Tuesday, March 5, 2019

Huế, Đà-Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến - Phan Văn Phúc

chimtroi VNAF - Không Quân Việt Nam Cộng Hòa]]>

Wed, 06 Mar 2019 00:20:07 +0000

Huế, Đà-Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến - Phan Văn Phúc

https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/275-hu-da-n-ng-nh-ng-ngay-tan-cu-c-chi-n-phan-van-phuc

https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/275-hu-da-n-ng-nh-ng-ngay-tan-cu-c-chi-n-phan-van-phuc

Huế, Đà-Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến - Phan Văn Phúc


Chúng tôi gồm 2 chiếc Trực-thăng thuộc Phi-đoàn 253 được biệt phái cho Bộ Tư-lệnh Tiền-phương Quân-đoàn I nằm tại căn cứ Mang-cá trong thành nội Huế.

Suốt mấy ngày mất ăn mất ngủ vì bị pháo kích liên tục, cuối cùng chúng tôi được lệnh phải dời biệt đội ra cửa Thuận-An để tránh pháo-kích nhưng vẫn bị pháo. Mỗi lần nghe tiếng pháo chúng tôi phải chạy ra phi-cơ cất cánh vừa để tránh đạn, vừa bay tìm ổ pháo địch. Một hôm mấy anh TQLC bắt được 2 tên VC đề-lô đang điều chỉnh pháo, đem ra trói tay bịt mắt, bắt quỳ bên nhau và hù dọa, nếu không khai sẽ bắn bỏ, dứt lời bắn mấy phát xuống đát bên cạnh làm chúng tè ra ướt cả quần.


Chiến sự vùng địa đầu hỏa tuyến lúc nầy đã trở nên sôi bỏng hơn bao giờ hết, có lúc tôi phải bay đi dọn nhà cho Tr/tướng tư lệnh Lâm-quang-Thi về Đà-nẵng, hỏi ra thì được ông cho biết là cứ yên chí, mình sẽ nằm trong "vùng trái độn giữa hai miền Nam-Bắc".Chúng tôi chịu trận mãi đến ngày 24 tháng 3 năm1975, lúc trời gần tối thì chiếc Chinook của Tr/tá Mai đáp khẩn cấp xuống phi đạo ban lịnh: „Tất cả đều di tản về Đà-nẵng trừ hai chiếc Trực-thăng phải dời qua bãi đáp Hải-Quân để tránh pháo kích và chờ chở Bộ-chỉ-huy về sau“.



Tình trạng hỗn loạn tạị phi đạo đã diễn ra, nhiều binh lính đủ sắc phục ồ-ạt chạy dồn lên phi cơ của tôi, có cả xe Honda, hối thúc cất cánh bay về Đà-nẵng. Tôi cố hết lời phân trần là đươc lịnh chỉ dời sang bãi đáp an toàn, nhưng tất cả đều không nghe và có một người chĩa mũi súng trường vào đầu bắt tôi phải cất cánh bay về Đà-nẵng.

Trên đường bay về trong đêm tối, tôi gọi báo tình trạng bị uy hiếp với đài kiểm-báo và phòng Hành-quân-chiến-cuộc Không Đoàn 51 Chiến thuật. Chúng tôi bay về tới phi-trường nhưng chưa được lệnh đáp, phải bay nhiều vòng chờ đến khi đèn đỏ báo hiệu sắp hết xăng tôi xin lệnh đáp khẩn-cấp thì đài kiểm báo chỉ cho đáp ngoài vòng đai, tuyệt đối không được vào đáp trong phi-đaọ vì cho là chúng tôi bị" Không-tặc". Trong đêm tối, chúng tôi phải lên xuống nhiều lần tránh dây điện mới đặt được phi-cơ xuống đất, chưa kịp tắt máy thì thấy đèn pha từ các nơi chiếu sáng và rất nhiều Quân-cảnh ùa vào bắt trói tất cả đưa lên xe. Riêng tôi và Đ/úy Học được chở về trình-diện Đ/tá Phước KĐT. Chúng tôi bị khiển-trách khá nặng-nề, lúc ấy tôi rất bất mãn và tỏ thái-độ bất kính với vị KĐT mà lâu nay giữa tôi và ông đã từng tín nhiệm nhau và đã đảm trách biết bao phi-vụ nguy-hiểm nhất. Cũng may là có T/tá Phố Phi- đoàn-trưởng bên cạnh, ngỏ lời an-ủi: "Thôi đừng buồn, sau nầy sẽ biết".

Tôi theo ông về phi-đoàn nhưng lòng vẫn còn uất ức không muốn về nhà, nằm lại phòng ngủ phi-đoàn. Quá nửa đêm tôi thấy Đ/úy Tứ, Phi hành đoàn đang bay cho Tướng Điềm SĐ I bộ-binh đến gặp tôi với bộ mặt đưa đám kể lại anh ta đã bị thất lạc ông Tướng, chắc là gặp chuyện chẳng lành? Co-pilot, cơ-phi, xạ-thủ đều không thấy đâu cả, không khéo sẽ ở tù cả đám.Tôi đang buồn và đề nghị sáng mai tao sẽ bay với mầy ra tìm mấy chiếc Jeep có cần câu antenes liên-lạc may ra tìm được ông ấy.

Sáng sớm ngày 25-3-1975, chúng tôi bay ra dọc theo bờ biển, thấy lính từ Huế di chuyển về đen cả vùng cát trắng. Chúng tôi gọi máy liên tục và bay quần trên không nhưng chẳng thấy được xe cần câu nào cả. Bay sâu trở ra đến thành phố Huế thì bị hỏa lực địch bắn lên, lại còn phải né tránh những vùng hai bên đang đụng nhau, đạn khói mù trời. Cuối cùng chúng tôi phải bay về và lên đáp trên đài kiểm báo Sơn-chà nhờ liên-lạc.



Được biết ông Tướng đã nhờ mấy ông Đại-tá thuê gọ đưa lên được chiếc tàu Hải Quân số 10 đang chạy về Tiên-Sa, chúng tôi đến đón ông bay về Quân-đoàn, chờ độ nửa tiếng thì ông cùng 2 ông Tá trở ra vừa gặm bánh mì vừa hối hả bảo tôi bay trở lên đàì kiểm-báo bốc thêm 2 ông Tá khác, dự định bay ra liên-lạc hướng dẫn cho tàu vào Đầm-Cầu-Hai, giúp chuyển rất nhiều binh lính bị kẹt không qua Đầm Cầu-Hai được. Tôi phải bay sát bãi cát để ông Tướng vừa cho binh lính thấy mặt vừa khoát tay liên tục chỉ hướng về Đà Nẵng. Bất thình-lình tôi thấy hai tên vừa bỏ chạy vô lùm vừa quay lại bắn một tràng AK trúng tàu bể nát cả bầu kính trước mặt, gió lùa ào ào, đèn đỏ bình xăng báo hiệu bị thủng mùi hơi xăng nồng-nặc, chân tôi bị thương máu bay lên tung-tóe. Tôi vội quẹo phải bay sát mặt biển hướng về chiếc tàu tôi thoáng thấy được ngoài khơi. Tôi và Tứ vừa bay vừa thay phiên nhau cởi giày, báo cho mọi người cùng tháo giày chuẩn bị lội vì máy bay có thể rơi xuống biển bất cứ lúc nào vì bình xăng đã bị bắn thủng.

Tôi gọi báo tình trạng khẩn cấp về đài kiểm-báo và cũng rất may là Tr/úy Giác thuộc PHĐ bay cho Tướng Bùi Thế Lân Sư-đoàn TQLC nghe được trên tần số lúc anh đang bay tiếp tế cho TQLC tại cửa Thuận-An, tôi cho biết tọa-độ và nhờ anh khi nào nhìn thấy thì báo, tôi sẽ bay trở vào đáp khuất sâu trong mấy hàng dương, anh sẽ đáp theo vì nếu đáp phía ngoài binh lính sẽ đeo tàu khó mà cất cánh được. Nhờ Trời chúng tôi đã vượt qua được từng giây tử thần đưa được con tàu đến nơi an toàn, phi cơ vừa đáp thì thấy chiếc trực thăng của bạn Giác đã đáp ngay phía sau. Khóa vội tần-số liên lạc, chúng tôi cùng nhau chạy ùa lên phi-cơ của Giác cất cánh bay về Đà-Nẵng, bỏ lại chiếc phi-cơ của Tướng Điềm có lẽ cũng sắp tắt máy vì hết xăng. Tôi chỉ bị thương nhẹ ở bắp đùi rách cả áo bay được đưa vào bịnh viện băng bó, hôm sau vào trực bay tiếp, nghe đâu sau đó tướng Điềm về làm Tư lệnh Quân-khu, đến ngày di-tản lại bị rớt máy bay trên đường chạy loạn.

Riêng tôi ở lại đến đêm 28-3-1975 thì nghe VC pháo kích vào phi-trường rất nhiều, sáng sớm 29-3 tôi và Tứ rủ nhau vào phi-trường thì được biết đêm qua hầu như tất cả phi cơ trực-thăng đều được bay đi gần hết, tôi tìm được một chiếc check lại đều OK nhưng không có bình battery. Sau tìm được bình lắp vào, quay máy định cất cánh lại bị số người quá đông không lên phi-cơ hết được, số còn lại dưới đất gần 20 người, họ lại bắn bể cả cánh quạt. Tôi tắt máy và thuyết phục tất cả ra sân vận-động tôi sẽ cố bay qua phi trường Non-Nước tìm nhờ mấy chiếc khác bay về rước sau. Tất cả xuống tàu nhưng khi tôi mở máy lại thì tất cả đều nhảy lên tàu trở lại tình trạng cũ, tôi đành tắt máy rời phi-trường cùng Tứ chạy xe qua Non-Nước. nhìn thấy mấy chiếc hạm ngoài khơi, tôi cởi áo bay định lội ra tàu nhưng vì quá xa đuối sức phải bơi vào bờ lại thì tìm chẳng ra chiếc Vespa của Tứ đã bị lấy mất!

Tôi chở Tứ chạy qua Tiên-Sa định tìm tàu di tản nhưng nửa đường gặp hai bên bắn nhau đạn bay tứ phía, tôi đành quay về nhà nằm chờ ngày trình diện vào tù.

Mãi gần 10 năm sau mới được đi tỵ-nạn chính-trị năm 1991 đến nay, âu cũng là số mạng!

KQ Phan-văn-Phúc

Ý kiến bạn đọc xin nhấn vào đây => (Huế, Đà-Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến) thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Truyện VNAF Tue, 26 Feb 2019 08:08:30 +0000 Phi vụ cứu người Chi khu Gia-Vực - KQ Phan-văn-Phúc 219-253 https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/270-phi-v-c-u-ngu-i-chi-khu-gia-v-c-kq-phan-van-phuc-219-253 https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/270-phi-v-c-u-ngu-i-chi-khu-gia-v-c-kq-phan-van-phuc-219-253 Phi vụ cứu người Chi khu Gia-Vực - KQ Phan-văn-Phúc 219-253

Tôi thường được biệt phái bay C&C với ông Đại-tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 11 Biêt-động-Quân đóng tại Quảng-Ngãi, lần cuối cùng chúng tôi bay quần trên bầu trời chi khu Gia-vực suốt cả ngày, cứ đáp lấy xăng, ăn vội rồi lên vùng ngay vì tiểu đoàn của ông đang bị Cộng quân vây đánh khắp nơi. Cuối cùng tôi nghe ông ban lịnh: "Hủy bỏ các tiền đồn rút về cố thủ tại Chi khu". Tôi về đáp trả ông lại đơn vị và bay đi trong bóng đêm, lòng cảm thấy thương cảm cho vị chỉ huy và bao chiến hữu, không biết có giữ vững được phòng tuyến hay không? Chi khu Gia Vực nằm sâu trong dãy Trường Sơn mà phía ngoài là chi khu Minh-Long đã bị Cộng quân chiếm đóng khá lâu nên vào vùng chúng tôi phải bay cao để tránh phòng không địch.



Sau một thời gian khá lâu, Biệt đội chúng tôi đang biệt phái tại căn cứ Chu-Lai, trong khi tất cả đang còn say ngủ thì anh trực máy gọi tôi đến nhận lịnh từ phòng hành quân chiến cuộc Đà-Nẵng: "Tất cả lấy xăng đầy đủ bay vào đáp phi-trường Quảng-Ngãi gấp“.
Chúng tôi đến phi trường thì thêm 4 chiếc từ Đà-Nẵng cũng vừa đến nơi đáp vào hợp đoàn dọc theo phi đạo. Loay hoay chưa rời khỏi phi cơ thì Đại tá Phước KĐT lôi xuống, bảo chạy đến leo lên chiếc O-1 do anh Đại úy Đức bay vào vùng chỉ điểm cho tôi nhận diện mục tiêu. Từ độ cao trên 7,000 bộ tôi nhìn thấy một tấm Penal màu cam đánh dấu trên một ngọn đồi cao nằm sâu vào phía Tây gần biên giới Lào-Việt. Tôi báo anh Đức bay về và qua anh tôi được biết Chi khu đã bị " over run " gần một tháng nay rồi, tất cả máy bay vào vùng đều bị phòng không bắn nên việc dò tìm tung tích những anh em quân nhân thất lạc bị trở ngại rất nhiều. Được biết hầu hết những toán đi ngược ra Quảng-Ngãi đều bị chận đường tiêu diệt gần hết, riêng toán nầy may nhờ được một người Thượng hướng dẫn đi ngược lên núi mới tránh khỏi bị chận đánh và kéo nhau lên núi, lấy penal trải báo hiệu nên máy bay trinh sát trông thấy.

Kế hoạch hành quân cấp cứu là xuất phát thật sớm, lợi dụng lúc mây còn che phủ, những khẩu phòng không địch không trông thấy nên vừa về lại phi trường Quảng Ngãi, tôi liền lên phi cơ hướng dẫn hợp đoàn bay vào mục tiêu trên cao độ 7,000 bộ, gần đến nơi tôi cho phi cơ rơi thật nhanh vào bãi đáp. Trên đường bay cận tuyến, trông thấy một tên VC đang ngồi đánh răng cạnh khe suối và một toán đang đánh voley, tôi báo cho 2 chiếc guns thanh toán. Phi cơ vừa đáp thì toán quân nhân thất lạc trong đó có cả đàn bà và trẻ nhỏ ào ạt trèo lên đầy ắp, phi cơ cất cánh không muốn lên nổi nên tôi phải bay là là sát ngọn cây, nhờ hai chiếc gunships bắn dọn đường trở về. Cả hợp đoàn phía sau cũng được lệnh quay về vì tất cả đã lên hết trên tàu, tôi đếm lại đến 27 người trên chiếc trực thăng mỏng manh UH-1. Trở lại phi trường, lúc nầy trời đã sáng hẳn và rất đông người trên phi đạo chạy đến bu quanh phi cơ, nhiều người ôm chầm lấy tôi cám ơn rối rích. Chúng tôi cất cánh rời phi trường, nhìn lại hai bên phi đạo, nhiều người đang bò lăn kêu gào thảm thiết vì không thấy có người thân, lòng mình cũng thấy quặn đau khó tả.


Phi Đòan 253 Pilot Phúc Dù ngồi giửa giơ tay chào


Một tuần sau Quân Đoàn 1 tổ chức buổi lễ vinh danh và tặng huy chương kèm vòng hoa chiến thắng tại trường Trung học Sao Mai Đà-Nẵng, buổi lễ rất trang nghiêm trong khúc nhạc quân hành “Trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu“, các quân nhân lần lượt được các em nữ sinh Sao-Mai xinh như mộng choàng vòng hoa chiến thắng, trong tràng vỗ tay vang dội cả hội trường. Đặc biệt thay vì vòng hoa, tôi được người yêu trang trọng choàng cho một khăng choàng màu tím chính tự tay nàng thêu tặng, và cũng chính chiếc khăn nầy đã cột chặt cuộc đời chúng tôi với nhau suốt 47 năm qua, dù đã phải trãi qua biết bao thăng trầm tù tội. Cũng rất đặc biệt là chiếc khăn nầy luôn được Ly-Lan, người vợ thương yêu của tôi cất giữ nguyên vẹn mãi đến ngày nay, nàng thường muốn được tự tay choàng vào cổ mỗi lần tôi mặc áo bay đi dự hội.
KQ Phan-văn-Phúc 219-253

thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Truyện VNAF Tue, 19 Feb 2019 05:22:35 +0000 Núi Bạch-Mã và phi-vụ tiếp tế cuối cùng - KQ Phan Văn Phúc https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/262-nui-b-ch-ma-va-phi-v-ti-p-t-cu-i-cung-kq-phan-van-phuc https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/262-nui-b-ch-ma-va-phi-v-ti-p-t-cu-i-cung-kq-phan-van-phuc Núi Bạch-Mã và phi-vụ tiếp tế cuối cùng - KQ Phan Văn Phúc

Từ thành phố Đà-Nẵng lên đèo Hải-Vân nhìn về hướng Tây-Bắc sẽ thấy núi Bạch-Mã, cao gần 5,000 bộ và thường bị mây trắng che phủ trông giống như một con ngựa trắng nằm trong dãy Trường Sơn, đỉnh núi trước đây là một căn cứ nghỉ mát thời Pháp thuộc, được xây cất với nhiều tòa nhà rất nguy nga tráng lệ. Qua bao năm chiến tranh tàn phá, cảnh vật thay đổi, tuyến đường độc đạo duy nhất lên đỉnh đã bất khả dụng suốt cả một thời gian dài.

Hình minh họa internet


Sau hiệp định chia đôi đất nước, bọn giặc phương Bắc tiếp tục tiến chiếm miền Nam, chiến sự bùng phát khắp nơi, đỉnh núi Bạch-Mã trở thành một cứ điểm quân sự rất quan-trọng vì có thể quan sát và kiểm soát được cả một vùng rất rộng lớn, nhất là đường mòn HCM nằm cạnh chân núi phía Tây trong dãy Trường-sơn. Xa xa nhìn lên đỉnh núi như một cái yên ngựa, hai điểm cao do một đơn vị Địa-phương-Quân và một đơn vị thuộc Nha-kỹ-Thuật trấn giữ, mọi liên-lạc và tiếp tế chỉ bằng Trực-thăng. Đặc biệt, bọn VC đã lợi dụng hiệp định ngưng bắn lên tiến chiếm được một phần phía Tây trên đỉnh núi, thường xuyên phóng loa đả kích và có đôi lần chạm trán gây thương tích lẫn nhau vì hai bên đều dùng chung một cái giếng nước.


Tôi thường hay biệt phái cho đơn vị NKT trên cứ điểm nầy, rồi chiến sự bùng nổ khắp vùng địa đầu giới tuyến, biệt đội chúng tôi phải luân chuyễn khắp vùng. Một hôm biệt đội đang biệt phái tại căn cứ Phú-Bài, vừa thức giấc thì được lệnh từ Đại Tá Đặng Văn Phước, Không Đoàn Trưởng KĐ51, đem cả biệt đội gồm 2 chiếc Slick và 2 chiếc Gunship bay về đáp tại núi Đá-Bạc cạnh quốc lộ I nằm về phía Đông núi Bạch-Mã chờ lệnh hành quân. Ngay sau đó có 3 chiếc slick khác từ Đà-Nẵng bay ra đáp chờ hợp đoàn, tất cả phi cơ slick được load đầy lương thực, riêng chiếc của tôi chở đầy 10 bao gạo 50 ký. Tr/Tướng Lâm-quang-Thi, Tư Lệnh Tiền-phương vùng I chiến thuật phối hợp cùng Bộ Tư Lệnh KQ đích thân chỉ huy hợp đoàn tiếp tế rất quan trọng nầy.
Đầu tiên một chiếc L-19 dùng loa phóng thanh bay trên vùng kêu gọi quân Bắc-Việt nên tôn trọng lệnh ngưng bắn để chúng tôi bay vào tiếp tế lương thực, tuyệt đối không được khai hỏa, nếu không tuân hành chúng tôi sẽ cho oanh-tạc nát vùng quanh núi… Nhiều phi vụ trước đây lên vùng đều bị hỏa lực phòng không của địch rất nặng, không thể lên tiếp tế khiến cho hầu hết binh sĩ đều bị kiệt sức sau một thời gian khá dài.

Vừa dứt lời phóng thanh nhiều lần thì thấy hai phi-tuần A-37 và cả F-5 từ phi-trường Đà- Nẵng ồ ạt bay ra thị uy gầm thét cả bầu trời quanh vùng. Khi những phi-tuần thị uy rời vùng, tôi cất cánh cùng hai chiếc Guns hộ tống lên vùng thử lửa đầu tiên vì chưa tin được bọn VC. Vì biết có phòng-không nên tôi lái sát ngọn cây bay trườn lên đỉnh núi, khi gần đến đỉnh, thình lình tôi nghe một loạt AK, phi cơ bị lãnh trọn, đèn và âm thanh báo hiệu nổi lên đầy khắp nơi, hệ thống liên lạc bị gián đoạn, đạn lửa phía trước mặt bên kia triền núi bắn lên đỏ trời, tôi cố gắng đưa tàu đến đỉnh, cho đạp vội hết 10 bao gạo khi phi cơ chưa chạm đất. Tôi nghĩ ở lại cũng chết nên quay đầu bay lạng qua lạng lại sát ngọn cây, nhờ 2 chiếc Guns kèm sát đưa về đến nơi an toàn. Sau khi kiểm lại, phi cơ bị bắn thủng tất cả 18 lỗ, may mắn không ai bị thương, thật hú hồn như chết đi vừa sống lại. Tất cả Phi hành đoàn chưa hoàn hồn thì thấy mấy phi tuần phản lực bay ra dội bom quanh sườn núi, khói mù che cả đỉnh núi. Phi tuần oanh tạc rời vùng thì hợp đoàn còn lại gồm 6 chiếc do Đ/úy Thọ hướng dẫn cất cánh lên vùng tiếp tục nhưng phòng không địch bắn lên đỏ trời không thể thực hiện đành phải hủy bỏ phi vụ, tất cả đều hướng nhìn lên đỉnh núi mà bùi ngùi xót thương cho số phận của biết bao chiến hữu thân thương, không biết sẽ phải ra sao trong hoàn cảnh oan nghiệt nầy!
Mãi sau nầy trên đất khách quê người, trong kiếp sống lưu-vong tôi có được cơ may gặp anh T/úy Hậu, người chỉ huy đơn vị NKT trên đỉnh Bạch-Mã năm nào nhờ sự giới thiệu của anh T/úy Phạm-Hòa nhân dịp anh về tham dự Đại hội NKT tại Dallas. Chúng tôi ôm nhau hội ngộ trong niềm vui khó tả, anh bùi ngùi kể lại: „Chính nhờ 10 bao gạo mà anh đã liều chết xông vào đạn lửa cho chúng tôi như một điều cứu tinh mầu nhiệm, chúng tôi chia nhau ăn hồi sức dần và tìm cách băng rừng tìm về đơn vị gần đầy đủ sau môt thời gian khá dài. Đúng là quả đất tròn và nhờ ơn trên phù hộ nên chúng ta mới còn được như ngày nay. Xin tạ ơn.“

KQ Phan-văn-Phúc 219+253

Bốc Viễn Thám - Song Chùy Huỳnh Hữu Nghị

Một trong những phi vụ mà các Hoa Tiêu TT vùng hỏa tuyến thường phải thực hiện cho đến tháng 3 năm 1975 là đổ toán Lôi Hổ và bốc toán. Đơn vị Lôi Hổ vùng 1 đóng trên sườn núi Sơn Trà, mỗi lần thực hiện phi vụ, phi hành đoàn phải đáp ở đây để tham dự briefing và sau đó chở toán đi đổ hay chuẩn bị để đi bốc toán trở về. Các chiến sĩ Lôi Hổ ngụy trang thành VC từ đầu đến chân, khi chở toán đi đổ thì đã quen mắt nên ít ớn nhưng khi đi bốc toán thì trăm sự chỉ còn nhờ vào anh Sĩ Quan Lôi Hổ đi theo tàu để liên lạc với toán, vì khi tàu đáp xuống thì lù lù trong bụi mấy chú VC tay xách AK chạy ra phóng lên tàu trông phát khiếp, đó là toán Lôi Hổ vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về mà chỉ có anh SQ liên lạc mới nhận ra. Địa điểm đổ toán thường sâu bên trong phía Tây Nam quận Thường Đức (Elephant Valley) hay sâu vào phía Tây dưới chân đèo Hải Vân (Happy Valley). Cũng tại nơi đây (dưới chân phía Nam đèo Hải Vân), bạn Trần Tiến Lộc, 72H, Khóa 3 HTTT, thuộc phi đoàn 239 Hoàng Ưng đã tử nạn trong một phi vụ bốc toán Lôi Hổ do tàu chặt vào cây. Dọc theo chân dãi núi về phía Nam từ đèo Hải Vân chạy sâu vào hướng Tây là một con suối cạn, hai bên cây cối che rậm rạp nhưng giửa suối là một khỏang trống trực thăng có thể bay. Đường bay nguy hiểm vì chật chội nhưng các phi vụ đổ và bốc tóan thường xảy ra ở đây vì mục tiêu kín đáo an tòan, địch không thể quan sát được từ trên cao. Thỉnh thỏang dọc theo con suối là những "lổ" trống tàu có thể chui vào hoặc bay ra. Chiếc trực thăng lâm nạn đã bốc tóan xong và bay ra, có lẽ chở nặng tàu hơi vướng vấp khi lấy cao độ bay ra nên bị vướng vào cây. Tàu bị lật ngược và treo trên ngọn cây, khi toán cấp cứu đến nơi và đem được hai pilot xuống thì đã mất hàng giờ, hai anh đã tắt thở từ lâu. Các thành viên khác trên tàu bị văng ra ngoài không rõ tình trạng.

HQPD xin trân trọng giới thiệu bài viết "Bốc Viễn Thám" của Niên Trưởng Songchuy11, Phi Đội Trưởng gunship PĐ 213, viết về một trong những phi vụ nguy hiểm nhất của cuộc đời trực thăng. Xin chân thành cám ơn NT Songchuy11.



Bốc viễn thám

Song Chùy 11

Thả viễn thám là một trong những phi vụ khó khăn và nguy hiểm nhất cuả những phi đoàn trưc thăng vùng hỏa tuyến. Vì nơi hiểm địa chúng tôi phải xâm nhập vào nơi không có bạn mà chỉ có thù và cũng không có tin tức tình báo gì xác thực, chẳng khác nào người đi thầm lặng trong đêm tối phập phòng lo sợ bóng ma.

Những phi vụ ấy chúng tôi chỉ còn mỗi cách duy nhất là thận trọng chọn lựa bãi đáp như thế nào để sau khi thả toán xuống chúng tôi còn có thể quay lại bảo vệ hay tiếp cứu, bốc trở lên lại nếu toán nhảy vào „ổ kiến lửa“ và chạm địch ngay khi vừa xuống đất. Dĩ nhiên phi hành đoàn phải là những phi công lão luyện đầy kinh nghiệm cùng với hai chiếc trực thăng võ trang theo hộ tống

Thả toán nguy hiểm như vậy thì bốc toán laị càng nguy hiểm hơn, vi toán viễn thám nhảy xuống lần mò theo dấu địch để kiểm chứng tình báo, lượng giá khả năng đơn vị địch trong vùng thì ngược lại, họ cũng có thể bị địch phát giác, thay vì là thợ săn họ trở thành con mồi bị săn đuổi. Nếu họ bị làm thịt hết thì không có gì để nói mà điều đáng sợ là họ bị bắt làm con tin, khai thác tình báo, nhất là bị khống chế bắt buộc toán phải khai ra mật mã và đánh tín hiệu truyền tin yêu cầu chúng tôi bốc để hốt trọn ổ, hoặc đối phương âm thầm theo dõi để khi chúng tôi đáp xuống họ mới ra tay ‘nhất tiển xạ song điêu‘ cho gọn gàng. Nếu may mắn toán biết bị đối phương theo dõi, săn đuổi thì chúng tôi có thể tìm cách đánh giải vây đuổi hổ về rừng và hướng dẫn toán đến nơi an toàn, hoặc toán tự tìm cách trở về „đầu thú“ với quân bạn, bởi vì họ trang bị toàn AK và y phục ngụy trang như VC.

Bỏ rơi họ không có nghiã là chúng tôi thiếu trách nhiệm, vì nhiều trường hợp, thượng cấp che dấu tất cả mọi sự thật trước khi xuất phát để rồi khi lâm trận chúng tôi bị hy sinh vô lý một cách đau thương đầy cay đắng mà danh từ thông dụng là ‘ nướng quân‘. Toán viễn thám cũng vì muốn được cứu cũng không nói thật tình trang của họ và không thể trách vì ai cũng muốn sống. Có khi trên chiến trường người chiến sĩ tự giải quyết lấy bằng tình cãm, danh dự và trách nhiệm chính con người họ, nên có những lúc lệnh triệt thoái ban ra họ vẩn cứ tiến, hoặc đồng đội gục ngã trước hỏa lực địch họ vẫn tíến hoặc bò lên lấy thây bạn bất chấp mọi hiểm nguy trước làn đạn đối phương ,mặc dù vị chỉ huy ngăn cản. Có khi đơn vị bị tràn ngập biển người họ chấp nhận hy sinh, gọi pháo binh hay không quân dập lên đầu để tính lời lổ trên xác quân thù. Tất cã những sự hy sinh cao cả ấy vượt ra ngoài các bài học nơi quân trường, lời ca ngợi, điếu văn hay những bản hùng ca vì không có lời nào đủ nghĩa nói lên được caí chất, cái hồn, cái tình ‘ lính ‘ cũa người chiến sĩ VNCH thành văn bản được trong những trường hợp đó.


Vào lúc hai giờ trưa tr /u Tr-T- Sơn làm leader đoàn trực thăng đi bốc toán gồm có một slick và hai chiếc gunship do trung úy Ng. Văn Lập và th / úy Ng. văn Hào yễm trợ. Là sĩ quan Phi đội trưởng tuần trực của phi đoàn chiu trách nhiệm theo dõi các cuộc hành quân của đơn vị trong tuần lễ nhiệm chức, giải quyết những khó khăn cũng như tổ chức cấp cứu kịp thời khi nguy biến, tôi đặc biệt theo dõi cuộc hành quân nầy qua làn sóng vô tuyến và được biết có vấn đề khó khăn xảy ra, có thể toán bị kềm chế hoặc bị săn đuổi như những trường hợp kể trên và như vậy phi vụ có thể bị hủy bỏ .Tôi chợt nhớ trong toán viễn thám nầy có người em họ, con của cô ruột tham dự nên lại càng lo âu nếu toán bị bỏ rơi trên chiến trường. Tôi yêu cầu anh Tr-T-Sơn ở lại trên vùng chờ đợi và vội vã lấy phi hành đoàn chiếc Gunship trực của phi đoàn thường dùng để tăng cường thêm cho những phi vụ hành quân hoặc cấp cứu, bay thẳng vô quận Thường Đức, là trấn biên thùy cuối cùng phiá tây tỉnh Quảng Nam giáp với biên giới Ai Lao. Khi đến nơi chúng tôi gặp nhau trên vòm trời quận lỵ và hội ý với nhau tìm giải pháp khả dĩ làm thế nào có thể giải cứu toán.

Tôi bắt đầu liên lạc với toán và nhận ra chính đứá em tôi trả lời trên làn sóng truyền tin trong tình trạng bấn loạn càng khiến tôi bối rối vô cùng nên không thể nào chọn lựa được giải pháp vô tư, mà quyết định phải cứu thằng em ấy bằng hết khả năng, nếu không làm sao tôi có thể tránh né được lương tri mình suốt đời ray rứt nếu nó có mệnh hệ nào. Tự nhiên tôi có ý nghĩ xữ dụng lối xưng hô trong gia đình người Nam trong trường hợp nầy xem như là một thứ mật mã để đo lường phản ứng sự đối đáp với nhau, nhờ đó cho phép chúng tôi xác định một cách tương đối tình trạng bên dưới.
Tôi hỏi:
- Hiễn biết ai đây không? và nhận được trả lời ngay lập tức
- Em nè anh ba ơi, cứu em với!

Lời kêu cứu thảm thiết của thằng em khiến tôi phải rùng mình yên lặng một hồi lâu. Tôi cũng biết rằng mọi sự quyết định liều lĩnh trong lúc nầy chính là đem tính mạng tôi và phi hành đoàn ra thử thách, đùa với lửa nhưng không còn cách nào chọn lựa.

Xét theo cách trả lời nhanh chóng với phản ứng tự nhiên ấy tôi đoán chừng toán có thể còn ngoài vòng kềm toả cuả đối phương, chưa bị khống chế toàn diện trong tay địch. Bây giờ tôi xắp xếp và phân công lại nhiệm vụ mỗi phi hành đoàn. Chính tôi tự đáp xuống bốc toán với chiếc gunship tôi đang bay vì có hai khẩu minigun tự bảo vệ và chống trả nếu bị đối phương tấn công khi tôi đáp xuống đất, vì nhịp tác xạ của mỗi khẩu là 4000 viên đạn mỗi phút vẫn vững tâm hơn, còn anh Sơn làm nhiệm vụ quan sát và cấp cứu, hai chiếc gunship cuả anh Lập, anh Hào yễm trợ. Có điều cần nói thêm anh Lập leader hai chiếc gunship hôm nay cũng là phi đội phó phi đội trưc thăng võ trang, một con diều hâu nặng ký với sở trường tuyệt kỷ đánh rocket vô cùng chính xác và nhất là rải hàng ngang nên có biệt hiêu là „Hận bách hoa“, muốn hiểu hoa hồng cũng không sai nhưng hoa sao vàng phải ôm hận, cho tôi một sự tin tưởng và yên tâm hơn khi lấy quyết định.

Sau khi tất cả đồng ý với nhau chúng tôi tíến tới điểm hẹn. Tôi điện đàm với toán viễn thám bằng bạch văn để tránh mọi sự lầm lẫn:

- Hotel, đây alpha. Tình trạng như thế nào?
- Chạm trán mấy ngày trước, bậy giờ đang tìm kiếm lẩn nhau. Thất lạc một.
- Có thể ra bàn billard được chưa?
- Tuị em đang quanh khu vực nhưng trống trải quá chưa dám ra.
- O K cứ phòng thủ và làm tín hiệu
- Nhận rõ năm trên năm.

Vài phút sau ba chiếc gunship chúng tôi đến nơi, bay thật thấp vượt qua bãi đáp, thấy tín hiệu của Toán đang ẫn núp nơi bià rừng và đếm đủ số người. Khá an tâm tôi xắp xếp laị đội hình sao cho ba chiếc vừa dọn bãi đáp và vừa bảo vệ bên dưới . Anh Lập nhắc nhở tôi:
- Gun một đây hai, nếu thấy quá nguy hiểm thì đánh dạt mấy con heo rừng đó đi xa để họ tự tìm đường về.

Tôi trả lời:
- Tôi tin tưỡng tài thiện xạ rocket của anh, chỉ cần anh bảo vệ chặt chẽ cho tôi thì không đến đổi nào.
- OK

Ba chiếc gunship bắt đầu thay nhau liên tục dập bãi đáp và đánh vào tạt tất cả khu vực chung quanh, cùng đánh vòng quanh toán để bão vệ họ. Sau khi dọn bãi xong là phút quyết định, tôi gọi toán chaỵ nhanh ra giửa bãi đáp là vùng đất trống, cỏ tranh cao khuất đầu che dấu họ cũng bớt đi phần nào sự lộ thiên vô cùng nguy hiểm trong lúc nầy, tôi cũng không quên nhắc họ quấn băng đỏ kính đáo tên đầu mỗi người để chúng tôi dễ nhận diện mà khỏi đánh lầm ,vì những khẩu minigun đánh cách toán chỉ chừng hai mươi thước, ngoài những chấm đỏ đó tất cả mọi sinh vật nào khác di động đều bị loại trừ.

Khi toán rời bìa rừng chúng tôi đánh chận ngay phiá sau ngăn cản đối phương đuổi theo và chờ đợi toán vào vị trí chỉ định. Khi toán ra đến giửa bãi đáp tôi đánh hết tất cã số rocket còn lại cho tàu nhẹ bớt rồi vòng lại đáp xuống ngay phía sau họ còn hai chiếc gunship kia vẫn tiếp tục đánh bảo vệ chung quanh tôi. Tất cả đều diễn ra như dự tính, vài giây sau con tàu chạm đất và toán viễn thám vừa thoát lên tàu, họ vừa tung lựu đạn vừa quay súng bắn như mưa bấc xuống như còn trong nỗi kinh hoàng. Khi tôi cất cánh trở lại con tàu nặng nề la đà trên ngọn cỏ thì chợt nghe tiếng anh Lập vang lên trong nón bay :

- Một, coi chừng.

Cùng lúc ấy, tàu rùng mình lên vì trúng đạn theo tràng AK nổ dòn từ phiá trái; Tôi nhìn qua, họ nhanh chóng làm mồi cho rocket chống biển người của anh Lập vạch hai làn khói đỏ lao tới dập ngay lập tức.

Con tàu như chưa biết chuyện gì vừa xảy ra với nó, vẫn còn tà tà trên ngọn cỏ. .Khi lên cao ngoài vòng nguy hiểm, hai chiếc gunship còn đang trút những trái rocket cuối cùng.

Song Chùy 11
Huỳnh Hữu Nghị
Tháng 12 năm 2004

Ý kiến bạn đọc xin nhấn vào đây => (Bốc Viễn Thám)

thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Truyện VNAF Fri, 18 Jan 2019 19:37:52 +0000 Song Chùy 213 & Vùng Trời Hỏa Tuyến (Những Ngày Cuối - Tháng 3/75) - T.HG@SONGCHUY https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vn/item/246-m-t-th-i-d-nh-nh-ng-ngay-cu-i-thang-3-75-t-hg-songchuy https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vn/item/246-m-t-th-i-d-nh-nh-ng-ngay-cu-i-thang-3-75-t-hg-songchuy Song Chùy 213 & Vùng Trời Hỏa Tuyến (Những Ngày Cuối - Tháng 3/75) - T.HG@SONGCHUY

Một Thời Để Nhớ - (Những Ngày Cuối - Tháng 3/75)

Tháng 3/75, không ngờ đó là những ngày tháng cuối cùng của các chiến sĩ vùng I Chiến Thuật, miền Địa Đầu Giới Tuyến, còn được mệnh danh là Vùng Hỏa Tuyến, một danh xưng nẩy lửa xuất hiện từ thời tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư Lệnh Quân Đoàn I.

Trong giờ thứ 25 của cuộc triệt thoái lịch sử khỏi Vùng I Chiến Thuật, Sư Đoàn I KQ nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng trước tình thế lúc bấy giờ " Còn SĐ I KQ, Còn phi trường Đà Nẵng thì Còn Vùng I Chiến Thuật "!

Đà Nẵng là thành trì cuối cùng dưới con mắt người dân Vùng I Chiến Thuật. Mất phi trường Đà Nẵng, thành phố cũng mất theo; tất cả dân quân thuộc Quân Khu I từ các nơi kéo về Đà Nẵng coi như không còn đường thoát... Phương tiện eo hẹp của Hải Quân Vùng I Duyên Hải được dành ưu tiên cho hai đơn vị Dù & TQLC. Quốc lộ I từ Đà Nẵng vô Nam đã bế tắc hoàn toàn sau khi các

tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và căn cứ Chu Lai bị overun trước Đà Nẵng một tuần. Cộng quân coi như trọn quyền làm chủ toàn thể lãnh thổ Vùng I Chiến Thuật ngay buổi chiều 29/3/75, sau khi tiếp thu xong Phi Trường và Thị Xã Đà Nẵng.

Hơn 5 giờ chiều 29/3/75, còn một chiếc trực thăng cuối cùng mang số -107- cất cánh rời kho dầu ở cuối đường Trưng Nữ Vương (Chợ Mới), chấm dứt hoàn toàn sự hiện hữu của SĐ I KQ trên Vùng Trời Hỏa Tuyến, bỏ lại sau lưng thành phố thân yêu đang âm thầm đi vào bóng đêm của hận thù, kinh hoàng và sợ hãi... Tội nghiệp cho những người còn kẹt lại ! Dọc theo con đường biển từ hướng Hội An về , dân chúng hân hoan (?) đón mừng " đám lính mới " có lẽ vừa chui ra từ những mật khu rậm rạp trong vùng Trường Sơn. Từng đoàn người, với cờ xí tung bay phất phới, dẫn đường cho mấy chiếc Motolova chầm chậm theo sau... đang tiến về Đà Năng; đánh dấu sự sụp đổ toàn bộ Quân Đoàn I / QLVNCH ! Bóng tối như đồng lõa cùng tội lỗi, màn đêm buông sớm hơn mọi ngày; bầu Trời u ám đầy khói mù từ phi trường thổi ra giăng đầy mặt biển xa mãi ngoài khơi vịnh Sơn Chà và Cù Lao Chàm.


Cộng quân đã khôn khéo phối hợp hai yếu tố tâm lý và chiến lược để dứt điểm Quân Đoàn I bằng trận Đại Pháo khốc liệt với hàng loạt hỏa tiễn 130 ly liên tục rót vào phi trường Đà Nẵng từ 8 giờ tối 28/3 cho đến gần sáng ngày 29/3/75. Phi trường trở nên tê liệt hoàn toàn ! Phi đạo, kho đạn, kho xăng... phá hủy rồi phi cơ cũng thành vô dụng. Không cấp chỉ huy thẩm quyền nào dám trực tiếp ban lệnh rút lui nên khi pháo kích tới mọi người tự động coi đó là hiệu lệnh cuối cùng, mạnh ai nấy cất cánh mà đi!


Không Đoàn 41CT với các phi đoàn khu trục và vận tải, đa số đã di tản trước ( Không biết do lệnh từ đâu?). Còn lại các Không Đoàn Yểm Cứ / Kỹ Thuật / Kiến Tạo và Không Đoàn 51 Chiến Thuật với 6 phi đoàn trực thăng (213, 233, 239, 253, 257, 247) cố thủ cho đến giờ pháo kích... Sau đợt pháo đầu tiên vừa tạm ngưng, anh em tự động phóng ra khu bãi đậu. Từ phòng HQ phi đoàn ra tới các ụ parking cách nhau không quá 200 m mà phải nằm xuống tránh mấy đợt pháo mới leo lên được phi cơ. Vội vàng quay máy xong cứ thế từ trong các ụ bốc thẳng lên như bươm bướm vỡ tổ ! Rất may không có tai nạn nào xảy ra đêm ấy; một lần cuối cùng chứng tỏ tài năng của các phi công Trực Thăng SĐ I KQ!
Suốt ngày 28/3/75 cầu không vận từ Sài Gòn đã chấm dứt nên không có chuyến C-130 nào ra đáp. Từ sáng đến chiều, HQ Chiến Cuộc không yêu cầu một phi vụ nào, lần đầu tiên phi trường Đà Nẵng vắng bóng phi cơ lên xuống.
Buổi chiều khi nằng vừa xuống dìu dịu, mặt Trời đang mất dần sau dãy Trường Sơn xa xa ở hướng Tây; anh Thái (Th/tá PĐP 213) lấy xe Jeep rủ tôi ra khu parking ngoài phi đạo phía trước Không Đoàn. Hai anh em rảnh rỗi ngồi tâm sự, ngắm dân chúng tấp nập rời phi trường vì có tin đêm nay sẽ bị pháo kích; chắc cũng như những lần pháo kích khác, chẳng có gì lạ nên chúng tôi không mấy quan tâm! Một đàn cò trắng nhịp nhàng bay qua trên đầu, cũng theo formations đều đặn, xà xuống một đường lả lướt trên hai phi đạo dài song song theo hướng Nam Bắc trước khi bay đi, gợi nhớ một hình ảnh thanh bình rất quen thuộc đã vắng bóng lâu lắm trên Quê Hương VN đầy khói lửa ...Tội nghiệp! những ngày còn chiến tranh chim cò cũng bị phi cơ dành mất phần không gian.

Nhân dịp Không Đoàn 51 sắp phải tăng phái cho chiến trường Pleiku, anh Thái nói nếu tôi lead biệt đội đi, anh sẽ đi với tôi. Rút kinh nghiệm chuyến biệt phái Chu Lai vừa qua làm tôi phải bỏ lại phi cơ mà chạy xuống bãi biển Kỳ Hà cho đến gần 3 giờ sáng mới được KĐ cho tàu 257 bốc về (đêm 24/03/75-HNT-). Tôi bàn với Anh nên cho anh em mang theo gia đình vợ con vì sợ rằng Đà Nẵng sẽ không còn khi mình trở về ( Nào ngờ chuyện ấy đã xẩy ra liền ngay đêm hôm ấy ). Chúng tôi còn đang vui vẻ trong câu chuyện thì bất chợt có chiếc Boeing vào đáp...Phi cơ chỉ taxi vô hậu trạm dân sự gần PĐ 257 rồi quay trở ra liền ,vừa taxi chầm chậm trên phi đạo vừa mở cửa...Có chiếc xe Jeep chạy theo đưa người lên ... Sau đó chúng tôi mới biết là chuyến bay riêng ra đón một mình gia đình Tr/sĩ Phát, Tàu lai, có quán cafe nho nhỏ trong khu cư xá Vũ Khắc Huề, có cô vợ xinh xinh như Giao Linh, một thời hấp dẫn bao chàng phi công, nhất là sau những phi vụ trực đêm buồn tẻ chẳng có chỗ nào vui hơn. Thấy phi cơ cất cánh đi rồi bỏ lại chiếc xe Jeep bên cạnh phi đạo, anh Thái chở tôi ra lấy chiếc xe. Trên xe còn lại một chai Napoleon và ít gói khô mực Đại Hàn, chúng tôi gọi đùa là "chiến lợi phẩm". Tôi mượn xe lái qua hậu trạm quân sự bên Phước Tường, đón mấy đứa em vợ về lại cư xá; còn anh Thái mang " chiến lợi phẩm " về PĐ nhậu với anh em thì cùng lúc còi hú báo động ...
Khi loạt pháo kích đầu tiên ồ ạt phóng tới phi trường, tôi ngừng xe dẫn đám em chạy xuống núp dưới những giao thông hào bao quanh vòng đai phòng thủ để tránh đạn; phải qua mấy đợt pháo kích mới về tới khu cư xá Trần Văn Thọ. Gởi được đám em ở nhà Th/sĩ Úc ( KĐ Yểm Cứ, bạn với Ba vợ tôi), xong tôi cấp tốc lên phi đoàn liền. Vừa tới ngã ba nằm giữa cư xá Butler và khu Vũ K. Huề thì bị chận lại. Tôi nhận ra viên Tr.úy QĐ I anh của Tr/sĩ Phát, muốn đòi lại xe Jeep. Tôi chở hắn lên tới PĐ rồi mới trả. Vào phi đoàn, điện coup tối om, tôi chui xuống hầm trú ẩn nằm ngay góc hông phải gần cửa vào. Trong bóng tối lờ mờ tôi nhận ra hai sĩ quan già của PĐ là Ch/úy Ng. Xuân Xinh và Ch/úy Đèo V. Đức...Hầm đã chật cứng chỉ còn vừa mình tôi chui vô.
Chờ cho tiếng đạn vừa nổ sau những tiếng hú rùng rợn của hỏa tiễn bay xé trong không gian, chúng tôi bắt đầu phóng ra ụ parking. Hễ nghe tiếng hú bay tới lại nằm xuông đất...Phải qua 2,3 đợt pháo kích mới bò tới được phi cơ. Tôi nhảy lên phi cơ thì nhận ra Tr/úy Huỳnh H. Nghị, một mình đã quay máy sãn; trên tàu chật cứng phần đông là anh em Kỹ Thuật.

Tất cả trực thăng được di tản qua phi trường Non Nước ở hướng Đông bên cạnh năm ngọn Ngũ Hoành Sơn , sát bờ biển Mỹ Khê (China Beach). Ngày còn quân đội Hoa Kỳ với tên gọi Marble Mountains Airfield là một trong những căn cứ quân sự rất quan trọng sau Đanang Air Base.
Thời kỳ HQ Hạ Lào, một số hoa tiêu 213 & 233 được gởi bay huấn luyện HTC với phi đoàn Black Cat của Mỹ tại Non Nước hầu kịp cung ứng cho nhu cầu chiến trường. Sau này không còn Mỹ căn cứ bỏ không, phi trường dùng cho các phi vụ huấn luyện. Hồi năm 1973, đã xảy ra một tai nạn thảm khốc trong lúc huấn luyện giữa hai phi hành đoàn của Đ/úy Phan N.Trước (TP/HL/213) và Th/uy Phúc (Pđ 239) làm tử thương cả hai bên. Phi cơ đâm đầu vào nhau ngay trên phi đạo, may mắn còn hai người sống sót là Tr/úy Quách G. Tịnh (TP/HL/ 239) và Th/úy Ng.V. Hồng (213).
Sáng hôm ấy tự nhiên như có điềm lạ khác với lệ thường nên không biết tai sao anh Trước lại giao cho tôi chiếc xe Yamaha màu đỏ và chìa khóa xe cũng như chìa khóa nhà của anh, rồi mới đi bay. Buổi tối hôm trước, tôi còn nhớ là một buổi chiều Thứ Tư trong tuần, Trời oi bức nóng nực . Anh và tôi đang ngồi lai rai ngoài hiên nhà trong khu cư xá Bắc Phạt thì vô tình có Th/úy Phúc ( PĐ 239) đi qua. Anh mở miệng phê bình " thằng gì mà cao ốm như cây tre ! " Nào ngờ buổi sáng hôm sau, hai người không hẹn mà gặp. Có lẽ là duyên nợ từ kiếp nào! Kết quả hai người cùng tử thương trong tai nạn ấy. Ngày tiễn quan tài anh lên C130 về Sài Gòn mai táng, tôi không giữ nổi cảm xúc, bật khóc tự nhiên như đứa trẻ! Ở thế giới bên kia không biết hai anh sẽ nói gì... với nhau?

Phi đoàn 213 được hãnh diện là một trong những phi đoàn trực thăng kỳ cựu nhất của KQVN, đồng thời với các phi đoàn 211, 215, 217, 219. Đặc biệt đối với KĐ51CT, trong vai trò " đàn anh " PĐ 213 bao giờ cũng tiên phong nhận lãnh bất cứ phi vụ nào được giao phó trên khắp lãnh thổ Vùng I Chiến Thuật từ Gio Linh Bến Hải cho đến Sa Huỳnh Đức Phổ, giáp ranh với Bồng Sơn ở Vùng II.
Bộ mặt phi đoàn thực sự thay dổi từ khi bắt đầu tiếp nhận thêm các toán hoa tiêu UH-I mới tốt nghiệp ở Mỹ về. Các đàn anh gốc H-34 thì nắm giữ những functions chỉ huy & tham mưu. Phi vụ được mở rộng tối đa cho phù hợp với nhu cầu chiến trường. Có cuộc HQ nào không có bóng dángTrực Thăng ! Từ tiếp tế tải thương, trực thăng vận, đến những phi vụ thám sát, đột kích, tác xạ...v.v. Ở đâu có quân bạn ở đó có trực thăng, gian nan cùng chia xẻ tức thời với các đơn vị Bộ Binh; bất kể ngày đêm, mưa bão, lụt lội gì cũng có trực thăng. Các phi đoàn Trực Thăng được coi như thành phần tác chiến nòng cốt của Không Lực VNCH. Sau này các cuộc HQ lớn nhỏ gì cũng chỉ thấy một mình trực thăng và Bộ Binh phối hợp với nhau là đủ. Trực thăng đã trở thành biểu tượng độc đáo của chiến tranh Việt Nam !
Riêng với PĐ 213, chỉ với 5 năm ngắn ngủi trong " Chương Trình Việt Nam Hóa " chiến tranh (70-75), gần 60 " cánh chim " Song Chùy ( 4X15 PHĐ ) đã anh dũng hy sinh trên khắp vùng Trời Hỏa Tuyến. Có lẽ không một đơn vị nào của KQVN đã hy sinh nhiều hơn ! Bao nhiêu sự hy sinh cao cả và hình ảnh oai hùng của bạn bè còn lưu lại. Không có cái chết nào được toàn thây, con tàu không bị nổ thành mảnh vụn giữa bầu Trời thì cũng gẫy làm hai ba khúc trước khi lao mình xuống núi hay đâm đầu giữa dòng suối.

Xin được một lần Kính Cẩn Vinh Danh các Phi Hành Đoàn Song Chùy: Trần lê Tiến & Khanh ** Lê văn Thìn & ** Phan ngọcTrước ** Tạ Hòa & Diêu ** Trịnh đình Dũng & ** Phan công Soạn & Trung ** Phạm văn Phi & Nhiễu ** Nguyễn đức Lưu & Lãm ** Đinh như Hoàng & Sỹ ** Lã Quang Đức & Bửu ** Nguyễn thanh Tròn & Phấn ** Nguyễn đức Hoan & Khương ** Đinh như Nguyện & Đường ** Hoàng Tất Đắc & Hoàng **Đặng hữu Hào & Phúc ** và các HSQ còn nhớ được tên như: Lộc, Ẩn, Để, Đoài , Cần, Thiện, Ngãi, Cảnh, Phương ( trong các PHĐ của Th/tá Trương V. Hoàn & Tâm ** và Đ/úy Phan V. Niên & Phúc).
Dù phải đương đầu với những hiểm nguy qua bao chiến trận nóng bỏng trên khắp chiến trường Vùng I, nhưng các hoa tiêu Song Chùy 213 vẫn luôn vui say trong nhiệm vụ " Lấy bầu Trời làm lẽ sống, đơn vị làm gia đình, bạn bè làm anh em! ". Không ai nghĩ rằng những phi vụ tầm thường nhất trong tháng Ba/75 lại là những phi vụ HQ cuối cùng của PĐ 213 trước khi... Tan Hàng!

Ngay đêm 28/3, sau khi đã di tản qua phi trường Non Nước, một số anh em nóng lòng cất cánh bay (đêm) vào Phù Cát để lánh nạn. Nhiều người bị trục trặc nửa đường vì thời tiết xấu ban đêm, phần vì thiếu xăng và tình hình an ninh đã thay đổi mà không biết. Đa số anh em 213 vẫn ở lại cho tới sáng hôm sau.
Phần tôi, qua một đêm bay lòng vòng nghe ngóng tin tức và chờ lệnh, hy vọng hôm sau Trời sáng tình hình sẽ khả quan hơn. Anh Phạm anh Tuấn (TPHQ) rủ đáp xuống BCH Quân Vận I bên An Hải định chở nhóm ô.bà B/S Giàu và các vị Đại Biểu Chính Phủ Vùng I ra Hạm Đội nhưng hủy bỏ...Cuối cùng mệt mỏi vì cả ngày chưa ăn uống gì, tôi đáp xuống Non Nước tắt máy, tìm giấc ngủ dưới bụng phi cơ trên bãi cỏ bên cạnh phi đạo đầy cát bụi. Anh Lễ (TPHL/KĐ) nằm cạnh, dặn tôi mai cho anh theo vì lâu không bay HQ không hiểu rõ tình hình an ninh ra sao...

Buổi sáng 29/3, sau giấc ngủ ngon lành qua một đêm mệt mỏi, tôi giật mình thức dậy khi Trời vừa sáng thì bạn bè đã bỏ đi hết... anh Lễ cũng đi rồi; sau này nghe nói tàu anh bị rớt gần vùng Cù Lao Ré. Trên phi đạo Non Nước còn mấy chục trực thăng xếp hàng dài như sắp cất cánh HQ mà không có pilot, cảm giác rờn rợn như đang đứng giữa một phi trường " ma ". Một lúc sau, có chiếc Chinook của Tr/tá Nguyễn Văn Mai (PĐT 247) đáp xuống. Anh hỏi tôi sao chưa đi? Sau đó tôi cất cánh trở lại phi trường để lấy thêm xăng. Vừa quẹo vào " short final " phi đạo 35 thì bị quân ta (?) ở dưới bắn lên không cho đáp, phải quẹo ra. Phi đạo quen thuộc ngày nào bây giờ trở nên lạnh lùng xa lạ chẳng còn âu yếm trông chờ chúng tôi trở về như sau những buổi chiều HQ năm xưa! Tôi bay đi trong ngậm ngùi thương tiếc mà vẫn không đành giã từ. Trở lại Non Nước, Tr/úy Nghị cởi bỏ áo bay, muốn tôi thả xuống bãi cát bên ngoài hàng rào phi trường, gần bờ biển Mỹ Khê để trà trộn với lính TQLC rồi bơi ra tàu HQ đang neo ngoài khơi. Sau đó một số anh em Kỹ Thuật cũng xin xuống trở về gia đình, tôi lại chiều lòng đáp xuống khu bãi cỏ gần BTL/QĐ I, thế là xăng đã cạn lại càng cạn thêm. Không ngờ lúc ấy còn một trực thăng nữa của Đại úy Vui &Tưa cũng chưa đi. Thấy tôi solo một mình, Vui đáp xuống, cùng với Tr/úy Lương Viết Cang, Tr/sĩ Mai V. Đương và Lê V.Xiêm (CP-XT) bỏ tàu của Tưa chạy qua theo tôi.

Cho Vui biết tàu tôi gần hết xăng mà phi trường không vào được, tôi đáp xuống kho Hải Quân gần cầu Trịnh Minh Thế để xuống thử mấy chiếc " xà lan " đã chật ních còn đang neo ở bến, rồi giao phi cơ cho Vui... Anh muốn trở lại phi trường thêm lần nữa xem sao. Hai HSQ Đương & Xiêm xuống theo tôi.

Chúng tôi còn đang dò hỏi tình trạng mấy chiếc xà lan của HQ ra sao thì thấy cảnh hỗn loạn trước mắt: Một HSQ Không Quân bị hai lính BB (?) dí súng M16 sau lưng, dẫn độ như sắp mang đi xử bắn, với hai tay bắt giơ cao lên Trời. Biết nguy hiểm, chờ họ đi qua, ba chúng tôi chạy lẹ vô một trong những kho chứa hàng gần đó thì súng nổ đuổi theo, đạn bắn vào tường và mái tôn ầm ầm...Không biết có phải muốn bắn theo chúng tôi hay không ? Trong lúc bí quá, cả ba người chui vào 1 thùng phi để tránh đạn rồi thay quần xà lỏong với áo sơ mi, bỏ cả giầy, chân đất chạy ra ngoài... Vừa lúc ấy Đ/úy Vui bay trở lui, anh đáp xuống kho dầu SHELL gần chợ Mới ở cuối đường Trưng Nữ Vương. Chúng tôi bắt liên lạc lại với anh, tất cả mọi người cởi bỏ quân phục rồi tìm cách dẫn ống dầu chuyền vào phi cơ nhưng thất bại...Màn Trời tối sớm có lẽ vì khói xăng và khói đạn từ phi trường bay ra. Tôi cố gắng liên lạc bằng kiếng survival, dẫn được một chiếc Air America màu silver từ ngoài Cù Lao Chàm bay vào. Hắn rà thấp một vòng quan sát chúng tôi nhưng có lẽ thấy như đám trẻ nít bu quanh phi cơ, lại mặc quần đùi với sơ mi nên nghi ngờ rồi vẫy tay chào bay đi... Biết không còn hy vọng rời khỏi Đà Nẵng đêm nay (29/3), chúng tôi bàn chuyện phải ra trình diện sẽ tính sao ? Lương V.Cang đề nghị tôi lên đáp trên đài kiểm báo Panama (Monkey Mountain) rồi lẩn trốn xuông rừng... Sau đó Vui rủ về nhà trọ của anh trong hẻm đường Phan Chu Trinh để kiếm chút gì ăn cho đỡ đói, may mắn chủ nhà đã di tản còn để lại mấy bao gạo xấy và thịt hộp. Ăn xong mọi người tỉnh táo hết mệt mỏi tinh thần hăng hái, chúng tôi nhất định trở lại phi cơ phải kiếm cho ra dầu để rời khỏi Đà Nẵng đêm nay. Dọc đường cố gắng lượm những ruột xe Honda bể, chúng tôi nối lại được một khúc. Trở lại kho dầu, anh em nối ống dẫn tới phi cơ, chỗ nào hở thì bóp lại bằng tay, dầu phun tung tóe lên đầy mặt mũi... Mọi người mừng rỡ dù chỉ có dầu lửa (kerozene) thay vì JP-4. Trời đã gần 5 giờ chiều mà đường phố vẫn tấp nập dân chúng ngược xuôi chẳng biết đi đâu. Đám thanh niên choai choai tay lái Honda tay ôm súng M16 chạy toán loạn. Nghe đồn dân chúng mới cướp phá kho gạo và kho quân nhu; tình trạng mỗi lúc thêm hỗn loạn... Chúng tôi ráng lấy thêm một thùng phi nữa cho đầy rồi mới cất cánh. Lòng hân hoan nhẹ nhõm, Tôi bốc con tàu lên khỏi tầm bồn SHELL rồi cắm mũi lạng sát trên mặt sông Hàn để tránh né những lằn đạn từ kho HQ còn bắn đuổi theo. Qua khỏi cầu Trịnh M.Thế vẫn giữ tầm bay thấp, lách mình giữa những vách đá trong vùng Ngũ Hoành Sơn cho tới bờ biển. Nhờ lớp khói là đà trên mặt biển, chúng tôi bình yên ra đến Cù Lao Chàm mới lấy cao độ, quẹo phải trực chỉ hướng Nam bay vào Phù Cát...Thấy đoàn biểu tình với xe Motolova hộ tống từ hướng Hội An về, tôi nói với Đ/úy Vui nếu bị chúng bắn theo, có bề gì tôi thà đâm xuống biển hơn để bị bắt, mọi người đồng ý ! Hai bàn chân không mang giầy đạp trên 2 pedals vừa lạnh vừa rung. Lòng nặng trĩu luyến tiếc, tôi bay đi mà không đành bỏ lại biết bao kỷ niệm còn vấn vương của một thời HQ ngang dọc trên Vùng Trời Hỏa Tuyên.

Tháng 3/75, trong khi mặt trận Pleiku ở Vùng II đang hồi khốc liệt thì tình hình quân sự tại Vùng I Chiến Thuật tương đối lắng dịu một cách nghi ngờ mà chẳng có " nhà nghiên cứu quân sự " nào (của ta) biết tiên đoán trước. Bắt đầu thời gian từ sau Tết qua đến tháng Ba, các phi vụ dường như mỗi ngày một cắt giảm thưa thớt. Có lúc tôi lo sợ sẽ bị " thất nghiệp " không được bay nữa ! Anh em bàn tán chắc là " tiết kiệm nhiên liệu và đạn dược ". Bảng phi vụ lệnh ở phi đoàn mỗi ngày càng trống trơn, phải nhờ Hồ N.Thanh ( Tr/úy ) vẽ thêm bông hoa cho bớt trống trải -Thanh có " khoa tay " viết và vẽ rất đẹp nên mỗi khi cắt bay xong tôi hay giao lại cho Thanh viết lên bảng phi vụ lệnh- Anh em rảnh không bay, buồn tình thì xúm nhau gõ Domino cho hết giờ ... Hoặc chơi bài "Dắt ". Trong phi đoàn có Đào V.Tưa, Nguyễn V.Sầm là những cao thủ Domino xuất sắc. Tôi chơi dở nên bị thua hoài, xong Sầm/Tưa cho mượn lại; đến tháng lãnh lương phải để dành trả nợ cho bọn Hắn hết... Đời lính nghèo mà sao vẫn vui! Tài sản cuối cùng tôi chỉ còn chiếc xe Mini của đứa em gái cho mượn đạp lên phi đoàn mỗi ngày đi bay, đã bỏ lại lúc di tản.

Được lệnh biệt phái, tôi vui vẻ dẫn biệt đội ra vùng phía Bắc Đèo Hải Vân (Huế) như thường lệ. Chúng tôi đáp và tạm trú ở Phú Bài, phi trường duy nhất còn lại cho cả 3 tỉnh Đông Hà, Quảng Trị và Huế; nằm ở hướng Nam cách thành phố Huế không xa lắm.

Phi trường dạo này vắng tanh, chẳng còn chút linh động của những năm nóng bỏng với các chiến trận từ Hạ Lào , đến Mùa Hè Đỏ Lửa, rồi Quảng Trị Kinh Hoàng... Chẳng còn cái không khí sôi động của những phi vụ chuyển quân hay tiếp tế phi cơ lên xuống nhộn nhịp mỗi ngày, hết C-130, C-123, L19, lại đến Trực Thăng mà vẫn không kịp đáp ứng các nhu cầu chiến trường!

Trạm Tiếp Liên Hàng Không bây giờ trống trơn, ánh nắng ban mai chiếu qua những cửa kiếng chỉ thấy bàn và ghế ngổn ngang càng tăng thêm vẻ thê lương buồn chán. Bên cạnh những hiểm nguy chết chóc, chiến tranh có lẽ vẫn có những niềm vui "không tên" nào đó nên lòng mình có chút gì vương vấn nhớ nhung... Còn đâu CLB nho nhỏ của cô bé tên Quy, nữ sinh, con gái ông Đại/úy trưởng trại Phú Bài, với khuôn mặt hồng hồng bụ bẫm và mái tóc búp bê tựa như Phg.H.Tâm. Kỷ niệm một lần biệt phái, Tôi và Dũng Mexico, có Ng.T.Đức nữa, nhậu say rồi bắn lộn với toán Trinh Sát SĐIBB. Từ sau đó, mỗi lần thấy chúng tôi, ông Đ/úy chủ quán hay gọi bằng " Các Đại Ca ! ". Bây giờ quán đã niêm phong kỹ càng, cửa gài song sắt, im lìm đìu hiu.

Buổi sáng, đi tìm mãi trong khu cư xá hoang tàn mới kiếm được một gánh bánh bèo duy nhất của bà cụ già nằm khuất sau mấy căn nhà vòm mái cong bằng nhôm của quân đội Mỹ để lại. Anh em điểm tâm vội vàng cho êm bụng rồi đi bay. Khu cư xá trống trơn rác rến bừa bãi khắp nơi, thì ra các đơn vị phòng thủ phi trường cũng đã dời đi hết.

Trạm xăng lưu động di chuyển qua góc phía Đông Bắc sát với hàng rào. Đổ xăng xong nhìn wind sock lấy hướng, cất cánh ngược về hướng Nam. Khu đồi thông xơ xác đìu hiu ở cuối đầu phi đạo gợi nhớ kỷ niệm những ngày HQ nhộn nhịp Mùa Hè Đỏ Lửa... Ng. tấn Đức hay lên cầu cơ khấn vái gì ở trên ấy rồi về bịa ra chuyện ma quái cho anh em sợ thêm. Mỗi lần có dịp cất cánh đêm, bay qua tôi vẫn hay ngó xuống xem có thấy bóng ma nào xuất hiện hay không?

Qua đáp bên sân VIP/Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, sát cạnh phi trường, để đón tướng Ng.H.Hạnh( CHT? ) đi kinh lý thám sát tình hình trong vùng lúc bấy giờ. Ngoài đường phố Huế, ngạc nhiên thấy dân chúng tấp nập ồ ạt trên đường như những đoàn biểu tình thời còn "Biến Động Miền Trung" năm nào. Bay qua vùng Gia Hội, Mang Cá rồi bay ra Quảng Điền, Phong Điền ...Trên Đại Lộ Kinh Hoàng , hình ảnh của Mùa Hè Đỏ Lửa như được tái diễn nguyên vẹn. Người và xe cộ trâu bò đông như kiến vỡ tổ, kéo về từ La Vang, Đông Hà, Quảng Trị, dồn dập như làn sóng đang tràn vào thành phố Huế... Vòng ra cửa Thuận An, trên con đường quanh co dẫn ra biển, xe và người nối đuôi nhau như đoàn tàu dài không bao giờ dứt... Ở bến Thuận An, các xe câu hàng nhộn nhịp vận chuyển người xuông bằng những giỏ lưới khổng lồ. Từng " túi người " như nhưng kiện hàng được bốc lên đổ xuống nhịp nhàng... Bây giờ tôi mới nhận thức được phần nào sự khẩn trương của tình hình, nhưng vẫn không hiểu nổi những sự thay đổi đột ngột bất ngờ mà chẳng nghe súng nổ, chẳng có giao tranh đụng độ, tại sao dân cứ bỏ chạy ? Sau này mới hiểu tất cả đều nằm trong kế hoạch tuyên truyền của địch, còn chúng ta không có kế "phản tuyên truyền " để đối lại.

Hai ngày sau, Anh Tuấn (TP/HQ) gọi ra Phú Bài nói " Thấy mày vất vả tội nghiệp quá ! Chiều nay về vùng Trong (Chu Lai, Quảng Ngãi), để tao ra thế cho ". Thế là tôi bay về Đà Nẵng, lấy thêm áo quần , xong hôm sau lại dẫn toán khác vào Chu Lai biệt phái tiếp thì nghe tin Huế mất ! Dân chúng bỏ lại tất cả, di tản vào Đà Nẵng bằng mọi phương tiện: đường thủy, đường bộ và máy bay...Có lẽ lo sợ tái diễn cảnh tàn sát như Tết Mậu Thân 1968. Đà Nẵng bất chợt thành " Trung Tâm Tị Nạn " chứa thêm cả mấy chục ngàn dân di cư. Tôi vẫn không tin Quân ta có thể bỏ Huế dễ dàng đến như thế!

Giữa hai vùng biệt phái Chu Lai( vùng Trong,phía Nam) và Huế (vùng Ngoài,phía Bắc) tôi thích ra Huế nhiều hơn. Khác với vùng Trong gồm Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngãi , phần đông các tỉnh và quận từ Huế trở ra đều nằm xa núi , ở ngoài đồng bằng nên ruộng vườn phì nhiêu hơn và cảnh vật cũng tươi mát sáng sủa hơn. Dù biệt phái, những ngày không trực phi vụ anh em có thể ra phố chơi thoải mái.

Ngoài ra , ở vùng ngoài có đến ba bốn nơi khác nhau cho phi hành đoàn thay đổi chỗ ở tùy theo mỗi thời kỳ HQ nên vui hơn.

Hồi HQ Lam Sơn 719 / Hạ Lào , anh em nằm tại Đông Hà trong những doanh trại dã chiến của lính Mỹ để lại. Mùa Đông mưa phùn gió lạnh, mỗi tối hoàn tất phi vụ trở về vừa đáp xuống xong nhảy vô bàn rượu liền để tìm chút hơi ấm cho bớt lạnh. Anh em quây quần bên chai rượu với thịt hộp C-Rations mà cũng vui nhộn suốt đêm, quên cả hiểm nguy ban ngày! Phố chợ Đông Hà tuy nhỏ , bụi đất mù mịt suốt ngày đêm nhưng chứa đựng một sắc thái rất đặc biệt tiêu biểu cho một thành phố chiến tranh miền Giới Tuyến . Bất cứ người lính nào, bất kể binh chủng gì , đều có chút hãnh diện được đặt chân đến Đông Hà trong những ngày nóng bỏng của các mặt trận Hạ Lào và Quảng Trị.

Vào dịp Tết 72 ,trước Mùa Hè Đỏ Lửa, lần cuối cùng tôi dẫn biệt đội ra biệt phái ở phi trường Ái Tử (Quảng Trị) . Phi trường đã bỏ ngỏ không có canh gác , ban đêm VC bò vào gài chất nổ . Phi hành đoàn của Đinh Như Hoàng và Lê Tấn Sỹ bị tử nạn đúng ngày tất niên . Phi cơ nổ lúc cất cánh rời phi trường Cam Lộ gần Đông Hà sau phi vụ chở toán phát lương của TQLC . Trong số PHĐ có Tr/sĩ Ngãi ( cơ phi) đã linh tính trước sự xui xẻo về con số 13 người đi ăn chung bữa cơm trưa , mừng Giao Thừa hôm ấy, mà cũng không sao tránh được mạng số . Hôm sau Không Đoàn cho lệnh tôi rút Biệt Đội về Dạ Lê (Camp Eagle-BTL /SĐIBB) , phía Tây Nam thành phố Huế . Tiếp theo đó chiến sự thay đổi với những ngày nóng bỏng của Mùa Hè Đỏ Lửa , Sư Đoàn 3 BB và thành phố Quảng Trị thất thủ ...Đ/úy Trần T.Vinh, Th/tá Nguyễn Du bên khu trục rồi một PHĐ 233 và nhiều PHĐ 213 đã hy sinh trên chiến trường ấy.

Thời kỳ mặt trận Quảng Trị đang sôi động, cả Dạ Lê và Phú Bài có lúc không còn chỗ tạm trú cho các PHĐ , chúng tôi phải đáp ngủ đêm ở khách sạn Hương Giang bên bờ sông Hương gần khu Đập Đá . Toàn bộ Không Đoàn 51CT và một Biệt Đội L-19 nằm chung ở phi trường Phú Bài, không khí vui nhộn như đoàn quân viễn chinh chết chóc kề bên mà chẳng ai sợ hãi !

Trong Thành Nội Huế có một phi trương nhỏ nhưng không có cư xá, thậm chí không có chỗ đổ xăng nên chỉ dành training hoặc đáp chờ phi vụ mà thôi. Một hôm chúng tôi đang standby chờ phi vụ bên bãi cỏ cạnh phi đạo ở phi trường thì có chiếc L19 của Đ/uy Bôi (PĐ 110 ) bị chết máy sau phi vụ thả truyền đơn trong vùng núi về. Chong chóng đã ngừng thẳng đứng mà Anh vẫn dẫn phi cơ về tới phi trường bình an. Anh quẹo vào short final rất đẹp( Nghe nói Anh là một HLV xuất sắc của PĐ 110 ). Bỗng dưng không hiểu tại sao lúc phi cơ gần chạm đất thì anh lại bốc lên go-around thêm một vòng nữa. Khi anh quẹo lại có lẽ vì gắt quá nên phi cơ bị "stalled" cắm thẳng mũi xuống thửa ruộng bên cạnh phi trường . Phải chờ xe câu bên Quân Vận qua mới kéo được phi cơ và PHĐ lên. Cái chết kinh hoàng lẹ làng mấy tíc tắc giúp tôi học được chút kinh nghiệm đau thương trong nghề nghiệp để phòng thân sau này.

Dịp ký kết Hiệp Định Paris năm 73, đêm 26/1/73 trước giờ Hiệp Định có hiệu lực, sau phi vụ HQ thường lệ cho TQLC ở Hương Điền chúng tôi mấy phi hành đoàn 213 và 233 bị giữ lại ở BCH-Dù tại căn cứ Charlie /Cây Số 17. Suốt đêm hôm ấy , dưới ánh trăng rằm lung linh ,chúng tôi phải di tản hết một Tiểu Đoàn Dù từ vùng núi gần Thánh Địa Lavang về bảo vệ cho BCH Dù và Cố Đô Huế , đề phòng địch phản phé giành đất theo kiểu ngưng bắn "Da Beo" vào giờ thứ 25 của lịch sử.

Những năm sau Hiệp Định Paris, phi vụ mỗi ngày bắt đầu ít đi, đường bay cũng ngắn bớt lại với sự lùi dần của các đơn vị bạn , hình như chỉ lo bảo vệ Cố Đô Huế mà thôi . Bộ Chỉ Huy Dù nắm sát trong mặt núi còn TQLC trấn giữ mặt biển, từ vùng Cửa Việt vào Hải Lăng , Hương Điền . Cả hai đơn vị lúc này bận rộn với việc trồng khoai sắn hơn là thao dợt ! Do " Chỉ Tiêu Số 5 " của BTTM và Cục CTCT ban ra, các căn cứ quân sự trở nên xanh tươi như những nông trại phì nhiêu ở Blao/Lâm Đồng trên vùng Cao Nguyên . Phi trường Đà Nẵng cũng vậy, hai đầu phi đạo khoai sắn tốt quá phủ cả những hàng đèn xanh đỏ dẫn vào "cận tiến". Toàn quân không có một kế hoạch nào vĩ đại hơn để đương đầu với việc " cắt giảm viện trợ " của Mỹ ! Hậu quả dẫn đến ngày 30/4...



Trong các nơi biệt phái, thành Mang Cá bên cạnh BTL/Tiền Phương QĐoàn I đã ghi dấu nhiều kỷ niệm khó quên đối với tôi:

1- Nằm trong khuôn viên thành Mang Cá, ngoài BTL/Tiền Phương/QĐ I còn có Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương cách nhau một cái hồ lớn đầy lục bình và bèo. Hồ có rất nhiều cá rô và ốc bưu, con nào cũng béo mập. Mỗi lần có dịp túc trực ở Mang Cá, Trương N. Quý (pilot 213) thường mang theo cần câu, có khi Hắn câu được cả thùng cá rô hoặc bắt được đầy thùng ốc thế nào mang về cũng tặng tôi một mớ vì biết tôi thích nhậu .

Một hôm tình cờ tôi có người bà con từ trong Nam ra tìm xác thân nhân thuộc binh chủng TQLC mới tử trận. Tôi chở qua bệnh viện NguyễnTri Phương và theo họ tới khu nhà xác mới mang về. Xác chết bày la liệt trên sàn cement chờ tắm rửa rồi mới liệm vô hòm. Nước ấy lại chảy xuống hồ lênh láng; có lẽ vì thế mà những con ốc và cá mà Quý mang về nó béo mập là phải. Từ đó cả Quý và tôi đều " chừa " không bao giờ dám ăn cá ốc ở hồ ấy nữa.

2- Bên cạnh ụ chi huy BTL tiền phương Quân Đoàn I có nhiều dây lầu dài song song từ thời Pháp để lại, được xây cất vuông vức như những dãy hotel. Mỗi lần biệt phái chúng tôi ở chung một phòng lớn và biệt đội Tải Thương (PĐ 257/ Cứu Tinh) ở một phòng. Một hôm có Biệt Đoàn Văn Nghệ Tâm Lý Chiến/Trung Ương ra giúp vui tiền tuyến, với đầy đủ nam nữ ca sĩ. Họ tạm trú bên dãy lầu đối diện nhưng khá xa, cách gần vài chục thước, nói chuyện không nghe rõ chỉ nhìn nhau mà thôi. Vậy mà, trong toán chúng tôi có một cơ phi tên Ng. Bare (Hắn lai Pháp, nhưng nhỏ con) không biết làm cách nào Hắn đã móc nối được một nàng ca sĩ trong nhóm TLC bên kia. Tối hôm ấy Bare không có tiền nên xin tôi 500$ ra phố chơi... Số tiền tôi cho chỉ vừa đủ tiền dẫn em đi ăn. Sáng hôm sau về Bare bá cáo đêm qua không còn tiền thuê phòng nên đã liều đưa nàng vô " nhà thủy tạ ", (Trong Thành Nội Huế có rất nhiều hồ sen, giữa hồ có dựng những nhà thủy tạ nho nhỏ, màu sắc rực rỡ như những cái miếu con), ở đó hai đứa tận hưởng một đêm khoái lạc trên nền cement lạnh ngắt!

3- Một lần biệt phái khác ở Mang Cá, trong toán có Tr/úy Phạm Cúc ( Pilot- Gốc PĐ 221 đổi ra - ) Sáng sớm Hắn xin đi đổ xăng (?) lúc trở về bay qua vùng Gia Hội thì nguyên một thùng đạn đại liên bị rớt xuống một ngôi chùa. Mái chùa bị lủng một góc lớn nhưng may mắn không trúng tượng Phật. Vì là loại mái ngói cổ xưa , nếu tháo ra sửa lại sẽ làm sụp giây chuyền(như Domino) thêm những chỗ khác. Các vị Đại đức trong chùa cứ nhất định đòi bồi thường toàn bộ mái mới. Với vai trò leader tôi phải gánh trách nhiệm. Rất may hai đàn anh cũ trong phi đoàn là T/tá Tạ Thái(PĐP) và Tr/tá Trần D.Kỳ (KĐP) cấp tốc bay ra can thiệp không muốn Đại Tá KĐT và Tướng Tư Lệnh SĐ biết. Hai anh dẫn tôi lên chùa Tỉnh Hội ( Chùa Từ Đàm ) gặp Hòa Thượng Thích T.Khiết(?) năn nỉ, ca bài ca " Hành Quân Bảo Vệ Cố Đô "; Ngài mới chỉ thị các đại đức thông cảm bỏ qua.. Sau đó chúng tôi xuống tòa Tỉnh xin cố vấn Mỹ được một xe gỗ và tôn chở đến đền bù nhờ vậy mới yên chuyện. Ân tình của hai Niên Trưởng làm tôi ghi nhớ mãi!

4- Hai lần khác đang túc trực HQ ở Mang Cá, tôi lỡ cho PHĐ đi chơi. Một lần bất ngờ có phi vụ chở Tr/tướng Hoàng V.Lạc (TLP/QĐI) ra Hương Điền họp HQ với Tư lệnh TQLC. Tàu hành quân không ghế VIP mà cũng chẳng có seatbelt. Phi hành đoàn lại thiếu chỉ có tôi và xạ thủ (Tr/sĩ Hết). Bí quá, tôi cho Hết lên ngồi ghế Co-pilot. Hắn thấy ông Tướng dòm ngó thì sợ bị lộ; tôi phải móc lấy nón Ca lô có gắn hai bông mai sáng chói, từ từ đẩy qua cho Hết nhét vào túi cố để lộ cặp lon cho Ông thấy là SQ thứ thiệt. Lên Trời, tôi giao cần lái cho Hết giữ bình-phi tới gần Hương Điền mới đổi tay lái. Cái số may mắn, Tướng Lạc đã bỏ qua chuyện này không báo cáo về Sư Đoàn. Sau này T/s Hết trở thành xạ thủ riêng của Đ/tá Phước (KĐT), anh là một trong những xạ thủ gan lì và già nhất của PĐ 213. Không biết vì tư thù sao đó, anh bị chúng bạn giết chết trong khu Gunfighter (cư xá HSQ) khoảng năm 74, trước khi mất Nước.

Lần sau tôi cũng gặp một phi vụ VIP tương tự, cả cơ phi xạ thủ và co-pilot Th/uy Trương H. Vân (Ngố) đều vắng thì có phi vụ chở một Tr/Tướng KQ Mỹ từ BTL/QĐI ở Mang Cá về Đà Nẵng. Tôi đành một mình solo,không copilot, không cơ phi xạ thủ. Nhìn ba sao bạc sáng chói trên nón ca lô của Ông làm tôi hết hồn vía không dám ngó kỹ thêm coi Ông bay loại gì và tên gì? Sau đó lấy lại vẻ bình tĩnh tự nhiên, tôi đưa ông về Đà Nẵng, đáp trước sân VIP nhẹ nhàng êm ái. Ông cười vui vẫy chào cám ơn làm tôi mới yên tâm. Khi bay trở ra Mang Cá lại, bất ngờ một thùng đạn đại liên bị rớt xuống giữa những thửa ruộng ngoài vòng đai phi trường Phú Bài. Có lẽ không ai bị thương nên sau này không nghe khiếu nại. Tôi rất tiếc không nhớ tên vị Tr/tg KQ Mỹ để sau này xem chắc thế nào Ông cũng ghi lại trong hồi ký kỷ niệm một lần bay với Vietnamese Helicopter Pilot?

Các phi vụ HQ vùng ngoài đa số thực hiện trong vùng núi nên sự nguy hiểm càng gia tăng gấp bội, nhất là những ngày gió lớn hay mây mù...vừa đề phòng địch vừa phải cẩn thận với thời tiết. Có một lần biệt phái ở Dạ Lê (BTL/SDIBB) hôm ấy Trời mưa phùn từ sáng sớm, được lệnh vô tải thương trong vùng núi phía Tây. Mới cất cánh lên đang lo tìm hướng vô thì gặp ngay tượng Phật Bà xừng xững đứng trên khu đồi phía Tây Nam. Tôi múc đầu lên để né tránh thì lọt vào tầng mây... Tiếng mây rào rạc như cát đập vào bubles càng làm cho hoảng sợ thêm. Với tầm nhìn (visibility) zero nên phản ứng tự nhiên là kéo cần lái cho chậm lại. Tàu mất dần tốc độ đến khi rung rung mới bình tĩnh từ từ cắm mũi lấy lại speed vừa phải rồi theo phi cụ mà bay nhưng chẳng biết bay đi đâu! Chung quanh tứ bề đều là mây và núi bao bọc. Co-pilot ( Th/úy Phước ) mới về còn hoảng hơn nên không giúp được gì. Cơ phi xạ thủ phía sau cũng chịu trận. Chung quanh chỉ toàn là mây trắng xóa, không biết lúc nào sẽ đụng phải núi, mọi người đang chờ đợi cái chết bất thình lình! Trong giờ phút ấy chỉ còn biết thầm cầu nguyện ơn Trên. Tôi liên tưởng đến tai nạn của PHĐ Phi/Nhiễu đụng phải Đèo Phú Lộc, sau phi vụ chở phu nhân tướng Hoàng X.Lãm ra Phú Bài trở về. Nghĩ rồi mình cũng sẽ chết tương tự, thất vọng chẳng thèm gọi " May Day! ". Đâu có ai có thể cứu được mình trong tình huống này! Cả vùng không gian rộng lớn mà không có lối thoát, càng lên cao mây càng dày đặc, dưới bụng cũng mây, bên trái cũng mây , bên phải cũng mây làm sao mà thoát ra?. Mưa phùn mây không gom thành cụm mà lan rộng như khói bao trùm khắp mọi nơi, chiều cao cũng bất tận. Bay tiếp một lát, không biết làm gì hơn tôi thử nghiêng mình cho cơ phi xạ thủ ngó xuống đất xem sao? Vừa nghe xạ thủ báo cáo " thấy bóng xanh xanh chạy ngoằn ngoèo phía dưới " lập tức tôi cắm mũi lao mình xuống ngay... Bắt gặp dòng suối trong vùng thung lũng Birmingham ( khu đồi Trần Lê Tiến ) tôi men theo trở ra. Cám ơn Thượng Đế chưa bắt tôi chết nên mới cho thoát nạn này mà thôi! Tôi thầm nghĩ như vậy. Về nhà cả tháng trời vẫn còn giật mình ác mộng đêm ngủ không yên, sợ đến nỗi không dám kể lại cho ai nghe, cứ để nó tự tan biến dần trong tâm trí mà thôi.

Ngày PHĐ Phan C.Soạn/Trung bị rớt trong phi vụ tiếp tế cho tiền đồn Bastogne, tôi bay sau và anh Tuấn (khi ấy còn SQHQ/ PĐ 233) bay chiếc C&C. Ngày hôm ấy tôi được nghỉ bay vì Soạn và tôi mỗi người lead một flight cùng biệt phái cho SĐ IBB ở Dạ Lê; chúng tôi chia nhau mỗi flight bay một ngày. Soạn thuộc lớp đàn anh xuất thân từ trường bay Ft.Rucker. Buổi trưa về câu lạc bộ SQ/SĐIBB ăn trưa, gặp tôi Soạn nhăn nhó than " chắc tao chết mất, nó bắn quá vô không được! " Tôi nói với anh " nếu cần, xin thêm hỏa lực hộ tống " và hỏi anh "có muốn tôi cất cánh thay anh lead vô thử xem sao". Anh đồng ý nhưng đến khi qua đáp sân tiếp tế sư đoàn họp chung với đám pilot Cobra của Mỹ (gunship hộ tống) thì anh nghĩ sao đó lại đổi ý. Lúc sắp cất cánh tôi còn nhét thêm hai người lính bộ binh theo tàu anh để giúp đẩy đồ xuông cho lẹ sợ vào bãi đáp bị pháo. Từ Birmingham, Anh giữ low level theo con đường mòn đất đỏ lởm chởm hố mìn và bom, bay vào ... Hai bên đường , rừng khô thưa thớt vì thuốc khai quang. Khi tới gần hàng rào phòng thủ tiền đồn Bastogne ,có lẽ lúc đang chậm lại sửa soạn đáp thì tàu bị trúng đạn nổ tung trên Trời, xác rơi lả tả! Hai chiếc Cobra bay cover mà ở tuốt trên mây xanh đã lẹ làng dọt ra, còn báo cho nhau trên tần số " F..., S..., He's blown up over sky! ". Cùng lúc ấy chúng tôi formation đang quẹo phải trở lại để sửa soạn vô khi anh cất cánh ra ...Nhưng phi vụ được lệnh hủy bỏ. Đó là phi vụ trực thăng cuối cùng trong nỗ lực tiếp viện cho Bastogne. Cả tháng sau tình hình thay đổi xác các anh mới mang về được. Sự hy sinh cao cả của một leader! Ngoài Vùng I, các phi vụ trong vùng núi thương đáp từng chiếc một nên leader phải hy sinh vô trước, an toàn bay ra rồi mới đến lượt các chiếc trail vô.

Sau này quân bạn lùi vào ngọn đồi cao hơn ở bên trong, phía Tây Bắc chỉ cách Bastogne và căn cứ hỏa lực Kings một thung lũng ngắn. Địch quân không buông tha cứ bám theo, đơn vị lại cần tiếp tế và viện quân để thay thế cho hơn 70 thương binh mới bị thương. Hơn cả tuần lễ trực thăng của mình ( VN ) vô bị thất bại, mới nửa đường đã gặp hỏa lực chống cự mạnh phải quay ra, quân bạn báo cáo như vậy. Lý do có lẽ vì tránh Bastogne anh em đã chọn đường bay quá xa từ hướng Bắc bay xuống ( theo lối Barbara tức C/cứ Rạng Đông, cách 9,10 dặm ), đường dài càng nguy hiểm thêm! Sư đoàn I BB phải yêu cầu trực thăng Mỹ giúp nhưng các pilot Mỹ tới họp trên BCH/HQ rồi từ chối. Tôi vừa dẫn biệt đội 213 đáp xuống C/c Dạ Lê thì được mời lên họp liền. Ngang qua tư dinh tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú, gặp ông đang tư lự, hai tay bắt sau lưng đi lại ngoài hành lang, khuôn mặt khắc khổ gầy gò lo âu... Ông ưu ái hỏi thăm! Chào ông! Xong tôi lên thẳng Phòng HQ sư đoàn để họp. Vị Tr/ tá Sĩ Quan HQ cho biết các pilot Mỹ đã từ chối viện lý do không được phép trực tiếp thi hành các phi vụ HQ nữa, họ chỉ giúp trong trường hợp rescues mà thôi. Sau khi nghe thuyết trình tình hình bãi đáp, xác định rõ tọa độ, nắm vững vị trí bạn và địch cũng như nghiên cứu đường bay cũ của các PHĐ trước bị thất bại, tôi can đảm trả lời " Được, tôi sẽ vô một mình, nếu an toàn sẽ cho anh em vô sau ". Trả lời xong tôi cảm thấy chút hãnh diện trước đám phi công Mỹ và can đảm hơn lên. Tôi yêu cầu hai chiếc Cobra theo hộ tống và dặn họ quan trọng là phải kè sát hai bên cùng một cao độ với tôi khi vào vùng; đường bay và chiến thuật tôi làm sao hắn theo vậy. Lúc đầu các pilot Mỹ không chịu, lấy lý do bay sát và thấp quá sẽ không thể cover được. Đó là lý do thất bại trong phi vụ hộ tống cho Soạn trước đây, dù hỏa lực Cobra có mạnh mấy mà bay tận trên mây 4,5 ngàn feet thì địch cũng chẳng còn thấy sợ nữa. Nhờ kinh nghiệm sau cái chết của Soạn tôi nói chỉ cần bay thấp theo tôi cho địch thấy hỏa lực mà sợ thôi. Sau đó, từ BTL/SĐiBB ở Dạ Lê chúng tôi cất cánh vô vùng Birmingham rồi bám sát mấy sườn núi bên phải ,phía Đông căn cứ hỏa lực Kings. Gần đến nơi, hai chiếc Cobra theo tôi break ra khỏi formations. Mấy chiếc rescue của Mỹ và hợp đoàn còn lại vẫn ở ngoài vùng, quan sát tôi vô cách nào sẽ theo vậy mà vô sau. Tôi liên lạc quân bạn xác định lại tọa độ (LZ) lần chót bằng kiếng (mirror) thay vì thả khói màu (smoke) để tránh khỏi bị pháo kích và giữ yếu tố bất ngờ. Khi tới trên đầu C/c Kings, ba chiếc "bingo" một lượt cắm mũi, xoáy tròn như trôn ốc trong thế " spiral approach " để giảm cao độ cho lẹ, vừa thu hẹp vòng bay (circle) bám sát lấy Kings giả như đáp mà lấy điểm tựa rồi lẹ làng vượt qua thung lũng thẳng vô bãi đáp (LZ). Bất chấp cả chiều gió và địa thế, gọn gàng lọt vào giữa những hàng cây cao vời vợi. Trong lúc tôi đáp, hai chiếc Cobra thay phiên nhau liên tục nhả đạn vào những điểm khả nghi ở ba mặt đồi còn lại để bảo vệ. Đường vô trắc trở bao nhiêu thì khi ra cũng nguy hiểm bây nhiêu. Gặp "hot LZ", trước khi vô đã phải dự trù sẵn lối ra sao cho an toàn .Vừa lùi lại(backward) đủ thế quẹo , cắm mũi lẹ làng lao mình xuống thung lũng sâu thẳm để " gain speeds " cho mau mới có thể uyển chuyển lạng qua lại ( zig zag ) tránh đạn, bay ra ... Phi vụ đầu tiên hoàn tất tốt đẹp, từ đó hợp đoàn từng chiếc một cứ theo đường bay ây mà vô. Hôm ấy, chúng tôi vận chuyển hết thương binh ra và đổi 70 lính mới vào. Tội nghiệp, nhiều binh sĩ sợ quá trước khi nhảy xuông mục tiêu đã tu hết bìdong rượu để lấy can đảm!

Từ cái chết của Soạn, tôi đã học hỏi cho mình được những kinh nghiệm bay chung với Mỹ. Trước đây một lần tại vùng Quế Sơn, tỉnh Quảng Tín, trong một phi vụ tương tư tôi cũng đã gặp trường hợp pilot Mỹ từ chối. Khi ấy tướng Phan Hòa Hiệp ( Một nhân chứng lịch sử trong toán Thiết Giáp đón T.T Ngô Đ. Diệm vụ đảo chánh 1/11/63 ) còn giữ chức Tư Lệnh SĐ 2BB và BCH Trung Đoàn 6 nằm trong vùng núi giữa hai quận Quế Sơn và Hiệp Đức. Từ BCH Trung Đoàn 6 nhìn lên hướng Tây Nam là Căn Cứ Hỏa Lực West của quân đội Mỹ bỏ lại, được xây cất bằng bê-tông cốt sắt, chìm sâu xuống lòng núi rất kiên cố. Không hiểu tại sao lúc đầu quân đội Mỹ giao lại thì quân ta bỏ không giữ. Sau này VC dùng làm cứ điểm pháo xuông các tiền đồn của ta ở chung quanh. Trước đó, PĐ 213 đã đổ một đơn vị của Tr/Đoàn 6BB vào để chiếm lại nhưng thất bại. Th/tá Trương Văn Hoàn và Tâm( ruồi) bay chiếc lead lần ấy bị lãnh nguyên trái B-40 trên bãi đáp chính (Helipad), tàu đứt làm đôi, Th/úy Đoàn H. Tâm bị thương nặng, cơ phi Tr/sĩ Cảnh tử thương tại chỗ. Phi hành đoàn lết ra nơi an toàn mới cứu được.

Ít lâu sau có lệnh PĐ 213 vào lại, tới phiên tôi bay lead. Tướng Hiệp mời tôi lên BCH trên đồi đã có sẵn đám pilot Mỹ ở đó. Sau khi cho biết chi tiết phi vụ, Ông hỏi: " mấy phi công Mỹ từ chối, anh có dám vô không? ". Biết từ chối không được sẽ mất mặt với đám pilot Mỹ, nên tôi chỉ xin được briefing cho kỹ tình hình bãi đáp. Ông đưa tôi nhìn qua telescope đã điều chỉnh sẵn vào bãi đáp, thấy rõ lá cờ MTGP màu săc rực rỡ phủ trên nắp bunker như thách đố khiêu khích! Dưới giao thông hào bọn chúng cũng đang thủ thế chờ quân ta tiến vô. Cả hai bên dàn trận như film cine, tướng Hiệp từ ngọn đồi BCH Trung Đoàn 6 có thể quan sát theo dõi chúng tôi qua telescope...Ông ra lệnh cho tôi phải đột kích ngay trên lá cờ MTGP để Trinh Sát ném hơi ngạt vào các giao thông hào...Ông dặn PHĐ và binh sĩ phải mang sẵn mặt nạ chống hơi ngạt để phòng ngừa ngất xỉu nhưng tôi từ chối vì vương víu không dùng vô tuyến được. Ông chỉ thêm cho tôi đường thoát thân trong trường hợp phải bỏ tàu lại mà chạy...Từ chân núi hướng Đông, một cánh quân ta sẽ tiến lên bằng đường bộ vừa để cứu PHĐ vừa hỗ trợ cho toán Trinh Sát nếu đột kích vào được. Tôi sửa đổi phi vụ lại theo ý mình cho dễ bề xoay sở. Tôi chia toán Trinh Sát (12) ra hai nhóm, giao cho Dương Tấn Long một nửa, bay chiếc số 2 theo tôi. Dự trù chiếc Số 1 đáp lẹ trên mặt hầm xong bốc lên cắm mũi xuống thung lũng liền để chúng không bắn theo được, còn chiếc số 2 đáp bất cứ chỗ nào trống phía sau, quan trọng là gần miệng hầm. Tôi yêu cầu hai Cobra của Mỹ cover, sợ 2 guns của mình nặng nề quá xoay sở không kịp. Anh Phan V. Niên bay C&C hướng dẫn hợp đoàn còn lại với 2 gunships của Nguyễn T. Tài (méo) và Vũ V. Hiền (mối) đề phòng rescues tôi hoặc Long nếu cần...Ông Tướng nói quan trọng là mang được tiểu đội Trinh Sát vào trước sau đó quân bạn có thể thanh toán mục tiêu dễ dàng. Nhận lệnh xong, tôi xuống khu parking để briefing lại cho anh em.
Hôm ấy vô tình có ông bố vợ tôi bay chung (Y Tá Phi Hành- Th/sĩ Ph. V. Đúng). Tôi để ông ở lại parking không dẫn theo, phòng lỡ bị bắn rớt hai cha con sẽ không phải chết chung một lượt! Tôi còn nhớ mãi giọng Sài Gòn lè nhè của Tài Méo trấn an tôi trên tần số " Cứ yên trí, tụi tao không bao giờ bỏ mày đâu! ". Tôi và Tài cùng lớp lại rất thân nên tôi yên lòng. Chiếc số 2 tôi chọn Dương tấn Long bay theo vì biết hắn rất gan lỳ. Ngòai tình bạn chung phi đoàn, tuy lớp đàn em nhưng tôi rât khâm phục sư lì lợm của Long. Sau này Long đổi qua PĐ 257 (Cứu Tinh) tải thương đêm & rescues, đã nhiều lần bay cứu các PHĐ Khu Trục trong chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa. Giờ khởi hành, hai chiếc Cobra vô trước dọn bãi đáp, rockets tới tấp phủ đầu trên mặt hầm xong thì tôi và Long vô liền ... Hai chiếc đang circle rất thấp trên xóm làng dưới chân núi không cho địch thấy , bất chợt từ chân núi móc lên vừa đủ cao độ flare lại vô đáp ngay trong lúc hai đại liên trên tàu xối xả bắn tiếp nối sau hai chiếc Cobra vừa break away không cho chúng chui đầu lên...Không ngờ lúc hai thùng đạn vừa cạn không còn bắn được nữa ( chỉ còn cách mục tiêu vài mét ) thì bọn chúng bắt đầu phản công lại... Không còn đạn chống trả đành chịu trận đưa cái bụng ngon lành ra đỡ...Tàu trúng đạn lộp bộp ! lộp bộp!...May hồi đó chỉ có AK, nếu chúng biết xử dụng loại PG như bây giờ chưa chắc mình chạy thoát. Th/úy Ng.V. Thành (copilot) bị thương ở bàn tay, tôi liên lạc Long cùng quẹo phải break ra một lượt. Mục tiêu quá kiên cố, những trái rockets chẳng phá hủy được gì, lá cờ MTGPMN vẫn còn nguyên vẹn nằm khiêu khích trên nắp bunker... Sau mỗi lần thất bại tôi đều suy nghĩ để tìm thêm kinh nghiệm cho những lần sau. Th/úy Thành bị thương ở tay, anh yên lặng chịu đựng nên tôi cũng giữ được bình tĩnh. Con tàu bị nhiều lỗ đạn bên phải và dưới tail boom nhưng còn bay về được an toàn. Cuộc HQ hủy bỏ; sau đó quân ta bỏ luôn mục tiêu ấy không bao giờ chiếm lại nữa.

PĐ 213 đã thi hành rất nhiều phi vụ trong các vùng Tiên Phước, Hiệp Đức, Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Tín (Tam Kỳ). Khu rừng quế trong vùng Tiên Phước là một trong những mật khu quan trọng sau này chúng dùng làm địa điểm họp với " Ban Liên Hợp QS Hai Bên ".

Trở lại những ngày cuối tháng 3/75. Anh Tuấn ra Huế thay thế, tôi trở về Đà Nẵng cho anh em lấy thêm tiếp tế rồi bay vào Chu Lai ( Một căn cứ lớn của Mỹ để lại, nằm giữa hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi ). Tình hình chiến sự không có gì trầm trọng, cũng lặng yên như vùng ngoài, phi vụ rất ít. Từ Chu Lai nhìn xa xa về hướng Bắc, các quận Thăng Bình( Baldy ) Quế Sơn và tỉnh Quảng Tín, rải rác có những cụm khói đen bốc cao như những trụ antenas sừng sững giữa bầu trời. Những vùng ấy có thể có giao tranh lẻ tẻ đâu đó mà sao không thấy xin tải thương hay tiếp tế? Mấy ngày anh em rảnh rang chỉ xúm nhau đánh bài hoặc xuống CLB nhậu lai rai. Mãi tới ngày chót mới có một phi vụ vô tiền đồn Núi Tròn / Quảng Ngãi. Núi không cao lắm, lại trọc như cái đầu bằng đá nhẵn nhụi nên gọi là Núi Tròn, nằm lẻ loi bên con đường từ Quận Sơn Tịnh vào Quận Hà Thanh, cạnh sông Trà Khúc. Căn cứ trong cơn hấp hối, đang bị bao vây pháo kích nên xin vừa tiếp tế vừa tải thương ...Theo báo cáo của quân bạn bãi đáp chính không đáp được vì pháo kích . Tôi ( Lê T. Đại -Copilot ) dẫn theo hai gunships (Đặng H. Hào và Đào V. Tưa ) escort. Cất cánh từ Chu Lai theo QL1, qua quận Bình Sơn thì tới quận Sơn Tịnh. Từ Sơn Tịnh ba chiếc low level sát với mặt đường trong thế tấn công, cơ phi xạ thủ đại liên sẵn sàng... ầm ầm tiến vào mục tiêu. Âm thanh vang động cả xóm làng. Đặng Cường tay súng lên đạn sẵn mà khi thấy bọn du kích hốt hoảng ôm súng chạy trốn vô nhà thì lại tha không bắn! Từ chân núi chúng tôi móc lên bất ngờ... Rôì " thả lỗ " vào ngay LZ mới nằm giữa những túp lều xiêu vẹo để tránh pháo kích trong lúc hai Guns của Hào và Tưa lẹ làng áp đảo những vị trí khả nghi chung quanh ngọn đồi kế bên để bảo vệ chờ tôi cất cánh ra...Hoàn tất phi vụ trở về biệt đội, thu xếp hành trang vì buổi chiều có toán mới của Đ/úy Phạm V. Vui vào thế. Trước khi về Đà Nẵng, anh em còn tiếc nuối ghé lại CLB uống thêm ly Cafe, đùa giỡn vui vẻ như thường lệ rồi mới cất cánh trở về Đà Nẵng. Mọi sinh hoạt vẫn bình thường lúc chúng tôi rời Chu Lai.

Về đáp phi trường Đà Nẵng, trả phi cơ vô ụ xong ghé lại phi đoàn mấy phút rồi mới về nhà ở cư xá Sĩ Quan Bắc Phạt ăn cơm tối . Khu cư xá cũ kỹ, nhà thấp lè tè nhưng tất cả các cấp chỉ huy quan trọng của SĐ IKQ đều ngụ tại đó. Cái villas đẹp nhất ở đầu xóm thì nhưòng cho Ch./Tg Ng.Đ. Khánh (Tư Lệnh). Các Đ/tá Thái B. Đệ, Đ/tá Vượng bên khu trục và Đ/tá Đặng V. Phước(KDT 51CT), Tr/tá Cao Q. Khôi(PDT 213), Tr/tá Lê T. Định (KD/Yểm Cứ), Tr/tá Ng.V. Hòa (PT)... tất cả đều ở quanh đó. Đám sĩ quan nho nhỏ chúng tôi về sau nên chỉ còn mấy dãy tân lập mới xây được vài năm , nằm gần hàng rào phòng thủ . Căn nhà tôi ở tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng bạn bè vui chơi thường xuyên , ghi dấu biết bao kỷ niệm thân thương . Để tránh pháo kích và tránh đạn lỡ bị tấn công, tôi kê luôn giường ngủ trong hầm cho tiện. Điện cư xá yếu quá không đủ sáng nhất là những nhà nằm cuối xóm. Tháng tháng nhiều lúc tôi đánh bài trừ tiền điện với Th/sĩ Mẫn(Kiến Tạo/Yểm Cứ?). Nước cũng vậy, chảy yếu ớt đến dãy chót không còn sức rỉ ra nữa. May nhờ trong xóm có người bạn thân là Tr/úy Quách G.Tịnh(PĐ 239) rất khéo tay, đóng một cái giếng cho anh em xài chung. Nước đục như nước Sông Hồng nhưng bỏ phèn vô cũng thành trong vắt! Anh em chấp nhận số phận chẳng ai phàn nàn. Đời sống trong cư xá thật vui nhộn sau mỗi ngày bay bổng gian nguy, hết nhậu lại đánh bài. Tư dinh tướng Tư Lệnh thì có Mạt Chược với các SQ bên Quân Đoàn I. Tư thất Đ.tá Vượng & Đ/tá Đệ cũng vậy. Còn đám SQ cấp Úy chúng tôi thì xập xám, sì phé v.v. Dãy này đối diện dãy kia, nhà nào cũng đèn sáng chưng thấu đêm.

Vừa cởi bỏ áo bay đang ăn cơm tối dở dang thì phi đoàn cho gọi lên...muốn tôi phải trở lại Chu Lai để tiếp sức cho Đ/úy Vui vì " Chu Lai vừa bị Overun! " làm tôi thực sửng sốt. Một tuần lễ tôi lead biệt đội Chu Lai, hai giờ trước tôi còn ở đó tình hình bình thường không có dấu hiệu gì khác lạ... Ra phi đạo, anh Tuấn (TPHQ) lái chiếc gun theo hộ tống còn tôi bay chung với Vui. Vào đến Chu Lai khoảng 9,10 giờ tối, toàn bộ căn cứ đang rực lửa , cháy bừng bừng sáng cả một góc Trời ... Khu kho đạn, kho xăng, phi đạo, các doanh trại, tất cả đều cháy nổ ầm ầm... Khu biệt đội khi chiều còn nguyên vẹn, giờ đã cháy xụp thành đống tro tàn... Tôi không tài nào ngờ nổi, mọi sự xẩy đến quá đột ngột! Tiếng súng dòn dã nổ vang khắp nơi, từ hướng núi cũng như mặt biển...Các doanh trại, từng dãy thi nhau xập dần dần, chỉ còn vài căn ở khu BTL trên đỉnh đồi chưa cháy tới mà thôi. Bao nhiêu SQ và binh sĩ còn lại dồn cả về gần sân VIP, núp trong các đường giao thông hào kế bên. Thấy phi cơ đến họ bu lên bãi đáp như ổ kiến. Tình trạng lộn xộn không thể xuống được, tôi ngăn cản Vui nhưng anh còn tiếc mấy chiếc Honda mới lượm buổi chiều...Nhiệm vụ chúng tôi trở lại để bốc Đại táTư lệnh Phó (SĐ 2BB) và một số Sĩ Quan Tham Mưu còn kẹt lại. Tướng Tư Lệnh Trần V. Nhựt có tàu riêng đã dọt ra Cù Lao Ré, một hòn đảo lớn ở ngoài khơi phía Đông Nam Chu Lai cách hơn 10 miles .

Tàu chưa kịp đặt xuống, lính đã tràn ngập trên sàn và bám hai bên hông như xe đò, lúc cất cánh lại đu theo skids. Quá nặng! Cứ nhấc lên hover lại rớt xuống! Sau ba bốn đợt thử vẫn không lên được, tôi yêu cầu các SQ giúp vãn hồi trật tự, hứa nếu trật tự tốt đẹp chúng tôi sẽ trở lại di tản hết...Các SQ giúp chúng tôi giữ trật tự nhưng chỉ tốt đẹp được một lát... Hễ tàu vừa quay máy xong, các SQ đứng đầu hàng bỏ chạy lên trước thế là đám binh sĩ lại ùa theo, cứ thế mà tái diễn hoài không làm sao cất cánh nổi...Cuối cùng chúng tôi đành đầu hàng bỏ tàu lại, xách theo chiếc máy truyền tin PRC 25 và hai khẩu đại liên...Tôi ra dấu cho Đ/tá TLP và các SQ Tham Mưu theo tôi chạy xuống bãi biển Kỳ Hà ( Ở hướng Đông Bắc ). Chúng tôi vào núp trong một hầm đá lớn dưới bãi biển rồi bắt liên lạc với chiếc Gun của anh Tuấn đang lòng vòng trên trời tìm kiếm... Gần 3 giờ sáng, Không Đoàn mới cho chiếc rescue (PĐ 257 Cứu Tinh-Bình Batơ lái) ra bốc về. Tội nghiệp Đ/úy Vui về phi đoàn bị Th/tá Tạ Thái (PĐP) xà xể một trận tưng bừng .

Sau Huế và Chu Lai thất thủ cả vùng I chỉ còn Đà Nẵng lẻ loi chờ đợi số phận. Tôi bay thêm phi vụ HQ cuối cùng vào tiền đồn Nông Sơn trong vùng Đại Lộc/ Thượng Đức, nơi BCH/BĐQ của Tr/tá Phất, một người rất quen thuộc với phi đoàn và là bạn thân với Tr/tá Khôi (PĐT). Anh xuất thân từ trường Võ Bị Đàlạt, dáng oai hùng, mảnh khảnh cao ráo. Trên đường vào khu mỏ than Nông Sơn, tôi đã thấy dân chúng từ các làng mạc dưới chân núi quang gánh đi ra đông đúc mà không nghi ngờ tưởng là cảnh bình thương của miền quê. Hôm ấy Trời gió lớn, sau khi đáp tắt máy chờ standby mà cánh quạt không chịu ngừng , tàu dập dình như muốn lăn xuống núi.. Tôi phải quay máy lại, để idles chờ đợi thêm mấy phút, nóng ruột! Tr/tá Phất cho tùy viên ra nói tôi trở về Đà Nẵng khi cần ông sẽ kêu vô lại. Sau khi về Đà Nẵng đổ xăng xong, báo cáo Hành Quân Chiến Cuộc.. thì nghe tin Nông Sơn đã bị overun! Tôi tin vào mạng số của mình...Hết Huế đến Chu Lai, bây giờ đến Nông Sơn, nếu hôm ấy Trời yên gió lặng tôi tắt máy ở lại trên đỉnh bãi đáp thêm nửa giờ nữa chắc chắn không bị pháo kích thì cũng bị bắt chung số phận với Tr/tá Phất và anh em BĐQ như trường hợp của các anh Bửu & Khánh (PĐ 219) trên đồi 31 trong trận Hạ Lào... Ngày ấy ( HQ Lam Sơn 719, Hạ Lào ) tôi bay (co-pilot) cho anh Phạm V.Thục trong phi vụ gunship hộ tống hai chiếc H-34 của PĐ 219 vào BCH/Lữ Đoàn 3 Dù trên đồi 31. Vì có sự chênh lệch tốc độ giữa H-34 và UH-1 nên chúng tôi cứ phải vòng lại chờ nhau rất khó chịu. Đến vòng thứ hai trở lại thì thấy chiếc lead ( Đ/úy Yên? ) đã bị bắn rớt nằm nghiêng lưng chừng đồi nhưng PHĐ vô sự chạy lên hầm BCH Dù. Anh Thục đáp xuống vào BCH coi tình trạng thấy yên tâm vì ở căn cứ lớn an toàn không có gì đáng lo! Rồi chúng tôi cất cánh để nhường chỗ cho chiếc thứ hai của A. Bửu / Bùi tá Khánh vào đáp. Bay quanh đồi thêm một vòng bay nữa thì nghe tiếng nổ lớn ngay dưới bụng làm phi cơ tôi dội lên hụp xuống như bị sức hút vô hình kéo xuống thật mạnh! Anh Thục hốt hoảng không rõ chuyện gì vừa xẩy ra . Trao cần lái cho tôi để anh lấy lại bình tĩnh , lúc đó mới hay chiếc của anh Bửu/Khánh vừa bị pháo kích...nhưng tình trạng không khẩn trương lắm, các anh vào hầm BCH Dù để ẩn núp. Trong khu vực ấy, ngoài BCH Lữ Đoàn 3 Dù trên Đồi 31 còn có các tiền đồn nho nhỏ bao bọc chung quanh. Một trong những ngọn đồi phía Tây Nam 31 vẫn còn dấu vết cháy đen của kho nhiên liệu bị trúng mấy trái rocket tôi may mắn released bậy mà trúng thiệt trong một phi vụ thao dợt " điều chỉnh tác xạ ". Hôm ấy tôi bay co-pilot với anh Hoàng Ngọc Châu (Đại/úy TPC). Chúng tôi bay về phi trường Khe Sanh đổ xăng và báo cáo xin phi vụ rescue vô bốc hai phi hành đoàn (H-34) ra. Nào ngờ chừng một giờ sau đã nghe tin BCH Dù (C/cứ 31) bị overun rồi. Hai phi hành đoàn 219 bị bắt chung với Đại tá Bảo và BCH Dù trên đồi 31...Đó cũng là cái may đầu tiên trong đời pilot của tôi, từ đó tôi vẫn tin mình hợp với con số " 13 " nên sau này bạn bè xin đổi đi các phi đoàn khác an toàn hơn hoặc để tiến thân, còn tôi cứ ôm lấy 213 như người Mẹ Hiền làm nơi nương tựa.

Sau Huế rồi Chu Lai, Quảng Tín, Quảng Ngãi mất, bây giờ đến BCH/BĐQ trên Nông Sơn thất thủ, toàn Vùng I cứ như thế cờ Domino mà đổ dần! Đà Nẵng ngày càng cô lập thêm. Ba bốn ngày cuối cùng ( 26, 27, 28 tháng 3/75) phi trường xáo trộn như ngoài phố. Anh em KQ mang bà con thân nhân vô sẵn trong phi trường để tìm phương tiện gởi đi. Khu HậuTrạm bên phía West(Phước Tường) dân chúng nằm la liệt ra sát lề phi đạo, nôn nóng chờ đợi " cầu không vận " từ Sài Gòn ra ... Các chuyến C-130 liên tục đáp ngày đêm mà không vơi được bao nhiêu. Tôi lo cho vợ lên được chuyến C-130 vào đêm 26/3 chẳng biết đi đâu nhưng lòng cũng thấy nhẹ nhàng một chút. Còn lại gia đình vợ và đám em thì tôi dán sẵn cho mỗi đứa em một bảng tên với lý lịch sơ khởi phòng khi vô được Sài Gòn lỡ có thất lạc may ra hy vọng có người giúp liên lạc với người nhà hộ. Cuối cùng cả gia đình bị kẹt lại hết chẳng ai vô được.

Trở về cư xá Bắc Phạt, nhà cửa trống trải hoang vắng... một số đã di tản, một số bỏ nhà ra ngủ gần phi đạo cho chắc ăn. Chó mèo, gà vịt chạy lung tung vì mất chủ...Đàn gà của anh chị Tịnh bên cạnh nhà tôi và mấy con vịt vợ tôi nuôi chưa kịp làm tiết canh, cắn mổ nhau inh ỏi cả xóm cho lòng dạ càng bồn chồn thêm. Tôi nhét vội các giấy tờ quan trọng và hình ảnh kỷ niệm vào 4 túi áo bay chật cứng rồi nhìn quanh nhà lần chót trước khi đi lên phi đoàn, lòng quặn đau buồn se sắt!

Lên phi đoàn, ngoài phi đạo chuyến bay nào cũng vậy, hễ mỗi chiếc C-130 vừa chạm đất mọi người đã ùa ra đuổi theo, vấp ngã bầm dập tội nghiệp. Phi cơ không dám parking mà chỉ taxi chầm chậm... cửa sau vừa mở là bà con đã lẹ làng phóng lên đầy ắp...Quang cảnh hỗn loạn vô trật tự! Anh em 213 ai có gia đình cũng mang vô phi đoàn ở cho chắc ăn. Tuy nhiên tất cả mọi diễn biến giờ phút này chỉ làm theo linh tính riêng của mỗi người chứ không ai dám ban lệnh rõ ràng. Ai cũng dựa vào " tin đồn " mà suy diễn! Có tin đồn là thân nhân SĐ IKQ sẽ được di tản về tạm trú ở phi trường Phan Rang(?)

Đến ngày 28/3 các chuyến C-130 từ Sài Gòn đều ngưng hẳn. Bà con ngập ngừng người bỏ về, người khác cứ chờ đến tối vẫn không thấy chuyến nào ra...

Lần đầu tiên phi trường Đà Nẵng vắng bóng phi cơ lên xuống, mất hẳn màu sắc quen thuộc của chiến tranh. Có chút gì buồn nhiều hơn vui... Rồi pháo kích tới là khởi điểm cho cuộc rút lui vô trật tự. Không có trận đánh nào khốc liệt mà tại sao phải chạy. Những chiến tích lẫy lừng hào hùng của quân ta qua bao chiến trận.... Bình Long Anh Dũng, Qủang Trị Kiêu Hùng! Bây giờ chẳng còn ý nghĩa gì sao?.

Khoảng 6.00 giờ chiều 29/3/75:

Vào gần đến Phù Cát tôi gọi Đài xin đáp thì nghe tiếng Th/tá Hiền ( PĐP 253 ) trên tần số. Tôi nhờ anh báo cho Phù Cát biết chúng tôi phải ghé đổ xăng nhưng tất cả PHĐ trên tàu không có quân phục! Anh quay lại chờ chúng tôi đi chung cho an toàn. Tình hình thay đổi bất ngờ không biết vùng nào còn hay mất! Lúc từ biển quẹo vào Phù Cát, nhìn xuống tôi thấy rải rác mấy trực thăng bị rớt bên bờ ruộng hoặc ven bờ làng. Hình như có mấy PHĐ đang bị dẫn độ vào làng...Dù biết là anh em KĐ 51 mà chẳng giúp được gì, tàu không có súng đạn, pilots thì mặc xà lỏong áo sơ mi, chân không giầy...Chỉ cầu mong nó làm ngơ cho mình được yên.

Trước khi đáp , Phù Cát Đài ra lệnh cho tôi hover chờ cuối phi đạo cho xe Quân Cảnh và chiếc T48 bọc thép của Phòng Thủ tới hộ tống. Xe Jeep QC dẫn đầu, súng chĩa ngược vào phi cơ sẵn sàng nhả đạn nếu tôi có phản ứng gì khác thương. Phi cơ taxi chầm chậm ở giữa rồi đến chiếc T48 thủ súng nhắm sau đuôi, tất cả như một Hợp Đoàn Bất Đắc Dĩ từ từ vào ụ đổ xăng sau khi Th/tá Hiền đã xác nhận và Quân Cảnh khám xét giấy tờ mỗi người.

Refill xong, chúng tôi bay tiếp vào tới Nha Trang . Đã định ở lại một đêm bữa sau đi Phan Rang tìm gia đình vì có tin đồn SĐIKQ được di tản vào Phan Rang.

Lát sau nghe tin ngoài phố Nha Trang rất lộn xộn, lính mình bắn nhau. Tôi biết tình trạng sẽ như Đà Nẵng phải rút lui gấp. Chúng tôi theo chuyến C130 về Saigon. Quân Cảnh không cho vào phi đạo, tưởng chúng tôi là lính giả mạo; thấy vậy, nhờ Xiêm ( XT) nổi nóng dương khẩu M60 ( gỡ từ phi cơ ra , no bullets ) đòi bắn QC nên anh em mới vô cổng được. Tôi còn nhớ ôm theo bộ đồ bay của Nghị để trao lại cho gia đình. Chào vĩnh biệt con tàu mang số 107. Tôi nhớ mãi con tàu này ở Phi Đạo 213. Ngày xưa mỗi lần HQ đáp núi mà gặp nó thì khổ sở. Thủy điều lúc nào cũng lỉ rỉ như thằng bé bị " són ", hai rotors thì rung như xe thổ mã; Kỹ Thuật dán không biết bao nhiêu duct tapes mà vẫn cứ rung. Nào ngờ hôm nay nó là ân nhân đưa tôi đến bến Bình An!

Chúng tôi vào tới Tân Sơn Nhất gần 11 giờ đêm, có lẽ là chuyến tàu chót. Tất cả hành khách đã bỏ về, hậu trạm trống trơn, chỉ còn hai thiếu nữ bé bỏng ngồi ủ rũ chờ chồng. Chị Nghị ngã lăn ra xỉu khi tôi vừa trao vào tay cái áo bay của Nghị, chưa kịp lời giải thích. Bà xã tôi ( Duyên ) cũng vậy , tôi chưa nói hết câu " mấy đứa em..." thì đã ngất xỉu bên cạnh chị Nghị như hai xác chết. Chúng tôi lo cứu hai bà xong mới xuống khu gia binh tìm chút gì ăn lấy lại sức 2 ngày không ăn uống ruột gan cồn cào dữ dội... Vợ chồng tôi tạm trú ở cư xá độc thân PĐ 718 trong phòng của một người em họ lái C47. Hôm sau gặp Nguyễn Tấn Phát (ANKQ), bạn rất thân gốc từ 213 /Song Chùy . Phát cho tôi bộ đồ Nomex để mặc tạm lấy lại chút dung mạo pilot đã mất và còn ưu ái cho thêm năm ngàn đồng. Sau tôi cũng nhờ Phát kiếm cho căn phòng ở cư xá SQ trong phi trường Tân Sơn Nhất cho chị Thái và các cháu tạm trú. Anh Thái (PĐP) bị rớt cùng với Chiến gần Phù Cát và bị bắt làm tù binh không vô được tới Sai Gòn. Hai vợ chồng tôi tìm cách lãnh lương thêm của " ông già vợ " mới đủ sống cho đến ngày 22/4/75 khi TT. Thiệu từ chức, tôi giắt vợ xuống Cần Thơ. Phạm V. Vui và Đặng Cường chung sống với chúng tôi trong căn phòng chật hẹp ở cư xá SQ / Phi đoàn 211 bên cạnh phòng Tr.tá Lâm ( PĐT). Ngày chót Vui bỏ đi đâu lúc nào tôi không hay biết.

Những ngày cuối cùng, Sư Đoàn IKQ/ KĐ 51 dồn lại chỉ còn đủ quân số giữ được PĐ 213 di tản xuống Cần Thơ sát nhập vào SĐ4KQ với hai vị chỉ huy mới là T/tá Huỳnh V.Phố (PĐT) và Th/tá Hiền (PĐP). Anh em đều chán nản chẳng muốn lãnh tàu HQ thì lệnh đầu hàng đến... Mai Côn (xạ thủ 213) đến hỏi tôi có đi không cho hắn theo? Tôi hoàn toàn không muốn đi tí nào. Vợ chồng Nguyễn Trà (Tr/úy 239/213) rủ tôi không đi, hai vợ chồng trèo rào vào phi đạo lấy phi cơ, bà xã Trà đang có bầu mà trèo qua hàng rào lẹ làng... Tôi chờ Th/tá Hiền về để mượn chìa khóa xe pick up chở mấy anh em ra bến xe đò đón xe về Sài Gòn để trở về nguyên quán ( Miền Trung ) nhưng chờ mãi không thấy. Bất chợt Tr/tá Lâm (PĐT 211) đáp ngay bên cạnh cư xá để bốc chị Lâm lên thế là Duyên kéo Đặng Cường và tôi lên theo; lòng vẫn đinh ninh sẽ tìm một nơi nào khác để tử thủ ! ! ! Trên chuyến tàu của tôi có Đại Tá Thiện, Cựu Tư Lệnh Phó SĐIKQ, Cựu SQ Liên Lạc ở Lackland-69, Cựu Trưởng Khối Trưc Thăng BTLKQ. Ông mất rất sớm khi mới đặt chân lên đất Mỹ!

Chúng tôi bay ra Côn Đảo rồi đáp xuống Đệ Thất Hạm Đội ngoài hải phận bắt đầu cuộc đời tỵ nạn...Đúng một tháng sau khi mất Đà Nẵng , toàn thể Miền Nam Việt Nam cũng không còn nữa!

Miền Trung với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của Trường Sơn cao vút, núi đồi trùng điệp và biển xanh lai láng đã in sâu vào tâm trí tôi như tấm bản đồ HQ muôn màu. Mỗi LZ là một dấu vết kỷ niệm vẫn sống mãi trong tôi cho đến những ngày tận cùng của cuộc đời. Song chùy 213 như người Mẹ hiền ưu ái đã cho tôi tất cả niềm hãnh diện của một " phi công trực thăng " một đời tận hiến cho Tổ Quốc và Không Gian.


Kỷ Niệm 34 năm - Một Thời Để Nhớ- Tháng Tư 2009.

T.HG@SONGCHUY

Ý kiến bạn đọc xin nhấn vào đây => (Song Chùy 213 & Vùng Trời Hỏa Tuyến) thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Chuyện 30.4 Wed, 16 Jan 2019 14:47:05 +0000 Phi Đoàn II Khu Trục - Phi Đoàn II Khu Trục https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/245-phi-doan-ii-khu-tr-c-phi-doan-ii-khu-tr-c https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/245-phi-doan-ii-khu-tr-c-phi-doan-ii-khu-tr-c Phi Đoàn II Khu Trục - Phi Đoàn II Khu Trục LỜI CẢM TẠ

Qua sự giới thiệu của anh Nguyễn Chí Thức, một người bạn Không Quân lâu năm, hiện cư ngụ tại Delahey, Victoria, Úc Đại Lợi, tôi được hân hạnh biết anh Phạm Công Khanh, Liên Hội Trưởng, Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH, Úc Châu.

Anh Khanh là một thành viên trong Ban Thực Hiện Quân Sử Không Quân.

Do cơ duyên trên, tôi nhận lời anh Khanh, sẽ đóng góp dữ liệu liên hệ tới sự thành lập, tồ chức và hoạt động của Phi Đoàn II Khu Trục, đơn vị tôi đã phục vụ từ khi thành lập, cho cuốn Quân Sử Không Quân sẽ phát hành vào tháng 7 năm 2005.

Để giữ lời hứa với anh Khanh và các bạn trong Ban Thực Hiện Quân Sử Không Quân, tôi đã cố gắng ghi chép lại những dữ liệu tồn trữ trong “bộ nhớ” của chính mình. Nhưng sau hơn bốn thập niên, tôi e rằng “bộ nhớ” bị quá tải của tôi có thể đã tự động xóa bỏ một số dữ kiện quan trọng của Phi Đoàn II Khu Trục. Do đó, tôi đã liên lạc với nhiều Niên Trưởng và Cựu Phi Hổ để xin giúp đỡ và đã được đáp ứng nồng nhiệt.

Tôi cảm ơn anh Khanh và các anh trong Ban Thực Hiện đã cho tôi cơ hội đóng góp một phần nhỏ trong cuốn Quân Sử Không Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Thêm nữa, nếu không có sự giúp đỡ tích cực và quý hóa của quý vị Niên Trưởng và các Cựu Phi Hổ, tập tài liệu về Phi Đoàn II Khu Trục không thể thành tựu. Tôi trân trọng cảm tạ quý vị Niên Trưởng, các Cựu Phi Hổ có tên dưới đây: Tiếp tục đọc thêm, và ý kiến xin nhấn vào đây => (Phi Đoàn II Khu Trục)

thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Tài Liệu KQ Wed, 16 Jan 2019 13:28:26 +0000
Về Vùng 4 - Vĩnh Toàn https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/172-v-vung-4-vinh-toan https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/172-v-vung-4-vinh-toan Về Vùng 4 - Vĩnh Toàn

Để tưởng nhớ TRẦN VĂN HÒA Hoa tiêu Chinook CH47 Phi đoàn 249 Cần Thơ, hy sinh 1974 ở Mộc Hoá.

*******

Qua khỏi khu vực phi đạo, rẽ phải, là đường đi về phòng họp của các Phi đoàn, và của đơn vị tôi, Phi Đội Tản Thương 259H. Con đường chỉ dài chừng 500 thước sao thấy bải hoải, không muốn cất bước. Rời khu vĩ sắt, chân tôi giẫm lên bãi cỏ để tìm chút yên bình, căng thẳng quá bước chân khập khễnh trên nền phi đạo cứng cũng làm mình mỏi mệt. Trước mặt, bên kia đường là quán Hồng Điểu của Đại úy Út, tôi định bước qua tìm cái ghế ngồi, kiếm chút đồ ăn may ra dằn xuống được cái bụng đang trạo trực vì đói và cũng vì đang lắc lư với cảm giác bàng hoàng lúc ban chiều nhưng chợt nhớ là quán Hồng Điểu giờ này đâu còn gì ăn nữa, hoạ chăng là chỉ có trà đá nước chanh vì hầu như là quán chỉ bán đồ ăn sáng cho các phi hành đoàn ghé qua trước khi ra tàu. Thôi thì đành phải về phòng họp Phi Đội, ký vào Sổ phi lệnh đã rồi tính sau, thế là tôi cất bước chân nặng nề rời bãi cỏ, đưa cái túi helmet lên vai, chậm chạp hướng về Phòng họp.


Trong bóng tối chập choạng, thấy có mấy người đi ngược chiều phía bên kia đuờng nên tôi nán giữ lề bên nay, định chờ họ qua khỏi để tránh cho họ khỏi phải ngửi thấy mùi mồ hôi, mùi thịt khét, máu me và bùn sình trên bộ áo bay của mình . Nhưng ngạc nhiên thay, họ bắt đầu băng qua đường, hướng thẳng về phía mình, níu kéo nhau, có tiếng kêu khóc văng vẳng, tôi không nghĩ là họ muốn gặp mình nên bước lần ra phía đường định băng qua bên kia thì có tiếng kêu: “Anh ơi… Anh ơi…” và đám đông tiến lại gần, một thiếu phụ trẻ trong bộ đồ mặc ở nhà, níu lấy áo tôi, giọng thất thanh , hụp hưởi :

“Anh ơi… anh ơi… anh đi bay về có gặp chồng tui không anh… chồng tui đó anh…”

Thì ra đây là một người thân của phi hành đoàn Chinook vừa mới rớt chiều nay, tôi không biết chồng chị là ai, mà cũng không dám hỏi, và ngay cả cũng không biết phi hành đoàn nầy gồm những ai , chỉ nghe nói có vị Phi đoàn trưởng mới về nhậm chức và hôm nay ông bay chuyến đầu tiên làm quen vùng, thường gọi là Orientation. Bây giờ trước mắt tôi, người thiếu phụ đau đớn hoảng loạn, đang bấu víu vào tôi như bấu víu vào một cái phao hy vọng nào đó, trông chờ phép lạ xảy ra, và những người đi theo chị chắc là thân nhân hoặc các anh chị ở kế cận trong cư xá, họ đi theo để khuyên lơn an ủi chị mà chắc cũng để tìm xem có thêm tin tức gì nữa về tai nạn hay không. Sau một thời gian làm pilot tản thương, đã chở biết bao nhiêu thương binh, tử sĩ, tôi chưa bao giờ lâm vào hoàn cảnh như hiện tại, những cha mẹ, vợ con họ người thì kêu gào than khóc, họ lăn lộn bên xác người thân, bên quan tài, người thì sững sờ, tê liệt, mắt ráo hoảnh như cứ nhìn vào hư không… nhưng chưa có ai bấu víu vào tôi như lúc nầy làm tôi rất lýnh quýnh, không dám nói thiệt mà cũng không biết nói láo ra sao, tôi biết mình không phải là cái phao của chị rồi, nhưng cũng không đành dứt áo bỏ đi.

Mấy người đi theo chắc họ tỉnh táo hơn nên tìm cách khuyên can, đại để là : “Anh nầy cũng mới đi bay về, có biết gì hơn mình đâu…thôi để vô Phi đoàn hỏi thăm nghen…” nhờ đó tôi mới nghĩ ra một câu nói láo rất vô duyên: “Dạ, tôi cũng không biết gì hơn mấy anh chị, tôi đi bay ở hướng nầy mà…” và tôi chỉ về hướng ngược lại với nơi xảy ra tai nạn.

Chị không nghe câu nói của tôi, mà chắc chị cũng không nghe ai nói gì chung quanh cả nên chị cứ tiếp tục lắp bắp:

“Anh ơi…anh ơi, họ tìm ra ảnh chưa anh, chồng tui đó anh, anh Hoà đó anh…”

Đến lượt tôi rụng rời tay chân, vì Hoà bạn tôi đang ở Phi đoàn Chinook nầy . Hoà đang là phi đội trưởng hay phi đội phó chi đó, và theo tôi đưọc biết từ trên tần số chiều nay thì tân Phi đoàn trưởng bay chung với một người trong “ staff ”, không ngờ lại là Hòa, vậy là Trần văn Hòa, bạn tôi, về từ Phi đoàn 229, bay chuyến đầu tiên với tân Phi đoàn trưởng, Thiếu tá Trung. Tôi bàng hoàng vì chiến trường lúc nầy không có gì hot lắm, vả lại Chinook cũng được xem là khá an toàn, pilot trực thăng mà lái Chinook thì xem như chữ thọ chắc hơn so với UH , vậy mà không những Chinook rớt mà người chết lại bạn mình nên tôi khá rúng động, không còn giữ được bình tĩnh, sáng suốt nữa, do đó khi chị hỏi tìm ra Hòa chưa thì tôi lúng túng: “ …hình như họ tìm thấy rồi”, chắc chị nghe được nên hỏi tới dồn dập: Tìm ra rồi hả anh, ảnh có sao không anh, chở ảnh về chưa, ảnh đâu rồi anh ….một loạt các câu hỏi mà tôi không dám trả lời, đành phải từ từ gỡ tay chị ra với sự giúp đỡ của những người đi theo rồi xách nón dọt lẹ qua bên kia đường. Quay lại thấy chị vẫn trì kéo đi tới, mấy người kia cố gắng giữ lại, kéo lui, để rồi tôi đau đớn thấy chị rủ xuống trong tay họ, miệng vẫn kêu nài, lắp bắp. Một bóng người khác đang đi tới, chắc là một người nữa trong phi hành đoàn của tôi, cũng bị níu lại hỏi han…

Trả lời với chị như thế nào bây giờ, khi cách đây chỉ mới 1 tiếng đồng hồ, chúng tôi rời vùng thì xác của 2 phi công và ngay cả của cái cockpit vẫn chưa tìm ra. Trời đã tối và xác người vung vãi trên một diện tích quá lớn, đơn vị Bộ Binh phải ngưng công việc tìm kiếm tử thi và phi hành đoàn để lo bao vùng phòng thủ vì chắc chắn rằng Việt Cộng sẽ mò vô đêm nay lục lạo

**************

Trần văn Hòa, bóng hình như hiện ra trước mắt, chúng tôi gặp nhau rất thường, hắn lúc nào cũng vui vẻ, khoái chí vì 2 việc mà hắn mơ ước đều thành hiện thực, qua bay Chinook, và về vùng 4 Chiến thuật, sau này khi hắn đưa vợ con về Cần Thơ chúng tôi ít có dịp ăn uống, cà phê cà pháo với nhau nhưng cũng gặp thường ngoài phi đạo, trên đường ra check tàu mỗi sáng.

Ngày còn ở Pleiku, là vào thời gian Phi đoàn tân lập của chúng tôi đang vừa hành quân vừa huấn luyện, chiến trường cũng vẫn đang êm ả, bay bổng rất vui, chiều tối về còn ở lại Phòng hành quân Phi đoàn đấu láo vì đa số còn độc thân, chưa có xe đi, từ phi trường ra ngoài phố Pleiku rất xa, lên núi xuống đèo mấy lần, mà thiệt ra cũng không biết đi đâu nơi cái xứ phố núi đi năm phút đã về chốn cũ nầy.

Lúc đó Hòa đang được dợt để check out Hoa tiêu chánh hành quân nên hắn hơi lo, tuy vậy lúc nào cũng thổ lộ với tôi mơ ước chuyển qua bay Chinook, rồi xin về vùng 4. Hắn thường xuýt xoa: Đã lắm, mầy dzề dzùng 4 bay ê.ê..m lắm, hổng có núi non như dzầy đâu. Còn nhậu nhẹt… thôi…hết biết, tôm cua rùa rắn cua đinh cần đước, muốn con gì cũng có, gái Cần Thơ thì ...chậc...chậc...hết xẩy, hết xẩy luôn, hổng có như ở đây đâu...lần nào nói chuyện hắn đều miên man “tán” về cái vùng 4 mà hắn mơ ước làm tôi nghe riết cũng bắt phát thèm, lúc đó chưa biết cái “ở đây” mà cũng chưa biết cái Cần Thơ ra sao nên còn rạo rực lắm, nghe hắn tán riết tôi cũng đâm ra có ý tưởng nơi thuyên chuyển kế tiếp sẽ là Cần Thơ, và rồi nhờ có số phận đưa đẩy, sau đó tôi và hắn đều chuyển về Cần Thơ. Trần văn Hoà được cho đi học bay Chinook như nguyện vọng, và chuyển về Phi đoàn 249 Mãnh Long, còn tôi rời Pleiku đầu 1974 sau 3 năm biên trấn, về Phi đoàn 217, hành quân khoảng nửa năm, được cho đi học lái Chinook, đang làm thủ tục xuất ngoại thì có lệnh hủy bỏ khóa học vì không có ngân khoản viện trợ , mà BTL/KQ thì không chịu đài thọ nên các SQ khoá sinh đuợc trả về đơn vị gốc, Phi đoàn 217 không muốn cưu mang tôi nữa nên chuyển qua Phi đội Tản thương 259H, và trở thành pilot “Dust-off” từ đó. Vì vậy tôi và Hòa tuy khác đơn vị, nhưng cùng ở chung một phi trường, đó là Căn Cứ 40 Chiến Thuật Không Quân, thường được gọi là phi trường Cần Thơ, vì ở gần thành phố Cần Thơ, để phân biệt với phi trường Bình Thủy, có phi đạo dài hơn cho L19, khu trục, A37 và là BTL của SĐ4KQ.

****************

Trở lại cái ngày định mệnh, đó là một phi vụ chuyển quân, mà lâu quá tôi đã quên tên đơn vị cũng như địa danh, chỉ nhớ vùng đó là khu Tứ giác Dinh điền Phước Xuyên, nằm giữa phía nam của Mộc Hóa và phía bắc của Cai Lậy, Định Tường, tình hình trong khu tứ giác sôi động nên số lượng quân trấn đóng chung quanh luôn được bổ sung đầy đủ và thường hoán chuyển để họ không bị căng thẳng, VC cũng hay quấy rối giữ chân quân ta hầu dễ dàng phá phách những chỗ khác, nơi đây ghi nhận có SA7, một loại hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay để chống phi cơ vì KQVN phải yểm trợ vùng nầy hằng ngày với máy bay đủ loại.

Hoạt động ở đây chúng tôi rất cẩn thận, vì bay thấp thì bị đạn súng cá nhân, tàu bị bắn thủng lỗ là chuyện thường, còn bay thì cao coi chừng SA7, hỏa tiễn tầm nhiệt. Như tên gọi, SA7 hoạt động theo nguyên tắc dò tìm hơi nóng thoát ra từ exhaust phi cơ, nhất là những động cơ phản lực nhiệt độ exhaust cao rất dễ cho SA7 định hướng, dù là vùng đồng bằng nhưng SA7 cũng không bắn ngang hoặc với góc độ thấp được vì vướng cây cối hoặc chướng ngại vật nên thường được bắn với góc độ phải từ trên 30, 45 độ, vừa khai hỏa và còn ở dưới cao độ 3000ft, hoả tiễn bay chậm để tự điều chỉnh hướng, đàng sau đuôi vẫn còn một vùng lửa màu da cam do đó nếu canh chừng kỹ lưỡng có thể thấy được để tránh né, còn khi đã lên cao vùng lửa đỏ không còn nữa và hoả tiễn cũng vụt lên tốc độ rất nhanh, đến giai đoạn nầy thì đã trễ. Đối với UH-1, SA7 cũng “ dễ trị”, biết mình bị bắn, liền cúp ga đưa engine xuống idle để giảm hơi nóng, cơ phi xạ thủ tung ra vài trái sáng tay (được trang bị nếu hoạt động trong vùng có SA7), pilot chúi đầu xuống giảm cao độ tức khắc và quẹo tàu lại 180 độ , hỏa tiễn sẽ đuổi theo hơi nóng của mấy trái hỏa châu và nổ ở đó, hoặc mất phương hướng, bay thẳng lên và nổ đâu đó trên cao luôn. Nguyên tắc tránh né là như vậy, và sẽ thoát nạn nếu thấy được sớm, không biết vị thế của cơ phi, xạ thủ và áp tải Chinook ngồi ra sao, còn trên UH1 họ ngồi nhìn xuống 2 bên nên việc quan sát không khó, vấn đề là khi tránh SA7 đảo xuống thấp thì sẽ đối đầu với những hỏa lực phòng không khác nữa, tránh vỏ dưa rồi sẽ gặp vỏ dừa.

Ngày hôm đó phi đội tôi hết ca nghỉ, một phi cơ ở Cần Thơ đưa những bạn xuống ca về Sài Gòn, đáp tàu ở W7, chúng tôi từ SG sẽ bay chiếc nầy về Cần Thơ để ngày mai bắt đầu 5 ngày làm việc. Cất cánh lúc 3 rưởi hay 4 giờ gì đó, sau khi rời tần số phi trường qua Kiểm báo Paris (Sài Gòn) báo cáo phi vụ, lộ trình… thì vài phút sau, khi vừa qua khỏi Long An, Paris gọi lại, bảo liên lạc với Paddy (Cần Thơ) trên cùng tần số, Paddy chuyển lệnh của Phòng Hành Quân Chiến Cuộc KĐ64CT:

“ Hồng Điểu ### bạn đáp phi trường Mộc Hóa, thả hết hành khách xuống đó, lên lạc với Tiểu khu Kiến Tường và ALO đang có mặt để nhận phi vụ tản thương khẩn cấp, giới chức ra lệnh là :….”

Chúng tôi nhìn nhau, phi vụ khẩn cấp là chuyện thường xảy ra, có thể bị điều động bất cứ giờ phút nào, nhưng lần nầy phải thả hành khách xuống một phi trường nhỏ và thỉnh thoảng bị pháo kích là việc khác, nhỡ có chuyện gì xảy ra thì rắc rối lắm, nhưng giới chức ra lệnh là KĐT ( hay Tư lệnh SĐ, tôi không còn nhớ) nên hẳn là việc quan trọng, thôi thì cứ đáp xem tình hình rồi tính sau. Dĩ nhiên là hành khách nghe tin có vẻ bất mãn lắm. Một anh càu nhàu: Đi Cần Thơ mà bỏ xuống Mộc Hoá là sao? Chúng tôi cũng đành lắc đầu.

Đáp Mộc Hóa, nghe tin dữ, một Chinook PĐ249 chuyển quân bị SA7 bắn rớt, PHĐ và nguyên một trung đội Bộ binh tử nạn, hiện đang điều động thêm phi cơ thả lính xuống bảo vệ khu vực rớt tàu và gom góp xác chết lại vì phi cơ nổ trên trời, xác văng tung tóe khắp nơi. Chúng tôi cũng bị chấn động vì sự thiệt hại lớn quá, không có lựa chọn bàn cãi gì nữa, tất cả hành khách, gồm phần lớn là nhân viên của Phi đội hết ca nghỉ, một vài anh bạn của đơn vị khác quá giang, kể cả vài người bạn Bộ binh, đều phải xuống tại phi trường, chúng tôi gỡ hết ghế để trống sàn tàu, rồi cất cánh lên vùng.

Giữ vòng bay phía bắc khu tứ giác, ở cao độ 1000ft để quan sát, một quang cảnh hãi hùng hiện ra, thân chiếc Chinook chỉ còn thấy được phần sau nám đen, rách te tua như bị xé, nằm không xa bờ kinh Ấp Bắc là mấy, chắc lộ trình của họ là bay dọc bờ kinh, nơi được xem là an toàn nhất, còn xác chết thì ôi thôi, nằm vương vãi khắp nơi, trên một diện tích quá lớn, dù đã được các sĩ quan Tiểu khu thuyết trình lúc nãy, chúng tôi vẫn thấy bàng hoàng vì cảnh tượng trước mắt, thật là thảm thương, như thế nầy, không ai có hy vọng sống sót.

Lực lượng lính vừa tăng cường lo gom xác lại, cả vùng nước ngập lúp xúp, cỏ năng cỏ lác mọc cao ngập đầu người, xác chết dễ thấy từ trên cao, nhưng càng xuống thấp càng khó thấy, nhiều chỗ nước sâu, xác nằm dập dình nửa trên nửa dưới đi sát bên cạnh đám cỏ rậm rạp chưa chắc đã nhìn thấy được, công việc của những người lính thu nhặt xác chết quả là gian nan, và chắc chắn là kéo dài, mà giờ đó trời đã về chiều, chỉ vài giờ nữa thôi mặt trời sẽ lặn, họ sẽ làm sao đây?

Những xác thu gom được, trong đó có người của phi hành đoàn, đã được xếp nằm trên bờ đê, nơi chúng tôi sẽ xuống bốc, mấy tiếng đồng hồ vừa qua, họ đã gom được khoảng trên 2,30 xác, và vẫn đang lùng xục trong đám “rừng” cỏ để tìm kiếm, hơn nữa, phần đầu phi cơ với 2 pilot vẫn chưa được tìm thấy nên công cuộc tìm kiếm chắc khó thể chấm dứt đêm nay.

Chúng tôi đáp xuống bờ đê, xác chết được tuần tự khiêng lên, nhìn gần mới thấy kinh hãi, tàu phát nổ nên nhiệt độ và áp suất quá lớn, phần lớn thi thể đều bị cháy đen, nứt nẻ, đa số cũng bị bể bụng, ruột gan lòng thòng ra ngoài, xác nào cũng ướt sũng máu và nước ruộng, nhiều xác bị sức ép mạnh quá bay mất quần áo, có xác chỉ còn lại chiếc dây nịt và dây thẻ bài. Một pilot tản thương đã nhìn thấy bao nhiêu xác chết mà tôi cũng còn thấy rúng động. Thật là thảm khốc. Thi thể một người trong PHĐ còn lại được một phần áo, trên tay vẫn còn phù hiệu SD4KQ, khuôn mặt ướt đẫm, đầu gục xuống vai, đằng sau họ là cả đống ba lô bèo nhèo tơi tả, gia tài của những người lính, và xa hơn chút nữa là mớ vũ khí thu nhặt lại được. Xác chết lần lượt được chở về sân bay Mộc Hóa, từ đó có xe Hồng thập tự đưa về nhà xác lo phần việc kế tiếp. Sau mấy chuyến đầu đơn độc, chúng tôi được tăng cường thêm nhiều phi cơ nữa, nhưng lúc đó thì việc nhặt xác bị chậm lại , vì chỉ còn những xác chết rớt sâu bên trong khu vực, cần đổ thêm quân và Trực thăng võ trang để bảo vệ họ, và bảo vệ vùng phi cơ rớt để tiếp tục tìm phần đầu và 2 pilot của chiếc phi cơ xấu số.

Lúc chúng tôi rời vùng để về Cần Thơ, trời đã tối mịt, quay trở lại Mộc Hóa đón hành khách của mình theo lời hứa ban chiều thì không còn thấy ai nữa, họ đã theo những chiếc khác về hết rồi, nhìn lại tàu của mình, chở ai được nữa đây khi tàu không ghế, sàn tàu ướt sũng những máu, nước, bùn sình và hôi mùi khét lẹt, chúng tôi cũng không khá hơn gì con tàu, cũng dính đầy máu, nước, bùn sình và mùi thịt cháy khét lẹt trên quần áo, là những bộ đồ đẹp nhất để mặc những ngày về phép .

Trên đường bay về Cần Thơ, chúng tôi im lặng, thương cho số phận các bạn mặc dù chưa biết họ, ai cũng ngậm ngùi nghĩ đến chữ Phi hành đoàn: đơn giản, nhưng lại gắn bó, một tai nạn xảy ra là cả PHĐ đều theo nhau vĩnh biệt.

Dường như chưa đủ thấm thía, số phận lại éo le hơn nữa khi vài hôm sau, tôi lại lái một trong hai chiếc đưa xác PHĐ Chinook bị nạn về Tân Sơn Nhất. Vì là một Phi đoàn trưởng, Cố Trung tá Trung được đưa tiễn bằng một nghi lễ từ giã của Bộ chỉ huy Căn cứ 40 và các Sĩ quan đồng đẳng cấp, chúng tôi đưa tàu đến dưới chân Đài kiểm soát Không lưu chờ đợi, và rồi thì sau cùng, 2 chiếc UH-1 cất cánh đưa thi hài các tử sĩ vĩnh viễn lìa khỏi chiến trường để về nơi an nghỉ. Trong nắng mai, 2 chiếc phi cơ lần lượt vượt qua sông Hậu Giang, lấy cao độ, bỏ lại sau lưng thuyền ghe ngược xuôi dập dềnh trên sông nước, bến phà Cần Thơ vẫn lao xao chen chúc bóng người, đó chắc là hình ảnh mà Trần văn Hòa hằng mong ước được thấy như đã từng tâm sự. Nhìn lại xác bạn đàng sau, tôi nói với hắn lần cuối:

Hòa ơi, mầy mong về vùng 4, về được rồi sao không chịu ở mà lại bỏ đi ...

cổ họng tôi nghèn nghẹn, mắt thấy cay cay.

Mây trắng vẫn lững lờ trôi, trời vùng 4 vẫn trong xanh, nắng vùng 4 vẫn rực rỡ. Hai chiếc phi cơ im lặng theo nhau. Không xa, hướng 10 giờ dưới thấp là Dinh điền Phước Xuyên, nơi trái SA7 hôm đó đã nổ.

*************

Hơn 30 năm sau, trong một lần mò mẫm trên internet, tôi tình cờ lọt vào một website liệt kê các phi cơ mà quân đội Mỹ đã xử dụng, trong danh mục phi cơ trực thăng Chinook, có giòng chữ vô tri như sau:

Chinook CH47A(?) sn19010 crashed MocHoa, Vietnam by SA7 12/12/74. 50 killed.

30 năm sau , tất cả chỉ còn có vậy. Hòa ơi.


Vĩnh Toàn

Ướt Cánh - Song Chùy 213 ngày cuối cùng tại Đà Nẵng - Tiểu Chùy

thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Truyện VNAF Sat, 20 Oct 2018 20:16:26 +0000
Ướt Cánh - Song Chùy 213 ngày cuối cùng tại Đà Nẵng - Tiểu Chùy https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vn/item/166-u-t-canh-song-chuy-213-ngay-cu-i-cung-t-i-da-n-ng-ti-u-chuy https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vn/item/166-u-t-canh-song-chuy-213-ngay-cu-i-cung-t-i-da-n-ng-ti-u-chuy Ướt Cánh - Song Chùy 213 ngày cuối cùng tại Đà Nẵng - Tiểu Chùy

Trời vừa hừng sáng, tôi và anh Nguyễn Q. Minh cùng gia đình từ khu main compound vội vã lên Phi Đoàn. Vừa bước vào cửa, cả hai chợt bàng hoàng vì khung cảnh hỗn độn trước mặt. Trời đất. Đồ đạc trong phòng đổ ngổn ngang, vài chiếc áo bay ai đó cởi ra ném giữa hành lang Phi Đoàn. Không một bóng người. Tôi vội gõ cửa phòng Tr/t Phi Đoàn Trưởng theo thói quen trước khi trình diện, không nghe có tiếng trả lời, tôi đẩy cửa bước vào và không còn tin vào mắt mình: dưới đất là chiếc áo bay của ai đó, vật dụng văn phòng nằm vương vãi khắp nơi.

Tôi trở ra tìm anh Minh, anh và người vợ sắp cưới cùng mấy người em vợ đứng trước phòng trực Phi đoàn sững sờ.

- Mình lên trễ rồi anh Minh ơi...

Anh Minh nhìn quanh rồi bất chợt nói như ra lệnh:

- Thôi đi ra ngoài phi đạo tìm tàu đi.

Cả bọn vội vã băng qua sân trống trước cổng PĐ213 dẫn vào bãi đậu trực thăng. Cũng không một bóng người. Đây đó rải rác vài ba chiếc trực thăng nằm cô đơn. Tôi và anh Minh chia nhau xem xét tàu, toàn là những chiếc bất khả dụng bị bỏ lại đêm qua...

Đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm1975.....

Một đêm kinh hoàng nhất và cũng là cuối cùng của SĐ1KQ. Tôi vừa qua ca SQ trực Phi Đoàn hôm trước nên hôm nay được nghỉ, anh Minh đem gia đình bên vợ vào khu cư xá SQ, định sáng mai sẽ đưa lên Phi Đoàn tìm phương tiện di tản về Nam theo như chỉ thị của Đ/u Tuấn, SQ Hành Quân. Phòng anh Minh thuộc dạng độc thân nên anh „gởi“ tôi 2 người em trai bên vợ để nghỉ nhờ, phòng nằm đối diện với phòng anh trong dãy nhà số 1, trước đây của Tr/u Hiến IP chuyển sang PD 233 nên để lại, sát cổng ra vào khu cư xá, nhìn ra ngoài là cổng gác của Quân Cảnh với người gác cổng đêm ngày thường trực. Trời vừa tối, Việt cộng bắt đầu pháo kích, càng lúc càng nhiều hơn so với mấy đêm trước. Tiếng nổ chát chúa từng hồi, bọn tôi chạy ra khỏi phòng ngồi núp dưới cầu thang xi măng dẫn lên tầng trên của nhà số 1. Bỗng dưng mấy tiếng rít kinh hồn xé tai rồi ngay sau đó, những tiếng nổ thật gần, âm thanh đổ nát rợn người gần sát bên tai. Bên kia đường là kho chứa nhiên liệu, bị trúng pháo bốc cháy dữ dội, cả khu main compound sáng rực. Một ít người tò mò ra đứng xem rồi bất chợt nằm xuống khi nghe tiếng rít tiếp theo của hỏa tiễn bay tới. Đêm trước một trái rơi vào phòng tài vụ của cư xá nầy phá huỷ mặt trước nhà, may mắn không ai hề hấn gì. Tôi còn đang băn khoăn không biết tháng nầy lãnh lương được không vì cũng đã gần cuối tháng. Chịu đựng qua một đêm không ngủ như thế, sáng sớm ai nấy đều bơ phờ vì mệt mỏi, đã vội vã đùm túm chạy lên Phi đoàn nhưng hỡi ơi đã trễ...

Đang lúc bị pháo kích, chúng tôi nghe tiếng máy bay cất cánh ào ạt nhưng không để ý, một phần vì đã quen với tiếng phi cơ bay trực đêm, một phần đó cũng là tiêu lệnh của đơn vị khi bị pháo, một số hoa tiêu trực có bổn phận cất cánh di tản tàu tạm thời để tránh bị thiệt hại. Đêm nay các pilot trực thăng, chiếc trước chiếc sau cất cánh rời phi đạo, có ai biết đó là lần cuối cùng và vĩnh viễn không trở lại....

Đứng trên parking trực thăng một mình, chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn và trống vắng đến như thế. Cảm giác chim lạc đàn chắc cũng thê lương đến như thế là cùng, có điều tôi không thể cất tiếng kêu não nuột được như loài chim. Từ khi về trình diện Phi Đoàn, gần 1 năm sống với đơn vị, Phi Đoàn tôi giống như một gia đình thứ hai mà người gia trưởng là vị PĐT khả kính, đã cùng với đàn anh chia ngọt xẻ bùi, tung hoành khắp nẻo từ Sa Huỳnh Quảng Ngãi ra đến Quảng Trị, dọc ngang theo chân các đại đơn vị Dù, TQLC, cùng các SĐ Bộ Binh, cùng với các anh em HSQ Cơ Khí Viên, Xạ thủ phi hành kết gắn với nhau tình như thủ túc. Giờ tất cả đang ở đâu? Tôi như đang chết ngợp trong cảm giác bị bỏ rơi...

Có tiếng anh Minh gọi:

- Mình sang phi đạo 253 xem coi còn chiếc nào không?

Vội vã tôi cùng anh Minh lùng sục ngoài parking, vào trong các hangar tìm kiếm, một số chiếc nằm trong hangar có vẻ còn tốt nhưng khi check lại thì cũng bất khả dụng. Loay quay cho đến gần trưa mà vẫn chưa tìm ra một lối thoái, bỗng có tiếng máy bay Boeing lượn trên bầu trời, một chút hy vọng lóe lên trong ánh mắt cả bọn. Ô kìa quả thật chiếc phi cơ dân sự đang đáp xuống từ hướng Bắc sau khi đánh một vòng trong vịnh Nam Ô. Chúng tôi cả bọn vội chạy ra taxiway nhìn sang runway phía Tây nơi chiếc Boeing 727 của World Airway đang đáp xuống. Chiếc phi cơ dân sự cuối cùng từ Saigon ra, vừa chạm bánh thì bỗng dưng có tiếng pháo kích, hỏa tiễn địch rơi ngay trên phi đạo. Bên trong Taxiway phía Tây, một đoàn người, đa số là lính, có lẽ là các đơn vị SĐ3BB, từ cổng Phước Tường ùa ra phi đạo rượt theo chiếc phi cơ đang taxi chầm chậm, cửa sau đuôi từ từ hạ xuống, mặc cho pháo kích nổ om trời. Một số người nhanh nhẹn bám theo được phi cơ, một số cố đuổi theo tạo nên một chiếc đuôi dài bất bận trên phi đạo. Có lẽ Phi hành Đoàn cũng nhận thấy sư nguy hiểm do pháo kích và có thể bị tràn ngập bởi khối người nên không dám dừng lại, đoàn người cứ đuổi theo, đuổi theo... Phi cơ taxi đến cuối phi đạo thì quẹo vào taxiway phía đông (có lẽ vì runway đang bị pháo kích nên không thể cất cánh), tôi và anh Minh mừng quá định chạy ra chận đầu để leo lên thì từ đầu taxiway, phi cơ tăng tốc độ, tiếng máy phản lực gầm rú rền trời rồi lạnh lùng cất cánh trên taxiway về hướng Bắc khi cửa đuôi chưa kịp đóng lại, một vài người chưa kịp vào trong đã bị rớt lại trên phi đạo.... Bánh đáp không cần xếp lại, chiếc phi cơ đảo một vòng ra hướng biển, lấy cao độ và nhỏ đần trên bầu trời sớm mai xanh ngát, giống như hy vọng tắt dần trong lòng mỗi người chúng tôi. Chắc hẳn trong lòng anh Minh còn nôn nóng hơn khi nhìn thấy dáng dấp tuyệt vọng của người thân, mấy đứa em đang đứng lặng yên chịu đựng.

Quay tới vòng lui ngoài parking phi đạo, nhìn sang phía Tây, phi trường giờ như đã bỏ ngõ, dòng người gồm lính tráng lẫn dân sự tràn vào mỗi lúc một đông và đang túa ra phi đạo, có lẽ không lâu nữa sẽ sang đến chỗ chúng tôi. Thôi hết rồi, sự sợ hãi bắt đầu nhen nhúm, nhất phi nhì pháo, nếu mà chúng nó „tóm“ được bọn tôi thì chỉ còn nước... chết. Anh Minh đi tới đi lui một cách mất kiên nhẫn.

Chợt có tiếng máy trực thăng đang start đâu đó, ôi tiếng hú thân quen của UH làm chúng tôi choàng tỉnh. Từ phi đạo 253 một chiếc trực thăng đang lê về hướng chúng tôi đang đứng, parking của 213. Trên tàu đã đầy người nhưng Pilot dường như muốn hốt luôn cả chúng tôi nên từ từ ngừng lại. Bỗng nhiên một đám người từ đâu cũng nhào tới leo lên tàu, bọn tôi cũng chạy lại, anh Minh đỡ chị cùng các em lên vào cửa bên trái, tàu chật cứng rồi, anh cố chui vào, tôi đứng bên cạnh ngần ngừ, chỗ đâu nữa mà leo lên, là dân pilot, tôi biết sức con tàu. Đang loay hoay định tìm chỗ leo lên thì chiếc trực thăng nhúc nhích như muốn di chuyển mà không được, tiếng pilot la lớn phía trước:

- Xuống bớt, xuống bớt... không cất cánh được.

Tiếng máy trực thăng hú to, cánh quạt quay vùn vụt nhưng tàu vẫn nằm yên, trên tàu không một ai nhích nhích. Thấy cảnh tượng như thế thì không còn muốn leo lên nữa, tôi với tay đưa túi xách với một ít đồ dùng cá nhân (chiếc túi đựng helmet) cho anh Minh nhờ anh đem về trước giùm và từ biệt:

- Thôi anh Minh cùng chị đi trước đi, tôi tìm cách khác..

Đột nhiên một người từ trên tàu nhảy xuống, tay cầm khẩu M16 chĩa vào những người ngồi trên tàu la lớn bằng giọng Huế:

- Đ.M. có chịu xuống không? Không xuống tao bắn chết hết bây giờ...

Giọng nghe quen quá, tôi xoay qua nhìn và thảng thốt. Trời ơi, thượng sĩ C, con chim đầu đàn của anh em Cơ Phi Xạ Thủ 213 đây mà. Có lẽ kinh nghiệm chiến trường đã dạy anh cách xử sự trong những tình huống như thế. Tuy nhiên tôi hơi bị xốc khi chứng kiến tận mắt cảnh chĩa súng vào đồng đội để tìm đường mưu sinh như vậy. Gia đình anh đang ngồi trên tàu, có lẽ anh không còn cách nào khác nếu muốn cứu họ cũng như cứu cả đám người ngồi trên đó. Một phút căng thẳng trôi qua, th/s C la hét thêm đôi ba lần nữa. Tôi thấy trên tàu lao nhao rồi 3 anh lính trẻ mặc đồ bay nhảy xuống hai bên tàu. Đó là mấy anh em Cơ Phi Xạ Thủ thuộc 253. Tàu nhúc nhích, anh C vội vàng quăng khẩu M16 xuống đất và phóng lên tàu. Chiếc trực thăng bắt đầu lết từng chút tới trước rồi từ từ trượt trên sân đáp 213 một đoạn khá xa trước khi rời khỏi mặt đất...

Thế là hết. Thôi, cầu mong cho tàu vượt thoát được bình an, thà bỏ lại năm ba người còn hơn là ở lại tất cả, nhất là khi nhóm người bên phía Tây phi trường đang tràn qua gần tới. Nhìn theo chiếc tàu thân yêu cuối cùng đang cuối đầu xuôi về phương Nam, lòng tôi đau thắt, các anh em kia ngồi bệt xuông đất, khuôn mặt thật ê chề, tuyệt vọng.

Thẫn thờ như những kẻ mất hồn, trời đã trưa, nhìn ra phi đạo, bên phía Tây người đổ vào phi trường ngày càng nhiều, tôi nghĩ chắc không bao lâu nữa vc cũng sẽ vào từ cổng này. Nghĩ đến đây, tôi như chợt tỉnh, phải tìm cách thoát ra khỏi phi trường trước khi quá trễ. Nhìn những anh em còn ở lại, tôi tự giới thiệu:

- Tôi là bạn cùng khóa bay với anh Hạo, anh Phồi, anh Đại... thuộc Phi đoàn của mấy anh. Bây giờ thì chẳng còn tìm đâu ra tàu để bay nữa, thôi anh em mình tìm cách khác đi...

Chúng tôi bàn tính một hồi rồi quyết định chạy sang bãi biển Mỹ Khê tìm chút hy vọng bằng đường biển. Một người cúi xuống lượm khẩu súng của th/s C quăng lại rồi uể oải kéo vào PĐ213. Chúng tôi lục lọi tìm mấy bộ đồ dân sự trong các túi xách còn bỏ lại nằm vương vãi khắp trong nhà và thay vội.

Cả bọn bốn người đi bộ ra cổng chính của phi trường. Cổng bít kín, chỉ còn một lối nhỏ bên phía trạm kiểm soát nhưng không còn ai canh gác, phía ngoài nằm ngổn ngang đủ các loại xe vô chủ của những người vào phi trường bỏ lại. Chúng tôi chọn một chiếc xe jeep mui trần, một anh nhảy lên nổ máy, may mắn quá, chiếc xe vẫn còn tốt, cả bọn vui mừng leo lên chạy về hướng cầu Trịnh Minh Thế và tiến về phía bờ biển Mỹ Khê.

Dọc dường, từng đoàn người nhốn nháo ngược xuôi, cảnh hỗn loạn chưa từng thấy trong thành phố Đà Nẵng êm đềm thân yêu ngày nào. Tôi yêu Đà Nẵng vì như một Sài gòn thu nhỏ, Đà Nẵng hiện đại mà trang nhã trong kiến trúc, kèm theo phong cảnh đẹp nên thơ của phố biển với những thắng cảnh nổi tiếng...Những ngày tháng học bay rồi được phục vụ tại đây, chúng tôi như thuộc lòng từng con đường góc phố, lang thang cuối tuần khắp lối với bao nhiêu kỷ niệm chất chồng... Đà Nẵng giờ đang trăn trở với nỗi đau của dòng người tị nạn từ mọi nơi đổ về để tìm sự che chở cuối cùng.

Qua khỏi cầu quẹo trái, chúng tôi đổ về hướng Mỹ Khê, chạy thêm một đỗi thì không thể tiếp tục được vì xe cộ nằm ngổn ngang trên đường, kể cả các xe thiết vận xa. Quăng xe một bên đường, bọn tôi đi bộ ra hướng biển, trời đã xế chiều... Trời đất, người đâu mà đông nghẹt, đa số là quân nhân, có người còn cả vũ khí, trải dài suốt theo chiều dài vòng cung của bãi biển. Nhìn ra biển xa xa là những chiếc tàu Hải Quân đang đậu ngoài khơi, xa tầm pháo kích, một vài chiếc ghe nhỏ đang chạy tới lui từ phía núi Sơn Chà, có lẽ đang chuyên chở khách ra tàu. Với số người trên bãi biển dù hàng ngàn chiếc ghe như thế chưa chắc đã bốc hết huống chi chỉ một vài chiếc và ở tận góc núi cách chúng tôi hàng mấy cây số... Sự tuyệt vọng hằn lên gương mặt của mỗi con người. Làm sao để lên được các chiếc tàu HQ đang đậu ngoài kia, đó là lối thoát duy nhất của mọi người trong lúc này....

Xa xa, cách bờ biển khoảng trăm mét là một số tàu đánh cá đang bỏ neo, lắc lư theo cơn sóng và vô chủ. Tôi chợt nghĩ nếu chúng tôi lên được một trong những chiếc ấy thì chắc có cơ hội chạy ra tàu Hải Quân được, nhưng với một khoảng cách xa như thế thì người thường làm sao có thể bơi tới. Trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng, chúng tôi lê lết đôi chân không còn sức lực sau gần một ngày không ăn uống, trước mặt là một xóm nhà chài lưới, bên cạnh có một chiếc xuồng nhỏ đang úp phơi trên cát. Tôi bỗng nghĩ ra cách, và như thế là cả bọn xúm lại lật xuồng lên, kéo xuống biển chẳng cần biết chủ nhân là ai, một anh xạ thủ ôm súng theo canh chừng, vài ba người đứng gần thấy vậy cũng nhào vô giúp một tay. Hì hục một hồi, chiếc xuồng nhỏ cũng xuống được tới nước, chúng tôi leo lên chiếc xuồng mỏng manh rồi cố dùng đôi tay bơi ra hướng chiếc ghe đánh cá đang bỏ neo vì không có dụng cụ chèo chống... Xuồng nhỏ chở nhiều người nên di chuyển nặng nề, cứ vừa nhếch ra được vài thước thì một làn sóng lớn đẩy xuồng trở lại vào bờ. Bao nhiêu lần đều như thế, nước biển lại tràn vào xuồng xấp xỉ gần chìm, chúng tôi phải leo xuống tát nước ra rồi tiếp tục bơi. Một số người thấy khó ăn đã bỏ cuộc lên bờ. Tôi cố thuyết phục anh em ráng sức bơi nhân lúc yên sóng, chỉ cần thoát ra được khỏi đường ranh sóng đập vào bờ thì tới vùng nước sâu và không còn bị sóng giật trở lại nữa. Có lẽ nhờ một số người bỏ cuộc nên xuồng nhẹ hơn trước, chúng tôi chậm chạp thoát ra được làn sóng giật và bắt đầu hướng ra biển. Với tất cả sức lực còn lại sau gần một ngày mệt nhoài, chúng tôi đã đến được chiếc ghe đánh cá đang bỏ neo gần nhất. Kiểm điểm lại nhân số trên nghe, ngoài bọn tôi bốn người còn có thêm một phụ nữ và vài ba người nữa. Tôi đi một vòng ghe xem xét, ghe đánh cá trên biển nên trang bị khá đầy đủ, máy ghe 1 block của Ấn Độ mà tôi đã có dịp sử dụng lúc còn trẻ theo người thân lênh đênh trên sông rạch miền Nam, cũng không tệ, lại có cả tay quay máy trong khoang nên tự tin mình có thể thoát được. Các anh em nhìn nhau nghi ngờ vì không biết làm sao có thể điều khiển chiếc ghe chạy được. Tôi trấn an :

- Đừng lo, tôi biết lái. Trên ghe lại có sẵn hai thùng phi dầu đầy, nếu mình không thể lên tàu HQ thì chúng ta vẫn có thể chạy về tới Vũng Tàu dư sức. Chuyện bây giờ là làm sao cho máy nổ và một người phải ôm súng canh chừng các người lạ trên tàu.

Thế rồi tôi thử vào phòng máy và bắt đầu quay máy. Một lần, hai lần, ba lần... máy vẫn nằm yên không nổ. Tôi kiệt sức, một người khác vào quay tiếp... Lần lượt xoay hết bao nhiêu vòng, ai nấy đều mệt nhoài mà máy vẫn không nổ. Cả bọn bắt đầu sốt ruột. Bỗng nhiên từ phía bờ, dáng một người đang bơi về phía chúng tôi. Quả thật là dân biển, anh ta bơi tới ghe và leo lên một cách dễ dàng:

- Các anh để em quay cho, đây là ghe của em.

Tôi hơi ngượng:

- Xin lỗi, chúng tôi chỉ muốn ra tàu HQ ngoài kia. Nhờ anh giúp chúng tôi, sau đó anh có thể lái ghe trở vào.

- Dạ được...

Anh lòn tay vào bên dưới động cơ mở khóa gì đó, sau đó nhẹ quay vài vòng, động cơ giật giật vài cái rồi phát nổ. Thì ra máy còn có một khóa điện phụ được chủ ghe dấu kín bên dưới máy. Cả bọn reo lên mừng rỡ như vừa chết đi sống lại. Tôi vội chạy ra phía sau chụp tay lái và cho ghe hướng ra khơi. Một người kéo neo lên, anh chủ ghe thì ngồi trong phòng máy canh tới canh lui. Tôi nghĩ có lẽ từ trong bờ nhìn ra thấy bọn tôi leo lên ghe, anh vội vã bơi ra để giữ ghe, khi thấy những khuôn mặt „cô hồn“ chúng tôi thì cũng hơi ngại. Cả bọn vui mừng chưa được bao lâu, chiếc ghe vừa lấy được hướng ra khơi thì bỗng dưng phía trước ghe chúng tôi có tiếng nổ bụp bụp cùng với các cột nước văng tung tóe xung quanh. Có tiếng la lên:

- M79, mình bị bắn...

Ai nấy đều hoảng. Thì ra các bạn ta từ trên bờ thấy ghe chạy được nên muốn buộc chúng tôi quay đầu lại bốc họ. Nếu quay lại thì chỉ có con đường chết vì ghe sẽ bị tràn ngập. Tôi đánh liều tiếp tục, vừa lái ghe vừa mọp xuống như để „né“ lằn đạn trong khi mọi người đã nằm sát xuống lòng ghe. Thêm một loạt tiếng nổ chận đầu ghe, cũng may, đầu đạn nổ dưới nước nên chúng tôi không bị miểng phang trúng, tôi vội bẻ tay lái đưa ghe chạy theo đường chữ „Z“ để „tránh né“ và nhắm hướng các chiếc tàu HQ đang đậu ngoài khơi trực chỉ. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ các bạn ta trên bờ chỉ muốn dọa chúng tôi nên bắn chận đầu ghe thôi, chứ nếu muốn bắn chết thì làm sao chúng tôi thoát được. Chốc sau thì thoát ra khỏi tầm bắn, hú hồn hú vía cả bọn... mọi người thở phào và mặc dù mệt mỏi, vẫn nghe tiếng reo hò vui vẻ xôn xao om trời...

Trước mặt chúng tôi có it nhất là 3 chiếc tàu lớn của Hải Quân Việt Nam đang đậu, tôi chưa biết chạy đến chiếc nào thì chợt thấy trên boong một chiếc tàu có một phi cơ trực thăng đang đậu. Tôi quyết định lái về chiếc đó, ít nhất cũng có người của phe ta.

Chúng tôi tiến gần đến đến tàu và quăng tất cả vũ khí xuống biển trước khi cập vào tàu lớn. Ban đầu họ chĩa súng ra dấu không cho chúng tôi sáp gần lại và sau một hồi quan sát, thủy thủ trên tàu làm dấu cho chúng tôi cập vào bên hông. Với sự giúp đỡ của các thủy thủ tất cả chúng tôi lần lượt leo lên tàu, anh chủ ghe còn lại vội vã lái chiếc ghe nhỏ tách ra và chạy trở vào đất liền.

Đây là một Dương Vận Hạm HQ...tôi không nhớ số, trên tàu là Lữ Đoàn TQLC Tân Lập 468 vừa được bốc ra từ Hải Vân và đang chờ khởi hành. Các binh sĩ TQLC nằm chật cả boong tàu, chính giữa là chiếc trực thăng của Hoàng Ưng 239. Chúng tôi lòn lách qua khối người nằm ngang dọc khắp nơi, khá vất vả mới đến được chiếc trực thăng đang nằm. Gặp Ngụy Hùng, copilot, là bạn cùng khóa với tôi. Mừng quá, cả bọn nhập chung với phi hành đoàn thành một nhóm KQ trên tàu, Hùng giới thiệu tôi với anh trưởng phi cơ, một Trung Úy pilot của PĐ 239 gốc người Huế. Nghe kể vị Lữ Đoàn Trưởng muốn trưng dụng chiếc trực thăng nầy cho nhu cầu công vụ nên phi hành đoàn rất được biệt đãi.

Hoàng hôn đã xuống. Mặt trời đang từ từ chìm xuống phía sau dãy núi phía Tây Đà Nẵng... Đứng trên boong tàu nhìn vào Đà Nẵng mờ khuất dưới làn sương chiều lòng tôi quặn thắt. Chỉ gần hai năm sống ở đây nhưng Đà Nẵng trong tôi với biết bao kỷ niệm. Nhìn lên vòm trời bao la, xa xa là viền núi xanh chập chùng, nơi chúng tôi hàng ngày bay lượn, cùng các đàn anh chia mồ hôi và lửa đạn. Tôi chợt nhớ tới anh Minh và gia đình không biết bây giờ đang ở đâu, hành trình có suôn sẻ không, hay phải hạ cánh ở một nơi nào đó trên đường xuôi Nam vì tàu quá tải, trục trặc hay vướng phải đạn thù. Quảng Ngãi nằm trên lộ trình về Nam đã bị mất, đường đã bị cắt, mấy hôm trước chúng tôi còn lãnh nhiệm vụ đi bốc các viên chức hành chánh ở Chu Lai nhưng không thành công vì sự hỗn loạn của đoàn người di tản đổ về đây. Tôi nhớ anh Minh với những chuyến bay di tản thương binh Dù từ dãy núi Sơn Gà phía Tây về bệnh viện Đà Nẵng vừa mới hôm nào. Sau khi quận Thường Đức thất thủ, một cửa ngõ từ vùng núi Trường Sơn xuống đồng bằng, Việt cộng lần lượt chiếm các cao điểm Tây Đà Nẵng và pháo kích hằng đêm vào thành phố. BTL Dù chuyển về phi trường Non Nước, các tiểu đoàn Dù trải thành một cánh cung từ đèo Hải Vân về tới mỏm núi Sơn Gà và vòng đai ngày càng bung rộng ra, những người lính dù can trường đã anh dũng chiến đấu trên những mỏm núi, giành giật từng thước núi, từng hang hốc trên dãy núi cao. Tôi và anh Minh đã bay nhiều phi vụ tản thương và tiếp tế cho các đơn vị nầy, sáng sớm bay qua phi trường Non Nước, vào BTL dã chiến Dù đặt trong một hangar cũ, tấm bản đồ hành quân trải rộng trên bàn. Nhận lệnh xong, chúng tôi cùng một anh SQ Dù đi theo, nhận tiếp tế và bay vào vùng núi Sơn Gà theo sự hướng dẫn và liên lạc của anh, bỏ hàng xuống, bốc thương binh trở ra, người bị thương nhẹ thì đưa vào bệnh xá dã chiến của Dù cũng tại Non Nước, nặng thì về bệnh viện Đà Nẵng. Các cao điểm bị địch chiếm để pháo kích vào Đà Nẵng lần lượt được các chiến sĩ Dù tái chiếm, mang lại bình yên cho dân thành phố một thời gian dài cho đến khi các lực lượng Dù và TQLC rút đi. Giờ thì thành phố xem như đã bỏ ngỏ chờ địch. Tôi biết rằng sẽ không bao giờ còn có dịp nhìn lại Đà Nẵng thân yêu nữa....

Chúng tôi cùng phi hành đoàn chiếc trực thăng trên tàu HQ chia nhau chút đồ ăn của tàu phân phối rồi tìm chỗ nghỉ lưng bên trong và phía dưới bụng phi cơ. Tối đến, các chiếc tàu cùng nhổ neo và trực chỉ Cam Ranh. Các binh sĩ TQLC có lẽ cũng đã quá mệt mỏi sau những ngày gian khổ, hầu hết đã ngủ yên nên dù đông người, trên tàu chỉ còn nghe rì rào của gió và sóng biển. Dù mệt mỏi, tôi vẫn không thể chợp mắt được. Bao nhiêu biến cố xảy ra trong ngày như một cơn mơ, nhanh quá, bất ngờ quá, tàn nhẫn quá... Tôi đã thoát nạn nhưng số phận của bao nhiêu người thân còn ở lại sẽ ra sao? Tôi không dám nghĩ tiếp...

Gần trưa hôm sau thì tàu cập bến Cam Ranh. Tất cả binh lính trên tàu được lệnh xuống tàu nghỉ ngơi trong khi chờ tàu làm vệ sinh và nhận tiếp liệu. Chiếc trực thăng cũng được lệnh phải bay ra đáp xuống sân quân cảng bên cạnh. Anh TPC (PĐ 239, tôi không nhớ tên) bảo bọn chúng tôi xuống tàu trước đến bãi bên cạnh chờ, phi cơ sẽ bay xuống sau. Ngụy Hùng trước đó đưa cho tôi một ít tiền để „phòng thân“, tôi không ngờ đó là một cách từ biệt kín đáo. Chúng tôi đến một bãi trống nơi trực thăng „dự định“ sẽ đáp. Chiếc trực thăng nổ máy, từ từ cất cao khỏi boong tàu, mũi chúi xuống vào hướng đất liền rồi... bay vút. Ôi... cánh chim sổ lồng thì làm sao để giữ. Mấy anh TQLC ngó theo chửi mấy câu nhưng khi thấy bọn chúng tôi đang lớ ngớ dở khóc dở cười chắc cũng động lòng... thương hại bèn an ủi một câu nghe „trớt quớt“:

- Chắc mấy ổng bay về căn cứ Phan Rang, thôi mấy anh chịu khó đến đó rồi gặp nhau chứ gì...

Đúng là một cách đuổi khéo, chắc là trách cả nhóm chúng tôi vô tình vô nghĩa. Trời ạ, biết Phan Rang ở đâu mà tìm, hơn nữa cả bọn không còn một miếng giấy lộn tùy thân, đến đó ai cho vô căn cứ. Thôi, đã lỡ „ướt cánh“ rồi thì phải dùng đôi chân vậy. Chúng tôi lặng lẽ kéo nhau ra khỏi cảng, tìm đường ra quốc lộ 1. Có được chút ít tiền của Hùng, chúng tôi chia nhau lót dạ một ít, còn một ít dành trả tiền xe. Tôi đề nghị với mọi người:

- Phi đoàn tôi (213) có một phi đội đang biệt phái ngoài Nha Trang, mình trở ra đó tìm và tháp tùng về Sài Gòn, nếu bất đắc dĩ không gặp thì tôi còn một số người quen ngoài đó sẽ nhờ giúp phương tiện về.

Một người góp ý:

- Bây giờ mọi người đều chạy vào, mình lại trở ra coi chừng nguy hiểm.

Tôi quyết định:

- Thôi bây giờ đã tạm yên rồi, anh em muốn đi hướng nào thì cứ đi. Riêng tôi sẽ ngược ra Nha Trang tìm đường về.

Có 2 người theo tôi, một người nhất định xuôi nam. Tôi chia đều tiền cho mỗi người rồi ra quốc lộ đón xe ngược về Nha Trang. Một chiếc ngừng lại, tiền không đủ cho 3 đứa, chúng tôi thương lượng với chủ xe và ca bài con cá. Xe chạy vào thì chiếc nào cũng đầy người nhưng xe trở ra thì trống trơn nên chủ xe sau một chốc suy nghĩ bèn đồng ý. Có chút ít còn hơn chạy xe không…

Trở ra Nha Trang, không một tờ giấy lộn tùy thân, không nơi cư ngụ, tôi tìm về ngôi nhà trọ trước đây khi đi thụ huấn khóa 1 Sĩ Quan Bổ Túc QS lúc trước, có mấy thằng bạn cùng khóa bay đang theo học khóa 2 ở đây. Lúc nầy Nha Trang đã hỗn loạn, khóa học bổ túc QS đã ngừng và các khóa sinh tự động tìm đường thoát. Tôi và thằng bạn cùng khóa, Quang Volley (PĐ 239) đi sang hậu trạm SĐ2KQ tìm đường về SG. Vì không giấy tờ tùy thân, tôi nhờ Quang đứng ra bảo chứng khi qua cổng gác và được cho vào hậu trạm chờ phương tiện. Mặc dù thành phố đang hỗn loạn, tình hình tại Phi Trường Nha Trang vẫn còn trật tự, chúng tôi được chia thành từng nhóm ngồi tại ụ phi cơ chờ C130 lần lượt bốc đi. Đến phiên nhóm chúng tôi lên tàu, như con chim bị thương một lần, tôi vẫn không tin mình có thể lên được phi cơ. Tôi nhớ trước đây ở Đà Nẵng cũng có chương trình di tản bằng phi cơ C130 nhưng phút cuối đành phải „bơi“, giờ cảnh cũ lại tái diễn. Cho đến khi được ngồi yên ổn trong lòng phi cơ thì bao nhiêu lo lắng mới từ từ tan biến. Về đến Sài Gòn, vừa bước xuống phi cơ thì chợt choáng ngợp trước cảnh an bình tự tại của thủ đô. Trên đường vào hậu trạm, hai hàng nữ sinh áo dài trắng đang đứng „dàn chào“ dòng người di tản, mỗi người được mời một ly nước mát lạnh tẩy trần như để quên đi những cơ cực trùng trùng trên đường vượt thoát. Sài Gòn còn thật yên bình vào những ngày đầu tháng Tư, ít ra là so với các tỉnh miền Trung.

Đầu tháng Tư 1975, trình diện tại phòng Quản Trị BTLKQ, quân số Phi Đoàn chẳng còn bao nhiêu, anh em gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi, anh Minh cùng gia đình bạn gái cũng đã về đến Sài Gòn bình an. Còn bao nhiêu người kẹt lại hay rơi rớt trên đường bay về Nam? Một số người gốc miền Trung thì lo âu cho số phận của người thân trong gia đình còn kẹt lại, trong đó có vị PĐT khả kính của chúng tôi, ông cũng phải vất vả và nhiều may mắn mới thoát, rơm rớm nước mắt khi gặp lại anh em và kể về gia đình đang còn kẹt lại không biết giờ ra sao. Dù là dân bay nhưng không ít người đã phải vượt thoát khỏi Đà Nẵng bằng đường biển như những cánh chim trời ướt cánh (trong đó có Đ/u Phi Đội Trưởng của tôi, bơi được ra đến tàu Hải Quân thì ngất xỉu luôn).

Giữa tháng Tư tôi theo Phi Đoàn về „tái phối trí“ tại Cần Thơ, như những đứa con ghẻ èo uột, co cụm một góc để rồi đến ngày 30 tháng 4, không phương tiện, không thế lực, lại thêm một lần „ướt cánh“. Khi TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi như con chim bị tên đã kiệt lực sau hai lần vượt thoát khỏi Đà Nẵng, Nha Trang và lần nầy thì đành buông xuôi cho số phận trong các trại tù mang danh „cải tạo“ tại vùng 4.

Sau hơn 30 năm xa rời tổ ấm Phi Đoàn, bao nhọc nhằn đè nặng lên cuộc sống của từng cá nhân, kẻ còn người mất. Giờ nhớ lại chuyến di tản đinh mệnh từ Đà Nẵng, hai lần bên cạnh phương tiện vượt thoát khỏi lằn lửa đạn, một ở Đà Nẵng và một ở Cam Ranh, tôi đều để vuột mất nhưng chẳng chút hối tiếc, tôi tin có ơn trên phò hộ nên đã về đến bến bờ bình an. Tôi thuộc dạng người vụng về, chơn chất, an phận nhưng có lẽ như người xưa nói „lù khù có ông Gù độ mạng“ nên qua bao nhiêu gian truân bầm dập, tôi đều vượt qua được, lại còn được cơ hội quen biết và học hỏi từ biết bao đàn anh, những anh hùng hảo hán QLVNCH trong ngục tù cs mà chỉ qua lúc sa cơ thất thế mới biết được.

Viết lên những dòng chữ nầy không phải để trách cứ điều gì vì theo thời gian mọi sân si đều tan biến, còn lại chăng là khối tình chiến hữu keo sơn, là chút hy vọng có thể gặp lại bạn bè chiến hữu ngày xưa, nhất là những người anh em 253 cùng chia “nước” với tôi trong chuyến “vượt biên” lần thứ nhất nầy, nếu tình cờ có đọc được các dòng nầy và còn có dịp gặp lại, chắc không còn gì vui hơn. Kế tiếp là để thật lòng cám ơn những chiến hữu Hải Quân đã cưu mang chúng tôi trong đoạn đường về Nam gian khổ. Cũng còn thiếu sót nếu không cám ơn người bạn cùng khóa Ngụy Hùng PĐ239 đã cho mượn một ít tiền mà nhờ có nó chúng tôi mới có thể ấm bụng và có phương tiện trở về đơn vị. Món nợ ấy vẫn còn đeo đuổi tôi cho đến hôm nay •

Tiểu Chùy

thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Chuyện 30.4 Wed, 17 Oct 2018 19:01:42 +0000 Ai Nói Mấy Sếp Không Ba gai? - PhượngHoàng KimCương https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/79-ai-noi-may-xep-khong-ba-gai https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/79-ai-noi-may-xep-khong-ba-gai Ai Nói Mấy Sếp Không Ba gai? - PhượngHoàng KimCương

Đơn vị mà tôi hãnh diện được chỉ huy luôn đoạt phần thưởng xuất sắc về đủ mọi phương diện: an phi, kỷ luật, chiến tích, phi diễn v...v....

Nói về kỷ luật cao, thì đâu thấy ai bắt được nhân viên nào của PĐ514 vi phạm kỷ luật gì đâu, để mà thưa với gởi (tôi muốn nói là ít nhất trong thời gian tôi chỉ huy, từ cuối 69 đến đầu 74). Hể không nói thì thôi, đâu ai biết gì mà làm bậy.
Không biết anh em còn nhớ, sau thời gian Mỹ rút quân, mấy phi công khu trục có lệnh là không được mang bom đạn bay ngang vùng Thiện Ngôn hoặc múc miết trên đồn điền cao su ở vùng Trảng Bom. Thiện Ngôn là nơi VC đồn trú trong thời gian có liên hợp hai bên/bốn bên; còn Trảng Bom là chổ Dương văn Minh hợp. Sau khi có lệnh cấm trên, thì mấy phi công khu trục, cứ mỗi lần hành quân mà không có giải tỏa, thì lén lỏn lên Thiện Ngôn mà free strike, cho hả dạ. Nhưng có chết thằng Tây nào đâu !!!
Chỉ trên phương diện chánh trị mà nói, hành động vô kỷ luật này là vi phạm những qui ước; mà như vậy thì sẽ gây rắc rối cho phe ta trên bàn hội nghị. Nhưng vì không chết thằng Tây nào hết, nên phía VC làm ngơ, không đếm xỉa gì đến chuyện này cả. Anh em không tin thì cứ tìm Sáu Nghĩa hay Tướng Phan Hòa Hiệp mà hỏi xem, có phải vậy không. Còn cái ba gai của tôi là như thế này:
Sau khi Phượng Hoàng số 2 bị SA-7 hạ không bao lâu, tôi có một phi vụ huấn luyện checkout hành quân cho Tr/úy Trương Vĩnh Tân (hiện đang ở Houston, TX). Trên đường về rảnh rang nên mới táy máy tần số FM chơi, không ngờ có tiếng mếu máo kêu cầu cứu: „Đại Bàng nào đang bay trên vùng trời Rạch Bắp/Bến Cát xin cầu cứu ! xin cầu cứu ! Chúng tôi đã cạn đạn dược và lương thực nhiều ngày rồi; vợ con chúng tôi chỉ còn ba trái lựu đạn để tự sát và hiện giờ thì địch đang hô xung phong“.
Đang ở 2000 bộ vì sắp vào initial 1000 bộ, nhìn xuống thì tôi thấy cánh đồng, sau mùa gặt, sao mà xanh lè và dợn sóng như thế này. Nhìn kỹ lại thì thấy toàn là VC đang chạy nhanh về hướng cái đồn địa phương quân hình tam giác ở phía trước.
- „Diamond 2, bốn mươi, hai ngàn sáu, quan sát SA-7“, tôi vừa ra lệnh cho số 2 và đồng thời liên lạc trên FM với đồn: „Cầu cứu Đại Bàng, anh cho mọi người xuống hầm, đậy nấp kín lại, không cho mưa dột, rõ không ?“

- „ Rõ, năm trên năm“ „ VC đang trèo thang để đột nhập vào đồn đó“.
Không hiểu lúc bấy giờ có cái gì Linh Thiêng đã thúc đẩy tôi lấy quyết định rất nhanh và sáng suốt nữa (ít ra là tôi nghĩ như vậy). Nếu không thì VC đã nuốt trọn Rạch Bắp, qua sông Sài Gòn cách đó có 2km, vào Củ Chi rồi
tiến thẳng vào Sài Gòn trước 30 tháng 4 rồi. Và đâu còn Rạch Bắp nữa đâu mà ăn mừng chiến thắng.
Rạch Bắp nằm giữa Bến Cát và Củ Chi, xin xem bản đồ.


Vì đã có kinh nghiệm Thanh ngố và Phượng Hoàng 02 bị SA-7 hạ trong vùng này nên tôi phải rất cẩn thận mới được. Rủi như chính địch giả mạo gọi cấp cứu thì sao.... Ngay cả đàm thoại với đồn cũng vậy, phải ngắn gọn và dù địch có bắt được tần số này đi chăng nữa, không để cho họ hiểu được ý định của mình làm gì.
- „Diamond 2 giữ cao độ này (9000 bộ, vì SA-9 lên tới 11000 bộ lận), theo dõi tôi nhưng đừng theo tôi nhe. Có gì thì Biên Hòa ở hướng 8 giờ của 2 đó“.
Rồi một lần nữa tôi áp dụng chiến thuật truy kích mà tôi đã học được trong khóa Phi Tuần Phó khu trục, cách đó chín năm. Lần thứ nhất là lúc đi Bắc Phạt (1965).
Cái đồn hình tam giác đều. Tôi vẽ một đường ảo thẳng góc với đáy qua đỉnh của tam giác, kéo dài ra khoảng 5km, lấy đó làm điểm xuất phát. Rồi set collimateur cho napalm. Tôi phải spiral down vì quá cao (9000 bộ) mà napalm thì sát đất (rase-mottes), chấp cho thiện xạ VC nào hạ được PH Kim Cương. Trong lúc xuống cao độ thì cho armament ON. Gió mùa này lại giúp cho Kim Cương nữa. Đỉnh tam giác cũng hướng vào gió. Có Thiên thời, Đia lợi, Nhân hòa, còn gì nữa mà không hạ được địch đây. Khi xuống tới cách mặt đất khoảng 50-100 ft rồi thì tôi lấy hướng tới đỉnh tam giác của đồn. Aim short khoảng 25m, bấm trái bom đầu tiên. Rồi tới cột cờ
giữa sân đồn, giật tay salvo trái bom thứ hai. Vì sợ bom không rớt nên mới salvo cho chắc ăn. Anh em có biết không? Lửa của trái bom đầu tiên nhờ gió mạnh thổi tới đỉnh của tam giác và tiếp tục chạy dọc theo và bao phủ cả hai cạnh của đồn. Còn trái bom thứ nhì thì chạm vào phía trong của đáy tam giác, lửa tỏa ra hai bên bao phủ cả cạnh đáy của đồn. Mấy đứa đã đột nhập được vào trong đồn thì bị trái bom thứ hai này thiêu rụi.
Còn mấy đứa đang leo lên vách thành thì rụng như mấy con thiêu thân vào ngọn lửa đèn vậy đó. Địch bị ba mặt hỏa công chết ráo trụi như ở trận Xích Bích trong truyện Tam Quốc vậy.
Tôi tiếp tục bay rase-mottes thẳng về phía trước chừng một phút, rồi kéo mũi phi cơ thẳng đứng lên và tiếp tục lấy cao độ theo vòng xoáy ốc để dễ quan sát SA-7.

- „Diamond 2 còn thấy tôi không? Về đáp!“

Tôi đã lên tới 2000 bộ, vừa lắc cánh cho số 2 vào hợp đoàn sát cánh, vừa lấy hướng về Biên Hòa đáp. Trước khi gọi đài để xin chỉ thị đáp, tôi liên lạc với đồn để lên hốt xác VC. Cái đồn chỉ còn mấy làn khói trắng mịt mờ che phủ.
- „Xin Đại Bàng cho biết số phi vụ“.
- „Thiên Sứ đã sai tôi đến cứu anh em đó, làm gì có số phi vụ. Hãy cầu nguyện Ơn Trên đi. VC đã nướng trọn đơn vị chính của họ vào trong đồn này rồi, không còn khả năng để quấy rầy anh em nữa đâu. An tâm chờ tiếp viện nhe. Chúc An Lành.“ Tôi trả lời đùa với họ để họ lấy lại tinh thần, rồi đổi sang tần số đài về đáp.
Sau khi debrief cho Tr/úy Tân, tôi dặn dò kỹ không cho Tân nói gì hết, mà thật sự Tân cũng chẳng biết gì hết, chỉ theo dõi thấy tôi biểu diễn lả lướt đường bom napalm, mà mục tiêu là cái đồn quân bạn, vì tôi không cho Tân tần số FM mà tôi liên lạc với đồn.
Chổ ba gai của tôi là trong phi vụ huấn luyện mà mang bom thật và dám sử dụng bom đạn vào một nơi không có frag order chỉ định. Chắc anh em cũng có thể dư biết được tội này phải xử như thế nào rồi. Một tuần lễ sau, trên đường Thống Nhất, ngay trước Dinh Độc Lập, dân chúng ăn mừng chiến thắng Rạch Bắp. Tổng Thống đích thân ra thăm hỏi và ủy lạo chiến sĩ các đơn vị đã tham chiến.
Cho đến giờ phút này cũng không nghe ai có thắc mắc gì về chiến thắng Rạch Bắp cả. Và tôi cũng không biết tin tức gì của mấy người đã chết đi sống lại ở trại Rạch Bắp này ra sao nữa.


PhượngHoàng KimCương

]]> https://hoiquanphidung.com/echo/index.php/vnaf/item/275-hu-da-n-ng-nh-ng-ngay-tan-cu-c-chi-n-phan-van-phu thuyduong@hoiquanphidung.com (chimtroi) Truyện VNAF Tue, 21 Aug 2018 22:59:58 +0000

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...