầm dề vì nôn chưa hết. Mỗi lần bác ộc ra, từng sợi nhớt dài thoòng,
nhễu nhợt nối từ miệng bác với bãi nôn dưới đất. Mùi khăn khẳn, nồng nồng xông
lên khắp buồng. Nhiều người bịt mũi đi nằm vậy mà Thân Lân vẫn chịu khó hì hục
lấy tay vớt từng miếng da trâu chưa nát vì ăn vội, nhét vào chiếc “hồ lồ”. Mặt
anh tươi roi rói, phởn phơ của một ngày vớ bở. Phần tôi tuy không nôn, nhưng
phải một bữa gần chết, cả đêm hôm ấy trằn trọc không ngủ được, nhớ mãi tới bây
giờ chưa quên.
Sau này tôi nghĩ lại,
thấy thật là dại, da trâu ninh nhừ ăn để chống đói thì thật là tuyệt nhưng với
điều kiện ăn vừa thôi. Chỉ vì đói, thiếu lâu ngày, nay vớ được, ăn cho đã cái
miệng nên mới bị như vậy.
42. Một Chiến Hữu Đồng Nghiệp…”Hang Một Lỗ”
Trưa hôm nay, sau một buổi sáng lao động mệt mỏi, hầu hết
anh em tù, ai cũng tranh thủ nằm chợp mắt mươi mười lăm phút cho lại sức, để
tiếp tục đi lao động buổi chiều.
Nằm trằn trọc mãi với
bao nhiêu nỗi niềm ngang, dọc của cuộc đời, tôi bò dậy xếp gọn chỗ nằm. Như mọi
khi, lững thững ra phía cuối hội trường, tôi ngồi trầm ngâm cho hồn lãng đãng,
tai buông lơi nghe gió chiều xào xạc trong bụi nứa. Tiếng âm a của bài tập đọc
về anh hùng La Văn Cầu của lớp bổ túc văn hóa buổi trưa ở trong hội trường làm
tôi chú ý, quay lại.
Hơn mười người, hầu hết
là dân tộc thiểu số, trong đó chỉ có 2 – 3 người kinh; đặc biệt nhất là anh Lê
Văn Bưởi. Câu chuyện anh Bưởi lẽo đẽo theo học lớp bổ túc văn hóa lớp hai của
trại, hơn hai tháng nay đã làm cho một số anh em trong trại bàn tán. Bởi vì học
lớp hai bổ túc văn hóa là tập đọc tiếng Việt và tập làm tính trừ, tính cộng.
Người ta bàn tán chỉ vì có nhiều mâu thuẫn, đển trở thành như lập dị. Theo như
bản lý lịch mà tù nhân nào cũng phải tự viết, khai trong bản kiểm điểm của hàng
quý và hàng năm thì lý lịch của anh Lê Văn Bưởi như sau: sinh ngày 10 – 2 –
1931 tại thị xã tỉnh Quảng Yên. Cấp bực đại úy của Việt Nam Cộng Hòa. Can tội
vượt tuyến ra Bắc để hoạt động gián điệp. Án phạt 20 năm. Vậy mà mỗi buổi trưa,
lại cắp vở theo những người dân tộc đi học lớp 2 bổ túc văn hóa.
Như tôi đã nói đến ở
trên, ngay từ khi anh Lê Văn Bưởi được chuyển từ trại Vịnh Tiến về trại này.
Khi được biết anh cũng cũng một cái “nghiệp hang một lỗ” như tôi, tôi đã lựa
thế làm loãng phần nào sự chú ý của những tên Joóc, rồi sau đó đã liên tục tiếp
xúc với anh. Đến bây giờ hơn 7 – 8 tháng rồi, anh và tôi đã trở thành đôi bạn.
Nhất là từ gần một tháng nay, tôi làm tổ trưởng tổ học nghề mộc, tổ gồm 6
người, trong đó lại có anh.
Cái việc anh đi học bổ
túc văn hóa, do chủ trương và quyền tự do của anh, tôi không có ý kiến. Nhưng
theo quan điểm của tôi, làm việc gì cũng cần phải biết mình và biết người. Anh
đi học như vậy nó trở thành một trò cười, mà người khác, nhất là đối phương đã
nhìn thấy cái hời hợt, ngây thơ của anh; hoặc gây sự chú ý cho họ. Dù tôi nghĩ
như vậy nhưng tôi cũng cứ để cho thời gian làm sáng tỏ. Tôi chưa kết luận, vì
biết đâu đây chẳng là một ý đồ để kẻ thù đánh giá anh non nớt, hời hợt, một
chiến thuật cao tay hơn. Chính Hoàng Thanh đã có lần y đặt vấn đề hỏi tôi:
- Này, theo cái nhìn
của anh thế nào? Chả lẽ anh Bưởi lại là một đại úy tình báo của miền Nam?
Y vừa cười vừa hỏi tôi
với một ánh mắt dò xét thái độ trả lời của tôi. Tôi cũng nói thực ý nghĩ của
tôi là tôi cũng không hiểu thế nào, tuy trong lòng tôi có phần ngạc nhiên. Ngay
tình tiết sự việc của anh ra ngoài miền Bắc cũng đầy rẫy những khoảng mù mịt
như những lời anh đã tâm sự với tôi. Đã bao nhiêu lần anh với tôi trao đổi tâm
tình qua những sự việc của anh ra ngoài Bắc và cả của đời anh nữa. Sơ lược như
thế này:
Quê anh ở Quảng Yên,
cái vùng có thật nhiều biển và cũng thật nhiều núi. Ngày từ lúc anh 19 tuổi,
sau khi đã tốt nghiệp bằng Thành Chung, anh đã tình nguyện gia nhập quân đội
Pháp kể từ ngày 01 – 01 – 1950, tại phòng hai tiểu khu Quảng Yên.
Năm 1953 anh tốt nghiệp
chuẩn úy tại trung tâm huấn luyện Quảng Yên. Rồi giữa năm 1954, anh được chính
thức đeo lon thiếu úy. Cùng năm đó, anh được thiếu tướng Congie tặng thưởng một
huy chương Lá Liễu và hứa sẽ đưa anh về Pháp trau dồi thêm nghiệp vụ. Nhưng rồi
tình hình dồn dập biến chuyển nên lời hứa đó đã không thực hiện được. Trong
suốt thời gian anh phục vụ ở F2 (tôi không hỏi F2 là gì) anh đã được cấp trên
tặng thưởng thêm 2 huy chương Lá Liễu nữa và 4 ngôi sao các loại cùng nhiều
bằng khen.
Sau hiệp định Genève
1954 về Đông Dương, đơn vị và cơ sở của anh rút vào bên trong vĩ tuyến 17. Đất
nước lúc này đang chuyển vần, nghiêng ngả từng ngày. Sau một số ngày đêm đấu
tranh suy nghĩ, cuối cùng anh quyết định gia nhập quân đội Quốc Gia tại thị xã
Quảng Trị. Do những quá trình chuyên môn nghiệp vụ của anh, anh được vào Sài
Gòn dự một lớp tu nghiệp đặc biệt. Sau đấy trở lại làm việc tại phòng tình báo
của ông Ngô Đình Cẩn trong thành phố Huế đặc trách khu vực giới tuyến 17.
Giai đoạn này anh
thường xuyên chuyên trách nghiên cứu những tài liệu và tin tức tình báo giữa
miền Nam và miền Bắc. Dần dà do những yêu cầu của tình hình thực tế anh đã tình
nguyện ra Bắc để nghiên cứu tại chỗ, cũng như tạo lập những màng lưới hoạt động
bí mật ngay trong lòng địch. Phòng tình báo miền Trung và anh đã miệt mài
nghiên cứu một kế hoạch tỉ mỉ, một công tác dài hạn trong đất kẻ thù. Theo anh
nói: anh có một người mẹ với một đứa con gái hiện còn đang ở vùng quê hương
Quảng Yên của anh. Do tình hình và điều kiện ngặt nghèo của 1954, anh đã không
thể đón mẹ và con gái anh cùng vào Nam. Con gái anh đã sống với bà nội ở một
làng quê mà Việt Minh đã kiểm soát.
Chính vì vậy, trong kế
hoạch anh ra miền Bắc, anh đóng vai là một trung sĩ cảnh sát, nhớ mẹ già,
thương con gái, đồng thời chán chường chế độ độc tài, gia đình trị họ Ngô, anh
muốn về với người mẹ và đứa con gái ở miền Bắc.
Mỗi tuần hai ngày, anh
phải ra đứng gác ở cầu Hiền Lương trên bờ sông Bến Hải theo những tiến trình
của công tác đã vạch ra cho từng khâu. Những người cảnh sát phía bờ Nam và
những tên công an phía bờ Bắc cùng gác trên cầu Hiền Lương; do nhiều lần thấy
nhau nên quen mặt. Bởi vậy đôi khi cũng chuyện trò dăm ba câu về trời mưa, trời
nắng.
Những tên công an bờ
Bắc thỉnh thoảng mồi chài, lôi kéo, rủ rê những anh cảnh sát bờ Nam ra miền Bắc,
về với nhân dân, về với cách mạng. Anh Bưởi đã lợi dụng hình thái này, nghĩa là
anh cũng đã để cho những tên công an bờ Bắc rủ rê nhiều lần. Và lần đó, ngày
6/6/1962, anh đã ôm một bọc quần áo chạy bừa sang phía bên kia cầu bờ Bắc theo
đúng những lời chỉ bảo của một tên công an.
Anh được dân chúng và
cán bộ nồng nhiệt đón anh đưa về huyện Vĩnh Linh. Sau mấy ngày tiệc tùng, chào
mừng; hàng ngày anh phải đến một bàn giấy để khai báo chi tiết, tỉ mỉ về thân
thế, gia đình trong Nam cũng như ở ngoài miền Bắc. Từ ngày vào Nam, làm gì, ở
đâu, từng thời gian. Hết hỏi han, khai báo rồi chúng đưa giấy bút, bắt anh phải
tự viết tường thuật lại từ khi mới lớn lên ở miền Bắc cho đến vào miền Nam.
Cứ viết một thời gian,
lại hỏi, rồi lại viết. Hơn một năm trời với bao nhiêu hình thức thủ đoạn mua
chuộc, khích lệ, hứa hẹn và đe dọa. Thỉnh thoảng, chúng cho đi tham quan những
cơ sở này, xí nghiệp kia rồi lại về truy tìm, hỏi han. Sinh hoạt ăn, ở của anh
bị chúng nó quản lý chặt chẽ. Bao nhiêu lần anh xin về quê ở Quảng Yên để thăm
mẹ già và con gái nhưng chúng đều hứa hẹn, anh phải thành khẩn khai báo tốt thì
chúng mới cho về. Hơn nữa chúng nhấn mạnh, chúng đã biết hết về âm mưu ý đồ của
anh ra miền Bắc. Chúng đã có tài liệu đầy đủ, chỉ vì chúng có rất nhiều người
nằm ngay trong cơ quan tình báo của Ngô Đình Cẩn v.v…
Đến đây, anh Bưởi không
nói rõ, nhưng qua tình tiết diễn tiến, tôi suy đoán, có thể anh đã khai báo
phần nào sự thật (cộng sản đã hiểu chế độ của chúng chỉ có đói khổ, nên chúng
không bao giờ tin những lý do vớ vẫn như vậy mà người ta lại bỏ một chỗ ấm, no
để vào một chỗ đói khổ), nghĩa là sanh ra miền Bắc là vấn đề hoạt động tình
báo. Cho nên chúng đã kéo dài thời gian đến 16 tháng để tìm hiểu, điều tra,
nghiên cứu về anh. Cuối cùng, chúng thả anh ra, cho anh đi tự do về quê. Nhưng
khi anh mới đi đến Quảng Bình, chúng đã đem xe theo đón bắt anh với lệnh của bộ
công an vào ngày 23 – 10 – 1963. Chúng đem anh trở lại Vĩnh Linh tiếp tục khai
thác. Sau một thời gian, chúng đưa anh ra trước tòa án nhân dân khu vực Vĩnh
Linh, xử phạt anh 20 năm, với tội danh: gián điệp xâm nhập miền Bắc để hoạt
động chống phá cách mạng.
Anh và tôi càng ngày
càng thân nhau, đã kể cho nhau nghe biết bao nhiêu chuyện về gia đình, cuộc đời
từ nhỏ cho tôi lúc trưởng thành vào đời. Theo anh nói: gia đình anh cũng là một
gia đình thế phiệt, gia giáo, trong miền Nam rất có thần thế. Anh được gặp ông
Cẩn, ông Nhu là chuyện thường; chú anh là chuẩn tướng Lê Văn Hưng v.v… Cho nên
tuy anh chỉ là một đại úy nhưng anh đã được ông Cẩn tin tưởng, coi như người
nhà.
Mới hôm Chủ Nhật vừa
qua, buổi chiều, tôi và anh Bưởi rủ nhau ra giếng tắm giặt xong. Về buồng, tôi
xuống chỗ anh Bưởi, hai anh em nằm chèo khoeo chuyện trò tâm sự. Sau một vài
câu chuyện bình thường như mọi khi, đột nhiên anh quay sang, dịch gần sát lại
phía tôi, hạ thấp giọng:
- Tôi coi Bình cũng như
anh em, tôi nói cho Bình nghe một chuyện mà tôi đã ôm chặt trong lòng hơn một
năm nay. Từ ngày tôi ở trại Vĩnh Tiến đến bây giờ, không một ai trong tù này
biết.
Thấy vẻ mặt và giọng
nói của anh đầy vẻ thân tình nhưng nghiêm trọng, tôi cũng nghiêng hẳn người lại
sốt sắng, chờ lắng nghe. Nội dung: anh nói là anh có công rất lớn với nhà nước,
với cách mạng. Anh đang chờ, không những anh sẽ ra khỏi tù mà anh còn phải làm
việc nhiều nữa, lúc đó anh sẽ không quên tôi. Anh kể tiếp, khoảng đầu năm 1960.
Một buổi chiều muộn trong tư dinh của ông Cẩn. Lẽ ra mọi khi, giờ đó anh đã trở
về buồng mình để tắm rửa nghỉ ngơi, nhưng hôm nay vì anh mời uống hai ly rượu
mạnh. Vừa mệt, vừa buồn ngủ, anh đã nằm ngay tại một phòng dụng cụ ở chỗ làm
việc, rồi ngủ quên luôn. Gần về khuya, giật mình anh tỉnh dậy, nhìn đồng hồ đã
11 giờ 30. Tai anh nghe thoáng có tiếng rì rầm ở phòng bên, nhất là lại có ánh
đèn sáng trưng. Tò mò, anh lựa thế nhìn qua một khe cửa sổ thì thấy có 3 người
là ông Cẩn, ông Nhu và bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ba người đang ngồi châu vào một
cái bàn với một chồng sổ sách ở trên bàn. Anh không ngờ ông Nhu và ông Tuyến từ
Sài Gòn ra ngay từ chập tối mà anh không biết.
Thấy thái độ bí mật và
nghiêm trọng của mỗi người nên anh càng tò mò đứng nhìn và lắng nghe. Ba người
đang họp bàn để quyết định những công tác có tính cách chiến lược của một số
mạng lưới ở miền Bắc, có liên quan đến phòng nhì của Pháp và CIA, của Mỹ. Anh
đã lắng nghe được tên cũng như chức vụ của hơn 10 người từ giám đốc một cơ quan
đến những cán bộ trung ương ở miền Bắc. Anh hiểu đây là một bí mật to lớn của
đất nước. Anh chỉ hiểu như vậy một mình anh, và chôn chặt trong đáy lòng từ 7 –
8 năm nay. Ngay cả khi ra miền Bắc rồi bị bắt, dù phải trải qua biết bao nhiêu
cay đắng, khốn cùng của những năm tháng dài khai thác và tù đầy. Nhưng năm
ngoái, một cán bộ cao cấp của bộ công an xuống gặp anh ở trại Vĩnh Tiến. Sau
nhiều ngày đêm đấu tranh, giằng co gay gắt trong tư tưởng anh đã muốn lập công
với cách mạng nên anh đã khai hết với ông cán bộ đó. Sau đấy, nhiều cán bộ dưới
Hà Nội xuống trại tập trung anh liên tục trong gần một tháng trời, trước khi
chuyển anh về trại này.
Nghe anh Bưởi thổ lộ
đến đây, tôi lướt nhanh suy nghĩ lại toàn bộ sự việc của anh. Nhất là nhìn thái
độ của anh nói, mắt anh còn long lanh sáng, mang nhiều hy vọng đợi chờ. Đành
rằng những suy nghĩ, nhận định của tôi chỉ là chủ quan nên chưa hẳn đã là đúng.
Anh Bưởi chỉ là một con
bài của ông Nhu và Cẩn. Chính ông Nhu và Cẩn đã cố ý tạo nên một buổi họp và cố
ý vô tình để cho anh Bưởi biết. Hẳn ông Nhu và ông Cẩn đã nhận định, soi kỹ về
con người của anh Bưởi; kể cả về bản tính. Anh không đủ nội lực để đảm trách
những công việc tương xứng với chức vụ, mà do tình cờ nghe, biết, nắm giữ được
những điều bí mật, tối quan trọng. Bản chất một người như vậy, khi đã ở trong
tay của cộng sản, không sớm thì muộn, để cứu thoát bản thân, anh sẽ trình bầy
với cộng sản để lập công. Lúc đó tùy theo mức độ sẽ làm lũng đoạn, mâu thuẫn
trong nội bộ hàng ngũ lãnh đạo của cộng sản miền Bắc.
Ông Nhu và ông Cẩn,
tình báo của miền Nam hẳn cũng đã hiểu: với sự cảnh giác đến chân răng kẽ rốn
của cộng sản, không bao giờ chúng có thể tin được anh Bưởi. Một người đã bỏ mẹ
và con gái để đi vào Nam năm 1954. Bây giờ lại bỏ một xã hội vật chất dư thừa,
thoải mái tự do để tìm về một xã hội vật chất thiếu đói, hạn hẹp gò bó về sinh
hoạt, chỉ vì nhớ mẹ và con gái. Về chơi rồi đi thì người ta mới tin được.
Khi mà cộng sản đã
không tin, thì chẳng có điều gì có thể ngăn chận chúng không bắt anh khai thác.
Mà chúng đã đặt vấn đề nghi ngờ để điều tra khai thác thì sẽ phải ra. Cứ đặt
giả thuyết, đây là một đòn cao, một đòn sâu của ông Nhu, Cẩn và tình báo miền
Nam đi nữa thì cộng sản cũng không mắc. Tôi chỉ là một cá nhân tầm thường, lại
không phải chuyên trách cứu xét sự việc mà cũng phải đặt vấn đề, huống chỉ là
cộng sản. Chúng nó có cả một bộ môn, một tập thể để soi rọi, chiếu lên từng
mảnh vụn của sự việc.
Còn riêng về phần anh
Bưởi, ngay ở trong tù hiện nay. Hàng ngày anh lẽo đẽo cắp vở đi theo học lớp
hai bổ túc văn hóa, mục đích để làm gì?
Phải chăng mục đích của
anh, để cho cộng sản đánh giá anh là một người nông nổi, ba tếch, ba toác,
không có trình độ? Nhưng cụ thể anh đã khai báo là một điệp viên đại úy tình
báo, điều mà lẽ ra anh phải có chủ trương ngay từ đầu, ngay từ ngày anh bước
sang phía cộng sản ở cầu Hiền Lương. Chứ che dấu ban giám thị trại này, che dấu
anh em tù nhưng lại khai rõ trên bộ công an thì đâu còn là một chủ trương thống
nhất? Trong cuộc sống, nhiều khi một sự việc rất nhỏ lại trả lời cho một vấn đề
rất lớn.
Một lần vào buổi sáng
Chủ Nhật. Anh em, người thì đi tắm giặt, người thì ra sân, ra hội trường. Trong
buồng sàn trên, sàn dưới thưa thớt dăm mười người. Tôi ngồi ở sàn trên đọc
sách; nhìn xuống sàn dưới phía bên kia đối diện, anh Bưởi đang lúi húi vá cái
áo trại. Sáng nay, tôi mới xin bác Lẫm được 2 điếu thuốc lào, muốn gọi anh lên
để hai người cùng say sưa, vì thuốc lào kỳ này rất khan hiếm nên tôi không muốn
cho người khác biết. Tôi mong anh Bưởi khâu một lúc, mỏi người sẽ ngửng mặt lên
là tôi vẫy gọi anh. Nhưng tôi chờ mãi đến nửa giờ, có lúc anh ngừng khâu, ngửng
đầu lên, nhưng lại chỉ đưa mắt nhìn chung quanh phía bên dưới mà không hề nhìn
lên sàn trên. Nếu anh nhìn lên một tí, anh sẽ thấy cái mặt tôi đang tươi roi
rói hướng về anh ngay phía đối diện; chỉ chếch phía trên, xa chỗ anh ngồi chừng
5 mét.
Sốt ruột quá, tôi tìm
được một miếng giấy con, vo nhỏ lại bằng đầu ngón tay út, ném mạng vào đầu anh.
Thấy tiếng động vào đầu và nhất là thấy hòn bi giấy con tí văng xuống đất trước
mặt anh, anh quay lại chung quanh ngơ ngác nhìn về phía một bác dân tộc đang
nằm nhắm mắt cách anh 3 chiếu. Anh chỉ nhìn ở sàn dưới mà không hề nhìn lên sàn
trên; không thấy gì, anh lại tiếp tục cúi xuống khâu. Nóng cả ruột, tôi đã định
sẽ hút hưởng một mình, không cho anh hút nữa, nhưng thấy thiếu vui và không
tốt. Tôi lại tìm bẻ được một cái đầu que nứa ở tấm vách, nhằm anh tôi ném mạnh,
trúng ngay vào vai anh. Anh ngửng phắt mặt, quay ra liếc nhìn đàng trước, đàng
sau cũng vẫn chỉ có bác dân tộc mà thôi, anh vẫn chả nhìn lên sàn trên. Tôi tức
muốn gào lên “hãy nhìn lên đây cơ mà!”
Tôi đặt vào trường hợp
của tôi, chỉ thoáng khi thấy mẫu giấy rơi ra, tôi phải nhìn khắp trên dưới, chỗ
nào có khả năng ném tôi, hay từ đâu rơi ra tôi phải biết nguyên nhân. Nếu tôi
không thấy gì, tôi sẽ khâu tiếp rồi bất chợt sẽ ngẩng lên nhìn ra khắp lượt.
Chứ mà bị ném đến lần thứ hai thì tôi phải bỏ khâu đấy, đứng dậy quan sát khắp
chỗ. Và tôi nghĩ rằng, rất nhiều người khác cũng sẽ như tôi chứ không như anh
Bưởi.
Nhưng cuộc đời hình như
có sự bù trừ. Anh Bưởi lại có khả năng làm cho nhiều người chung quanh tin
tưởng rằng trong anh có nhiều tài năng ẩn tàng. Thậm chí, chính Nguyễn Văn Gôm,
một con người tinh nhanh, sắc sảo có lần đã thổ lộ với tôi:
- Anh Bưởi là một thứ “xịa”
ghê gớm lắm! Bề ngoài trông anh chậm chạp, củ mỉ, củ mì vậy đấy thôi, chứ hiện
nay anh còn giữ được một loại thuốc rắc vào cùm, vào khóa là chúng sẽ chảy ngay
ra như nước. Chưa hết, anh còn một bí quyết nữa; anh có thể không ăn trong một
tuần lễ mà sinh hoạt lao động bình thường.
Chính vì vậy Gôm đang
nỗ lực ráo riết, chiều đón, xu phụng anh Bưởi để anh sẽ truyền bí quyết cho,
cũng như anh sẽ cho xem cái loại thuốc thần kỳ nói trên.
Điều này tôi đã suy
nghĩ mãi nhưng thật khó mà giải thích. Chỉ có thể nói là “Trời sinh ra như
vậy”. Như con cua gặp con ếch. Con cua mà gặp con ếch là co dúm người lại cho
con ếch đớp rồi nuốt. Nếu con cua cứ giương rộng còng thì con ếch làm gì được.
Rồi tới lượt ếch gặp rắn cũng vậy, thoáng thấy bóng rắn là ếch cụp đầu xuống,
co quắp người lại để xin mời ông rắn sơi. Nếu con ếch nó cứ bật nhẩy như lò xo,
mỗi cái nhẩy hàng thước thì rắn nào đuổi kịp. Như vậy trong cuộc đời có cái này
kỵ cái kia, ai mà biết được lý do? Về anh Bưởi, thời gian còn dài, sẽ còn nhiều
sự việc để làm sáng tỏ vấn đề.
Tối nay tôi nằm mãi mà
không ngủ được, đầu óc cứ còn vấn vương về câu chuyện do Lầu Phá Tra và Lồ Cao
Chính kể cho tôi nghe lúc buổi trưa ở hội trường. Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính,
hai người đã hôn và đặt tay tôi lên đầu họ hồi năm ngoái, khi tôi lên trại mới
được 2 – 3 tháng. Tuy không thường xuyên nhưng tôi vẫn khắn khít tiếp xúc với
họ khi có vấn đề cần trao đổi. Lúc trưa họ kể sơ lược cho tôi nghe về Vương Chí
Sình- Một ông vua, một người chúa của dân tộc Mèo. Đối với người dân tộc thiểu
số trên miền thượng du Việt Bắc, Vương Chí Sình không những chỉ là người chúa
của dân tộc Mèo, nhưng ông còn là người khôn khéo, tài ba có uy tín lớn với các
sắc tộc khác. Trong sự chống đối, bất hợp tác với chính phủ Hồ Chí Minh của các
dân tộc thiểu số thì ông là một điểm sáng chói, là linh hồn của họ.
>
Ông đã xây dựng, thành
lập và lãnh đạo một đội quân đông đảo người dân tộc. Tuy trang bị vũ khí thô sơ
nhưng biết lợi dụng địa thế núi rừng hiểm trở của thiên nhiên, nên Việt Minh đã
hao tốn bao nhiêu công lao, tâm sức kể cả người và của về chính trị cũng như
quân sự mà không thể thu phục được. Họ đã phải dùng nhiều đơn vị lớn, mở nhiều
chiến dịch len lỏi vào núi rừng để lùng xục, tiễu trừ đoàn quân chống đối của
người dân tộc mà chúng gán cho cái tên là giặc cướp, là thổ phỉ.
Nhưng sau nhiều ngày
tháng, cộng sản đã không thể làm gì được mà nhiều lần, cái đội quân “phỉ, cướp”
đó đã bất ngờ đánh cho lũ cáo Hồ những trận liểng xiểng. Hồ Chí Minh, con cáo
già nhiều thủ đoạn cho những tên cán bộ người dân tộc len lỏi, môi giới vào tìm
gặp được Vương Chí Sình. Khi đã bí mật liên lạc với Sình được rồi, y dùng những
cán bộ trung ương giỏi mồm mép, giỏi nghề dụ, xui người khác ăn cứt gà vào tiếp
xúc với Sình. Mặt khác, y lại viết thư như đã từng viết cho Thẩm Hoàng Tín,
tình cảm dạt dào, lời lẽ khẳng khái đoan chính v.v…
Cuối cùng y đã lôi được
Vương Chí Sình về Hà Nội, đã tách cọp ra khỏi rừng, cho cọp về thành phố chơi.
Vương Chí Sình cùng với đoàn bộ hạ tham mưu được đón rước linh đình vào phủ chủ
tịch, mở hội hoa đăng để kết nghĩa anh em. Chắc Vương Chí Sình cũng sướng tê
người như Thẩm Hoàng Tín. Một tên chúa Mèo ở trong rừng sâu hoang dã lại được
kết nghĩa anh em, đoàn viên với Hồ Chí Minh, chủ tịch của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa. Khi quân đã không có chủ tướng, Hồ già càng dễ gây ly gián, nghi ngờ
nhau giữa những thành phần của đội quân người dân tộc. Để cuối cùng chúng tiêu
diệt dần cho tới khi bắt gọn. Kết quả là biết bao nhiêu người dân tộc phải chết
hoặc ở trong tù như hiện nay, trong đó có Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính. Chỉ vì
người lãnh đạo mắc một căn bệnh chung là không hay chưa hiểu đủ về cộng sản.
Vương Chí Sình khi biết
là mình bị ăn cứt gà thì đã muộn. Theo Tra và Chính thì cho đến bây giờ họ cũng
không biết rõ về số phận của Vương Chí Sình nữa, vì có nhiều nguồn rỉ tai: có
thể ông Sình bị giam lỏng ở Hà Nội và cũng có thể bị chết rồi.
Một bài học quái ác, là
cứ phải ngã rồi mới học được! Óc tôi cứ vấn vít xoay quanh về câu chuyện này
mãi, mà càng suy nghĩ thì đầu càng nóng lên, để rồi trăn trở mãi mới chìm dần
vào giấc ngủ hãy còn nhiều khắc khoải, cau mày.
43. “Đau Thương Này Thật Là Vô Kể!”
Chẳng mấy chốc mà đã lại sắp sửa tới ngày Quốc Khánh mồng 2
tháng 9 rồi. Đời của những người tù ở miền Bắc, một năm chỉ đợi chờ có 2 dịp:
mồng 2/9 và ngày Tết của dân tộc. Ai cũng hiểu là mong hai ngày ấy cũng chỉ vì
những ngày ấy mới có chất tươi, mới có cơm không độn và mới cho đời người tù
hiểu thấm thía cái ý nghĩa của một kiếp sống con người.
Còn những ba ngày nữa,
thế mà do những nguồn tin rỉ tai từ phía cán bộ, anh em trong trại đã biết rõ,
mồng 2 tháng 9 năm nay sẽ ăn to! Riêng bứt cho bữa cơm sáng ngày Quốc Khánh là
một con lợn cân nặng 40 kg. Về buổi chiều, một đặc ân kỳ vĩ, có một không hai
của ban giám thị sẽ cho tù thưởng thức món… phở truyền thống của dân tộc.
Ối giời ơi! Thật là
ngàn năm một thuở. Cái tiếng “phở” mà nhiều người tù đã quên béng đi từ cái dạo
mới bị bắt kia. Trong này có ai còn dùng cái từ ấy làm gì nữa. Vậy mà mấy ngày
hôm nay, trong trại, ngoài lán thủ công, cho đến trong rừng sâu, đồi dốc, chỗ
nào có người tù lao động là chỗ ấy bàn tán nhắc nhở nhiều đến chữ “phở”. Tôi,
Gôm và một số người bạn nữa, trong đó có cả bác Tiến và bác Lẫm cứ xoành xoạch
lôi Nguyễn Tuân ra để mổ xẻ, bàn tán, tranh luận cứ rối rít tít mù cả lên về
tuyệt tác “Phở” của ông.
Trại trung ương số I sẽ
đặc cách giết một con trâu 2 tạ. Riêng phân trại E sẽ được phân phối 50 kg cả
xương lẫn thịt. Còn một nguồn tin cũng không kém phần ghê gớm nữa: tối mồng 2/9
đoàn văn nghệ của trại chính sẽ vào diễn kịch tại trại E. Cái điều làm cho
nhiều người trai trẻ, kể cả mấy ông già cứ nhìn nhau, lồi cả mắt ra là đoàn văn
nghệ năm nay có những 5 giai nhân tuyệt cú mèo của trại nữ.
Cái này cũng không biết
tại sao lại như thế, có lẽ trời bảo vậy. Anh nào cũng lục lọi, chuẩn bị một bộ
quần áo đẹp nhất. Dù là quần áo trại hay của tư, nhưng chắc chắn là bộ quần áo
mình phải vừa ý nhất. Những buổi trưa trong các buồng đã ít người ngủ hẳn đi.
Người ta bận giặt giũ, tắm rửa. Người ta bận nhờ nhau cắt tóc, cạo mặt. Với
những mảnh kính, mảnh gương con, những chiếc nhíp tự chế, người ta đang bận sửa
sang cái đầu, cái mặt ở những chái hồi, xó hè.
Ôi chao, sao lòng người
lại có nhiều nguồn vui rủ nhau cùng đến một lượt như thế! Phương ngôn đã dạy:
“Phúc bất trùng lai”, vậy mà phở với giai nhân, cứ thập thò ở cửa miệng mọi
người và hẳn rằng, nó len lỏi vào cả trong những giấc mơ của họ nữa. Tôi cứ
thấy ở tôi, rồi suy ra thì đủ hiểu. Đêm qua tôi đã nằm mơ, được ăn một bát phở
đầy, mùi hành, nước mắm, lá thơm đã làm tôi lúc tỉnh dậy thấy nước miếng còn
chảy ướt cả mép. Rõ ràng, tôi ngửi thấy cả mùi phở xông lên ngào ngạt, vừa
ngọt, béo, thơm đến ngứa cả cuống họng. Nghe đâu cả nột toán nữ gần bốn chục
người, trong một tuần lễ xay bột và tráng bánh phở. Chưa được ăn mà người ta đã
đùa vui kháo nhau. Chuyến này bánh phở, anh nào tinh mũi, sẽ ngửi thấy cả hơi
tay, thậm chí cả hơi người của phụ nữ nữa đấy nhé.
Mong ngóng, chờ đợi mãi
rồi ngày mồng 2/9 cũng phải đến. Ngay từ sáng sớm, những cái đầu gọn ghẽ, những
bộ quần tươm tất; đeo, đội trên những tấm thân gầy, cứ đi ra đi vào cái hội
trường và đi lên, đi xuống ở cái sân trại. Người ta cứ ngóng ra cổng, rồi lại
nhìn nhau, mặt ai cũng tưởng như vừa mới được xức nước hoa “Ba Đình” không
bằng, phởn phơ, tươi roi rói. Tôi ngồi ở hội trường với Gôm, cứ nhìn theo anh
chàng Hoàng Đức Tùng và Trần Lào mà buồn cười. Hai anh đều là dân ở Thái Lan về
nước.
Hai cái đầu vuốt nước
chải thật mượt. Một anh thì chải quặt ra phía sau, như đít con vịt bầu. Một anh
chải hất ngược, uốn một cái lưỡi trai meo méo, nằm trên một khuôn mặt gầy, làm
đôi má và thái dương hõm vào, khúc khuỷu trông như con gà rừng đang vặt lông dang
dở.
Cái anh có cái đầu đít
vịt là Trần Lào. Cái quần tergal nâu, mang 4 cái dấu hắc ín to tướng “cải tạo”
ôm lấy cái áo sơ mi mầu cứt ngựa bỏ trong thùng. Còn anh chàng Hoàng Đức Tùng
thì hết chê. Vẫn bộ quần áo và đôi dép quai chéo lần trước, trong dịp Tết
Nguyên Đán vừa rồi. Nhìn hai anh đi đi, lại lại, thỉnh thoảng lại nhìn ra phía
cổng làm cho con mắt của tôi nhiều lần muốn tránh né, mặc dù tôi vẫn hiểu, họ
chả có liên quan gì tới tôi.
Mãi tới khoảng 10 giờ.
Mới đầu, còn lác đác một vài người thắc mắc, ngơ ngác nhìn ra phía cổng, phía
khu cán bộ, vẫn thấy im ắng, lặng như tờ. Nhưng cho tới 11 giờ, thì cả trại ai
cũng cảm thấy một sự bất thường. Có một vấn đề gì đó, mà không ai đoán được,
thì cũng là lúc cán bộ nhà bếp vào trại cho lệnh: vẫn cứ ăn cơm thường như mọi
khi, mà không cho biết lý do tại sao, trong khi tiếng loa ở các buồng thì im
bặt vì đài bị hư.
Mọi người chả hiểu ra
sao, nhiều những nguồn tin rỉ tai, linh tinh chả có một cơ sở nào cả. Bao nhiêu
mộng mơ, hy vọng đều tan tành khói bay trong mây chiều. Mọi người đi ngủ, vẫn
còn ấm ức, như mỗi người phải ngậm một cục sỏi ở trong mồm.
Hôm sau mồng 3/9, trại
vẫn đi lao động. Thái độ của cán bộ, bộ đội âm thầm, lạnh lùng, miệng cứ câm
như hến, nên chẳng một tên tù nào dám hỏi han gì. Nhưng cho tới sáng hôm mồng 4
thì mọi người mới vỡ lẽ: cáo Hồ xuống âm phủ để hầu hạ Karl Marx và Lénine.
Cũng mãi tới sáng mồng
4 lá cờ đen, mới chính thức kéo lên trên cây cột cờ chính ở trước nhà ban giám
thị. Radio lại sửa được, tiếng đài lại nhí nhéo. Tiếng của đồng chí tổng bí thư
Lê Duẩn oang oang dõng dạc:
….. Tổn thất này, thật
là… lớn lao.
Đau thuơng này, thật là
… vô hạn!…..
Anh em tù đã hiểu, nên
cũng thông cảm cho ban giám thị. Tuy vậy, trong lòng mọi người vẫn oán giận lão
già chó chết, vì nghe đâu lão chết đúng ngày mồng 2 tháng 9. Mãi không sao,
chết bờ, chết bụi ở đâu không biết, lại mò đúng vào cái ngày oan gia này mà củ.
Sáng nay, ở ngoài lán thủ công, trong một góc lán của bộ phận học nghề, lúc ấy
chỉ có bác Tiến, Gôm và tôi. Ba người đang than vãn tiếc rẻ về bữa phở hụt, đột
nhiên Gôm đứng phắt dậy, nghiêm mặt, nghiêng người, cũng oang oang dõng dạc
tuyên bố:
Đau thuơng này, thật
là….. oái oăm!
Tổn thất này, thật
là….. thắt ruột!
Thực vậy, chả có gì bù
đắp lại cho chúng tôi, có chẳng chỉ có ít nước muối và 2 chiếc bánh ướt. Báo
hại, trong cái tuần lễ cả nước phải treo cờ rũ để tang này. Trước sau, trại có
12 người bị vào nhà kỷ luật, trong đó toán 2 có hai người là anh Cường và Trần
Quốc Anh tu sĩ. Cái tội chỉ vì vô ý cười to về một chuyện khác, nhưng bị những
tên Joóc báo cáo: đã tỏ ra thích thú, vui sướng vì Hồ Chí Minh chết.
Rất nhiều người, do
phải chịu đựng quá dài, những năm tháng đầy đọa thuơng đau cùng cực, nên khi
thấy Hồ Chí Minh chết đi, họ đều hy vọng mong chờ một chuyển biến, thay đổi mới
ở ngoài xã hội, cũng sẽ đổi thay được phần nào cái đời lầm than của họ. Cụ thể
nhất là Nguyễn Văn Gôm, một người có học, sắc sảo, bén nhậy về tình hình chính
trị, đã sống 15 năm dưới chế độ cộng sản. Anh Lê Văn Bưởi, một đại úy tình báo
của miền Nam ra Bắc hoạt động, đều nhận định, tin tưởng: Hồ Chí Minh chết đi,
đường lối chính sách của chế độ miền Bắc cũng sẽ thay đổi. Để rồi trong một
buổi chớp nhoáng mạn đàm ở hội trường giữa 4 người gồm anh Bưởi, Gôm, bác Tiến
và tôi. Bác Tiến đã giải thích sáng tỏ:
Đã có những nhà ngoại
giao, những chính phủ chưa hiểu rõ được cộng sản, chỉ vì họ cứ nhìn sự việc từ
một ống kính của một nước tư bản để soi rọi, suy xét ở một nước cộng sản, cho
nên hầu hết đều bị lầm. Để rồi kết quả sự việc xẩy ra lại khác hẳn, thì họ lại đổ
cho lý do mới, còn vẫn khăng khăng cho sự nhận định của họ trước đây vẫn là
đúng. Vì thế, những lần sau lại tiếp tục lầm nữa.
Thí dụ hai quan điểm về
cùng một sự việc:
1/ Lòng nhân đạo.
Tư bản: Đơn thuần, thấy
ai sắp chết thì cứu. Thấy ai quá đau đớn thì chữa cho họ khỏi đau v.v…
cộng sản: Phải có tính
giai cấp. Trước hết phải xem người sắp chết đó là loại nào? Nếu nó là một tên
chống phá lại đảng, nó là một tên ở giai cấp bóc lột, thì cần phải đâm thêm cho
nó chết ngay. Nhân đạo là tiêu diệt cái thiểu số, để cứu cái đa số mà chúng bịp
bợm gọi là “nhân dân”.
2/ Sự công bằng.
Tư bản: Mọi người ai
cũng như ai. Được đối xử như nhau trước pháp luật. Ai có tài thì được dùng,
không hề có cái gì gọi là “tính giai cấp” nào ở đây cả.
cộng sản: Trước đây anh
là chánh tổng, lý tưởng. Như vậy là cường hào ác bá đè đầu, cỡi cổ đám dân
nghèo khổ, bây giờ đảng bắt chúng mày xuống nghèo khổ cho công bằng. Trước đây
anh là tư sản, bóc lột người nghèo, bóc lột công nhân lao động, bây giờ để cho
công bằng, đảng sẽ lấy hết tài sản của anh để trả lại cho người nghèo, cho công
nhân thì học lại trở thành giầu, thành tư sản. Bởi thế, hãy để chính phủ, để
nhà nước giữ vậy.
Trên đây chỉ là hai thí
dụ nhỏ, trong muôn ngàn khía cạnh, của xã hội con người. Ngay cả về tình cảm,
giữa hai xã hội, quan điểm cũng hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, hầu hết các nước
dân tộc, tư bản, nếu vị nguyên thủ quốc gia bị giết hay bị chết bất ngờ, thì
thường xã hội có nhiều thay đổi. Nhưng dưới chế độ cộng sản thì hầu như chẳng
có chuyện gì xẩy ra. Lãnh đạo đất nước là một tập thể, gồm những tên trong bộ
chính trị, chúng quyết định mọi đường lối chính sách. Vậy nếu chỉ định tên này
làm thủ tướng, tên kia làm chủ tịch v.v… Đều chỉ là một cái khung, một đường
dây loa mà thôi. Cho nên có mất hay chết một tên này, hay vài tên khác thì nó
vẫn như thế, chả có gì đổi thay cả. Điều này cũng đã giải thích vì sao, hầu như
tất cả các nước cộng sản, những tên lãnh tụ cứ đi phây phây mà không đứa nào bị
ám sát cả. Vì người ta đã hiểu rằng, có tốn công, tốn tiền, tốn người để ám sát
một tên lãnh tụ cộng sản, thì cũng vậy mà thôi. Bài học được rút ra từ trường
hợp của tên Lénine bị ám sát trước đây.
Cho nên rất buồn cười,
có rất nhiều những chính khách, thấy một tên đại diện, hoặc một tên lãnh tụ
cộng sản đi ra nước ngoài để họp hội nghị hay công cán, họ đã cố gắng mồi chài,
lôi kéo để lấy cảm tình. Cứ tưởng như nếu mua được tên đó, là mua được cả chế
độ của nước cộng sản ấy vậy.
Cuối Đông, đã sắp sửa
sang Xuân, vậy mà thỉnh thoảng vẫn còn những đợt gió mùa Đông Bắc mò về muộn,
làm cho tiết trời lạnh ngóm. Mấy ngày rồi thật là ảm đạm, âm u chả có tí ánh
mặt trời nào. Mãi quá trưa này, mặt trời mới chịu thò mặt ra, nhìn cảnh vật một
tí.
Đã hai tuần rồi, lạnh
quá tôi chả dám tắm. Người có ngứa ngáy khó chịu lắm, thì cũng chỉ ra giếng múc
một gầu nước, dúng cái khăn ướt, vắt khô rồi thò vào bên trong áo, lau sơ sơ.
Nhìn lại, so với nhiều người, tôi vẫn còn vệ sinh, sạch chán. Hôm nay nhất định
tôi phải uống thuốc liều, tôi đã rủ anh chàng Gôm ra giếng tắm cho vui. Nhưng y
đã giẫy nẩy lên, như con đĩa phải vôi, đầu lắc quầy quậy, miệng y liến thoắng:
- Không có một kẻ nào
trên cái cõi đời này, lại bắt được tôi đi tắm bây giờ cả, trừ có hai điều.
Thấy Gôm cố ý nói nhăng
để không tắm, tuy vậy tôi vẫn hỏi, trừ hai điều gì? Nằm cuộn tròn trong chăn,
Gôm thò ra hai ngón tay:
- Ông Trần Quốc Hoàn
(bộ trưởng bộ công an) bảo: Tên Gôm kia, hãy đi tắm rồi ta sẽ tha cho về Hà
Nội.
Nói xong rồi Gôm trùm
chăn kín đầu. Tôi đã xách gầu và quần áo định quay ra cửa. Tôi cũng chẳng lạ gì
anh chàng Gôm này, nhưng cũng thấy phảng phất một chút băn khoăn, nên lại quay
vào hỏi tiếp:
- Thế còn điều hai?
Gôm lại hất chăn xuống,
lò mặt ra, mắt long lanh nhay nháy:
- Một cô em thơm như
múi mít nỉ non: Anh Gôm của em ơi! Anh dậy đi tắm rửa cho sạch sẽ, anh yêu nhé!
Nhiều người ngồi, nằm
gần đấy cười ầm cả lên, đều biết là anh chàng Gôm tếu. Tôi vừa xách gầu chạy
xuống giếng vừa nghĩ: Tù đầy mãi, nhũn quắt cả ruột, lại còn mơ em, với mận chị
gì nữa.
Phải nói, mỗi lần dội
thùng nước giếng vào người, nó lạnh thấy bốc khói ở người lên. Lạnh quá, không
ai dám tắm, một phần nữa vì tắm ở giữa trời, gió thổi hun hút không có gì che.
Tôi lúi húi phơi bộ quần áo trại, vừa giặt xong ở chỗ đám dây phơi, phía đầu
hội trường. Người còn đang run bần bật như cầy sấy, thì anh Lương Yên đã đi
đến. Một tay anh đút trong túi áo, mặt anh khó đăm đăm, như anh đang có một
điều ấm ức trong lòng. Anh nói hơi phì phào vì khoảng trống của ba chiếc răng
cửa hàm trên của anh bị thiếu:
- Anh ra hội trường,
tôi gặp anh tí!
Gật đầu, bảo anh ra
trước, tôi trở vào buồng lấy chiếc ruột áo bông khoác cho đỡ lạnh rồi sẽ ra
sau. Chưa biết anh gặp tôi có chuyện gì, vừa đi vào buồng tôi vừa nghĩ về anh:
Từ dạo anh chuyển ở trại Vĩnh Tiến về, trong lớp học tập “Lập công chuộc tội
chống Mỹ cứu nước”. Sau khi tôi viết xong của tôi, tôi được cán bộ chỉ định,
viết tường thuật cuộc đời cho hai người là anh Sín Dẩu, người Tầu, đẻ ở Việt
Nam và anh Lương Yên, người Việt đã ở Sầm Nứa (Lào) hơn hai chục năm.
Hai anh đều đang theo
học lớp 1 bổ túc văn hóa, nên không viết được. Viết tường thuật cuộc đời là kể
lại chi tiết những diễn tiến của đời mình, từ nhỏ tới lớn cho đến khi vào tù.
Chính vì thế tôi đã biết tường tận nhiều chi tiết, quãng đời đã qua của anh
Lương Yên.
Sơ lược: Do nạn đói của
năm Ất Dậu (1945), lúc này anh 24 hay 25 tuổi. Tha phương cầu thực, anh lạc
lõng sang Lào. Anh đi ở đợ, rồi làm công cho nhiều người Lào ở Sầm Nứa. Ba mươi
tuổi đời, anh gặp một cô gái Việt, sinh đẻ ở Lào mới 20 tuổi, rồi nên duyên vợ
chồng. Hai vợ chồng tuy nghèo khổ, sống trong một khu lao động ở ngoại ô thị xã
Sầm Nứa. Dù cảnh sống đầy gian chuân cực nhọc, nhiều tủi hờn trên xứ lạ quê
người, nhưng hai người vẫn dắt díu, đùm bọc nhau để sống. Anh chị đã có bốn mặt con.
Năm 1963, lúc này ở Lào
có rất nhiều phe phái chính trị. Có đại sứ của Sài Gòn và cũng có tòa đại sứ
của Hà Nội. Hai bên đều dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền, để lôi kéo Việt kiều
về với phe mình. Ngoài ra cũng đầy rẫy những lực lượng bí mật, gây sức ép trong
giới Việt kiều để tranh giành ảnh hưởng. Một lần có hai người Việt Nam đến nhà
thăm vợ chồng anh. Họ tự giới thiệu là cán bộ cụ Hồ, của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Chấp hành đường lối thương yêu dân, như
con của cụ Hồ, nước nhà ngày nay đã độc lập; khắp cả nước đâu đâu cũng chỉ có
tiếng hát, nụ cười, cụ Hồ nghĩ đến những người con phải lưu lạc, xa quê hương,
tổ quốc. Cụ muốn tuyển chọn một số Việt kiều, thành phần cốt cán như gia đình
của Lương Yên. Nhà nước sẽ đài thọ hết phí tổn, để đưa kiều bào về tham quan tổ
quốc.
Những kiều bào nào được
tuyển chọn, khi về nước sẽ được học tập đường lối mới, của một nước nhà độc
lập; niềm tự hào, kiêu hãnh của mọi người dân. Sau khi biết được thời gian về
thăm quê hương sẽ tùy theo ý của mỗi người, có thể dăm ba tháng rồi trở lại đón
vợ con cùng về nước hoặc ở lại Lào là do mình quyết định. Hơn nữa, ai xa quê
hương mà chả nặng lòng với đất nước, nên cuối cùng anh đã nghe theo họ về nước
vì anh nghĩ: Đây cũng là dịp anh về chơi thăm quê nhà, sau mấy chục năm trướng
xa vắng.
Khi đi qua khỏi biên
giới Lào + Việt, thái độ của hai tên cán bộ đã khác hẳn. Lạnh lùng và hình như
anh cảm thấy mình bị quản chế. Họ ra lệnh cho anh không được tự tiện, đi lang
thang ra ngoài. Anh vô cùng lo lắng, anh hỏi họ thì được trả lời:
- Cứ đi rồi sẽ biết!
Cuối cùng họ đã đưa
tuột anh vào Hỏa Lò Hà Nội. Hàng ngày phải đi khai cung, họ truy hỏi, gán ghép
cho anh là CIA, là chỉ điểm cho Sài Gòn. Họ bắt anh khai ra hiện nay vũ khí là
khẩu súng ngắn giấu ở chỗ nào trong nhà v.v…
Đến đây anh Lương Yên
mới ngã ngửa người ra. Nhớ lại, đầu năm ngoái, một lần anh đi khuân vác hàng
cho một chiếc xe vận tải, anh đã vớ được một khẩu súng lục, không biết của ai
để rơi trong một góc xe. Táy máy, thấy của hiếm, anh đã mang về nhà cất đi. Mấy
tháng sau, một lần vợ chồng cãi nhau, anh lại quá chén nên say, đã vào buồng
lấy khẩu súng ra dọa vợ, rồi lại cất đi.
Mãi gần Tết vừa rồi,
nhà túng bấn quá, anh đã gạ bán khẩu súng đó cho một ông chủ hiệu tạp hóa người
Lào, ngay gần nhà anh với giá rẻ mạt là 200 đồng kít. Ông chủ hiệu tạp hóa đã
biết rõ vợ con, nhà cửa của anh Lương Yên nên mới mua để phòng thân, giữ của.
Vì đây là một chuyện
thực. Chắc hẳn, sau khi anh khai báo, cộng sản đã đến tận nhà ông chủ hiệu
người Lào để xác minh. Khi họ đã biết rõ sự thật, nhất là anh Yên trình độ lại
không biết đọc, biết viết. Nhưng đã trót bắt lầm anh rồi, đâu có thể thả trở lại
Lào được nữa. Một cái lưỡi sống sẽ làm mất chính trị biết bao nhiêu, trong cái
đám kiều bào vẫn còn lơ ngơ chưa tin hẳn vào cụ Hồ và cách mạng. Bởi vậy, một
mặt cứ vờ quả quyết Lương Yên đã làm chỉ điểm cho Sài Gòn mà không chịu khai
báo; mặt khác, tống Yên lên trại cải tạo, với cái lệnh tập trung thì đảng có
mất mát cái quái gì đâu.
Vì tội trạng của Lương
Yên như thế, nên ở trại Vĩnh Tiến cũng như trại này, sau hơn một tháng đến
trại, là cho làm tự giác quét dọn, vệ sinh ở trong trại. Tự giác của Lương Yên
ở đây là buổi sáng cũng như buổi chiều, anh phải quét dọn sạch sẽ trong toàn
trại. Sáng một lần, chiều một lần được gánh cái rác bẩn đó ra một chỗ quy định,
bên ngoài trại để đổ. Mặc dù mỗi lần ra vào cổng trại, đều phải báo cáo với
công an vũ trang gác cổng.
Anh Lương Yên rất hiền
lành tử tế, nhiều khi nghĩ đến anh tôi thật mủi lòng. Tôi hiểu rằng, anh đã ở
tù 7 năm rồi, đã hơn 2 cái lệnh tập trung, nhưng cái tội của anh lại không thể
tha được. Anh đã mang cái tội mà dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt, lại
không ít người mắc phải. Đó là cái tội “Bị bắt lầm”. Nếu thả anh về Lào bây
giờ, về chính trị hại cho chế độ gấp trăm lần hơn là giam anh. Giam anh, thì
chỉ có một gia đình anh bị thiệt. Vợ mất chồng, con mất cha và đời anh sẽ chết
dần ở trong tù. Càng giam giữ lâu, thì lại càng không thả được nữa.
Tôi ra đến hội trường,
rải rác đây đó, một số người ngồi chuyện trò hay khâu vá, anh Lương Yên ngồi
mãi trong một góc khuất phía cuối. Thận trọng, liếc nhìn chung quanh, anh rút
trong túi ra một cái phong bì đã bị bóc mất tem và một lá thư đã bị xé làm
nhiều mảnh. Giấy đã nhầu nát, vàng khè, nhiều chỗ chữ đã nhòe nhoẹt. Tôi hơi
chột dạ, cầm vội mấy mảnh thư lên coi, vì rõ ràng đây là nét chữ của tôi; nhưng
tôi đã chợt hiểu. Đây là lá thư anh Yên gửi về cho vợ con anh ở bên Lào mà tôi
đã viết hộ anh, hơn 3 tháng trước.
Với nét mặt rầu rầu,
tuy anh Yên nói nhỏ, nhưng giọng anh đầy uất hận:
- Sáng nay tôi ra đổ
rác ở chổ cái hủng đất mọi khi. Lúc tôi cào cho đống rác cho gọn lại, thoáng
nhìn thấy cái mầu phong bì giống mầu phong bì của tôi và khi cầm lên, thì rõ
ràng là nét chữ của anh nên tôi đã lục tìm, moi móc nhặt hết về.
Nhìn mặt anh buồn rười
rượi. Nhớ lại, tôi đã viết hộ anh cả thẩy ba lá thư, từ khi anh về trại này hơn
một năm rồi. Do lòng nhân đạo của đảng và nhà nước, chiếu cố đến tình cảm gia
đình của mỗi phạm nhân, nhà nước quy định cho mỗi người tù, được gửi thư về gia
đình mỗi tháng một lần. Do đấy, cứ vào mồng một mỗi đầu tháng, mọi người trong
toán nộp thư cho toán trưởng, rồi toán trưởng đưa nộp thư cho cán bộ của toán.
Thư không được dán, để cho cán bộ duyệt. Đầu tiên là cán bộ toán duyệt rồi đưa
lên cho ban giáo dục duyệt lại một lần nữa.
Hoàn cảnh của anh Yên
cũng thật ái ngại. Anh không có tiền, lại hiền lành chậm chạp, không có tài
xoay sở, cho nên cứ ba bốn tháng anh mới gửi thư một lần. Bởi vì mỗi lần anh
gửi một lá thư anh phải nhịn ăn sáng 3 ngày. Một suất sáng để đổi lấy phong bì
và giấy, một suất để đổi lấy con tem và một suất sáng tặng cho người mà anh nhờ
viết hộ lá thư.
Nhớ lại năm ngoái, lần
đầu tiên tôi viết hộ lá thư cho anh. Anh đưa ra một cái túi vải, trong có một
suất sắn sáng, anh có nhã ý mời tôi ăn. Tuy tôi vẫn đói, nhưng tôi hiểu đó là
phần sắn buổi sáng của anh, anh phải nhịn, vì thế tôi từ chối không ăn. Anh cứ
nằn nì mãi, để tôi phải đứng dậy nói dứt khoát: Nếu vậy tôi sẽ không biết hộ
thư cho anh nữa, bấy giờ anh mới chịu. Chậm chạp, anh móc trong túi áo ra một
lá thư của vợ anh. Theo anh, đây cũng là lá thư đầu tiên và duy nhất sau gần 7
năm anh về thăm tổ quốc, quê hương yêu dấu. Hơn ba năm xưa anh đã nhận được, khi
còn ở trại tù Vĩnh Tiến. Tôi cầm lá thư đã nhầu nát, do thời gian và có thể do
đã không biết bao lần anh mở ra “đọc” nó.
Nét chữ nguệch ngoạc,
lời thư của một người vợ với một đàn 3 đứa con dại, ngày đêm thương nhớ chồng.
Những giòng chữ mộc mạc, chân chất với nỗi khắc khoải của những đêm dài vời vợi
nhớ thương, làm cho lòng tôi cũng xốn xang, vơi đầy. Người chồng đã ra đi biền
biệt mãi không về, bỏ lại một đàn con dại với người vợ trẻ. Chị đã phải nai
lưng ra làm thuê, làm mướn. Phải chịu bao nhiêu đắng cay, tủi cực, chồng chất
lên nỗi nhớ thương chồng, thương con và thuơng mình, đêm ngày đầy vơi, ngơ ngác
giữa cuộc đời.
Vì muốn trung thực
trình bầy rõ những nỗi nhớ, niềm thương của anh với vợ con anh, nên tôi phải
gợi hỏi anh từng chi tiết, cụ thể. Làm sao tôi quên được, cứ mỗi lần ngồi viết
thư cho anh. Hình ảnh một người, nếu gọi bằng anh thì quá già, nhưng gọi bằng
bác thì quá trẻ vì anh mới khoảng 45 hay 46. Thời gian và những thương đau chất
chồng của đời, đã vạch hằn trên lên trán, lên mặt anh nhiều vết nhăn. Chẳng
hiểu trong lòng anh đã chất chứa, nén đầy hình ảnh vợ anh, con anh ra sao mà
suốt lúc tôi viết thư, môi anh cứ run run mấp máy, mắt anh thỉnh thoảng lại đỏ
lên, có lúc tuôn dài hai giòng lệ. Thậm chí, có lần quá xúc động anh gục xuống
đôi tay khoanh để trên bàn, vai cứ rung rung thổn thức, làm gián đoạn cả ý thư
tôi đang viết. Những giọt nước mắt nhỏ xuống, cho vợ con anh hay cho đời anh?
Của một kiếp người! Ai đã vùi dập, chia cắt gia đình anh?
Tôi mần mò ghép lại lá
thư bị xé, để đọc lại. Lá thư không hề nói một tí gì về chính trị. Hoàn toàn
chỉ là tình cảm, nỗi nhớ thương vợ chồng con cái. Tôi chợt hiểu, chính cái nhớ
thương này, nhớ thương thì phải buồn, phải sầu, đấy là lý do lá thư bị xé. Người
xé thư, cũng không quên lấy lại con tem.
Sau một hồi suy lý, tôi
bàn với anh Yên, cái mục đích chính là làm sao cho chị nhận được thư của anh,
để cho lòng của chị ấy đỡ khắc khoải đêm ngày. Vậy lá thư, chỉ cần viết sự nhớ
nhung bình thường mà phải nói đến vui chơi, học tập tiến bộ, khỏe mạnh, miệt
mài hăng say công tác, nỗ lực cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược v.v…
Chung quy, đã lại rơi
vào cái bẫy của cộng sản,, dù hiểu chúng hay không hiểu chúng. Nghĩa là, chúng
ta đã tự nguyện, tuyên truyền đắc lực không công cho chúng. Tôi cứ hình dung
những người có trách nhiệm tuyên truyền của Sài Gòn ở Lào. Phần vì mãi hưởng
lạc, hời hợt không có một kế hoạch tỉ mỉ, sâu sắc để lôi kéo lòng người. Phần
khác, người ta không tin ai bằng tin người nhà của người ta cả. Chồng người ta,
con người ta, họ sẽ tin hơn. Đây, lá thư của chồng người ta đã viết rành rành
ra đây. Vậy mà bảo cộng sản xấu sao được. Một đồn mười, mười đồn trăm, cán bộ
Sài Gòn nào mà tuyên truyền lại được?
Như thế, anh em tù nhân
cứ viết thư, cán bộ cứ nhận thư, rồi gửi hay xé đi là tùy theo lá thư. Vậy nếu
anh không tự hiểu, anh cứ viết đi theo kiểu của anh, rồi dài cổ ra mà ngóng thư
trả lời.
44. Chuyển Về Trại Chính
Tháng 3/1970. Lúc này, về nghề mộc, ơn đảng và bác đã dạy
cho tôi biết làm giường, bàn, tủ, ghế. Tôi đã trở thành một người thợ mộc chính
dù chưa thể làm được những hàng mộc kỹ thuật, cao cấp như tổ kỹ thuật của Đinh
Sơn.
Vì Mỹ đã thẳng thắn
tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc và hẳn do những yêu cầu mới nào đó, trại rục
rịch sẽ chuyển tù về trại xây, trại chính. Lê Văn Kinh, Nguyễn Văn Thú, Nguyễn
Văn Bắc, tôi và một số người nữa được tách ra thành một nhóm theo bác Cát để
tập làm nhà. Bác Cát đã có tay nghề 15 năm xàm nhà, dựng nhà ở miền Bắc. Bác bị
bắt vì tội hoạt động trong đảng Liên Xã (Liên Minh Xã Hội) trong vùng Việt Trì,
Phú Thọ. Bác bị bắt từ năm 1958.
Hàng ngày chúng tôi đi
theo bác để tập xàm nhà. Làm nhà, tuy không luôn chân, luôn tay như làm mộc,
nhưng rất nặng nhọc vất vả. Trời nắng hay trời mưa cứ phải phơi mặt ra ngoài sân.
Hôm nay tôi phải tranh thủ, lén lút làm cho bác Tiến cái gối bằng gỗ. Cái kiểu
gối giống như hình chữ nhân (X) để gối về mùa Hè cho nó mát. Thấy cái gối bác
đang gối bằng một đoạn gỗ lim nặng chịch, tôi muốn làm tặng cho bác một cái gối
kiểu mới mà không cho bác biết trước. Khâu làm đã phải lén lút che dấu, khâu
đưa vào trại cũng không phải là dễ. Với người khác thì khó thật, nhưng như tôi
đã trình bầy ở trên, tên Tân trật tự kỳ này rất biết điều với tôi. Thường
thường mỗi khi toán về đến cổng trại, lúc y khám, vuốt, mò vào bụng, mò vào
lưng tôi, thấy trà hay cái gi vi phạm nội quy, y nhìn tôi một cái như muốn nói
“tôi bỏ qua đấy nhé” rồi y tiếp tục khám người khác. Vì vậy tôi tin tôi có thể
mang chiếc gối về trại cho bác được.
Nhớ lại lúc giao thừa
đêm trừ tịch của ngày Tết vừa qua. Giữa lúc chiếc loa treo ở trên cửa buồng,
tên Tôn Đức Thắng đang phều phào đọc bản diễn văn chúc Tết thì bác Tiến bò nhỏm
dậy. Bác thò tay sang màn tôi, đập vai gọi tôi dậy. Chẳng biết bác đã chuẩn bị
từ bao giờ, bác rút trong túi áo ra một chiếc khăn mặt còn mới tinh. Một tay
bác đưa chiếc khăn cho tôi, một tay bác đặt lên vai tôi, bác nói như thâm tình
nhắn nhủ:
- Cháu Bình, đây là
chiếc khăn mặt bác đã ủ trong người hàng tháng nay. Nhân dịp ngày Tết cổ truyền
từ ngàn đời, linh thiêng của dân tộc, bác tặng cháu, để chuyển nhượng, để gửi
gấm cho cháu những hoài bảo mà bác còn đang làm dang dở cho quê hương. Thế hệ
của bác đã về chiều tối rồi, nhiều việc bác không thể còn mà được nữa. Qua một
số ngày bác trao đổi với cháu, bác tin tưởng rồi đây cháu sẽ phải làm được một
cái gì cho đất nước, cho giống nòi.
Tôi thấy lòng xốn xang,
bàng hoàng. Một nỗi sầu ray rứt, rỉ dần ra trong lòng tôi. Tôi là một tên vô
danh tiểu tốt. Tôi đang bị sóng đời dìm vào đáy vực tăm tối, chẳng biết ngày
mai, và cũng chưa biết sống chết lúc nào. Nhưng nhìn ánh mắt thiết tha trao gửi
của bác, nhìn mái tóc đã trắng gần hết đầu, tôi đành nhận, nén chặt tiếng thở
dài để cho bác vừa lòng. Tâm trạng của tôi như một người bị cụt chân, nhưng
thấy một người già yếu đang ì ạch đẩy một chiếc xe bò lên dốc, lòng thì muốn
ghé vai đẩy giúp mà khả năng không còn. Tôi cũng thông cảm với nỗi lòng của
những người già, khi tuổi đã về chiều. Nhìn về phía trước, con đường còn dài
ngút ngàn vời vợi mà gối đã mỏi, chân đã chồn và sức đã tàn, lực kiệt. Chắc rồi
đây cũng lại sẽ đến lượt tôi, nếu như tôi không chết trẻ.
Từ dạo theo bác Cát tập
xàm nhà, để rộng chỗ đẽo và xàm, và cũng tiện chỗ để cho trâu kéo gỗ từ rừng
về, chúng tôi được ra thao tác, lao động ở một bãi đất trống ngay cạnh lán thủ
công. Không ngờ, vị trí của cái bãi này thật là tuyệt vời. Xa xa khoảng nửa cây
số là cùng, trên chỏm một ngọn đồi về phía Đông, có một cây tùng già to tướng.
Không biết nó đã bao nhiêu tuổi, nhưng khắp vùng này chả có một cây nào to như
nó. Mà cũng chỉ có nó là tùng mà thôi. Xa xưa chả biết ai đã trồng nó hay hạt
giống từ một phương nào bay tới. Nó um tùm, kềnh càng ra rất nhiều cành làm tím
thẫm cả một ngọn đồi. Cứ sáng nào cũng vậy, nhất là vào những hôm trời trong
vắt, không một vẩn mây. Tôi vừa lao động, vừa chờ mảnh mặt trời từ phía bên kia
đồi mò lên, để có 15 đến 20 phút, được ngắm, được nhìn, được ngây ngất với cái
kỳ ảo của thiên nhiên, của núi rừng.
Hôm nay cũng vậy, sau
trận mưa dài một ngày, một đêm, núi rừng cảnh vật như được cọ rửa, lau chùi như
mới. Trời cao xanh thẳm, chéo mãi phía Tây vài vẩn mây gầy lởn vởn như sương
khói. Làn gió hiu hiu làm đong đưa vài chiếc lá sồi non phía trước mặt. Cảnh
núi rừng của một sáng cuối Xuân, đầu Hè thật êm ả lạ thường. Vài tiếng hót “cọt
kẹt” của mấy con chim sâu trong khóm vi lan dại càng làm rõ cái vắng lặng quạnh
hiu của cõi hồn.
Kia rồi! Mảnh mặt trời
đỏ như một cục máu đã lấp ló dưới gốc của cây tùng phía đồi bên ấy. Vừa mới
chăm chú để ý bác Cát chỉ cho cách xàm một đầu của cái xà thượng vào một cây
cột quân, thế mà mặt trời đã leo lên tới cái chỗ tôi đợi chờ rồi. Liếc nhìn tên
Sỹ, cán bộ toán, tay y đang chỉ trỏ nói chuyện với bác Cát ở góc chiếc lều con.
Tôi ném vội cả cái bướm lẫn dùi vào thùng đồ nghề. Vờ chạy lại chỗ đống lửa để
hút điếu thuốc, nhưng mắt tôi đã hướng về phía cây tùng.
Lúc này vào khoảng 8
giờ. Mảnh mặt trời vừa chui vào cái chỗ nhiều cành lá rậm nhất của cây tùng.
Trong cái đám xanh thẫm như một bức màn, từng chùm ánh sáng thọc xuyên qua
những khe hở của cành lá, loe ra mọi hướng như lan quạt. Trông như những ánh
đèn pha cực mạnh trong buổi tối trời. Chẳng hiểu nó phản xạ ra sao, chùm thì
mầu tím hoàng hôn, chùm thì mầu xanh cánh chả; chùm vàng như lúa chín, chùm đỏ,
chùm hồng, có chùm tím ngắt như mầu mắt giai nhân. Xuôi theo hai mé đồi, một
mầu vàng chói, óng ánh viền trên những ngọn nứa. Một đàn cò trắng toát bay theo
đội hình chữ “V” ngang lưng trời. Hồn tôi như luồn ra khỏi cơ thể để hòa lẫn
vào thiên nhiên lung linh, mờ ảo.
Tôi liếc nhìn đây đó để
tìm một ánh mắt ít nhiều đồng cảm với tôi trong lúc này, nhưng mọi người vẫn
cắm cúi làm việc. Tưởng như cái đẹp hùng vĩ kỳ diệu này không hề có liên quan
gì đến đời của họ. Lầu Phá Tra gò lưng với chiếc rìu đang đẽo cây cột cái ở
phía đầu bãi đất. Không chịu được, tôi đã chạy đến kéo Tra nhìn về phía cây
tùng. Anh ngẩng lên, mặt anh ướt đẫm mồ hôi. Vừa hổn hển thở, vừa nhìn về phía
cây tùng, đầu anh gật gật không nói một lời. Tôi buồn một giây, trở về chỗ làm
việc vì cũng là lúc cái giây phút thần kỳ của tạo hóa đã qua rồi. Những ánh đèn
pha đã tắt, những mầu sắc mờ ảo lung linh đã loãng rồi. Mặt trời đã bò lên chỗ
ngọn cao nhất của cây tùng.
Về đến chỗ làm một lúc
rồi mà tôi vẫn còn băn khoăn mãi, không hiểu Tra gật gật đầu khi nãy là anh
cùng đồng ý với tôi cảnh đó đẹp thật, hay ý anh định nói là anh đã nhìn thấy
rồi? Tôi lại cúi xuống tiếp tục làm việc, nhưng óc tôi vẫn chảy dài vào một ý
tưởng so sánh buổn cười: Khi nhìn một cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, thì lại
bảo là cảnh đẹp như tranh vẽ. Nhưng nếu nhìn một bức tranh vẽ thật đẹp, thật
tài tình thì lại bảo tranh vẽ như cảnh thật.
Do những yêu cầu về chỗ
ở, cho nên hầu hết toán 2 đều phải ra làm nhà hoặc phục vụ cho làm nhà. Nhiều
những toán khác, trừ những toán trực tiếp sản xuất ra lương thực không kể, còn
hầu hết các toán đều phải băm bã, đan tranh để lợp nhà.
Cuối tháng 8/1970, toàn
trại E chuyển ra trại xây, vì ở ngoài ấy đã dựng xong 3 căn nhà và một căn bếp
cho trại rồi. Khu kỷ luật cũ vẫn còn lại, như vậy những nét chính cho một trại
giam đã hình thành: Có chỗ ở, chỗ nấu ăn và chỗ kỷ luật.
Trước ngày chuyển ra
trại xây, lệnh ở trên cục Lao Cải (lao động và cải tạo) tha mười sáu người.
Riêng toán 2 có hai anh được về: Lê Sơn, tập trung cải tạo 3 năm mà ở thành 11
năm. Thành Xuân Yên, tội chính chỉ có buôn lậu 5 kg chè búp với án phạt 6 tháng
về hình sự. Nhưng khi tù bên hình sự anh lại hay chửi đổng, xuyên tạc chính
sách nên trở thành phản động, bị tống sang bên chính trị. Anh phải lãnh cái
lệnh tập trung cải tạo 3 năm, nhưng anh cũng đã ở thành 8 năm rồi.
Tôi nhớ lại về anh Yên,
trong dịp học tập “lập công chuộc tội…” ở trong tổ học tập một lần anh đã phát
biểu: “Tôi thấy đời sống ở trong tù còn thoải mái, dễ chịu, bình yên hơn ở nhà,
vì vậy tôi xin biết ơn đảng và nhà nước, tôi muốn ở tù mãi”.
Buổi sinh hoạt có cán
bộ chủ trì, lời phát biểu của anh có ghi biên bản. Nhiều người nhìn anh ngạc
nhiên, nhất là tôi. Tôi nghĩ đây là một cách nói “lẫy” của anh. Nhưng khi phát
biểu, mặt anh rất chân thành, tỏ ra đấy là ý nghĩ thực sự trong lòng anh. Tuy
vậy tôi vẫn bán tín, bán nghi. Hôm sau tôi đã lựa lời hỏi riêng anh, anh đã
giãi bầy tâm sự:
- “Anh thử tính xem, ở
ngoài, tôi có vợ và hai đứa con nhỏ với một mẹ già. Cả hai vợ chồng tôi đều làm
cho hợp tác xã nông nghiệp ngay ở quê tôi. Năm nào cũng vậy, cứ chia bình quân
đầu người, mỗi tháng là 14 kg thóc. Cả nhà 5 miệng ăn mà chỉ có 28kg thóc, ăn
trong một tháng. Bữa cháo, bữa cơm cũng không đủ, rồi cảnh mẹ già thường bịnh
hoạn, ốm đau. Vợ chồng tôi phải làm đêm, làm ngày, ngay ban đêm, giấc ngủ cũng
không yên mà vẫn túng, đói nên tôi phải theo người ta đi buôn chè, để rồi bị
bắt.
Tám năm tù. Hai năm sau
ngày tôi bị bắt, mẹ tôi đã chết, vợ tôi đã bỏ nhà đi theo trai. Năm ngoái, đứa
con trai 10 tuổi chết vì bệnh kiết lỵ. Còn lại đứa con gái 12 tuổi đang bị bệnh
hen suyễn, sống lây lứt trong hợp tác xã. Tôi mà được về bây giờ, tôi còn khổ
cực, lo toan hơn ở đây nhiều. Trong tù tuy mất tự do, tuy đói, nhưng bữa nào
cũng có ăn. Về quê, lại là người mang cái tội phản động đi tù về nữa, chẳng ai
cho mình làm ăn gì, cho nên tôi nói thực với anh là tôi không muốn về”.
Ngày chuyển trại, hôm
ấy cũng thật là vất vả. Do anh em tù đầy lâu dài, nhiều năm tháng nên đã có
kinh nghiệm. Theo nguyên tắc, đồng thời cũng là một kế hoạch của trại giam là
mỗi khi chuyển tù từ trại này đi trại kia, cán bộ thường giữ bí mật tối đa.
Nhiều khi họ còn tung tin hỏa mù, đánh lạc hướng để cho mọi người tù bị bất ngờ
nhất.
Đợt này tuy chỉ chuyển
từ một phân trại này qua một phân trại khác của cùng một ban giám thị, vậy mà
anh em tù cũng không hề một ai biết. Tuy mọi người có nhiều kinh nghiệm nghe
ngóng, thăm dò, bén nhậy bắt, chộp từng hiện tượng, từng lời nói sơ hở của tụi
cán bộ mà lại vẫn còn bị bất ngờ về cái không ngờ.
Thường thường nhà tù là
hình thức của một xã hội thu nhỏ, cô đọng. Vì là cả một cuộc đời cho nên mỗi
người đều có ít nhiều những cái riêng tư, bí mật. Tiền bạc, dao, lược, nợ nần,
giấy tờ, hẹn hò v.v… Đùng một cái phải chuyển đi trại khác là mất luôn, thường
là cả đời chả gặp lại nhau nữa.
Những tháng trước, do
chuyển gỗ và dựng nhà ở trại xây, anh em ai cũng hiểu là sẽ chuyển trại, nhưng
không biết khi nào. Khi mò mẫm, thu lượm những nguồn tin từ trăm tai, nghìn mắt
của anh em đã nắm được ngày chuyển trại, cho nên ai cũng khôn khéo chuẩn bị ổn
định những cái riêng tư của mình. Nhưng không ngờ ngay buổi sáng hôm ấy, khi
ban giám thị có lệnh mang hết quần áo chăn, chiếu, công tư trang ra ngoài sân.
Ai cũng lo buộc gói cẩn thận để khênh, gánh đi đường, thì bất ngờ được lệnh
tổng kiểm tra. Đây là một điều rất hạn hữu, thông thường thì chỉ trại nào nhận
tù đến mới khám, mới kiểm tra mà thôi. Chính vì thế, rất nhiều anh em bị tịch
thu giấy tờ, sách vở (học Anh, Pháp văn lén lút) thậm chí cả tiền bạc.
Anh Bùi Tâm Đồng mặt
nhầu như chiếc giẻ lau, rỉ tai thổ lộ với tôi: Anh có hai tờ giấy 5 đồng (tiền
ngoài xã hội, không phải loại tiền âm phủ của trại), anh đã hao tốn bao công
sức đổi chác và giữ gìn từ mấy năm nay trong kế hoạch vượt thoát của anh. Thế
mà, nếu anh không có cái nghệ thuật “búng” điêu luyện thì chắc chắn sẽ bị vừa
mất của mà còn phải đi cùm nữa. Nghĩa là chỉ cần một, hai giây, hay một cái
liếc mắt, dù cán bộ đang vuốt, khám người anh, tiền vẫn có thể vo viên búng đi
xa hằng 5 – 6 mét mà không ai nhìn thấy. Từ trước người ta thường chú ý đến đối
tượng cho vào miệng nuốt.
Khi ra đến trại ngoài,
đã có 4 anh phải vào nhà kỷ luật. Ba anh vì tiền, một anh vì một lá thư có lời
lẽ phản động, định lén lút gửi về gia đình, nhưng chưa kịp gửi. Còn lược nhôm,
dao và đồ dùng thì bị thu vô kể. Toán 2 và 3 vẫn ở chung, cùng được chuyển vào
nhà số một ở gần ngay phía cổng trại. Một chiếc cổng xây kiên cố hai tầng còn lại
không bị phá.
Như trên tôi đã nói,
lúc này trại dốc toàn lực lượng để làm nhà và dựng nhà. Dựng nhà cho tù ở, lán
cho tù lao động và dựng nhà cho cán bộ ở. Khu vực, đất đai trong vòng tường xây
của trại rộng gấp 5, gấp 6 lần trại E. Do đấy từ buồng số I (phía gần cổng
trại) xuống nhà bếp lấy cơm nước thật xa đến 300 mét. Bởi vậy, những ai phải
phiên trực lấy cơm cho mâm, đều phải chạy mệt nghỉ.
Chỉ hơn ba tháng sau,
khi những làn gió lạnh mùa Đông ở mãi bên Trung Quốc bắt đầu mò về, đuổi dòng
tộc những chú ve sầu đi về phương trời khác, thì trại đã tươm tất thành từng
khu vực riêng biệt. Từ cổng trại đi vào, ngay phía tay phải là khu C gồm ba căn
nhà mới xây, kiểu cơ bản. Một loại nhà tường xây, lợp ngói, kèo, đòn tay…bằng
gỗ xẻ vuông, lắp, ghép lại bằng đinh và bù loong (miền Bắc gọi là nhà kiến
thiết cơ bản). Khi chúng tôi được chuyển từ trại E ra, thì đã có ba căn nhà này
rồi. Ba căn này vừa mới xây xong, mới lợp ngói và hoàn tất được một căn nhà, còn
hai căn nữa đang lợp ngói dang dở. Hẳn đây là những công trình mà công nhân bên
ngoài đến làm. Chắc do sự ngăn cách giữa tù và công nhân xây dựng nên họ đã để
lại cho tù làm tiếp. Mặc dù nghe nói như thế, nhưng chúng tôi chẳng thấy bóng
dáng một người công nhân nào, có lẽ họ đã đi rồi khi chúng tôi đến.
Về phía tay trái là khu
A, khu vực tù chính trị gồm có bốn nhà, mỗi nhà chứa hơn 100 tù. Đi vào nữa là
nhà hội trường cho cả khu A và khu B. Khu B phía trong là khu tù hình sự, gồm
có năm nhà. Trừ khu C có ba căn nhà xây cơ bản, toàn trại nhà đều bằng gỗ lợp phên
nứa. Mỗi khu đều có hàng rào kín bằng nứa chẻ đôi, cao chừng 4 mét ngăn cách
riêng biệt. Ba khu có ba cái giếng riêng. Một cái giếng riêng cho nhà bếp nữa,
như vậy toàn trại có bốn cái giếng nước.
Trên nguyên tắc, giữa
các khu tuyệt đối không được liên lạc quan hệ. Dù vậy, với những cái tinh quái
của người tù và những nhu cầu của cuộc sống trong tù, vẫn có một số người dùng
nhiều cách, lén lút liên lạc để mua bán, đổi chác: trà, thuốc lá, thuốc lào
v.v…giữa hình sự và chính trị. Chỉ có khu C, mới có một căn hoàn chỉnh, tuy đã
có tù ở nhưng cách một bức tường cao, chúng tôi chưa biết gì về những người tù
trong ấy.
Chung quanh trại là bức
tường xây bằng đá hộc cao 5 mét. Tuy vậy phía bên trong vẫn có một hàng rào nứa
cao 1 mét rưỡi, cách tường 1 mét, gọi là hàng rào cấm. Không kể nơi cổng, chung
quanh trại có 4 chòi gác của công an vũ trang.
Như vậy vào cuối năm
1970. Trại chính trung ương số I Phố Lu, Lào Cai hay gọi là K1, xấp xỉ trên
dưới một ngàn tù nhân, trong đó có hơn 400 là tù chính trị. Trại lúc này, vẫn
do tên Phạm Huy Tân từ trong trại E ra làm trật tự, cả khu A và khu B. K2 là
trại nữ cách K1 khoảng hơn một cây số đường chim bay. Còn K3, K4 và K5 thường ở
rải rác trong rừng. K này cách K kia chừng 4 – 5 km.
Được chuyển về trại
xây, đối với tôi có ý nghĩa và thích thú là nhất là ở hội trường có một thư
viện con con, do một anh tên là Phạm Thành trông coi, quản lý. Anh là giáo viên
cấp 2, bị tội hủ hóa, thuộc bên hình sự. Điều này thật là bất ngờ đối với tôi.
Trước đây tôi không bao giờ nghỉ tới và cũng chả có ai nói với tôi, trong trại
giam lại có thư viện.
Tôi nhớ lại, sau ngày
chuyển ra K1 này hơn ba tuần lễ. Sau những ngày bận rộn túi bụi buổi ban đầu cho
tạm ổn chỗ ăn, chỗ ở. Tôi chưa có thì giờ nhìn hình thể cái trại nó ra sao, chứ
đừng nói mò mẫm ra hội trường làm gì.
Một buổi trưa, sau bốn
giờ liền, lao động dựng nhà mệt nhọc, về nghỉ ăn cơm. Ăn xong, tôi xách túi bát
đĩa vào buồng, chuẩn bị đánh một giấc ngủ ngày mươi phút. Thoáng thấy anh Lê
Liễu, nằm ở sàn dưới đang mải mê đọc một cuốn sách thật dầy. Trông thấy sách
như trông thấy hoa, tôi xán đến. Đang nằm, quay lại, thấy tôi, anh bò nhổm dậy
tươi cười, nói nhỏ:
- Ngồi chơi anh Bình!
Phần vì không muốn làm
phiền những người bên cạnh đang ngủ trưa, phần khác, cũng chẳng muốn quấy rầy
chính sự yên tĩnh của anh, nên tôi chỉ vào tập sách anh đã gập lại, hỏi khẽ:
- Anh đọc sách gì thế?
Lúc tôi hỏi anh cũng là
lúc tôi đã nhìn thấy nhan đề cuốn “Chiến tranh và hòa bình” của Léon Tolstoi,
khi anh đẩy cuốn sách nghiêng nằm ra. Bởi vậy tôi hỏi tiếp là sách của anh hay
của ai?
Khi anh cho biết là
trại có một tủ sách ở ngoài hội trường, tôi vội cám ơn anh và đi ngay lên hội
trường. Vì muốn qua sông nên phải lụy đò, vì yêu sách nên tôi phải yêu cả người
coi sách là chuyện cuộc đời rồi, nhưng còn một lý do nữa cũng không thể bỏ qua:
khi hai người cùng một sở thích thì thường mến nhau. Anh Thành thích sách và
tôi yêu sách nên dễ dàng trở thành bạn.
Thư viện trại I, nói là
thư viện là nói theo lối ăn to, nói lớn của cộng sản, chứ thực ra cũng chỉ có
khoảng hơn 400 cuốn sách. Đa số là sách lý luận chính trị, rồi đến nông trường,
nhà máy, khoa học kỹ thuật. Tuy vậy có một số sách dịch cũng đáng đồng tiền bát
gạo: Ruồi Trâu, Sông Đông Êm Đềm, Người Thứ 41 v.v…dịch từ sách của các nước xã
hội chủ nghĩa. Trong trại, giai đoạn ấy có một cuốn sách khó mượn nhất, vì
thường có đến hàng chục người đăng ký chờ mượn rồi. Đó là cuốn “X30 phá lưới”,
một câu chuyện tình báo tưởng tượng khá ly kỳ, hấp dẫn giũa tình báo miền Bắc
và nên đệ nhất Cộng Hòa miền Nam. Vai chính trong truyện là Phan Thúc Định, một
tên điệp viên cao ráo, đẹp trai, học thức được cài vào cơ quan đầu não của
chính quyền miền Nam. Nó tung hoành, xỏ mũi ông Nhu, bà Trần Lệ Xuân cho đến
các tướng, tá. Thậm chí cả những tên CIA, Mỹ kếch xù, cũng bị Định dắt cho đi
chơi mát.
Theo quy định, mỗi tù
nhân được mượn một cuốn sách trong một tuần. Nếu cuốn sách nào hay, có khi phải
đăng ký chờ 4 – 5 tháng sau mới được đọc. Nhưng như trên tôi đã thưa rồi, tôi
và anh Thành đã trở thành bạn. Tôi nghiễm nhiên được đứng hàng thứ nhì trong 4
cái tiêu chuẩn, có nội lực vô cùng thâm hậu trong sinh hoạt xã hội dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa ưu việt:
Nhất ngoặc (tiền)
Nhì thân (bạn, thân
thuộc)
Tam thần (có quyền)
Tứ thế (quen biết những
người có chức, có quyền)
Tôi chỉ chịu thua có
đồng tiền. Vì đồng tiền càng trong một cái xã hội nghèo đói, thì uy lực của nó
càng kinh hồn. Vì tiền là bà tiên, ông phật có khả năng hoán chuyển tất cả mọi
vấn đề theo ý mình muốn. Tóm lại, tủ sách trại I do anh Thành quản lý, tôi tha
hồ thao túng, và cũng từ đấy tôi miệt mài bạn bè với sách vở.
Tôi chuyển đối ý đồ của
cộng sản. Chúng dùng sách báo để tuyên truyền, cải tạo tư tưởng của phạm nhân. Tôi
lại dùng sách báo của chúng như những điểm tựa, những cơ sở để thắp lên ngọn
đèn pha soi sáng thực tế. Dần dần cho phép tôi nhìn sâu vào bản chất của chế độ
cộng sản.
Dạo này nhân số của
trại càng ngày càng đông. Không những ở bên phía khu B hình sự, cứ vài ngày lại
có một nhóm tù đến mà ngay bên khu A chính trị cũng vậy. Hôm qua có một nhóm 4
người mới nhập trại. Hai người về toán ba xẻ, hai người về toán hai mộc. Qua dáng
dấp và cách ăn mặc, tôi có cảm tưởng cũng là người của miền Nam như chúng tôi.
Quả vậy, sáng hôm nay,
một anh được phân công đi theo tôi làm thợ phụ, học xàm nhà nên tôi đã hiểu sơ
sơ: anh tên là Nguyễn Cao Sơn, chuẩn úy, sĩ quan Thủ Đức khóa 20. Án phạt 20
năm. Một anh nữa cũng ở toán 2 là người Tầu. Anh tên là Trương Nàm Tráng, án phạt
12 năm. Hai người nữa ở toán 3 (xẻ) là:
Nguyễn Như Ánh – Án
phạt 15 năm.
Trần Quốc Quang – Án
phạt 10 năm. Anh này cũng là người Tầu, nói tiếng Việt còn chưa rõ.
Mấy hôm sau, tôi nghe
dư luận: nội vụ của toán biệt kích này, có một vài ẩn khúc không bình thường.
Tôi chủ trương, sau này có dip sẽ tìm hiểu kỹ lại.
45. Một Căn Bệnh Thần Kỳ
Chiều hôm qua, một câu chuyện của anh Lê Văn Bưởi làm cho
tôi và có lẽ cả khu A chính trị không thể quên được. Như tôi đã nói trước đây,
khi còn trong trại E, anh Bưởi cứ lẽo đẽo cắp vở theo học lớp 2 bổ túc văn hóa
vào những buổi trưa của trại. Lúc đầu còn nhiều anh em bàn tán, xầm xì; nhưng
mãi rồi cũng thôi. Phần tôi nhìn về anh, vì anh và tôi càng ngày càng thân hơn
do giống nhau ở nhiều điều kiện nên được nhiều chi tiết cụ thể hơn. Những tháng
đầu anh mới chuyển về trại E, mặt anh thường tươi vui phấn chấn. Có thể vì anh
còn đang ấp ủ một niềm hy vọng tràn trề trong lòng theo như anh đã tâm sự với
tôi: “tôi có rất nhiều công lớn với đảng và nhà nước”. Nhưng rồi niềm hy vọng
của anh cứ phai lạt dần theo thời gian, để rồi chính anh cũng chẳng còn bao giờ
nhắc điều đó với tôi nữa.
Sau khi chuyển ra trại
xây, trại chính này hơn một tuần. Một đêm mưa rơi tầm tả làm thao thức, khắc
khoải bao tâm hồn người tù. Sáng hôm sau, cái chân phải của anh Bưởi, không
hiểu vì sao đó bị co rút gâp lại, anh không đi lại được nữa. Cán bộ và y tế vào
buồng khám, chỉ thấy anh rên rỉ, kêu la đau đớn. Họ nắn bóp, sờ mó chân anh
nhưng chưa thể kết luận là bệnh gì. Nhìn cảnh sinh hoạt của anh ai cũng mủi
lòng, thuơng hại.
Theo quy định của trại,
ban ngày không ai được vào nhà cầu trong buồng để đại, tiểu tiện. Vả lại người
làm vệ sinh đã lấy thùng đi từ sáng sớm rồi. Mọi người ốm bịnh ở lại buồng đều
phải ra nhà cầu công cộng của trại. Anh Bưởi không đi được, nhẩy lò cò thì đau
đớn, vì thế nhiều lần anh phải bò, lết đi ra rửa ráy. Những hôm nắng ráo đã
đành, vào những ngày mưa dầm ướt át thì thật khốn khổ cho anh. Cũng có nhiều
anh em thông cảm, trông thấy nên đã dắt dẫn anh đi.
Phải nói tôi rất thương
anh. Anh cũng như tôi, một thân, một mình chẳng may rơi xuống vực thẳm của đời,
đành lầm lũi, lê kiếp sống lầm than trong ngục tù tăm tối đã thổi ruỗng, não nề
cõi lòng rồi. Bây giờ lại bị bán thân bất toại nữa thì còn cay đắng tủi cực đến
đâu.
Chính vì thế, nhiều đêm
tôi đã chui sang màn anh, thăm hỏi, ủi an, xoa bóp chân cho anh, đã nhiều lần
tôi phải cõng anh ra nhà cầu của trại, cũng như ra rửa ráy, giặt giũ. Hơn một
tháng sau, hôm ấy, khi toàn trại đã đi lao động có một trung úy là bác sĩ trên
tỉnh (Lào Cai) vào buồng khám bệnh cho anh Bưởi. Ông bác sĩ, có cán bộ y sĩ
trại là thượng sĩ Thìn đi theo. Sau đấy, cả tên Đức trưởng ban giáo dục trại,
rồi Thạc y tá của trại. Một đoàn người kéo vào buồng I để khám bệnh cho anh
Bưởi.
Người ta dùng ống nghe,
dùng vồ con gõ, đập khớp xương. Cuối cùng, một người khoác nách, hai người cầm
chân anh Bưởi, họ ra sức kéo thẳng ra. Anh Bưởi đau đớn, kêu như bò rống, nhưng
khi họ bỏ chân anh ra, nó lại gập lại như cũ. Phần vì không có thuốc để tiêm,
phần khác không có đủ phương tiện để khám nghiệm cho nên chân anh Bưởi cứ đành
bị gập như vậy. Cứ như thế kéo dài 3 – bốntháng sau. Dĩ nhiên là anh Bưởi không
đi lao động được.
Anh được ban giám thị
cho tổ kỹ thuật của Đinh Sơn làm cho anh một cái nạng gỗ thật nhẹ và đẹp. Từ
đấy cuộc đời anh đỡ nhiều nỗi khó khăn trong sinh hoạt. Trong buồng, nhất là
những anh nằm gần anh Bưởi, họ nhìn thế nào về anh thì tôi không được biết,
riêng tôi, cũng có lần tôi đặt vấn đề suy nghĩ. Tất nhiên, trong cuộc sống của
con người, ai cũng đầy rẫy những vấn đề phải lo lắng suy nghĩ rồi, đâu cần bận
tâm suy nghĩ về những câu chuyện của người khác. Nhưng sự việc cứ bầy ra trước
mắt hàng ngày, nên rồi cũng có lần phải suy nghĩ tới. Nếu anh Bưởi không có
bệnh, chân anh cứ co quắp suốt ngày đêm như vậy, thì làm sao anh chịu được. Nó
sẽ bị tê buốt nhức nhối. Có lẽ những tên cán bộ giáo dục và những tên cán bộ y
tế, cũng nghĩ như thế. Cho nên, một hôm chúng nó lại xuống buồng dùng băng quấn
chặt chân anh Bưởi lại. Chúng xỏ lá nói là phải buộc như vậy để cái máu tê xuội
nó không thể chạy lung tung khắp người, có khi nó còn chạy sang chân bên kia
nữa.
Tôi nhìn anh Bưởi mà
thương hại anh, nếu anh bị thật thì không nói làm gì, nếu giả thì không biết
anh sẽ bị khó khăn như thế nào. Phải nói vì chuyện này, mà đã từ lâu tụi cán bộ
giáo dục, đã gọi hầu như lần lượt khắp buồng lên để hỏi về anh Bưởi. Ngay chính
tôi, đã 2 lần khi chúng gọi tôi lên để giáo dục, tên Đức đã hỏi tôi có nhận xét
gì về cái chân của anh Bưởi. Một lần khác tên Tập trung sĩ (tên này là cán bộ
giáo dục mới ở đâu về) cũng hỏi tôi về cái chân anh Bưởi. Trong lòng tôi, thực
sự cũng có nghi là anh Bưởi làm giả, nhưng tôi nghĩ rằng: thứ nhất, đây là một
chuyện vô thưởng, vô phạt đối với mình; thứ hai, dù anh Bưởi có làm giả thì đó
là một chủ trương của anh, một hình thức đấu tranh của anh đối với cộng sản.
Nếu bất cứ ai có ý thức với đường đi của mình thì đều phải giúp đỡ anh, bao
che, tạo điều kiện cho anh.
Tuy vậy, để khỏi mang
mối ưu lo về sau với một việc làm mà tôi đã cho rằng chưa đủ thấu quát, nên tôi
đã đều trả lời:
- Tôi nằm ở sàn đối
diện, nhiều đêm tôi thấy anh rên la ghê lắm! Chính tôi cũng thông cảm và giúp
đỡ anh nhiều lần. Nhưng như ông đã biết đấy, hàng ngày tôi thường nỗ lực lao
tác dựng nhà. Về buồng tôi chỉ đọc sách rồi mệt thì ngủ, nên tôi không biết rõ
lắm.
Từ ngày chuyển ra trại
chính này, Hoàng Thanh đi đâu biệt không thấy mặt. Nhiều lần ban giám thị xuống
nói chuyện với trại ở ngoài hội trường, chỉ thấy tên Toán, Chuân, Mạch mà không
thấy bóng dáng Hoàng Thanh đâu. Có lẽ y phải chuyển đi nơi khác! Hoặc có khi y
buồn, vì không mang được cái tác phẩm kỳ vĩ của y là cái cùm hộp ra trại chính
này, cho nên y đã bỏ đi chăng?
Mới hai tuần trước, tôi
thoáng thấy cái dáng cao lênh khênh của y lững thững từ phía cổng trại đi xuống
khu nhà bếp. Trông xa từ gần 200 mét, rõ ràng chiếc lon trên cổ áo của y còn
tươi đỏ như máu, có 3 ngôi sao vàng lấp lánh mới toanh. Như vậy y đã lên thượng
úy rồi. Dạo này những buổi sáng và những buổi chiều khi toàn trại đã đi lao
động, đã có nhiều người được lệnh ở lại trại để đi gặp cán bộ. Tuy trước đây
hàng ngày vẫn có người phải ở lại gặp cán bộ giáo dục nhưng từ ngày Hoàng Thanh
về, mật độ đã dầy hơn. Anh Bưởi bị Hoàng Thanh gọi lên gặp mấy lần. Và chiều
hôm qua khi chúng tôi đi lao động về thấy anh Bưởi không đi nạng nữa. Anh mang
quần áo ra giếng tắm rửa như một người khỏe mạnh bình thường. Tôi và nhiều anh
em khác mở to mắt ngạc nhiên, thì Nguyễn Văn Gôm và Trần Như nghỉ ốm ở nhà đã
cười rộ lên, Gôm nhanh nhẩu:
- Hôm nay Hoàng Thanh
gọi anh Bưởi ra ngoài chỗ khu ban giám thị. Chẳng hiểu Hoàng Thanh đã dùng
phương cách gì, hay nói năng với anh Bưởi ra sao, chỉ biết khi anh trở về trại,
anh đi đứng bình thường, và chiếc nạng chắc Hoàng Thanh giữ lại để làm kỷ niệm.
Nói đến đây, Gôm lại
cười hô hố nói tiếp:
- Nghe đâu Hoàng Thanh
đã ra lệnh cho anh Bưởi phải khỏi cái chân ngay lập tức, nếu không y sẽ thẳng
tay trừng trị. Và anh Bưởi đã chấp hành lệnh của Hoàng Thanh để khỏi cái chân
thật, sau gần 6 tháng què.
Câu chuyện què chân của
anh Bưởi, làm cho anh em trong trại đùa vui như một giai thoại của nhà tù. Sau
này thỉnh thoảng tôi nghĩ đến hành động này của anh Bưởi. Có thể tôi đã nhìn
sai? Anh Bưởi làm như vậy để giải quyết điều gì? Phải chăng để cho cộng sản
thấy anh què, sẽ tha anh? Hay anh làm thế để khỏi phải đi lao động? Kết hợp với
việc đi học lớp 2, bổ túc văn hóa của anh, tôi cứ nghĩ rằng: Đây là hành động
của một người nhìn việc đời chỉ từ một góc độ, trong khi thường phải nhìn từ
rất nhiều phía.
46. Những Chiếc Trực Thăng Giấy
Đang từ một khung cảnh nhỏ của trại E, toán hai được chuyển
về trại chính này như bị rơi tõm vào một thế giới to rộng, bao la. Đã 5 – 6
tháng trôi qua rồi, đã hết cái mùa Đông u buồn lạnh lẽo để bước gần tới ngưỡng
cửa của cảnh trời Xuân. Trong một cái trại có hàng nghìn phạm nhân với bao
nhiêu khu vực khác nhau. Mỗi một ngày là bao nhiêu chuyện xẩy ra, vậy mà hầu
như tôi rất ít biết; chỉ vì tôi cứ miệt mài vào sách với vở. Nhất là kỳ này,
sau khi có bao nhiêu tập sách hay của cái thư viện con con này tôi đã lục lọi
đọc hết. Bây giờ chỉ còn các loại con cá, lá rau như: Anh Hùng Lúp, Bế Văn Đàn,
Lê Văn Tám, Nông Trường, Hợp Tác Xã với những tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa
v.v… Thành thực mà nói dù đói (tinh thần) tôi cũng không thể ngốn những loại
này được. Còn một loại sách nữa, cũng rất nhiều người không đọc, cá biệt có một
ai đó cũng ra vẻ ta đây có trình độ, có tư tưởng sâu sắc, mượn một vài cuốn về
thì lại cũng vứt lây, vứt lất ở sàn trên hay sàn dưới trong buồng. Có ai nhìn
thấy, mó đến, lặt một vài trang rồi cũng vất lại chỗ cũ. Đó là những sách triết
của các nhà lý luận tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Bản thân tôi cũng vậy.
Tôi thèm đọc sách lắm, vì đó là một sở thích của đời tôi, thế mà mỗi khi rờ đến
những loại sách đó tôi cũng thấy chán. Phần vì tôi đã học triết bao giờ đâu.
Tuy thời gian hơn một tháng ở số 2 J. Jacques Rousseau bên Chợ Lớn, cũng tí
toe, ngúng nguẩy một tí với triết chứ đã biết quái gì đâu. Phần khác, sách
triết vừa khô khan khó hiểu, có khi đọc cả trang mà chả hiểu gì. Nào những
thượng tầng kiến trúc, những hạ tầng cơ sở; nào những bản chất với hủy thể v.v…
cứ rối rít, tít mù cả lên.
Nhưng hết sách rồi, tôi
buồn quá! Tôi cảm thấy cuộc sống ở trong tù khô cằn hết hẳn ý nghĩa đi. Và vào
một ngày Chủ Nhật đó, tôi đã vớ đại một cuốn: Sự Khốn Cùng Của Nền Triết Học
Đức. Tuy không hiểu lắm nhưng cứ nhồi đại vào, nhưng càng đọc óc tôi càng sáng
ra. Rồi những học thuyết này, những tư tưởng kia. Những chủ nghĩa này đối
kháng, mâu thuẫn với chủ nghĩa kia v.v… Lénine chửi Trosky, mạt sát Causky;
Causky rủa sả Lénine. Người này viết sách lý luận chửi người kia, tôi muốn biết
vì sao mà họ chửi nhau, họ chửi thế nào? Đúng hay sai? Thế là dần dà, tôi mê
mệt, say sưa vào những cuốn sách loại đó.
Ngày đi lao động, trưa,
tối, những ngày nghỉ, tôi chỉ ngoại giao với tên trật tự Tân, để bí mật có tí
dầu lửa (điều này chả có khó khăn gì giữa Tân và tôi). Đốt một ngọn đèn con,
chụp đèn bằng cái lọ pénicinine cắt thủng đít. Tối nào tôi cũng đọc sách đến 10
giờ, thi đua với Nguyễn Văn Gôm. Gôm học toán, tôi xem sách triết. Tôi cũng làm
những bản thu lượm những tư tưởng chính của từng cuốn sách.
Trong trại tù, sách
hiếm hoi, có cuốn này thì thiếu cuốn kia. Anh em khác làm đồ tư cho cán bộ như
cái thước kẻ, thước mét, cái hộp con v.v… để mong cán bộ cho gói trà, bao thuốc
lá. Nhưng tôi chỉ mong cán bộ mượn cho những cuốn sách mà tôi cần, ở trên thư
viện của cơ quan.
Tôi đường hoàng ghi
chép vì tôi đã dùng sách để cải tạo tư tưởng còn đầy rẫy lạc hậu của tôi đúng
như ý đồ của họ. Như vậy là tôi tiến bộ quá ấy chứ, tôi còn sợ gì? Như trên tôi
đã trình bầy, chỉ vì mải mê vào sách vở cho nên rất nhiều sự việc xẩy ra ở
trong trại, có khi ngay chung quanh mình mà tôi chỉ ỡm ờ nghe. Nhưng có một sự
việc tôi không thể bỏ qua.
Khoảng cuối tháng 11,
đầu tháng 12/1970. Không khí sinh hoạt của trại khác hẳn, nhất là bên ngoài
trại phía cán bộ. Những toán tự giác như lâm sản, có lệnh nghiêm ngặt phải có
mặt ở trại trước 5 giờ chiều. Tù đi lao động ra vào trại bị kiểm soát gắt gao.
Bên ngoài, xa xa trên những ngọn đồi cây chung quanh trại, lấp ló đây đó là
những chiếc trực thăng bằng giấy, làm to như thật. Có đủ cánh quạt và mầu sắc
cũng như những chữ số để phân ra từng loại máy bay. Không ai có thể suy đoán
được, họ làm như vậy để làm gì, nhất là đã lâu để làm gì, nhất là đã lâu rồi
trại không có đài hay báo chí.
Đêm đêm, có những tràng
súng trung liên, tiểu liên, thậm chí cả đại liên đã khua động lòng người tù.
Người ta bàn tán, nào là đảo chính ở Hà Nội, nào có rất nhiều truyền đơn rải
ngay chung quanh trại v.v…
Tôi hiểu đây là những
nguồn tin có thể từ những tụi cán bộ rỉ tai tung ra. Nhưng cũng có thể từ ngay
chính anh em ở trong tù. Do sự bế tắc cùng khổ của đời tù tội, người ta thường
mơ ước, tưởng tượng, hình dung những điều tốt đẹp đến với họ, từ một sự tưởng
tượng của một cá nhân nào đó. Thí dụ: một anh đêm nằm không ngủ được, nhìn thấy
những hiện tượng súng nổ, cán bộ ra vào nghiêm ngặt…lại không biết rõ lý do nên
anh ta suy đoán: bên ngoài xã hội, trong chính quyền có phe thân Liên Xô, phe
thân Trung Cộng; phe này lật đổ phe kia thì dứt khoát cuộc đời mình sẽ thay
đổi. Sáng hôm sau, anh đó gặp một người bạn thân, vẫn thường trao đổi, bàn bạc
tình hình mỗi khi có một hiện tượng lạ. Anh này kể lại sự suy đoán của anh ta,
nhưng để cho người bạn chú ý đến lời nói của mình, ý kiến của mình hơn, anh đó
đã nói với vẻ như thật là anh đó đã bí mật nghe được từ tự giác, hay của cán bộ
v.v… Anh sau lại tiếp xúc với một người bạn thân khác. Anh đã kể lại sự việc
hoàn toàn như một nguồn tin, không còn là một sự suy đoán nữa, không quên thêm
vào, bớt ra cho câu chuyện có vẻ tình tiết. Và cứ như vậy, truyền miệng, rỉ
tai. Trong một trại giam, phương pháp thì thầm, rỉ tai này thật hữu hiệu. Tụi
cán bộ trại giam dùng nó bao giờ cũng đạt kết quả theo ý muốn. Sau này sẽ minh
chứng dần bằng những người thực, việc thực cụ thể.
Từ hơn 1 tháng nay, tôi
lại được chuyển về làm mộc ở trong lán thủ công. Lán thủ công ở đây rộng gấp 2
lần lán thủ công của trại E, nhưng cũng chỉ có hai toán như cũ: toán 3 xẻ và
toán 2 mộc. Ông cán bộ toán 2 kỳ này là Lê Trí Miễn. Da y đen đen, tuy còn rất
trẻ, chỉ khoảng 24 – 25 tuổi, nhưng tôi vẫn gọi là ông. Khác với tên Sỹ chó
chết trước đây đã đi đâu mất tiêu rồi. Chưa hiểu sau này ra sao, nhưng ngay từ
những ngày đầu, qua những ánh mắt, cử chỉ, tôi thấy có thiện cảm với ông ta. Và
chính ông Miễn cũng dành cho tôi nhiều điều đặc biệt. Nhưng phải nói đặc biệt
nhất lại là ông cán bộ toán 3. Tên ông ta là Tụ. Tôi có thiện cảm với ông Miễn
hơn ông Tụ, nhưng ông Tụ lại mến tôi và tin tưởng tôi một cách mà tôi không ngờ
được.
Ông Tụ phụ trách toán
3. Tuy toán 3 cũng có nhiều biệt kích, nhưng ông ta không có liên quan gì với
tôi cả. Lúc đầu, tôi quen biết ông chỉ vì ông ta nhờ tôi bào cho mấy cái thước
kẻ (phải có kỹ thuật tốt mới làm được thước). Ông ta cho tôi mấy điếu thuốc lá
Tam Đảo. Tôi không nhận, lại nhờ ông mượn sách. Rồi qua một vài quan điểm trao
đổi; càng ngày ông ta càng có thiện cảm với tôi. Tôi vẫn dè dặt, vả lại như tôi
đã nói, tôi có thiện cảm với ông Miễn hơn.
Cho đến một buổi, tôi
ra chỗ nhà cầu cuối lán thủ công để đi cầu. Rõ ràng tai tôi nghe nho nhỏ giọng
hát quen thuộc ngày xưa của Thanh Thúy. Vừa tò mò, vừa ngạc nhiên, tôi men theo
một bờ cỏ tiến dần về phía giọng hát từ ở một cái nhà con, chỗ làm việc của cán
bộ toán 3. Căn nhà làm việc đó cũng bằng căn nhà con làm việc của cán bộ toán
2. Hai căn làm giật lại phía sau cách xa lán xẻ và lán mộc. Hai căn dựng cách
nhau khoảng 50 mét.
Nhìn vào căn nhà đang
có tiếng hát, tối om, cửa đóng kín. Tuy chỉ là vách nứa, lợp tranh nhưng cũng
kín đáo. Bây giờ tôi nghe rõ ràng là bài “Chiều mưa biên giới” do ca sĩ Thanh
Thúy hát. Ôi, giọng hát lả lướt, truyền cảm nồng đượm như ánh nắng mùa Đông
sưởi ấm những cõi lóng khắc khoải, băng giá đã cuốn chặt hồn tôi. Cả một nỗi
niềm chất chồng thuơng nhớ về miền Nam thân yêu đã nén chặt trong lòng tôi
nhiều năm, hôm nay đã túa ra thành giọng hát ngọt ngào thuơng yêu ruột thịt.
Tôi gục đầu vào sau vách cho hồn chảy dài vào lời ca tiếng nhạc. Bất chợt, cánh
cửa sổ trên đầu tôi mở ra làm tôi choáng váng. Ông cán bộ Tụ cũng mở to mắt nhìn
tôi. Hai mặt chỉ cách nhau 50 phân.
Như tên trộm bị chủ nhà
bắt quả tang ở trong nhà. Tôi còn lúng túng lựa lời chống đỡ rồi tìm cách chuồn
thì ông ta nhỏ nhẹ thân tình:
- Anh Bình đấy à, vào
trong này!
Tôi đang lo sợ bị truy,
chụp về tư tưởng, không ngờ còn được ông gọi vào trong nữa chứ. Đắn đo một giây
rồi quyết định đi vào.
Vừa bước qua ngưỡng
cửa, ông đã đóng chốt then cửa phòng lại. Ông chỉ chiếc ghế đẩu vẫn thường dành
cho phạm nhân ngồi, nói nhỏ:
- Ngồi đi!
Cũng là tiếng “ngồi đi”
như nhiều những cán bộ khác vẫn bảo tù, nhưng qua giọng và cách nói hôm nay của
ông Tụ, tôi có cảm tưởng khác thuòng. Nó dịu êm, thân mật như của một người bạn
đối với một người bạn.
Quả vậy, gần nửa giờ ở
trong phòng của ông Tụ có lúc nghe nhạc, có lúc nói chuyện tình cảm giao du
giữa một người và một người, chứ không phải giữa cán bộ với tù nhân. Rồi từ
buổi ấy, thỉnh thoảng tôi lại lỉnh sang gặp ông, vì cùng trong khu thủ công. Vả
lại phạm nhân mà gặp cán bộ thì có gì là khác thường đâu. Những giữa tôi và ông
Tụ, tuy không ai nói ra nhưng hai bên đều tự hiểu, sự quan hệ này chỉ là riêng
hai người chẳng nên để cho bất cứ người thứ 3 nào biết.
Chẳng hiểu ông Tụ có
những cái nhìn, những nhận định thế nào về tôi, có lần ông ta dám nói một ý với
tôi thật là táo bạo: “Mỹ không hiểu biết gì về miền Bắc cả. Mỹ cứ ném bom thế
này thì giải quyết cái gì? Nếu Mỹ và Sài Gòn đem quân đánh thẳng ra đây thì sẽ
có đại đa số người dân đi theo, trong đó có tôi.” Trong lòng tôi thì ngạc nhiên
đến ngỡ ngàng, nhưng để bắt kịp một chỗ nối đổi mầu, mặt tôi thản nhiên, đầu
tôi gật gật, tôi giơ một ngón tay cái ra trước mặt ông ta, giọng tôi trầm trồ:
“Ông có cái nhìn thật
là sắc!”
Thái độ đó của tôi,
cũng muốn nói ý với ông Tụ là:
“Tôi đã hiểu anh, cứ tự
nhiên và anh yên tâm. Anh đã gặp một người có ý thức và có tâm hồn, dám chịu
thiệt hại đối với người tri kỷ lắm.”
Sau đó, sự quan hệ giữa
tôi và ông Tụ, tuy không dầy, chỉ thưa thớt bề ngoài nhưng có chiều sâu. Do đó
qua ông, tôi đã biết thêm cũng như xác minh được một số tin tức bên ngoài.
Chính vì vậy, ngay từ
đầu tháng 12/70 qua ông Tụ, tôi đã được biết sở dĩ tất cả các trại giam trên
miền Bắc đều phải thực tập canh gác, báo động đêm ngày. Phải làm những trực
thăng quân sự giả, nhưng cũng có chỗ là thật, để đánh lừa không ảnh của máy bay
Mỹ. Bởi vì Mỹ đã bất ngờ cho máy bay trực thăng xuống một trại giam ở Sơn Tây
đã đuợc di chuyển đi 3 – 4 tháng trước đấy rồi. Trại giam đó nhỏ, bây giờ chỉ
nhốt tù hình sự mà thôi.
Gần 3 giờ sáng ngày 21
tháng 11, có 6 trực thăng của Mỹ, thình lình đến trại giam Sơn Tây. Hai chiếc
đáp xuống bên trong trại giam, 4 chiếc vòng đảo trên trời để bắn phá bộ đội
tiếp viện bên ngoài. Chúng bắn chết một số bộ đội canh gác trại, phá khóa các
buồng giam, nhưng bên trong toàn là tù hình sự. Sau gần nửa giờ lùng xục, chúng
chẳng tìm được một tên phi công nào. Khi tháo lui, một chiếc trực thăng bị gẫy
cánh quạt vì vướng cành của một cây bàng, phải nằm tại chỗ ở trong sân trại.
Báo hại, họ đã bắt theo cô Nguyễn Thị Linh làm văn thư mang vào Nam. Cô Linh
lại là cháu ruột của đại úy Côi, giám thị ở K3 thuộc trại Phố Lu này.
Khi về trại, tôi chỉ kể
riêng cho Gôm và Quốc Anh nghe mà thôi. Gôm cứ xuýt soa ca ngợi số phận của cô
gái có cái tên là Linh. Bất ngờ cô ta đã “linh hỏi” lẹ từ một cảnh đời nhầy
nhụa, đói khổ sang một cảnh đời ngọt ngào sắc hương. Tôi thì nghĩ, có thể cô
Linh còn sang đến tận xứ Cờ Hoa ấy chứ, vì tình báo Mỹ phải cần cái lưỡi sống
của cô.
Còn một tin tức đặc
biệt nữa cũng do ông Tụ đã làm tôi ngẩn người ra vì ngỡ ngàng. Đó là phi thuyền
không gian Apollo 11 do hai phi hành gia người Mỹ đã đổ bộ xuống mặt trăng vào
tháng Bẩy năm 1969. Chắc hẳn thấy thái độ của tôi còn đầy băn khoăn nên ông Tụ
đã vào góc phòng lục trong đống báo cũ lấy ra một tờ Quân Đội Nhân Dân rồi chỉ
vào một góc phía dưới của tờ báo:
- Đây này, anh đọc đi!
Chỉ có hai dòng chữ đơn
giản ở mãi cuối tháng 3: “Sau nhiều lần thất bại, ngày…tháng 7 năm 1969, phi
thuyền Apollo 11 của Mỹ mang 2 phi hành gia là (tôi quên tên) đã đổ bộ xuống
mặt trăng.” Nguồn tin này, về trại tôi chỉ kể riêng cho bác Tiến, bác Lẫm và
Gôm nghe, nhưng chỉ vài ngày cả trại đã thì thầm bàn tán. Phải nói kỳ đó hầu
hết chúng tôi đều bàng hoàng suy ngẫm về con người, đã đặt chân lên cung Quảng
đánh dấu một kỷ nguyên mới cho nhân loại, vậy mà hơn một năm sau chúng tôi mới
biết.
47. Một Chuyện Tình Hi Hữu
Chả biết Gôm xoay xở quan hệ sao đó, quen được với anh Khuê
là thư ký nhà bếp. Nghe đâu 2 người cùng ở Hà Nội lại đã biết nhau từ khi chưa
đi tù. Chính vì thế Gôm biết được một câu chuyện tình đặc biệt ở dưới khu nhà
bếp. Tối hôm qua, trước khi Gôm kể lại cho tôi nghe câu chuyện đó, Gôm đã hỏi
tôi:
- Anh Bình có còn nhớ,
hơn 2 tháng trước, cái nhà hủi ở khu cách ly phía cuối trại bị cháy không?
Tôi vừa cười, vừa nhìn
Gôm, chưa hiểu mục đích của Gôm định nói cái gì, vì vậy, tôi vẫn trả lời thăm
dò:
- Anh chàng Lộc hủi
trốn tù chứ gì?
Gôm trề môi xuống:
- Đấy, đấy…Câu chuyện
tình bắt đầu từ đấy đấy!
Tôi buồn cười vì anh
chàng này dùng nhiều chữ “đấy” quá. Đời tù khô khan như nằm trên nồi rang, tôi
cũng muốn nghe một câu chuyện tình cho đời thêm âm ẩm lại. Hơn nữa, câu chuyện
tình này lại ở ngay dưới nhà bếp, vì vậy, tôi háo hức giục Gôm:
- Bạn cứ kể đi, khỏi
cần phải mở đề nữa!
Nhìn anh chàng Gôm cứ
mó cái này, xếp cái kia, tôi nóng cả tiết. Tôi biết tính anh chàng ngày là như
vậy. Cứ gợi một câu chuyện, cho đến khi nào người ta thích nghe là anh chàng
bắt dầu khệnh khạng, làm điệu. Biết tỏng như thế, nên tôi đứng dậy định trèo
xuống sàn:
- Thôi, tôi đi về chỗ
đọc sách!
Gôm vồ cả hai tay kéo tôi
lại, miệng hềnh hệch:
- Thôi mà, xin huynh
đừng nổi giận hết cả đẹp trai đi!
Tôi ngồi lại mà niềm
thích thú cứ rung mãi ở trong bụng. Nếu Gôm biết rằng, Gôm chẳng kéo lại thì
tôi cũng ở lại, để giục Gôm kể câu chuyện tình ở trong tù ấy bằng đuợc. Gôm đã
kể nội dung câu chuyện tình đó như sau:
Anh chàng Lộc này, chả
biết bị cái tội gì bên phía hình sự. Anh ta bị bắt vào tù từ khi nào, vì sao
anh ta bị hủi và cũng hủi từ bao giờ thì cũng chả ai tìm hiểu, vả lại cũng
không có điều kiện. Chỉ biết khi trại này xây dựng lại. Mãi phía cuối trại,
cách nhà bếp khoảng 50 mét, có một căn nhà con, chung quanh có rào nứa che kín.
Đấy là khu cách ly của người hủi. Nhà bếp hàng ngày vẫn đưa một suất cơm,
thường đặt ở cổng hàng rào. Bệnh hủi đã ăn cụt của anh ta hết 3 ngón chân và
một góc tai bên phải. Anh chừng 24 hay 25 tuổi. Có lẽ vì con hủi nên da mặt anh
ta rất hồng hào, sáng sủa. Một mình anh sống đơn độc trong căn nhà hoang vắng
đó với căn bệnh quái ác của cuộc đời.
Chẳng biết ai cho hay
anh kiếm ở đâu và tự bao giờ, một cuốn thơ của Hàn Mạc Tử. Lúc nào cũng thấy
anh cầm ở tay. Có lẽ vì đồng căn bệnh nên cùng một niềm u uất, cấu, xé tim gan,
anh đã gửi, buộc hồn anh vào những vần thơ ngâm, dầm trong máu của Hàn Mạc Tử?
Rồi chẳng biết, anh có những tính toán sao đó về cuộc đời của anh. Một đêm anh
đã đốt căn nhà cách ly với loài người đó của anh. Lợi dụng đêm tối và lúc tụi
cán bộ đang hỗn loạn chữa cháy, anh đã trèo qua tường trại để trốn. Nhưng chỉ
15 phút sau, anh đã bị trói gô, giong về trại, đưa ngay vào nhà kỷ luật.
Thời gian ở nhà kỷ luật
này, duyên đời lúc nào cũng bay bổng khắp đó đây của đất trời, đã đến với anh.
Trong trại nữ, nhà kỷ luật đang sửa lại, nên có một nữ tướng đấm, đá Hồng Đào
bị giong ra, nhờ kỷ luật ở trại chính; vì tội đã đánh bị thương nặng một đồng
phạm.
Trong nhà kỷ luật, do
những buổi ra ăn cơm nước gặp nhau, rồi do những sợ tơ đời nối duyên, Hồng Đào
và Lộc hủi đã nhìn nhau mà say đắm. Tình yêu trong sáng thì không phân biệt
tuổi tác, giầu nghèo, sang, hèn và xấu, đẹp, chỉ đơn thuần là tiếng nói của hai
trái tim; nó độc lập với ngoại cảnh. Tình yêu có tính toán một ít, thì vẩn đục
một ít; tính toán nhiều thì vẩn đục nhiều. Có phải ai trong cuộc đời này cũng
được hưởng cái tình yêu kỳ diệu nguyên thủy đó đâu?
Có lẽ, ai cũng phải
nghĩ đến cái nỗi thuơng đau, niềm bất hạnh của một kiếp người mang cái bệnh
hủi. Cho nên, anh chàng Lộc hủi bất hạnh nhưng được cuộc đời thuơng. Chỉ sau
nửa tháng vào nhà kỷ luật, cán bộ đã tha cùm. Trong khi chờ nhà cách ly làm
lại, Lộc hủi cứ ở trong nhà kỷ luật, nhưng không còn là một người bị kỷ luật
nữa. Vì vậy một đêm, do những sợi dây tơ đồng, anh đã dũng cảm trèo tường sang
chỗ Hồng Đào bị cùm. Rồi những buộc, nén, gò ép của cảnh đời tù đã mau chóng
tạo lên một cuộc mưa gió trên ngọn sầu đông. Đường đi quen lối, cứ như vậy tiếp
diễn hàng đêm. Trong cái chỗ cùng khổ, đen tối của cuộc đời vẫn có thể nở những
bông hoa hạnh phúc ngất ngây của loài người. Hỏi rằng trên cỗ long sàng của bậc
đế vương với chỗ ngục tối, người bị hủi, người bị cùm, ai đã mê dại đã đầy hơn
ai? Âu, đây cũng là một sự sắp xếp, an bài kỳ diệu của tạo hóa. Sự sung sướng
và khổ đau, ai cũng được hưởng bằng nhau trong cuộc đời!
Nửa tháng, Hồng Đào kết
hạn kỷ luật trở về trại nữ. Nhưng cũng chỉ hơn nửa tháng sau Hồng Đào lại bị kỷ
luật, để phải trở lại nhà kỷ luật của K1. Đối với mọi người đó là căn nhà kỷ
luật, nhưng đối với Hồng Đào và Lộc hủi thì đó lại là căn nhà hạnh phúc. Cứ như
vậy, dòng thời gian quấn quít, ôm chặt cuộc tình cho đến lần thứ 3 Hồng Đào lại
bị đi kỷ luật nữa. Nếu cuộc đời cứ trôi đều đi như vậy thì quả là không còn thi
vị, mà cuộc đời thực tế lại đầy thi vị cho nên nó đã chẳng trôi đều. Chỉ vì nó
không trôi đều nên cuộc đời mới biết câu chuyện tình hi hữu ấy. Nếu không, chỉ
giữa hai người thì có trời mới biết mà thôi.
Tên Tập cán bộ giáo dục
đã đặt vấn đề. Khi đặt vấn đề, thì y phải để ý theo dõi, rình mò. Mà đã rình
thì phải bắt được cả đôi chim đang đu đưa trên ngọn cây sầu đông. Khi đó Hồng
Đào có thai hơn 2 tháng. Bắt được như vậy, ban giám thị giận lắm, nhưng không
thể kỷ luật Hồng Đào được nữa mà bắt về trại nữ. Để cho Hồng Đào ôm trọn một
khối tình, có xuống tuyền đài vẫn chưa tan. Hiện giờ Lộc hủi vẫn còn đang nằm
trong nhà kỷ luật.
Gôm đã ngừng kể một lúc
rồi, mà tôi và Gôm vẫn cứ ngồi im. Hình như lòng mỗi người đang lắng đọng vào
cái nỗi đầy vơi, bồng bềnh của cuộc đời.
Trưa hôm nay, tôi vừa
nói chuyện với anh Thành tôi vừa lục tìm trong cái thư viện con con của trại
trung ương số I. Tôi cố gạn lọc, may ra còn cuốn nào có thể tạm xem được. Móc ở
mãi trong kẽ của một ngăn tủ sách, thấy một cuốn sách mỏng bìa bọc bằng một
miếng giấy xi măng đã cũ. Nhan đề của cuốn sách viết dài thoòng: Những Phong
Trào Văn Hóa Đấu Tranh Chống Thực Dân Pháp Trước Cách Mạng Tháng Tám. Viết theo
dạng hồi ký. Tôi lần dở một vài trang, chợt tôi nhìn thấy một tấm hình chụp 5
người. Tấm hình có chú thích phía dưới: Ban chủ trương, biên tập của tờ báo “Le
travail” ở Hà Nội. Tấm hình chụp ngay trước cửa tòa báo.
Bốn người biên tập viên
là: Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thái Mai và Phạm Văn Đồng. Chủ nhiệm là
ông Nguyễn Văn Tiến.
Nhìn thấy tấm ảnh bác
Tiến, tôi bỏ cả cuộc nói chuyện với anh Thành coi thư viện. Tôi mượn cuốn sách
chạy về buồng. Bác Tiến còn đang lục đục ở ngoài nhà ăn. Vui mừng như năm ngoái
nghe tin Hồ Chí Minh hộc máu ra chết, tôi rối rít khoe:
- Bác ơi! Có ảnh của
bác chụp trước tòa báo Le Travail đây này!
Mặt bác Tiến tươi hẳn
lên, quay lại, trong khi bác còn cho tay vào túi áo móc cái kính ra, tôi cứ líu
lo:
- Có cả Phạm Văn Đồng,
Trần Huy Liệu nữa bác à!
Một số người, trong đó
có cả 3 anh tu sĩ là: Sĩ An, Quốc Anh và Phùng Văn Tại cũng xô đến mà coi. Qua
bức hình này, bác Tiến càng được anh em kính nể hơn. Ngược lại, những tên cán
bộ, nhất là tên Đức, thiếu úy trưởng ban giáo dục, hễ khi nào thấy bác, chúng
lại sai bảo, hành hạ chơi, coi như một cái thú vui của chúng.
Sáng hôm qua, buổi gần
trưa, lúc trại đi lao động về, có một nhóm 4 người tù mới. Nghe đâu thuộc Biệt
Hải, Người Nhái vừa chuyển từ trại Thanh Liệt đến. Trông 4 người tuy xanh xao
gầy guộc nhưng đều cao lớn. Họ đều còn trẻ cả, chỉ trong khoảng từ 24 đến 27
tuổi là cùng. Buổi chiều, một anh được phân về toán xẻ là Lý Giồng Slau, còn
lại là 2 anh phân về toán 2 là: Lầu Chí Chăn, Dương Long Sang và Vòng Hợp Văn.
Cả 4 anh đều là gốc Tầu, quốc tịch Việt. Nghe Nguyễn Văn Gôm kể lại, các anh
đều ở bên Chợ Lớn.
Sở dĩ tôi nghe Gôm và
Trần Như kể lại loáng thoáng như vậy chỉ vì tôi chưa vội vàng, vồ vập buổi đầu.
Mặc dù trong lòng tôi cũng đang ngứa ngáy muốn biết những tình tiết, nội vụ của
nhóm Người Nhái này. Cũng chính vì cái nhóm Người Nhái này đến trại ngày hôm
qua, chiều nay ở chỗ nhà ăn trong lúc chờ tên cán bộ trực trại vào “cho gà vào
chuồng”; bác Tiến, Gôm, Nhu và tôi hãy ngồi tán chuyện gẫu. Gôm, Nhu và bác
Tiến hẳn từ lâu đã được nghe nhiều do chính những người biệt kích, gián điệp
trong Nam ra kể sơ lược lại về bản thân mỗi người. Chính quyền miền Nam huấn
luyện biệt kích, gián điệp rồi tung ra miền Bắc ra sao, họ đều đã có những cái
nhận định chung, nhưng hôm nay họ lại đem vấn đề đó ra hỏi lại tôi.
Lòng người dân miền
Bắc, như tôi đã trình bầy trước đây, khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lũ tướng,
tá đảo chính hồi cuối năm 1963, họ vẫn hướng về mảnh đất phía Nam của tổ quốc.
Nhất là những người đã phải vào tù, những lúc lòng họ tím thẫm, tối đen nhất,
họ lại hướng về miền Nam, mong mỏi nhìn thấy một nguồn tia sáng hy vọng, hòng
giải thoát cái cảnh đời ngục tù của họ.
Bởi thế, khi ở trong tù
họ lại được gặp chính những người miền Nam ra Bắc để hoạt động chống cộng sản,
hầu hết họ đều tò mò muốn tìm hiểu về miền Nam, nơi mà lòng họ vẫn và đang
ngưỡng vọng trong mỏi mòn. Tóm lại họ đã hỏi tôi như sau:
- Các anh, dù là biệt
kích, biệt hải, lôi hổ hay gián điệp, chúng tôi thấy các anh được đào tạo rất
công phu, được trang bị đầy đủ đến chân răng, kẽ tóc. Nhưng có một điểm quan
trọng bậc nhất là các anh không được trang bị về tư tưởng, hoặc nếu có thì cũng
chỉ hời hợt, tùy tiện mà thôi. Có phải thế không?
Trước mặt tôi, tuy họ
không nói thẳng ra, nhưng tôi hiểu trong lòng của họ muốn nói tư tưởng ở đây là
“Lý tưởng và lòng căm thù giặc”. Tôi hiểu đây là một cái lỗi, chẳng phải của
riêng ai, mà nó đã nằm sẵn trong cái đáy của cái xã hội của những nước tư bản
rồi, nghĩa là ngay từ nước Mỹ chứ không phải chỉ ở miền Nam Việt Nam. Do lòng
tự mãn tin vào vũ khí và sức mạnh của tiền bạc nên đã coi nhẹ cái khâu tinh
thần này. Thậm chí, hầu hết đều mang một quan điểm, cứ để tùy tiện lòng của mỗi
người đối với kẻ thù. Tôi cứ cấp súng, giao tiền cho anh để anh đi đánh cộng
sản. Nếu gia đình anh có nợ máu với cộng sản thi anh đánh hăng, nếu không, anh
có đánh kẻ hời hợt thì cũng tùy anh.
Chính ngay bản thân
tôi, cũng ấm ức cái thắc mắc này. Tôi nhìn chung, bao nhiêu toán biệt kích đi
ra miền Bắc, đa số đã vào trại giam miền Bắc, nếu không nói là còn cao hơn nữa.
Thậm chí cứ gửi toán này ra, bị mất tích, lại gửi toán khác ra, lại cũng biệt
tăm. Vậy mà sau đó vẫn cứ gửi tiếp. Nỗi ấm ức này đã thúc hối tôi cũng đi phỏng
vấn đủ thành phần, từ trong Nam xâm nhập vào miền Bắc để hoạt động chống cộng
sản. Để rồi, tôi được nghe người ta giải thích như một giai thoại nghe mà cười
méo cả miệng thế này. Ngay từ khi còn ở các trại Long Thành (Bà Rịa), Mỹ Khê,
Sơn Trà (Đà Nẵng) cũng đã có nhiều anh em thắc mắc. Anh em thấy toán nào ra đi
cũng thường không về, mà bây giờ đến lần họ lại phải ra đi, cho nên họ đã hỏi
thẳng ngay những cố vấn Mỹ này cởi vòng xoắn đó như sau: “Các anh cứ yên tâm ra
đi, nếu có bị bắt cũng không sao. Chỉ cần các anh cố giữ lấy cái đầu (nghĩa là
đừng chết). Chúng tôi muốn gửi các anh ra đó, để cộng sản huấn luyện tư tưởng
cho các anh. Sau này tư tưởng của các anh sẽ được tôi luyện già dặn, trở thành
sắt thép để chống lại cộng sản”.
Đành rằng đây chỉ là
một lời giả tạo, một lời khích lệ, hứa hẹn để yên lòng người đi nhưng về một
khía nào đó, ít nhiều nó cũng có giá trị thực tế. Thực tiễn đã cho thấy, những
người càng ở tù lâu trong tay cộng sản bao nhiêu, lòng họ càng cứng rắn chống
cộng sản bấy nhiêu. Có những người lúc ra đi, dù chưa có ý thức chống cộng sản,
thì rồi cũng trở thành người chống Cộng từ trong máu. Vì vậy, tôi cũng tạm lấy
cái ý này, gượng gạo trả lời bác Tiến, Gôm và Nhu, tuy trong lòng tôi lại nghĩ
hoàn toàn khác.
Hơn một tuần lễ sau,
tối hôm nay, tên cán bộ Y trực trại vừa vào điểm buồng đi ra. Từ gần ba năm xưa,
ngày đầu tôi lên trại, cũng tên Y này đã dẫn tôi vào phân trại E. Khi trở ra
trại này, cũng 6 – 7 tháng rồi, mãi hôm nay tôi mới lại thấy y. Vẫn dáng dấp
quân sự, với những bước đi dài, dõng dạc, chỉ có khác, cầu vai của y bây giờ
mang cái lon thượng sĩ. Dòng tư tưởng của tôi còn đang lãng đãng, bần thần suy
nghĩ về tên Y này, bỗng anh chàng Gôm nổi hứng bất tử, đứng ở giữa buồng cao
giọng tuyên bố:
- Đồng bào hãy chú ý:
Một nguồn tin nóng hổi vừa thổi vừa ăn à…nghe, tôi vừa mới nhận được 10 phút
trước đây!
Nhiều người im lặng
quay lại, Hoàng Đức Tùng từ sàn trên nói vọng xuống:
- Nói ngay đi, đang chờ
nghe đây!
Để nửa phút cho cả
buồng im lặng, bán tín, bán nghi với cái tếu của Gôm, bấy giờ Gôm mới dõng dạc
từng lời:
- Một thiếu nữ 17 tuổi
đã bắt cóc bốn thiếu niên mang vào rừng hơn 3 tháng nay. Sáng hôm nay mới tìm
thấy thì bốn chàng thiếu niên đã bò đi không được.
Gôm tuyên bố xong, quay
ngoắt vào nhà cầu để đi đái. Trong khi căn buồng sôi nổi, râm ran lẫn lộn tiếng
cười, tiếng nói. Người hỏi thế này, người hỏi thế kia, chả ai nghe rõ cả. Cho
đến lúc các tổ vào ngồi sinh hoạt buổi tối. Nhiều anh còn hấp háy, thấp thỏm về
câu chuyện 4 cậu thiếu niên, chả biết anh chàng Gôm này nói thực hay nói đùa.
Tôi cũng hiểu Gôm thỉnh
thoảng hay tếu, bốc đồng nhưng cũng phải thừa nhận anh ta có cái tài săn tin,
nhất là về những mối tình đặc biệt trong cái thế giới nhà tù này. Buổi tối hôm
ấy, chẳng còn phải do tôi đến với anh Gôm để tìm cách biết về câu chuyện
nóng hổi đó nữa. Rất nhiều người trong buồng, sau khi sinh hoạt xong đã đổ xô
đến vây quanh chỗ Gôm, bắt Gôm phải nói rõ sự việc.
Trong một cái xã hội
hàng ngàn người, lẫn lộn chính trị, hình sự này. Chả hiểu Gôm đã nhận được một
nguồn tin từ một đường dây nào đó thì không biết. Đường dây nào thì cũng không
ngoài những bộ phận tự giác, mà trại tù nào cũng phải có. Gôm đã kể nội dung
như sau:
Cách đây ba ngọn đồi và
một khoảng rừng già, nghĩa là xa đến 7 – 8 cây số về hướng Tây, có một trại tù
thiếu niên tuổi từ 12 đến 17. Trại này có cái tên mỹ miều, tiến bộ đễ đánh lừa
thiên hạ: “Trường phổ thông công nghiệp I”, chứa chừng trên dưới 400 em, vừa
trai, vừa gái. Con gái chỉ có một phần mà con trai chiếm đến 3 phần. Tuy có
hàng rào ngăn chia 2 khu trai, gái ở riêng biệt nhưng bếp chung và học chung
một dẫy nhà. Trại nằm chỉ cách 2 cây số bên trái tỉnh lộ Lào Cai với Yên Bái.
Trại cũng có ban giám thị và quản giáo nhưng được gọi thay là ban giám đốc và
các thầy cô. Một đại đội công an vũ trang, hàng ngày mang súng đưa các em ra
ngoài trại lao động. Các em cũng được chia thành tổ, toán. Nửa ngày ở nhà học
văn hóa và học nghề rèn, mộc, xẻ; nửa ngày đi lao động trồng khoai, trồng sắn,
trồng rau và làm ruộng. Để cho các thầy cô có thể đi sát với các em, và cũng để
khác với trại tù một tí, các thầy cô tuy có phòng riêng nhưng cũng ở cùng khu
với các em.
Trong một khung cảnh
nửa nhà tù, nửa trường học, trai gái lẫn lộn như vậy, cứ hình dung, tưởng tượng
thì biết bao nhiêu cậu chuyện xẩy ra hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Nhưng
người ta vẫn nói, thèm cái gì thì hay nghĩ và hay nói về cái đó. Những tin tức
khác, có thể Gôm đã loại bỏ, mà chỉ chú ý về những giai nhân và những chuyện
tình giật gân. Nào là, có thầy giáo cứ mang riêng từng nữ sinh vào rừng tập dậy
tập thể dục, để rồi nhiều thầy giáo mất lon, mất việc, có khi phải vào ấp. Nào
là, có hai học sinh nhìn thấy cô giáo ngon thơm như múi mít, đang đêm rủ nhau
đột kích vào buồng cô giáo, trói tay chân cô giáo xuống giường rồi hè nhau đu
đưa trên ngọn cây sầu đông. Trước khi bị trói, cô giáo đã hành động rất thông
minh đúng bậc thầy. Trong bóng đêm đã vảy kịp cái bút máy có mực vào những kẻ
“ong non ngứa nọc châm chọc hoa rữa”, để rồi sáng hôm sau đã tìm ra đích thủ
phạm là 2 chú “dê còn buồn sừng thích húc dậu thưa”.
Nhưng câu chuyện sốt
dẻo được Gôm chú ý nhất là cô Yến Cổ Am, nghe đâu cô là gái của làng Cổ Am, Bắc
Ninh. Cô này có đôi mắt một mí và một chiếc má lõm đồng tiền. Đặc biệt, cô có
một cơ thể rất nẩy nở của tuổi trăng gần tròn.. Rất năng động và tháo vát, vì
vậy không những cô là toán trưởng của một toán 32 người, cô còn là tự giác của
trường nữa. Toán của cô trồng chè và hái chè. Bên khu con trai có 4 cậu choai
choai chơi một băng với nhau là Minh Cò, Đạt Chộp, Hổ Mưu, còn một cậu nữa quên
tên, tuổi từ 15 đến 17. Chả biết cô Yến Cổ Am hẹn hò,, dỗ dụ làm sao đó, bốn
cậu quyết tâm đi theo tiếng gọi của đò đưa để cho cô Yến dẫn lên một ngọn đồi
hoang có một căn hầm tăng xê bỏ phế từ thời chống Pháp. Vì cô Yến là tự giác
nên đã lén mang được chăn chiếu và một vài thứ đồ dùng tối thiểu cho các cậu ở
một nơi cách xa trường đến gần 2 cây số. Thỉnh thoảng đôi ngày, có khi một ngày
cô Yến lại mò lên vừa tiếp tế thức ăn vừa cùng các cậu thượng đài giao đấu.
Thời gian cứ thế trôi
đi. Trong trường cũng như ban giám đốc đều nghĩ rằng các cậu đã biến về miền
xuôi rồi, cho nên cũng chỉ ra lệnh tầm nã thường lệ, vì cả nước đang có chiến
tranh chống Mỹ. Câu chuyện, 4 cậu thanh niên trốn trại, dần dần chìm vào quên
lãng của thời gian đến nay đã hơn ba tháng.
Tên Dũng là một hạ sĩ
quan vũ trang, 25 tuổi. Tuy đã có vợ, một con ở quê nhà miền Thanh Nghệ, nhưng
y làm công tác ở nơi núi rừng heo hút đêm, ngày chỉ nghe thấy gió ngàn rên rỉ,
lòng y càng nặng trĩu những lúc gió mưa và những buổi tối trời. Trong những xê
dịch, quan hệ của cuộc sống ở trường tù này, đã nhiều lần y nhìn thấy Yến Cổ Am
mơn mởn đào tơ. Đêm ngày y dệt chiếc lưới tình mong bủa được con chim Yến làng
Cổ Am. Bản tính phóng đãng của con mồi như vậy, nên lưới của y chả cần dệt xong
thì con mồi đã ngoan ngoãn chui vào vòng tay của y. Rồi từ đấy, cô gái Cổ Am 17
không phải chỉ bẻ gẫy một sừng trâu mà những 4 -5, để đường đi phải rẽ 3 -4
ngả.
Tên Dũng đã đu đưa
nhiều lần trên ngọn cây sầu đông với cô Yến. Y thấy cô Yến có những thời gian,
và những hướng đi bất thường nên y lập tâm theo dõi. Vào một ngày đẹp trời có
nhiều mây bay, gió thổi, tên Dũng đã theo, rình và bắt tại trận 4 cậu dê non.
Tuy cậu nào cũng chỉ còn da bọc xương với những đôi mắt thất thần trắng hếu,
vậy mà vẫn hăm hở, lần lượt thay phiên nhau “ấy” với cô gái Bắc Ninh. Thật là
chẳng sai, mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo…đồi. Thấy vậy y giận quá! Nếu anh
chàng Dũng chịu suy xét, hiểu chuyện đời…là như vậy thì cứ ngậm miệng tiến bước
trên con đường đi như cũ. Có thể vì giận nên mất khôn; nhưng có lẽ y tưởng,
phát hiện được bốn tên vượt ngục này, vai y sẽ thêm một sao nữa và đảng cũng sẽ
tín nhiệm y thêm, nên y đã cấp tốc về báo cáo với ban giám đốc. Thế là cả một
tổ chim lớn trên đồi hoang bị bắt gọn, bốn chú “ong non” đã phải vừa đi vừa bò về
trại.
Cuối cùng câu chuyện vỡ
banh ra hết. Anh chàng Dũng vũ trang có công đã phát hiện được tổ chim, nên chỉ
bị lột lon cho về nhà đuổi gà cho vợ. Đến đây câu chuyện của cô Yến Cổ Am vẫn
chưa hết. Sáng hôm sau, Nguyễn Văn Gôm được lệnh ở lại trại để gặp cán bộ. Đến
trưa, chúng tôi đi làm về thì được biết Gôm đã bị đi kỷ luật rồi. Chúng tôi
chưa dám kết luận vì sao, tuy vậy Bùi Tâm Đồng vẫn nói đùa:
- Chắc ban giám thị gửi
Gôm vào nhà kỷ luật gặp Lộc hủi để tìm hiểu thêm về cuộc tình giữa Hồng Đào và
Hộc hủi.
Hơn một tuần sau, Gôm
ôm chăn chiếu trở về buồng, mặt buồn rười rượi nói nhỏ với tôi:
- Mẹ cha nó, chắc thằng
Phi tổ tôi chứ không ai. Ban giám thị kết tội tôi làm ảnh hưởng đến tinh thần
lao động của trại viên.
Tôi đùa, cũng nói nhỏ
với Gôm:
- Họ kết tội như vậy
quả không sai, mấy đêm nay tôi vẫn còn mơ màng về câu chuyện của cô Yến Cổ Am
đấy, cứ khắc khoải mãi giấc ngủ có yên đâu.
Mặt Gôm còn mệt và xanh
tái, vậy mà miệng vẫn toét ra cười:
- Hơn một tuần lễ để
chân trong cạm, tôi càng giận thấu xương cô gái làng Cổ Am này. Sau này, nếu
tôi gặp một cô Yến khác nào, tôi sẽ chạy tránh ngay ra xa.
Tôi đã biết tỏng anh
chàng Gôm này rồi. Thấy gái như người khát nước thấy quả mơ, nhưng bác Tiến
ngồi bên cạnh đã ngạc nhiên, quay lại hỏi Gôm:
- Mình không thích
người ta thì thôi, chứ việc gì mà phải chạy?
Như giũ sạch cái buồn
vừa đi kỷ luật về, Gôm đã đon đả:
- Cháu chạy ra xa lấy
trớn, để lao vào cho mạnh hơn bác ạ!
Đúng là cái nết, cho kỷ
luật chết cũng không chừa.
48. Ai Đã Cho Shihanouk Ăn… Cứt Gà Sáp?
Hôm nay, toán 2 đi lao động ở lán mộc thủ công về, vừa vào
đến cổng trại đã nghe thấy tiếng loa oang oang, làm cho mặt ai cũng tươi tỉnh
hẳn lên. Nhìn thái độ phấn chấn của mọi người, vừa đi về buồng tôi vừa suy
nghĩ. Tâm lý con người thật cũng kỳ lạ! Trước đây, tiếng loa cứ nheo nhéo suốt
ngày đêm, thì ai cũng đau đầu, nhức óc, chửi nó là “con mẹ chửi thuê đầu đường,
xó chợ”. Vậy mà bẵng đi không có nó, lại thắc mắc, lại mong. Lòng con người
thật cũng khó mà chiều!
Từ mấy ngày trước, có
mấy người thợ điện của trại vào mắc hệ thống dây và loa cho các buồng. Nhớ đến
Phan Thanh Vân, tôi hỏi thăm mấy anh thợ điện. Khi nghe tôi hỏi, mặt anh nào
cũng ngơ ngác, rồi như chợt nhớ ra, một anh đã trả lời lấp lửng: “Hình như Phan
Thanh Vân đã được chuyển về Hà Nội gần một năm nay rồi, chúng tôi là những
người mới, nên không biết rõ”. Thấy họ không biết gì hơn, tôi không hỏi nữa.
Lòng tôi cũng thấy vui vui vì đường đi của Vân càng ngày, càng mở rộng mở.
Thảo nào mà chúng mắc
đài, mắc dây rối rít cả lên. Dù chúng tôi chẳng còn lạ quái gì nữa, vậy mà vẫn
phải nói. Hể khi nào chúng bắt tù nghe đài, đọc báo là tình hình có lợi cho
chúng. Còn khi nào đài bị hư, báo bị nghẽn đường v.v… là phải hiểu, chúng đang
bị khốn đốn, tình hình đang bất lợi cho chúng. Đài cứ ra rả sáng, trưa, chiều,
tối, chúng chưởi bới Nixon là con diều hâu. Về hội nghị Paris chúng chửi Nixon
và Thiệu ngu xuẩn và ngoan cố. Chúng sẽ tăng cường sức mạnh để đè bẹp sự ngoan
cố, thực dân của Mỹ v.v… Nhân dân thế giới đang sôi nổi ủng hộ chúng. Nhân dân
Mỹ phản chiến chống chính phủ Mỹ. Đặc biệt nhất, chúng làm rùm beng nhất là một
chiến dịch to lớn quy mô chào mừng hội nghị nhân dân Đông Dương 3 nước Việt,
Miên, Lào.
Anh chàng Shihanouk đã
bạc đầu ra rồi, mà vẫn hí hửng nhai cứt gà sáp của cộng sản. Tôi vẫn hiểu rằng,
trước đây, bây giờ và sau này còn nhiều người to đầu, tài ba nữa mà vẫn nhai
cứt gà sáp của cộng sản huống gì Shihanouk. Cái điều đáng nói là người nào tỉnh
sớm và người nào tỉnh muộn mà thôi. Nhưng hầu hết, hoặc đại đa số, khi còn khẩu
súng trong tay, khi còn nhiều của cải, sức mạnh đầy đủ, khi còn phây phây, nhởn
nhơ ở một nước tự do thì không bao giờ tỉnh. Lúc đó ai cũng nhìn thấy cộng sản
là một người đạo mạo, hiền từ, yêu chuộng hòa bình trên hết, chỉ chiến đấu cho
công bằng và tình người. Chỉ khi nào, ai đó không còn những cái ưu thế ở trên,
bấy giờ mới nhìn thấy bộ mặt thực của cộng sản là một con quỷ có ngà. Bạn còn
vũ khí trong tay, bạn có thể bắn chết nó thì hãy tin chắc chắn không bao giờ
cộng sản làm mất lòng bạn, chúng sẽ tìm mọi cách ve vãn, nào là hòa bình, tình
người, hữu nghị, làm sao cho bạn lỏng tay súng, thậm chí cất súng, bẻ súng đi,
lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu cộng sản, mà mỗi khi hiểu thì thường thường đã
muộn.
Sáng hôm nay, nhìn tấm
ảnh to tướng ngay ở trang nhất tờ báo Nhân Dân, thấy Shihanouk và vợ (bà hoàng
Monic) mặt hớn hở, tươi như hoa, đứng bên cạnh Tôn Đức Thắng và Phạm Văn Đồng.
Tôi cầm tờ báo trầm ngâm, nhìn tấm hình, dòng tư tưởng của tôi cứ trào lên vơi
đầy. Tôi đặt giả thuyết: những người này, đang hớn hở, ca tụng nhau đây. Nhưng
nếu Shihanouk và Monic được toàn quyền quyết định số phận của Tôn và Đồng, tôi
tin chắc rằng họ chỉ muốn Thắng và Đồng là bạn, sống thân thiện hòa bình. Ngược
lại, nếu Thắng và Đồng được toàn quyền quyết định số phận của vợ chồng ông
hoàng Shihanouk, chắc chắn, đôi vợ chồng này phải đi cải tạo, mỗi người mỗi
nơi. Vì mục tiêu của cộng sản là tiêu điệt các tư tưởng, mọi quan điểm không là
cộng sản (phi vô sản) nhất là tư tưởng phong kiến, muốn cưỡi cổ nhiều người của
mấy ông hoàng bà chúa này.
Khác nhau một trời, một
vực như vậy đấy! Shihanouk có hiểu như thế không? Khi cộng sản cần ai thì chúng
nâng người đó lên tận mây xanh. Shihanouk đến Hà Nội, chúng đón rước như một
ông thánh. Chúng trải nhung dọc đường phố trước chủ tịch phủ để Shihanouk đi.
Đài, loa ngày đêm ra rả ca bài hát “Nhân Dân Đông Dương” mà chúng bốc thơm rằng
đây là nhạc và lời của thái tử Shihanouk, chúng ta dịch sang Việt ngữ. Cả nước,
ngoài xã hội cũng như trong tù, mọi người phải tập hát thuộc như bài ca “giải
phóng miền Nam”.
Mỗi toán đi lao động,
đều cử một người biết nhạc ở lại trại, để cán bộ văn nghệ trại phổ biến và tập
cho hát ở hội trường. Tối về anh đó lại dậy cho toàn thể toán của mình.
Chuyện hát xướng ở
trong tù của cộng sản là thường xuyên. Đây là nỗi ấm ức, khổ tâm của nhiều
người. Ai cũng thấy, chúng nó đang bắt mình, giam mình ở trong tù, chúng coi
mình là kẻ tử thù đối kháng mà chúng vẫn tuyên bố công khai là phải tiêu diệt.
Vậy mà hàng ngày phải ngồi ca vang những bài hát ca tụng đảng và bác, mạt sát, chửi
bới chính ngay mình. Nếu ai chỉ cần có ý thức một chút thôi, cũng thấy ngượng
mồm. Chính vì cái oái ăm, ngược xuôi trong lòng như thế, nên nhiều người mỗi
khi phải hát tập thể, ngồi cứ cúi gằm mặt xuống, không chịu hát. Nhưng rồi đâu
có yên được. Tên cán bộ phụ trách đứng nhìn, quan sát từng người và bị chỉ đích
danh như: Lê Liễu, Quốc Anh, bác Tiến đã bị chúng nạt nộ, hạch hỏi, quy cho là
còn tư tưởng phản kháng ở trong máu, trong xương. Cho nên bất kỳ ai, dù không
hát cũng phải há mồm, nhóp nhép như mọi người mới yên.
Nhưng phải thừa nhận,
cái phương pháp bắt người ta hát mãi một bài. Trên loa, trên đài, mọi người
chung quanh đều hát, cứ nghe đi nghe lại cái bản hát đó, lời ca, ý nhạc, nó
ngấm, nó luồn, nó lách vào trong lòng mình lúc nào không hay.
Tôi phản ứng từ ý thức,
dứt khoát không bao giờ chịu hát hay học những bài ca chó chết đó, nếu chúng nó
không bắt tôi phải đứng hát một mình hay hai người. Mà lại chả bao giờ có cái
cảnh 1 hay 2 người hát, vì tôi có phải làm văn nghệ đâu, cho nên, hầu như rất
ít khi tôi hát những bài ca đó thành lời. Thế mà, sau này tôi thuộc đến gần
chục bài hát của cộng sản. Để đến nỗi, ở một lúc nào đó, mỗi khi thấy lòng diệu
vợi, bâng khuâng, miệng bộc phát lên mấy lời ca ông ổng. Thì lại là lời ca,
tiếng nhạc của cộng sản. Đã rất nhiều lần, khi óc tôi đang nghĩ một chuyện khác
của cuộc đời, tự nhiên tôi hứng tình, hát vang một lời ca trong một bản nhạc
nào đó; dân dần hát đến chỗ “diệt đế quốc Mỹ, diệt lũ tay sai bán nước”, hoặc
lại “Hồ Chí Minh muôn năm” thì óc tôi chợt mới tỉnh, tôi vội bẻ quẹo sang một
điệu nhạc, lời ca của miền Nam thân yêu. Tôi vẫn bị vấp như vậy nhiều lần. Thế
mới kinh khủng chứ!
Ngay như bài ca “Nhân
Dân Đông Dương”. Sau đến hơn 20 năm mà tôi vẫn có thể nhớ ra được một đoạn: “Ta
hát bài ca, đi lên chúng ta bên nhau Việt, Lào, Khme anh em. Cùng chung dòng
sông…Mêkông đắp xây mối tình…kết đoàn chống kẻ thù chung. Hôm nay đánh Mỹ…sát
vai cùng nhau đấu tranh…Ta nguyền đồng tâm gìn giữ núi sông…Chung xây hòa bình
… giữ gìn đất nước chúng ta…Sáng tươi dưới trời tự do…”.
Nó dễ thuộc, dễ nhớ mãi
không quên như bài “Giải Phóng Miền Nam” của chúng vậy. Bài “giải phóng” này do
Huỳnh Minh Siêng, mà Siêng lại là Lưu Hữu Phước, tác giả bài “Tiếng Gọi Sinh
Viên”, sau được đổi thành bài Quốc Ca kính yêu của chúng ta. Bởi vậy, tôi tin
rằng: bài “Nhân Dân Đông Dương” là của Lưu Hữu Phước rồi cộng sản gán cho
Shihanouk, vừa để đề cao bốc thơm, lấy lòng y, lại vừa có ý nghĩa chính trị
nữa.
Đã lâu lắm, từ ngày
chuyển ra trại này, do những kéo lôi của nhiều khía cạnh trong cuộc sống tù,
tôi chưa hề nghỉ một ngày bệnh nào. Vả lại hôm qua, nhờ ông Tụ, tôi đã mượn
được cuốn “Tư Bản Luận” của Marx cho nên sáng nay tôi quyết định xin nghỉ ốm
một ngày để đọc cho đã.
Vấn đề nghỉ ốm trong
toán cũng thật là tế nhị. Do cái tỷ lệ hai phần trăm quái ác, chẳng biết có từ
bao giờ, vì thế toán nào, hàng ngày cũng chỉ được nghỉ từ 1 đến 2 người là
cùng. Bởi vậy phải biết nhìn nhau mà xin nghỉ ốm. Trừ những người bị ốm nặng
đặc biệt không kể, hoặc những tai nạn đột xuất. Cho nên, cứ trung bình một
tháng rưỡi nghỉ một lần là biết điều. Anh nghỉ rồi còn cho người khác nghỉ nữa
chứ! Anh nghỉ hôm nay rồi, mai lại xin nghỉ nữa thì ngay y tá trại cũng không
cho anh nghỉ rồi, huống chi còn ở toán nữa. Anh muốn nghỉ bệnh, ngay lúc kẻng
báo thức 5 giờ, phải đến chỗ toán trưởng báo cáo, xin ghi tên vào sổ khám bệnh.
Người xin ghi tên thường phải báo cáo to để cả buồng cùng nghe; để người khác
định nghỉ thì tự thôi để ngày khác.
Sau đó, người xin nghỉ
nhờ người khác đặt rổ hay bát lấy bữa sáng dùm rồi cầm cuốn sổ, có toán trưởng
đã ghi tên mình, chờ cán bộ vào điểm xong, hộc tốc chạy xuống phòng y tá ở dưới
khu nhà bếp để đặt lấy chỗ, đợi cho tới khi y tá gọi tên toán mình vào khám
bịnh. Nếu như vì lý do nào đấy y tế không cho nghỉ thì vội vàng về mà ăn sáng,
còn xếp hàng theo toán đi lao động.
Cuộc đời mà, bất cứ ở
đâu cũng vậy. Nguyên tắc là như thế, nhưng nó vẫn có luật trừ. Chẳng bao giờ có
sự công bằng theo đúng nghĩa cả. Vẫn có cái cảnh người thì ăn không hết, người
lần không ra. Khi tôi cầm cuốn sổ chạy xuống tới phòng y tế, thì đã có hàng 30
– 40 người ở mảnh sân con xếp hàng, đang chờ sát cạnh phòng y tế. Hình sự lẫn
chính trị, kẻ đứng người ngồi; người khoác chăn, người quấn áo. Sau khi tôi đặt
sổ xong, cũng ra tìm một chỗ ngồi chờ. Tôi đang lơ đãng đưa mắt nhìn những hàng
cây trên chỏm đồi phía bên kia vẫn còn rúc đầu vào đám sương sớm thì tiếng quát
tháo trong phòng y tế làm tôi tiến lại nhìn vào. Không ngờ, y ta lại vẫn chính
là tên Thái từ trong trại E. Một bác già, hình như ở toán 6 bên khu chính trị
đang nhăn nhó, nằn nì với y xin cho nghỉ vì bác bị đi ỉa chảy suốt đêm qua.
Tiếng Thái đanh đanh:
- Tôi nói, không được
là không đuợc. Đây chỉ là xáo trộn của bộ tiêu hóa, về uống ít nước đi là khỏi!
Bác già cuốn sổ đi ra,
mặt nhăn như bị. Lại một cậu hình sự chừng 21 – 22 tuổi. Hai chân lều khều như
chân con hạc, khoác chiếc chăn rách, cứ van xin y cho nghỉ, vì cậu ta bị sốt cả
đêm qua. Tiếng Thái gắt gỏng:
- Cặp nhiệt không lên,
về đi làm!
Đến lượt toán 2, tôi
tiến vào. Thái, ngửng lên thấy tôi, đã vồn vã thăm hỏi. Khi biết tôi không có
bịnh gì, mà chỉ mệt, muốn xin nghỉ một ngày. Y đon đả bắt tay, bảo tôi về nhà
nghỉ đi. Khi tôi ra tới cửa buồng, y còn ghé tai nói nhỏ:
- Nếu mai anh còn mệt,
muốn nghỉ nữa thì cứ ghi tên vào sổ bệnh, mà không cần phải xuống nữa.
Tôi cảm ơn và chào y ra
về. Dòng liên tưởng của tôi cứ cuộn vào trong óc, hẳn rằng Thái chưa quên được
trận tôi đánh tên Tân trật tự ở trại E và thái độ của Hoàng Thanh đối xử với
tôi. Một tiếng thở dài mà tôi cố nén lại cứ rỉ dần ra. Đời là thế! Người ta làm
cách mạng, người ta đi chiến đấu để đòi hỏi sự công bằng cho xã hội. Nhưng
người ta lại không làm cách mạng, không chiến đấu với sự bất công ngay trong
lòng của chính mỗi người. Bởi vậy, sự bất công trong xã hội loài người cứ còn
tồn tại mãi mãi; mặc dù rồi đây còn nhiều thế hệ khác sẽ vẫn còn chiến đấu với
sự bất công của con người.
49. Vinh Danh Người Nhái
Khi các toán đã đi lao động rồi, trại vắng teo, mỗi buồng
chỉ còn lèo khèo mấy người mệt, bịnh. Tôi ngồi đọc sách một lúc, mỏi cả mắt.
Đang định ra sân làm vài động tác thể dục cho đỡ mỏi người thì mắt tôi chợt
nhìn xuống sàn dưới, phía đối diện, thấy một anh ngồi thụt mãi vào trong góc
sàn. Anh ngồi xổm, quấn chặt cái chăn chỉ thò ra đầu và hai con mắt. Mắt anh cũng
đang ngước nhìn tôi đăm đăm, ánh lên niềm vui chào đón; trong khi tôi cũng tươi
nét mặt nhìn, để đáp lại nhã ý của anh, lòng tôi vẫn bàng bạc, ngạc nhiên: Anh
là một trong bốn Người Nhái mới đến trại, anh cũng ở toán 2. Sáng nay, rõ ràng
không thấy anh xuống y tế khám bịnh mà? Tuy trong lòng tôi hơi băn khoăn, nhưng
chưa tiện hỏi. Tôi trèo xuống, ghé sang chỗ anh đon đả:
- Có biết hút thuốc lào
không?
Anh mở chăn, xoay hẳn
người ra niềm nở:
- Có, hút kỹ ấy chứ!
Nhìn hai cái đầu gối của
anh ngồi, cao gần chấm tai anh. Anh mặc mỗi chiếc quần đùi, do quần dài cũ của
trại xé ra, nên gấu quần lờm xờm, lua tua. Thảo nào, anh phải quấn chăn. Ngay
từ những phút ban đầu, chả hiểu sao tôi cảm thấy rất mến anh, và hình như anh cũng
dành cho tôi lòng thiện cảm đặc biệt. Nghe giọng nói của anh hơi một chút cợn,
để rồi khi biết tên anh là Lầu Chí Chăn, người Nùng. Tôi lại hân hoan ca tụng
giọng nói tiếng Kinh quá sõi của anh. Còn một điều nữa, anh có một người mẹ
già, hiện đang sống ở vùng cây Da Sà, Chợ Lớn. Người mẹ đó vẫn ngày đêm mỏi mòn
ngóng chờ người con trai đã đi phương trời nào mất tăm, cũng tương tự giống
tình cảnh mẹ của tôi.
Sau vài câu thăm hỏi,
tôi đã hiểu, hai ngày trước anh bị đi kiết ra máu. Đêm qua mới cầm, vì vậy y tá
cho anh nghỉ thêm ngày hôm nay. Rất lạ lùng là chỉ hơn một giờ sau, chúng tôi
đã thân nhau ngay. Cả ngày hôm ấy, tôi đã chả đọc được tí sách nào. Tôi trèo
xuống sàn dưới, hai anh em nằm đắp chăn chung, trao hỏi chuyện cuộc đời. Từ vài
câu han hỏi lúc Chăn bị bắt, câu chuyện cứ gợi dần trí tò mò của tôi. Cuối
cùng, không dằn được lòng, tôi đã đề nghị Chăn hãy tường thuật lại từ lúc bắt
đầu vào ngành Biệt Hải cho tới khi bị bắt. Do lòng thiện cảm đã có sẵn với tôi,
phần khác, có lẽ cũng muốn cởi mở một mảnh đời cho một người đang háo hức, chăm
chú lắng nghe, vì vậy sơ lược, Chăn đã kể lại đời Chăn như sau:
Là một người sắc tộc
thiểu số nhưng cũng là người Việt, tuy gia đình anh vẫn dùng tiếng Quảng Đông
là chính, quan điểm của Chăn: đây là cũng là quê hương Tổ Quốc của Chăn. Chính
vì thế, khi có một chút trí khôn, hiểu biết, anh đã xin vào một trường Kinh để
học chữ quốc ngữ. Cũng do học ở trường Việt nên Chăn quen biết rất nhiều bạn bè
người Kinh.
Ngay từ lúc còn 9 – 10
tuổi, (từ đây là lời tâm sự của Chăn) tôi có một ông chú họ trên vùng Blao. Mỗi
lần, ông chú xuống Chợ Lớn để thăm bố mẹ tôi, thường dẫn tôi đi chơi. Ông rất
thương tôi và tôi cũng yêu kính ông như cha.
Khoảng năm 1959, vào
một ngày Chủ Nhật, đột nhiên có người con trai của ông chú từ Blao xuống báo
cho biết một tin rụng rời: Bố đã bị cộng sản đem ra phía sau nhà chặt đầu đêm
hôm qua. Từ lòng mến thương người chú, một ý niệm đã hằn sâu vào bộ óc ngây thơ
của tôi. Tại sao cộng sản dã man, tàn ác thế? Dù còn mơ hồ chưa rõ ràng, nhưng
tôi đã thấy cộng sản là kẻ phi nghĩa. Nếu tôi luyện được những bí kíp như những
cao thủ trong truyện chưởng, tôi sẽ đi tiêu diệt cộng sản.
Sau này, càng ngày càng
lớn lên, tôi nhìn thấy chung quanh, có nhiều bạn bè người Kinh cũng như người
Nùng xin gia nhập quân đội để đi đánh cộng sản; lòng tôi càng háo lức thăm hỏi
đó đây. Cuối năm 1963, lúc này tôi đã 21 tuổi. Do cơ thể cường tráng, cao lớn,
lại rất thích bơi lội nên tôi đã nhờ một người Kinh, giới thiệu để tôi xin gia
nhập lực lượng Người Nhái. Do sự nỗ lực, quyết tâm của tôi, tôi vẫn kiên trì
làm nhiều thủ tục theo yêu cầu, nhất là khâu khám sức khỏe. Kết quả, đầu tháng
2 năm 1964, tôi được tuyển chọn đưa ra Đà Nẵng để dự lớp huấn luyện.
Huấn luyện gồm nhiều
môn, nhưng chủ yếu là tình báo và phá hoại. Theo lịch trình thời gian sẽ học
tập, huấn luyện trong vòng 8 tháng. Sau đó sẽ được huấn luyện bổ túc theo yêu
cầu của mỗi chuyến công tác khác nhau. Trong thời gian huấn luyện được chia làm
ba giai đoạn:
Giai đoạn I.
Gồm sáu tuần lễ, chuyên
về thể dục, thể thao để thử nghiệm thể lực và sức chịu đựng dẻo dai của mỗi
khóa sinh trong môi trường ở rừng núi cũng như ở biển cả. Trong sáu tuần này, có
một tuần lễ cuối cùng, được gọi là “tuần lễ địa ngục”. Phải nói rằng gần như
24/24 thời gian của một ngày không được ngủ, nghỉ ngơi.
Huấn luyện viên được
chia làm 3 tốp, thay phiên nhau để quần thảo khóa sinh. Họ cũng được chia thành
3 ca, mỗi ca 8 giờ. Không kể ngày hay đêm, bắt khóa sinh phải liên tục chạy,
nhẩy, tập tành tối đa. Trong tuần lễ địa ngục này, có rất nhiều khóa sinh bị loại.
Nếu khóa sinh nào vượt qua được tuần lễ gắt gao này thì được coi như tạm đủ
tiêu chuẩn để tiếp tục theo học giai đoạn II. Tuy vậy, vẫn còn một trường hợp
nữa, khóa sinh cũng sẽ bị loại. Nghĩa là, khóa sinh nào đã vượt qua tuần lễ địa
ngục, đều phải được thử đeo bình dưỡng khí với một độ áp suất và thời gian nhất
định. Nhiều người bị đau màng nhĩ nên cũng bị loại luôn.
Giai đoạn II.
Gồm tình báo và phá
hoại. Huấn luyện viên lẫn lộn Việt và Mỹ. Trong mỗi tuần lễ, dành hai buổi cho
huấn luyện viên Việt Nam, chuyên về tình báo. Tìm hiểu về sự tổ chức của xã hội
cộng sản miền Bắc Việt Nam, từ nông thôn cho tới thành thị. Nhất là về mạng
lưới tổ chức, bố phòng của bọn công an biên phòng dọc theo bờ biển Bắc Việt.
Học cách khai thác tin tức từ một người dân thường cho đến một cán bộ nồng cốt
của cộng sản.
Phần huấn luyện viên Mỹ
chuyên về kỹ thuật phá hoại, bắt cóc và cấp cứu từ trong lòng đất địch. Mở đầu
huấn luyện, học sử dụng từ súng cá nhân cho đến súng lớn 106mm, mìn và các loại
chất nổ. Học cách tự chế biến các kiểu mìn bằng chất nổ theo ý muốn, để phá
hoại các mục tiêu ở đất liền cũng như nằm sâu dưới nước. Huấn luyện phương pháp
đột nhập, bắt cóc bộ đội, cán bộ hay tự cấp cứu ngay trong đất của kẻ thù. Học
sử dụng và bảo trì một số dụng cụ máy móc để phục vụ công tác.
Giai đoạn III.
Ôn tập lại toàn bộ
những điều đã được học từ đầu. Phối hợp, thực tập với bên lực lượng của bạn là
Hải Tốc Đĩnh (P.T.F.) là một loại chiến hạm nhỏ chạy với tốc độ khá cao. Giai
đoạn này, loại PTF thường xuyên công tác ở hải phận Bắc Việt. Thực tập mang
bình dưỡng khí nhảy dù xuống biển theo tọa độ, để lặn tới mục tiêu…
Nói về thời gian và
những chi tiết của từng chuyến công tác thì tôi không thể nhớ hết được. Nhưng
chắc chắn là không dưới 20 chuyến công tác xâm nhập vào hải phận Bắc Việt kể từ
ngày tôi gia nhập lực lượng Người Nhái cho tới chuyến đi định mệnh này. Tôi sẽ
kể về một vài chuyến công tác mà tôi nhớ được cho anh nghe. Cái chuyến công tác
đầu tiên thì không thể nào tôi có thể quên được. Đó là vào cuối tháng 11 năm
1964.
Tôi được ghép chung với
2 người nữa thành một tổ 3 người. Hai anh này là Zếnh và Minh. Các anh đã đi
công tác nhiều lần xâm nhập bờ biển miền Bắc rồi. Ngay trong tháng 6 vừa qua,
lúc chúng tôi còn đang dự lớp huấn luyện, hai anh đã được PTF phối hợp đột nhập
vào vùng bờ biển Thanh Hóa. Bất ngờ, các anh đã dùng hỏa lực mạnh, tiêu diệt
toàn bộ lực lượng dân quân gác chiếc cầu Hổ, rồi đặt chất nổ phá gục chiếc cầu
này. Chiếc cầu dài gần 100 mét trên quốc lộ số I thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa.
Chuyến công tác thành
công mỹ mãn của hai anh trở về được anh em nồng nhiệt đón chào. Hôm sau, trại
mở tiệc mừng, chúng tôi là khóa sinh mới cũng được dự.
Vì là lần đầu, nên tôi
được đi với hai anh để học hỏi kinh nghiệm. Nhiệm vụ được giao cho tổ chúng tôi
trong chuyến công tác này là phối hợp với PTF xâm nhập vào lãnh hải Bắc Việt.
Bắn phá một trạm rada nằm cạnh bờ biển thuộc địa phận tỉnh Nghệ An. Sau đó, PTF
sẽ khống chế và yểm trợ để 3 chúng tôi đột nhập bắt một số thủy thủ thuộc các
đội đánh cá của tỉnh Thanh Hóa đem về Nam làm tài liệu sống để khai thác một số
tin tức về tình báo địa phương.
Khoảng 10 giờ sáng, lúc
này mặt trời đã chói chang trên khung trời Đà Nẵng. Chúng tôi gồm hai chiếc Hải
Tốc Đĩnh, nổ mày rời khỏi Đà Thành. Hai chiếc tầu hình con thoi xé nước tiến ra
cửa biển hướng về phía Bắc. Nhìn cảnh vật hai bên bờ sông Hàn, tôi có cảm tưởng
hai con tầu như hai con chó sói đang hồng hộc lướt nhanh trên mặt tuyết bao la để
săn đuổi con mồi. Ra đến biển khơi, giữa muôn ngàn lớp sóng bạc đầu, tôi nhìn
chiếc PTF đi chéo phía bên; trông nó như bay sát trên ngọn những lớp sóng cồn
với tốc độ 30 - 40 dặm một giờ. Để tránh rada và tầm nhìn của địch, tầu của
chúng tôi đi mãi ngoài khơi cách bờ 50 – 60 cây số.
11 giờ đêm hôm ấy, như
vậy chỉ sau 13 tiếng đồng hồ, tầu chúng tôi đã tới mục tiêu. Bất ngờ hai chiếc
PTF bẻ lái tiến vào bờ. Trong đêm tối, khi còn cách giàn rada của địch 3 – 4
trăm mét. Hỏa lực của chúng tôi là những mũi súng 106mm và 20mm, bắt đầu khạc
lửa vào mục tiêu. Tuy có vài tràng đại liên bắn trả nhưng chả thấm gì với hỏa
lực của tầu chúng tôi. Chỉ 5 phút sau, cả một vòng lửa lớn, đỏ ối, sáng rực đã
bao trùm mục tiêu. Trong khi ở ngoài khơi, nhiều chiếc tầu đánh cá của địch
nhốn nháo tháo chạy vào phía đất liền.
Do hai chiếc PTF kèm uy
hiếp, một chiếc tầu đánh cá của địch đã chịu trận. Với những thao tác, nhuần
nhuyễn chuyên môn, ba người chúng tôi lao nhanh sang tầu đánh cá. Tước hết vũ khí và
lần lượt giong họ về tầu của chúng tôi. Họ gồm chín người, bao gồm cả thuyền
trưởng. Để giữ an toàn tuyệt đối, chúng tôi phải trói cả 9 người lại. Trước khi
rút lui, chúng tôi không quên dìm con tầu đánh cá của địch xuống đáy biển.
Với thời gian chớp
nhoáng, từ lúc bắt đầu nhả đạn vào giàn rada cho tới khi bắt gọn đám thủy thủ
của chiếc tầu đánh cá chỉ trong vòng 20 phút. Tôi vẫn không quên được, do cái
bản tính tiểu tư sản, quân tử Tầu mà nhiều người trong chúng ta đều có. Khi kẻ
địch thất thế bị bắt trong tay mình rồi, tình người của tôi lại trỗi dậy. Trước
những bộ mặt tái mét, run rẩy của họ, tôi đã bóc từng múi cam đút vào miệng cho
họ vì tay họ bị trói. Tôi đốt từng điếu thuốc, cầm cho từng người hút. Tôi còn
nhớ rõ cái ông thuyền trưởng tên là Đán, đã thổn thức, ngập ngừng nói với tôi:
- Anh tử tế quá!
Tóm lại, chuyến công
tác buổi đầu của tôi hoàn toàn thành công. Từ năm 1965 trở đi dường như tháng
nào tôi cũng có mặt, ít nhất là ba lần tại bờ biển miền Bắc, từ vĩ tuyến 17 cho
đến đảo Bạch Long Vĩ. Thường, thường, với nhiệm vụ phối hơp chặt chẽ với PTF để
phong tỏa, bắn phá các mục tiêu quân sự dọc theo bờ biển từ Quảng Bình cho đến Móng
Cái. Đôi khi, đổ bộ do thám và dùng chất nổ để phá một số trạm tiếp tế nhiên
liệu. Đây là những trạm dừng chân, chuyển đổi để địch mang nhiên liệu, tiếp tế
vào Nam.
Tôi nhớ một chuyến vào
khoảng tháng 5 năm 1965. Toán của tôi gồm 6 người được chỉ định đi công tác,
gồm có: Quý, Tăng, Văn, Bằng, Hoa và tôi. Ngay từ tối hôm trước, huấn luyện
viên đã thông báo giờ giấc, chúng tôi phải mang đầy đủ vũ khí, quân trang, đồ
nghề có mặt tại phòng hành quân. Sau khi nghe thuyết trình xong, chúng tôi được
chia làm hai nhóm, mỗi nhóm ba người. Chúng tôi được nhận thêm hơn mọi khi hai cây
đại bác không giật 106mm và 6 thùng chất nổ.
Mục đích của chuyến
công tác này là phối hợp với PTF nhằm tiêu diệt và bắt sống một số tàu, thuyền.
Tin tình báo khai thác được từ những cái lưỡi sống cho biết: Hải quân Việt Cộng
đã ngụy trang thành thuyền đánh cá hoặc vận tải để tránh sự oanh kích của không
quân Hoa Kỳ. Mặt khác, chúng rình rập ngày đêm để chuyển vũ khí đạn dược vào
Nam cho đồng bọn.
Xuất phát điểm cũng từ
hải khu Đà Nẵng. Chuyến công tác này của chúng tôi gồm 3 chiếc PTF. Toán tôi
được bố trí xuống hai chiếc, mỗi chiếc ba người. Còn lại chiếc thứ 3 dành cho
người của toán bạn. Tầu rời bến từ lúc giữa trưa, cho đến chiều, chúng tôi đã
vượt qua hòn Cơ (tức hòn Cọp). Vào khoảng 12 giờ đêm, chúng tôi được lệnh sẵn
sàng chiến đấu. Chỉ 5 phút sau, chiếc PTF đi đầu đã khai hỏa nổ súng bắn chặn
một trong hai chiếc tầu của địch đang mở hết tốc lực, chạy về hướng có tầm hỏa
lực yểm trợ của bọn chúng ở trong đất liền đang bắn ra.
Chiếc PTF đi đầu vẫn
tiếp tục bám riết, nổ súng truy kích chiếc tầu địch đã trốn thoát vào bờ, đồng
thời vẫn làm công tác yểm trợ, cảnh giới để 2 chiếc còn lại khống chế và dùng
lao phóng thanh, hướng về chiếc tầu địch đang trong vòng vây ở ngoài khơi. Kêu
gọi địch quân hãy bỏ hết vũ khí lên boong tầu và để hai tay lên đầu. Bọn chúng
trong thế cùng đã làm y như vậy, theo lệnh của tiếng loa. Với ngọn đèn pha cực
mạnh của 2 chiếc PTF, chúng tôi có thể nhìn rõ từng động tác một của chúng.
Văn, Bằng và tôi đang chuẩn bị với tư thế nhẩy sang tầu địch, kiểm soát, bắt tù
binh và đặt chất nổ phá tầu. Thình lình, ngay lúc đó, một tia chớp nhoáng lên,
xanh cả mặt biển. Một tiếng nổ xé tai gần ngay cạnh chúng tôi, thân tầu của
chúng tôi run lên. Biết rằng có phản biến, ngay tức khắc, các họng súng của
chúng tôi đồng loạt khạc lửa trùm lên tầu địch. Bọn đứng trên boong, không còn
tên nào lọt sổ, ngay sau mấy chục giây đầu tiên. Sau 3 – 4 phút chiến đấu, tầu
địch phát nổ tung. Ngọn lửa bốc cao rồi chìm dần, toàn bộ bọn chúng đã bị đền
tội.
Phía chúng tôi, trên
mỗi chiếc PTF có từ 10 đến 12 người, chỉ có hai người bị thuơng. Một người, bị
đạn làm rách một mảnh đùi, một người bị xước vai, chảy máu do một mảnh kính vỡ
của tầu bắn vào. Tầu chúng tôi bị thủng một lỗ, đường kính vở khoảng 12 inches.
Phòng rada bị phá hủy, nhưng rất may mắn, hai buồng đầu lớn nằm sát ngay đấy lại
không bị nổ. Lỗ thủng ở phía trên mặt nước nên tầu vẫn tiếp túc chạy được. Toàn
bộ nhân viên trở về Nam an toàn.
Thấy Chăn nói đã nhiều,
phần khác, tôi lại vứa thèm thuốc, lại vừa mót đi tiểu, tôi hất chăn ra, vừa
nhỏm dậy vừa quay lại Chăn:
- Mình đi giải lao đã,
đi đái đi?
Chăn gật đầu rồi lồm
cồm bò dậy. Thấy Chăn lúng túng, định với tay lên cái kệ gỗ trên phía đầu sàn
để lấy cái quần dài mặc, tôi đẩy tay vào lưng Chăn:
- Vẽ vời, đây ra nhà
cầu, cần gì! Khoác cái chăn cũng được rồi.
Tôi nhìn Chăn đang đứng
xuống đất để cuộn cái chăn vào người, vừa gầy, vừa cao nên cái dáng lại càng
khều khoào, đôi chân hơi khòng như chân gấu, tôi nói đùa:
- Chăn lại khoác chăn!
Chăn cười khềnh khệch.
Ra đến ngoài mới biết, mặt trời đã lên cao đến 3 con sào. Chắc cũng khoảng 9
rưỡi, 10 giờ rồi. Trở vào buồng, hai anh em rủ nhau lúi húi bắn một điếu thuốc
lào cho đời lên hương. Hai đứa lại nằm bên nhau, trong khi còn đang loay hoay
hất cái chăn cho kín cả bốn cái chân, tôi chợt nghĩ đến một người, tôi quay lại
hỏi Chăn:
- Này, thế Chăn có biết
ông Phan không?
Chăn quay hẳn sang, mở
to mắt nhìn tôi, ánh mắt đầy ngạc nhiên như muốn hỏi: “Tại sao tôi lại biết
Phan?” Tuy vậy sau một vài giây ngập ngừng, Chăn vẫn trả lời:
- Ồ, ông Phan là người
phụ trách chung về tình báo ở Đà Nẵng.
- Chăn có gặp ông ta
lần nào không?
- Ông ta có xuống trại
mấy lần. Nhóm tôi cũng đã ăn cơm chung với ông ấy một lần.
- Chắc hẳn, bây giờ là
thiếu tá rồi?
- Đúng rồi, tuy ông
Phan chỉ mặc thường phục, nhưng có lần đại úy Đoàn Hùng phụ trách trại tôi,
chào là thiếu tá Phan.
Nghe Chăn trả lời, óc
tôi miên man chảy về những cảnh đời ngày xưa đã 9 – 10 năm rồi. Bây giờ Phan là
như vậy. Hẳn rằng chẳng có khi nào, Phan còn nhớ lại một thanh niên; trong một
chiều mây buồn lãng đãng ở Đà Thành năm xưa, Phan đã tiễn đưa người ấy vào vùng
gió xoáy của cuộc đời. Bây giờ người thanh niên ấy còn hay mất, u uất trong đêm
dài ra sao? Dòng đời đã khép kín. Đẩy sâu vào hố thẳm của thời gian, Phan đã
quên mất rồi. Tôi lắc lắc cái đầu, như muốn vẩy, muốn xua những trong đời không
muốn nhớ.
Để góp phần đẩy, xô
những hình ảnh làm tím thẫm lòng mình tan vào mây gió, tôi quay sang Chăn nói
như giục:
- Bây giờ Chăn cho nghe
tiếp chuyến đi định mệnh này đi!
Chăn đang nằm ngửa, mắt
trừng trừng nhìn lên những tấm ván của sàn trên. Hình như mắt Chăn đang dõi tìm
về một chân trời, có những cảnh đời nhiều hương sắc của mảnh đất Ngũ Hành Sơn.
Chăn quay lại nhìn tôi, ngập ngừng một lúc, rồi lại xoay đầu nhìn về chỗ cũ của
mấu tấm ván, Chăn tiếp tục:
Ngày mồng 6 tháng 6 năm
66, cái ngày định mệnh cuộc đời của bốn chúng tôi. Chúng tôi gồm: Vòng Hợp Văn,
toán phó; Lý Giòng Slau, toán trưởng, Dương Long Sang và tôi là toán viên. Tất
cả là 4 người. Chúng tôi được chỉ định đi chuyến công tác này, địa điểm và mục
tiêu của công tác, chúng tôi đã đi 2 lần rồi. Để rồi lần này (lần thứ 3) đã đi
thẳng một lèo, vào nhà tù của cộng sản.
Lần thứ nhất: Tầu chúng
tôi đi gần đến điểm đổ bộ thì đột ngột có lệnh của bộ chỉ huy, gọi tầu của
chúng tôi phải quay về.
Lần thứ hai: Cũng gồm ba chiếc
tầu PTF. Khi tầu đến điểm đổ bộ, chúng tôi đang chuẩn bị rời tầu để tiến vào
mục tiêu thì chiếc tầu của tôi không hiểu vì sao đó, bỗng nhiên bị phát hỏa.
Máy móc của tầu không thể sử dụng được nữa. Mục tiêu đổ bộ bị lộ, chúng tôi
quyết định phải quay về, hủy bỏ công tác.
Đêm ngày 6/6/66. Chúng
tôi lại được chỉ định đi tiếp chuyến cống tác đã phải bỏ dở hai lần trước. Nhiệm
vụ chính của công tác là do thám, quan sát và chụp ảnh một hải cảng mới, thường
có tầu của nước ngoài hay ra vào.
Tôi còn nhớ rất rõ, vào
một ngày Chủ Nhật, hôm ấy, chúng tôi một nhóm bốn người lái xe sang thành phố Đà
Nẵng chơi. Một lúc sau, một anh trung sĩ liên lạc, lái chiếc xe jeep sang tìm
chúng tôi về, vì có lệnh cấm trại 100%. Chúng tôi đã từ chối không trở về trại,
chỉ vì huấn luyện viên trực tiếp của chúng tôi là ông Brawne đã đi nghỉ mát hai tuần
ở Hồng Kông. Trước khi đi, ông ấy đã căn dặn 2 – ba lần với chúng tôi: “Trong
thời gian tôi đi Hồng Kông, không một ai có thể điều các anh đi bất cứ nơi nào,
mà không có sự ủy nhiệm của tôi”. Vì vậy chúng tôi dứt khoát, không về trại.
Đến buổi chiều, lại có
2 người Mỹ cũng đi một chiếc xe jeep, sang gặp chúng tôi. Một trong hai người
này, tôi biết rõ, ông ta làm việc ở bên khu trại Bạch Đằng, Đà Nẵng. Trước đây,
ông này thường đi thực tập với tôi. Còn lại người Mỹ kia, rất lạ với chúng tôi.
Ông ta tự giới thiệu với chúng tôi, ông ta mới đến đây được hai ngày; hiện nay,
ông là trưởng huấn luyện viên của chúng tôi, thay thế ông Brawne đã trở về Mỹ.
Sau đó ông ta nói chuyện với chúng tôi rất là tâm lý. Ông ta nói rằng, trước
khi đến gặp chúng tôi, ông ta đã nghiên cứu nhiều lần, rất kỹ về quá trình
những công tác của chúng tôi. Ông ta hết sức khen ngợi về những thành tích mà
chúng tôi đã tháo vát, linh hoạt, dũng cảm đạt được. Cuối cùng, ông khuyên
chúng tôi hãy trở về trại, rồi thì sẽ có cuộc họp riêng với ông ta…
Buổi tối hôm ấy, chúng
tôi bốn người đuợc gọi lên văn phòng, để gặp cái ông Mỹ đó, người huấn luyện
viên mới của chúng tôi. Ông ta tỏ ra là một người khá giầu kinh nghiệm về tâm
lý con người. Ông ta khêu gợi lòng ham muốn tang bồng, hồ thỉ của người con
trai; đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, dân tộc. Chỉ
sau hơn một giờ, ông ta thuyết phục, chúng tôi đã hăm hở, tự nguyện nhận đi
công tác, bất cứ khi nào mà kế hoạch yêu cầu.
Ngay từ 7 giờ sáng,
ngày 6/6/66, chúng tôi bốn người đều hân hoan chuẩn bị hành trang, vũ khí để đi
công tác. Thường ngày, mỗi buổi sáng chúng tôi phải tập thể dục, thể thao và
bơi lội một tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng hôm đó, chúng tôi không phải tập thể dục
theo toán.
Nói là chuẩn bị chứ
thật ra, chả có cái quái gì phải chuẩn bị cả, vì rằng công tác đối với chúng
tôi đã như cơm bữa rồi. Về tất cả những thứ cần thiết, để đi công tác thì đã có
những bộ phận khác lo sẵn. Điều quan trọng nhất của chúng tôi, là ổn thỏa về
mặt tinh thần là xong hết. Cũng như mọi khi, chúng tôi rời bến tại hải khu Đà
Nẵng, vào lúc gần trưa ngày 6/6/66.
Đoàn tầu gồm ba chiếc
PTF. Trên đường đi đến mục tiêu, bốn anh em chúng tôi đã bàn thảo, sắp xếp và
xác định lại một lần nữa, những công việc phải làm, của từng người. Chúng tôi
cũng lần lượt kiểm tra lại tất cả những vật dụng, mà chúng tôi cần phải mang
theo.
Khoảng 1 giờ sáng, ngày
7/6/66 thì đoàn tầu đã đưa chúng tôi đến điểm đổ bộ. Chuyến công tác này, người
trực tiếp đi theo trên Hải Tốc Đĩnh, tiễn đưa chúng tôi là Đại Úy Đoàn Hùng. Ông
này là trưởng trại Mỹ Khê, thuộc sở phòng vệ duyên hải. Trước khi chúng tôi rời
tầu mẹ, ông Hùng lần lượt bắt tay từng người của chúng tôi và chúc tụng. Làm
sao tôi quên được cái buổi chia tay chẳng muốn nhớ ấy. Theo kế hoạch đã quy
định, chúng tôi lợi dụng đêm tối sẽ bí mật bơi vào một khu rừng non an toàn, ở
gần ngay bờ biển. Một ngày trời ở đấy, để chúng tôi chụp ảnh những tầu bè của
địch ra vào và quan sát, do thám mục tiêu.
1 giờ đểm hôm sau, tầu
PTF sẽ lại ra đón chúng tôi, ở ngoài khơi theo những tín hiệu của máy hồng
ngoại tuyến. Chính vì vậy nên đại úy Hùng, lúc chia tay đã ân cần hỏi chúng
tôi:
- Mai, khi chúng tôi ra
đón, các anh cần ăn gì, tôi sẽ mua cho?
Tôi đưa mắt nhìn ông
Hùng và những anh còn lại trên chiếc PTF, tâm trạng dửng dưng như một buổi đi
thực tập ở trong Nam, vì thế tôi đã vừa cười vừa trả lời. “Có lẽ không cần phải
mang thức ăn, chỉ cần mua cho chúng tôi ít cam, hay quít là được rồi”. Tôi có
biết đâu rằng, cam hay quít đó, mãi mãi cùng với hình ảnh đại úy Hùng và các
anh em còn lại trên tầu, đã và đang lùi dần vào sau cánh cửa đời đã khép kín;
bốn chúng tôi đã sang một cảnh đời khác từ đây.
Chúng tôi, bốn người
lao mình xuống biển trong màn đêm dầy đặc; nước đang réo lên trong những lớp
sóng bạc đầu. Đoàn tầu quay mũi tăng tốc độ, vọt trở về hướng Nam. Âm thanh của
những chiếc máy tầu dội lên, nhỏ dần rồi mất hẳn, chỉ còn tiếng ì ầm của sóng
biển và những tiếng bơi lội bì bõm của bốn anh em chúng tôi.
Theo tôi ước tính, chậm
nhất là 3 giờ sáng, chúng tôi sẽ đến được mục tiêu đã ấn định. Với một khoảng
dài trên dưới 1 cây số, thông thường chỉ cần 1 tiếng đồng hồ là đã tới rồi. Khi
còn ở trại, các huấn luyện viên đã chọn những địa điểm tương tự, hoặc khó khăn
phức tạp hơn, để cho chúng tôi thực tập đi, thực tập lại rất nhiều lần như vậy
rồi. Hôm nay, chúng tôi không dùng bình dưỡng khí, mà chỉ bơi bằng tay, vì phải
kéo theo một chiếc thuyền cao su nhỏ để chở theo một số dụng cụ rất là cồng
kềnh.
Trong màn đêm đen tối
mịt mù, dầy đặc khói sương, chúng tôi cứ bơi mãi. Khi xem đồng hồ thì đã 4 giờ
sáng, nghĩa là chúng tôi đã bơi được 3 tiếng đồng hồ rồi, nhưng nhìn về hướng
đất liền, trong ánh sáng lờ mờ, chỉ thấy có trời với nước. Tuy không nói ra,
nhưng trong bụng người nào cũng có phần thấm mệt, đã 3 giờ đồng hồ ngâm dầm ở
dưới nước lạnh rồi. Chúng tôi mở hải bàn, xác định lại một lần nữa. Hướng đi và
góc độ vẫn chính xác. Tuy lạnh và mệt, chúng tôi vẫn nỗ lực hướng về mục tiêu
bơi tiếp.
Gần 5 giờ sáng rồi, mà
nhìn về hướng mục tiêu, vẫn chỉ là trời nước bao la. Khi thuyết trình ở phòng
hành quân, huấn luyện viên và những người liên hệ, đã cho chúng tôi biết: điểm
từ tầu mẹ vào đến đất liền không quá 800 mét, nên không có lý do gì mà phải mất
đến 4 giờ đồng hồ bơi cả. Tay và chân vẫn đều đều những động tác lướt đi trong
nước, nhưng nỗi băn khoăn trong lòng chúng tôi càng lúc càng lớn. Nhìn về phía
mục tiêu, tuy chưa thấy một hiện tượng gì của đất liền, nhưng về phía tay mặt,
thỉnh thoảng có những luồng chớp sáng. Lúc đó, chúng tôi chưa xác định được là
cái gì, vì màn đêm vẫn còn quá dầy đặc.
Theo quy định, chúng
tôi phải vào đất liền, đến khu an toàn trước khi trời còn mờ sáng, nhưng lúc
này chân trời phía Đông đã có mầu sữa đục, mà hướng đất liền vẫn chỉ có nước
với trời gắn liền nhau. Đầy hoang mang lo lắng, Lý Giòng Slau quyết định mở máy
ra để liên lạc với tầu mẹ, mặc dù có lệnh cấm nghiêm ngặt. Chỉ đến ngày hôm
sau, khi tầu đến đón trong giờ quy định mới được mở máy ra liên lạc mà thôi.
Sở chỉ huy cho rằng,
nếu mở máy liên lạc, rất dễ bị địch phát hiện bằng máy kiểm thính. Nhưng Slau
loay hoay mãi, không hiểu vì lý do gì, do nước biển hay trục trặc về kỹ thuật,
máy cũng không liên lạc được.
Đã gần 6 giờ sáng rồi,
chúng tôi đã thất vọng hoàn toàn, vì trời đã sáng dần mà chúng tôi vẫn cách bờ
khoảng chừng 600 mét. Vừa lạnh, vừa mệt rã rời nhưng chúng tôi vẫn động viên
nhau tiếp tục bơi vào. Theo không ảnh mà chúng tôi đã được nghiên cứu thì nơi
chúng tôi đến là chỗ không có người, nếu có chăng nữa cũng chỉ họa hoằn một vài
người đi làm rừng đốt than mà thôi. Đến khoảng 6 giờ 30, nhìn vào phía bờ cảnh,
vật đã hiện lên lờ mờ, thậm chí chúng tôi đã nhìn thấy cả những bóng người di
chuyển. Tuy chẳng ai nói với ai nhưng đều hiểu cuộc đời chúng tôi đã trôi,
chuyển sang chỗ đen tối, tàn lụi. Chúng tôi cấp tốc quyết định phá hủy toàn bộ
máy móc và lưới rada chở trên thuyền cao su, đồng thời cho nổ luôn cả chiếc
thuyền chìm xuống đại dương.
Lúc này gió rất mạnh và
cũng có thể vì gần bờ biển nên sóng càng lớn, Văn và Slau bị sóng đánh tôi dạt
về phía Nam., còn tôi và Sang cứ bơi thẳng theo tọa độ vào bờ. Dù tiếng ầm ào
của sóng biển, chúng tôi cũng đã nghe thấy tiếng quát tháo, hò hét ở trong phía
bờ. Mặt trời vừa chui lên khỏi mặt nước làm cảnh vật sáng hồng lên nhưng lòng
chúng tôi đã đen thẫm lại khi hai chiếc tầu tuần của công an biên phòng Thanh Hóa
bắt cách bờ khoảng 200 mét vào lúc 7 giờ sáng.
Khi tôi bị đưa lên bờ,
lố nhố đầy người, bộ đội, du kích, súng ống, gậy gộc, họ cứ nhao nhao lên hò
hét chửi bới. Chỉ 15 phút sau, qua những tiếng hò hét của họ, chúng tôi cũng đã
biết Văn và Slau cũng đã bị tầu tuần của công an biên phòng Nghệ An bắt rồi, vì
chỗ đó là giáp giới của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Vào bờ, lúc này chúng
tôi chưa bị bịt mắt và đánh đập, tôi xác định được vị trí chúng tôi đổ bộ bị
sai khoảng từ 5 tới 7 cây số so với không ảnh mà chúng tôi đã được nghiên cứu.
Mặt khác, theo như thuyết trình ở phòng hành quân đã quy định, điểm rời tầu mẹ
đến đất liền khoảng cách từ 800 mét cho đến 1000 mét. Nhưng điều đau lòng là
thực tế nó đã xa bờ từ 4000 cho đến 5000 mét. Chăn vừa nói đến đây thì ngoài
cổng trại đã có tiếng ầm ầm, vì các toán đã về, tôi chỉ kịp đập nhẹ vào tay
Chăn:
- Để dịp khác tiếp tục
nhé!
Rồi vội vàng tôi trèo
lên sàn, về chỗ nằm đắp chăn….
Đặng Chí Bình
24/8/1990
Chú thích: Hiện nay Lầu
Chí Chăn, Trịnh Văn Truyện, Nguyễn Cao Sơn, Hoàng Dụ (Tarzan)… đã có mặt tại
Mỹ.