Thursday, October 10, 2019

Sống Chết Có Số - Hồi Ký của Đại Úy Pháo Binh

 

Sống Chết Có Số
Hồi Ký của Đại Úy Pháo Binh

Đại bác 105 ly

 


Sư Đoàn 22 Bộ Binh

 


Hồi Ký của Đại Úy Pháo Binh - Nguyễn Trãi



Pháo binh khai hỏa đại bác 105 ly yểm trợ quân bạn.

 

1


 

2

 



3

 



 

 

Bản đồ Vùng II Chiến Thuật / trước 1975
Thành phố Bình Định, Bồng Sơn, Qui Nhơn


Photo:

 

 







Sống Chết Có Số



Hồi Ký của Đại Úy Pháo Binh -
Nguyễn Trải


Có rất nhiều điều chỉ trong tích tắc tôi vừa nghĩ ra đã quên ngay, vì trí nhớ đã cùn rồi, nhưng có chuyện mà dường như tôi nhớ như in trong đầu từng chi tiết.
Mỗi khi kể lại cứ tưởng nó đang mới xảy ra tức thì. Một trong những câu chuyện thoát chết trong đời lính có một câu chuyện cuối cùng mang nhiều dấu vết đạn thù, ai cũng hỏi tôi khi thấy vết sẹo trên mặt. Cũng chính câu chuyện này tôi bị tên cai tù trong trại tù Hoàng Liên Sơn ngoài Bắc hạch hỏi hành hạ tôi ngay hôm sau, khi tối đêm trước, tôi kể cho bạn tù cùng nằm chung chỗ nghe. Tôi nghĩ rằng con người ta:

Có thể có nhiều người không tin bốn chữ viết ở trên, bởi vì nó có tính cách trừu tượng. Nhưng đối với tôi là một sự thật, một chuyện có thật trong cuộc đời chinh chiến.

Từ ngày tôi bước vào Trung Tâm Tuyển Mộ và Nhập Ngũ số 2 tại NhaTrang, đến ngày tôi gục xuống bởi những viên đạn của kẻ thù trong thời điểm đau thương, đen tối của Miền Trung sắp rơi vào tay CS, có tổng cộng chín năm ba tháng mười lăm ngày của đời Lính.

Suốt thời gian không dài ấy của một người lính trận, tôi đã gần gũi nhiều với hiểm nguy. Đã có sáu lần tôi tưởng như phải chết, nhưng dường như có một phép mầu huyền diệu nào đó đã cứu tôi.

Mãi về sau, mới biết được do đứa em gái tôi dù đã chết tuy mới chỉ là cái bào thai ba tháng tuổi trong bụng Mẹ. Nó đã hiện về báo cho Ba Má tôi biết sự hiện diện của nó bên cạnh những bước chân tôi đi lúc hành quân. Và nó đã cứu tôi!

Có nhiều chuyện tôi tưởng đã chết, nhưng vẫn sống, một trong sáu câu chuyện tôi sắp kể ra đây là câu chuyện cuối cùng, vì cuộc chiến cũng chấm dứt. Nhiều người không bao giờ tin tôi còn sống. Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Sài Gòn nhận được tin tôi bị thương và mất tích trong lúc Quy Nhơn thất thủ. Những ngày trong trại tù năm đầu tiên ở Long Giao và cả khi chuyển ra Bắc, tôi gặp lại những cấp chỉ huy của tôi, họ đều ngạc nhiên bảo rằng: “Ủa! Anh chết rồi mà…” hay ngay tại thành phố Houston, bạn bè vẫn cho rằng tôi đã chết, người khác thì nói đang ở Houston đây.

Câu chuyện hoàn toàn sự thật, tôi kể để chứng minh con người sống và chết đều có số, và từ những lần thoát chết buộc tôi phải tin như vậy.

……........

Photo:

Tôi bước ra khỏi chiếc xe Jeep chỉ được hai phút, một trái 82 ly của địch rớt ngay tại chiếc xe tôi vừa đậu lại. Một tiếng nổ chát chúa, khói, bụi đất bốc lên cùng với cột lửa. Chiếc xe hoàn toàn hư hại thành đống sắt đen ngòm. Tại sao quả đạn lại rơi đúng ngay chiếc xe vừa trờ tới? Lòng không nao núng chút nào, địch pháo kích bằng súng cối 82 ly giống như gãi ngứa. Đã là pháo thủ thì rất quen mỗi khi bị pháo kích, chỉ có 130 ly mới ngại hơn như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa trên Dakto, Tân Cảnh.

Tôi bước vội vào Trung Tâm Hành Quân Chi Khu Hoài Nhơn (Bồng Sơn) thuộc tỉnh Bình Định để tìm hiểu thêm về tình hình địch, mà hiện giờ đơn vị Pháo Binh 105 ly của tôi đóng sát quận, tầm hoạt động cứ phải thu ngắn dần. Mới đầu bắn với thuốc nạp bảy, tầm xa tối đa mười một cây số một trăm mét, rồi dần dần thuốc nạp năm, nạp ba, chỗ địch chỉ còn cách súng ba cây số rưỡi.

Từ khi chiến trường vùng này nổi sóng, đơn vị tôi đóng tại căn cứ Thiết Đính cũng nằm trong lãnh thổ quận Hoài Nhơn, có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 47 Bộ Binh. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn đang đóng trên đỉnh Đèo Phù Củ cách tôi mười cây số.

Áp lực địch nặng hơn, tôi được lệnh kéo về đóng trong khuôn viên của quận Hoài Nhơn (Bồng Sơn), và cũng yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 47, gồm bốn tiểu đoàn Bộ Binh đang hành quân trong bốn cánh, đồng thời cũng yểm trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân xung quanh quận.

Ngoài ra còn có một Pháo Đội B/105 ly đang đóng cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, cũng yểm trợ trực tiếp cho 47 và cho cả tôi, nếu tôi bị tấn công. Tôi rời Trung Tâm Hành Quân quận Hoài Nhơn trở về vị trí Pháo Đội bằng một chiếc xe khác do pháo đội chạy đến đón.

Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Trung Đoàn ra lệnh cho tôi thám sát vị trí để ZULU (di chuyển) đến một vị trí khác để cho việc tác xạ yểm trợ đơn vị bạn được thuận lợi hơn, và phải tiến về hướng Nam Bồng Sơn.

Tôi và một sĩ quan khác lái xe băng qua cầu Bồng sơn, cuối cùng tìm được một khoảng đất trống bên kia sông Lại Giang, ngay ngã Ba quốc lộ số I và đường đi lên quận Hoài Ân. Một miếng đất chỉ vừa đủ đặt sáu khẩu đại bác và đào một hầm đạn gần đó.

Những ngày hành quân của một đơn vị Pháo Binh, cực nhất không phải là tác xạ suốt ngày đêm, mà là vác đạn, mỗi lần được tiếp tế, phải vác từ trên xe xuống chất vào kho đạn, hoặc vác đạn lên xe trước khi di chuyển. Lệnh hầu như bất di bất dịch của các quan lớn hơn rằng: “Luôn luôn đạn pháo binh phải có kho đạn bảo vệ, tránh bị nổ kho đạn khi bị địch pháo kích.”

Vừa gióng hướng súng xong, báo cáo sẵn sàng tác xạ, thì đơn xin tác xạ tới tấp gởi về từ các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh ngoài chiến trường. Các Sĩ Quan Đề Lô rất gan dạ, gọi bắn rất gần quân bạn, mà có lúc trên nguyên tắc không cho phép. Quang cảnh sinh hoạt của Pháo Đội rất náo nhiệt, tiếng nạp đạn, tiếng nổ viên đạn rời nòng súng liên tục vài giờ đồng hồ. Địch quân chưa phát giác kịp vị trí pháo của tôi để pháo kích. Chúng nó rất căm ghét pháo binh, luôn tìm mọi cách xóa sạch các vị trí pháo binh của phe ta.
Vừa chấm dứt một nhiệm vụ tác xạ cho toán Đề Lô của Tiểu Đoàn 3/47 thì nhận được lệnh từ Trung Tâm Phối hợp Hỏa Lực Trung Đoàn, nơi có quyền hành phân phối hỏa lực và ra lệnh trực tiếp đến các căn cứ hỏa lực phải thi hành. Họ ra lệnh cho tôi trên hệ thống vô tuyến: “Anh phải bắn sập cầu Bồng Sơn.” Tôi trả lời: “Hãy ra lệnh cho một Tiền Sát Viên nào điều chỉnh tác xạ.”

Sau nhiều loạt đạn điều chỉnh, một nhịp cầu Bồng sơn gần giữa cầu gục xuống. Tiếp theo đó tôi nhận lệnh Zu Lu vào phía hướng Nam lần nữa. Lại có dịp vác đạn lên xe, tôi không vác đạn nhưng tưởng những giọt mồ hôi cũng lấm tấm trên trán.

Pháo Đội rời vị trí Ngã Ba Sông Lại Giang, lòng bùi ngùi nhìn dòng nước lững lờ trôi, nhiều cồn cát phơi lưng giữa dòng sông hiu quạnh, xa xa chiếc cầu gãy một nhịp gục xuống dòng nước nhuốm màu tang thương chi lạ. Pháo đội kéo đến đóng dưới chân đèo Phù Củ, cạnh Bộ chỉ Huy Trung Đoàn cùng với một pháo đội 6 khẩu 105 ly khác cũng của Tiểu Đoàn tôi.

Từ đây tôi đủ tầm xa để yểm trợ thoải mái cho các cánh quân còn đang giao tranh bên kia cầu Bồng Sơn, chiếc cầu hiền hoà bắc ngang sông Lại Giang đã mang trong mình nhiều dấu tích chiến tranh từ thuở mùa hè đỏ lửa và trước đó, nay cũng vừa gẫy đi một nhịp.

Tôi báo cáo số đạn đã xuống tới dưới mức an toàn, nên bắt đầu hạn chế tác xạ, chỉ ưu tiên dành cho những cuộc chạm địch nặng. Đến khi mặt trời đã đi ngủ hẳn, Pháo Đội được lệnh thế lên đường di chuyển về Đồi Vạn An, chiếm đóng và ngủ đêm ở đó. Tôi thương những người lính quá chừng; phải vác đạn, những quả đạn được đóng kín trong thùng gỗ pháo binh, hai quả một thùng nặng 50 ký lô.

Lệnh ban ra biết làm sao mà không thi hành cho lính bớt vất vả. Vừa tác xạ, vừa vác đạn chất lên xe để 30 phút nữa thì “ZuLu.”

Buổi tối tôi liều mạng không cho lệnh vác đạn xuống, cứ để nguyên trên xe chở đạn, cho ngày mai đỡ cực. Đêm hôm ấy địch cũng không theo kịp tôi và không phát giác vị trí đóng quân, nên không bị pháo kích. Cơ thể nhừ nát mệt mỏi, ngủ gật gù tạm dưới cái hầm lính vừa đào, chất vài thùng đạn trống bỏ đất bên trong che chắn nếu bị pháo kích thình lình trong lúc đang ngủ. Lại có lệnh tiến về hướng Nam, người không tỉnh táo và thi hành như cái máy. Tôi ra lệnh thế lên đường.

Vừa đặt chân đến Đèo Nhông, Việt Cộng đã chào đón ngay bằng hỏa tiễn 122 ly và phòng không của địch, một khẩu đại bác bị bể bánh xe. Tất cả súng được rời khỏi xe, và gióng hướng súng tác xạ về hướng xuất phát hỏa tiễn 122 ly. Cũng may có quan sát viên phi cơ trên trời điều chỉnh tác xạ nên khẩu 122 đã bị khóa họng nhưng phải mất đến một ngày mới giải tỏa được cái chốt tại Đèo Nhông.

Khi giải tỏa được con đường từ Đèo Nhông về Phù Mỹ, trời tối như mực, cả đoàn xe 12 chiếc GMC kéo súng và chở quân dụng, đạn đại bác, ba xe Dodge truyền tin, và ba chiếc Jeep lăn bánh về hướng Căn Cứ Trà Quang (Phù Mỹ). Dân chúng di tản nằm kẹt ở đây đã nhiều ngày, đói khát, uà leo lên các xe của Pháo Đội mong được quá giang đến đâu hay đến đó. Không thể ngăn cản được, thôi thì liều mạng chấp nhận còn hơn bỏ họ ở lại đây, mặc dù tôi biết là mình đang hành quân chứ đâu phải di tản, một lát nữa đây nếu đụng trận thì làm sao lo được cho dân.

Đoàn xe chạy rất chậm vì không tin tưởng trên đoạn đường đang đi, và để giữ yếu tố bí mật, Đại Tá Lê Cầu, Trung Đoàn Trưởng, giờ này coi như vị Tư Lệnh Chiến Trường tại đây ra lệnh không mở đèn xe. Phải có một người lính cầm đèn Pin đi thụt lùi ra dấu cho mỗi chiếc xe.

Đi hành quân, vừa đi vừa đánh mà sao giống đi ăn trộm vậy không biết, nhưng tinh thần rất an tâm không lo sợ điều gì có thể xảy ra bất ngờ. Tôi tin tưởng con người nếu phải chết thì đó là số mệnh. Đang giao chiến đạn tránh ta chứ ta không thể nào ta tránh đạn.

Chúng tôi vào đến Phù Mỹ cũng quá nửa đêm, vừa quẹo vào cổng căn cứ Trà Quang, một căn cứ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh phe ta. Một khẩu đại bác nữa bị trúng đạn pháo kích 82 ly của địch, chỉ làm xẹp bánh. Vẫn tiếp tục vào trong căn cứ rồi mới tính. Pháo thì cứ pháo, ta thì cứ đi, trời kêu ai nấy dạ mà.

Lúc vào tối cổng căn cứ đoàn xe bị pháo kích, nhanh như chớp gần cả trăm người dân nhảy xuống xe, và biến đâu mất hết. Vẫn phải gióng hướng súng quay ngược ra hướng bắc bắn yểm trợ cho các Tiểu Đoàn còn phía ngoài đó.

Ba ngày tại căn cứ Trà Quang, vì để bảo toàn lực lượng không cho địch phát giác mình đóng quân chỗ nào, nên mỗi sáng sớm phải kéo súng ra khỏi căn cứ và chiếm đóng vị trí tại mỗi ngày khác nhau để tiếp tục yểm trợ quân bạn.

Sáng nay cũng như những buổi sáng khác, sau khi binh sĩ cơm nước xong, chuẩn bị kéo súng đến chỗ khác để sẵn sàng tác xạ, người âm thoại viên đến chào và nói:

-- “Trình Đại Úy có Sao Băng muốn gặp.”

Tôi hiểu là có chuyện quan trọng nên muốn gặp trực tiếp. Ông là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 155 ly (không phải của tôi), nhưng là vị Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Phối hợp Hỏa Lực Trung Đoàn 47 Bộ Binh, mà tôi đang dưới quyền chỉ huy hành quân của ông. Tôi bước vội vào căn hầm truyền tin cầm ống liên hợp:

-- “Sao Băng! Đây Mộc Tinh tôi nghe.”

Ông chỉ Huy Trưởng ra lệnh:

-- “Anh hướng những con gà của anh về hướng tôi sắp đi và sẵn sàng gáy khi cần, giữ yên vị trí, và sẽ ZuLu khi có lệnh.”

Tôi hiểu rõ rằng Trung Đoàn đang chuẩn bị di chuyển về hướng Nam, và tôi không phải kéo súng ra chỗ khác. Ở tại chỗ, sẵn sàng bắn yểm trợ cho ông ta khi đụng địch. Sau đó sẽ thế lên đường khi có lệnh của ông ta.

Tôi tập họp hàng quân và ban lệnh mới cũng như sắp xếp đội hình Pháo Đội khi di chuyển, và nhắc lại tư thế tác chiến cá nhân khi bị phục kích. Tôi chỉ định Trung Úy Lê Văn Sinh, Pháo đội Phó kiêm Sĩ Quan Tác xạ Pháo Đội, đi sau cùng đoàn xe để quan sát mọi diễn biến phía sau. Trung Úy Sinh là bạn học cùng trường Nam Tiểu Học Nha Trang sau tôi ba lớp, về sau cũng học Võ Tánh Nha Trang. Sinh là em ruột của vị Tiếu Đoàn Phó Lê Văn Nhanh mà tôi đang dưới quyền. Lê Văn Sinh tốt nghiệp khóa 26 Thủ Đức được về Pháo Đội của tôi cũng vì ông Tiểu Đoàn Phó này muốn gởi cho tôi trông chừng giùm vì người em hay nhậu và quậy quá. Tôi đối xử với Sinh trong tình bạn ngày xưa nhiều hơn là thuộc cấp.

Đoàn xe và quân Bộ Binh đang tiến vào Nam rất chậm vì lục soát hai bên đường. Tôi chờ mãi không thấy cho lệnh tôi “thế lên đường.” Tôi sốt ruột nên bốc máy gọi phía trước:

-- “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh! Tôi vẫn ngủ hay đi kiếm ăn?”

Bên kia trả lời vội vã như chợt nhớ ra điều gì:

-- “Anh đi đi.”

Thế là cả Pháo Đội nhổ neo, vừa rời Trà Quang chỉ ít lâu, lúc ngang qua Nhà Thờ Đổ thì Pháo Đội bị phục kích. Nhiều loạt đạn AK từ bên trong và trên triền cao hơn mặt đường của cái Nhà Thờ cũ kỷ đổ nát hoang tàn bắn ra. Bọn địch đang núp trong ấy, chỗ này rất tiện lợi cho việc phục kích, và thường xuyên chúng phục kích đoàn xe. Nó trở thành một địa danh nổi tiếng nguy hiểm.

Buộc lòng chúng tôi ngừng xe lại và tất cả nhào xuống hai bên lề đường với tư thế nằm bắn trả. Bọn địch núp bên sau các bờ tường gạch có lẽ an toàn, chắc không hề hấn gì, vả lại các pháo thủ không chuyên nghề đánh nhau như bộ binh. Tôi gọi máy báo cho phía trước (chắc đã xa ngút ngàn rồi) biết tôi bị phục kích, và hỏi phía trước có an toàn hay không. Họ trả lời cứ đi.

Tôi nghĩ mình nằm lại đây chẳng ích lợi gì, nguyên tắc bảo vệ cho Pháo Binh trong lúc chiếm đóng và di chuyển là phải có Bộ Binh hoặc Thiết Giáp. Bây giờ thì chỉ một mình, thật nguy hiểm. Tôi ra lệnh tiếp tục di chuyển, mà không cần biết tổn thất địch và ta. Không nghe Trung úy Sinh báo cáo gì hết.

Sau khi bị phục kích dường như các tài xế sợ hơn nên tăng tốc độ hầu tránh được những vụ bắn sẻ hai bên đường. Tôi nhìn thấy cái kim đồng hồ tốc độ của chiếc Jeep gần như đến hết chỗ tối đa. Xe tôi đi đầu, trên xe có tài xế, tôi và ba người hộ tống ngồi phía sau. Trên tay ai cũng lăm lăm khẩu M16 trừ tài xế đang căng thẳng tinh thần.

Khi đến gần Cầu Cương, tài xế của tôi quên bẵng đi là chiếc cầu này đã bị Việt cộng giật mìn sập từ lâu; nguyên một nhịp đã nằm hẳn xuống dòng nước. Công Chánh đã cho ủi một con đường đất tạm chạy vòng phía bên trái cầu, hai bên đường đất tạm có hai mương thoát nước lớn và sâu, cỏ lau sậy mọc um tùm. Phía bên kia đầu cầu có một cái Lô Cốt dành cho lính Địa Phương Quân trú đóng, và canh giữ cầu 24/ 24.

Nhưng giờ thì không còn lính Địa Phương Quân trong đó nữa, mà được thay thế bằng tám tên Việt Cộng. Khi Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 47 đi ngang qua, vì lực lượng mạnh quá nên Việt cộng trong Lô Cốt trốn. Bộ Binh ta cũng không phát giác. Đến khi chỉ một mình đơn vị tôi đến thì họ ra tay.

Chiếc xe của tôi chạy đầu với tốc độ quá nhanh, đến sát đầu cầu mà vẫn không thấy tài xế giảm tốc độ và cũng không có dấu hiệu gì là quẹo cua xuống đường đất chạy tạm. Tôi thét lớn: “Cầu gãy” và nhanh như chớp tôi đưa tay bẻ tay lái sang trái thay thế tài xế. Chiếc xe vì quẹo gấp hay do một quả B40 từ đầu cầu bên kia bắn sang, chiếc xe lật nằm nghiêng. Tất cả mọi người đều văng ra khỏi xe, tôi không kịp nhìn thấy ai nữa. Cũng may nhờ bẻ quẹo tay lái, chứ nếu không thì chiếc xe lao xuống cầu, chắc là chết ngay.

Tôi có mặc chiếc áo giáp nhưng không kéo dây kéo phía trước để bảo vệ bụng và ngực. Tôi nhìn thấy máu đầy phía trước áo vì mảnh B40 ghim thẳng vào bụng và ngực. Ở cổ tay trái một vết thương khá to. Máu đang chảy dưới đùi phải lổ chổ nhiều vết thương, máu cũng đang ứa ra và chiếc quần trận đã rách.

Có lẽ vì mảnh đạn đến quá nhanh chăng, nên tôi không biết đau.

Tôi biết rõ đã bị thương nhiều chỗ trên cơ thể lúc ấy, tuy có một chỗ ở trên trán giữa hai mắt mãi về sau mới biết. Như một phản xạ tự nhiên tôi chụp vội cây súng, nón sắt thì không tìm thấy ở đâu; tôi lao mình vào con đường mương trước mặt và bò về hướng cái Lô Cốt. Khi đến gần còn chừng bảy tám mét, tôi dừng lại. Tôi thấy thật rõ từng tên VC một đang ngóc đầu lên để bắn về phía pháo đội, hoặc hụp xuống trốn mỗi khi lính tôi bắn trả.

Tôi nâng khẩu M16 lên nhắm bắn, tin chắc như đinh đóng cột rằng sẽ trúng đích vì quá gần. Nhưng ác thay, tay trái tôi bị một mảnh B40 phá phần thịt thành một lổ lớn quá, máu vẫn chảy, không cách chi nâng khẩu súng lên nổi. Tôi đành gục đầu xuống nằm đó, chắc vì máu đã ra nhiều nên bắt đầu thấy mệt.

Mãi một lúc sau tôi ngóc đầu lên nhìn về hướng chiếc xe thì thấy người lính của tôi, anh Kiều Xuân Ba đang bò tiến đến chiếc xe Jeep tìm tôi. Kiều Xuân Ba là Hạ Sĩ Nhất tài xế của ông Trung tá Tiểu Đoàn Trưởng, vì có tội ham đánh bài nên bị đưa ra Pháo đội tôi. Anh ta rất dễ thương, tướng người cao lớn hiền lành. Mới đầu tôi để anh ta làm tài xế cho xe tôi, bất cứ giờ giấc nào trong đêm tôi đi tuần anh ta đều cầm súng đi theo. Nhưng anh cũng không quên tật ham đánh bài nên tôi đã đưa ra lái xe kéo súng.

Kiều Xuân Ba nghe tiếng gọi của tôi, quay lại nhìn thấy và rút quả lựu đạn ném ra phía phải, rồi chạy thục mạng về phía tôi. Tôi nằm ngữa quay đầu về hướng Lô Cốt. Kiều Xuân Ba ngồi ngang vai tôi, quay lưng về phía Lô Cốt, rút cuộn băng cá nhân trên chiếc nón sắt băng vết thương trên cổ tay tôi, vết thương bầy nhầy và đầy máu còn đang chảy. Khi mối cuối cùng của cuộn băng chưa kịp nhét vào, thì tôi nghe một tiếng “bịch.” Kiều Xuân Ba ngã xuống chết ngay tức khắc. Trời ơi! Ba đã chết rồi. Anh ta chết vì tôi, tôi xúc động quá chừng!

Như một phản ứng tự nhiên, tôi cố ngồi dậy xem từ hướng nào bắn Kiều Xuân Ba. Tức thì tôi nghe một tiếng “chát” rất lớn bên tai. Tôi chỉ kịp chụp tay vào chỗ vừa bị đau trên ót sau tai trái, tay tôi cảm thấy ướt, tôi biết ngay là mình bị thương. Liền ngay khi ấy tôi hiểu có lẽ tôi sẽ chết vì vết thương này. Mắt hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa, chỉ một màn đen, tai cũng không nghe tiếng động. Tôi nghĩ ngay đến người vợ đang ở Sài Gòn, dường như tôi nói thầm:

-- “Anh chết em à.”

Và tôi biết trước giờ mình phải chết, ngay tức thì sau đó tôi ngã xuống và bất tỉnh.

Mọi sự diễn biến rất nhanh trong tích tắc, tôi đã hiểu thế nào là chết. Bị bắn hoàn toàn không có cảm giác đau đớn gì cả, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi ngã xuống và xem như vĩnh biệt, tai tôi hoàn toàn không nghe một tiếng động, tôi ngủ một giấc ngon lành êm ả, không biết mọi thứ xung quanh.

Bỗng nhiên, tôi tỉnh dậy sau bao lâu tôi không hề biết. Mắt đã nhìn thấy cảnh vật xung quanh, tai đang nghe tiếng súng nổ, hai bên vẫn còn đang bắn nhau. Dường như những tên VC trong Lô Cốt vẫn còn nguyên thì phải. Thì ra mình chỉ bất tỉnh, những viên đạn có lẽ chạm mạnh thần kinh tai và mắt nên chỉ làm tê liệt một thời gian ngắn. Mãi sau này tôi mới biết có ba lỗ đạn, mỗi lỗ cách nhau khoảng một phân rưỡi, hướng đi vô sau ót gần lỗ tai trái, như vậy là có ba viên AK. Nhưng ba viên đạn cùng đi ra chung một lỗ bên má trái gần xương hàm trái, ba viên đạn xuyên phá tạo thành một lỗ lớn trên má.

Tôi tin rằng có một phép mầu nào đó. Một bàn tay vô hình đã làm các viên đạn chệch hướng không đi thẳng vào óc, nên tôi vẫn còn sống. Ai nhìn thấy vết thương từ sau ót xuyên qua phía trước đều kinh ngạc:

-- “Vậy mà không chết!”

Tôi cám ơn Người đã cứu tôi.

Khi nhận biết hai bên vẫn còn đánh nhau, chưa giải quyết được gì, tôi cũng nhớ lại rằng mình không còn cầm cây M16 để bắn được. Tôi rút cây Rulô vẫn còn bên hông ra cầm trên tay để tự vệ. Tôi nghĩ bụng, nếu tụi nó xáp tới, tôi sẽ bắn chúng và tự sát.

Nằm hoài chỗ ấy cũng thấy không ổn, tôi tự hỏi sao mình không bò lui lại chỗ Pháo đội mình. Tôi nhớ lại cái thế bò hỏa lực nằm ngữa đã học trong trường Thủ Đức, thế là bắt đầu bò len lỏi dưới những tàn lau sậy, mắt vẫn dõi trông cái Lô Cốt. Khi nào thấy bọn nó chui ra khỏi Lô Cốt thì tôi ngưng bò để chúng không nhìn thấy.
Cuối cùng tôi cũng đến được chỗ chiếc xe Jeep còn nằm lật nghiêng, chiếc máy VRC-47 trên xe vẫn còn tiếng “sôi” rè rè. Tôi bò xung quanh xe tìm cái ống liên hợp, nhưng máy đã không còn liên lạc được.

Trong khi loay hoay ở chỗ này thì lính tôi thấy được và họ la lớn:

-- “Đại Úy bị thương! Đại Úy bị thương!”

Họ tập trung hỏa lực uy hiếp địch, và một toán khác nhào tới khiêng tôi ra phía sau. Họ đặt tôi dưới lề đường sát bờ ruộng thấp hơn mặt đường khuất tầm quan sát của quân địch, tiếng người thượng sĩ thường vụ Pháo Đội hò hét điều động bắn trả lẫn với tiếng gọi Hạ Sĩ Mai, y tá tới băng bó vết thương cho tôi. Tôi nói không mở mắt:

-- “Trung Úy Sinh đâu rồi.”

Có ai đó trả lời:

-- “Dạ! Trung Úy ở phía sau.”

Tôi bảo:

-- “Gọi Trung Úy Sinh đến đây và mang lại đây cái máy PRC 25.”

Một lúc ngay sau đó Trung Úy Sinh đến nói không lớn

-- “Tôi đây Đại Úy.”

Tôi cũng không mở mắt nói với anh Sinh:

-- “Sao anh không trực xạ bọn chúng? Nó ở hết trong cái Lô Cốt kia kìa.”

Đại bác 105 ly có thể trực xạ 900 mét (bắn thẳng) rất chính xác, khi hạ nòng và nhìn mục tiêu xuyên qua nòng súng còn được huống hồ gì cái Lô Cốt chỉ cách 50 mét đối với khẩu độ đang nằm đầu tiên. Chỉ cần một quả cũng đủ tan xác cái Lô Cốt, thế mà chúng tôi lại để nó sống khá lâu từ lúc bị bắn quả B40 đầu tiên đến giờ, làm chết Kiều Xuân Ba và tám người khác bị thương.

Trong lúc Trung Úy Sinh chạy lo trực xạ, tôi bảo gọi Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực đang ở phía trước. Tôi cầm ống liên hợp:

-- “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh (danh hiệu truyền tin riêng tên tôi).”

Họ trả lời:

-- “Anh nói đi. Đi tới đâu rồi?”

Tôi nói:

-- “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh, nhà tôi đang bị Phú Quốc Kinh Kỳ (đang bị phục Kích).”

Đầu máy bên kia bảo:

-- “Anh cần gì cho biết?”

-- “Tôi cần trực thăng võ trang yểm trợ”.

-- “Giờ này không còn trực thăng nào nữa”

Tôi bảo:

-- “Thế thì cho mấy con Gà cồ gáy cho tôi!”

-- “Ở đâu?”

-- “Hai bên Cầu Cương cách 150 mét.”

Tôi sợ bọn nó xung phong nên phải dùng pháo binh, một Pháo đội B đang di chuyển cùng với Trung đoàn. Chỉ có vài phút sau đạn được gởi cho tôi, trong lúc ấy cái Lô cốt đã được san bằng và 8 tên VC cũng tiêu diêu rồi. Những người lính cầm những cây AK đến khoe với tôi, tôi nhận ra tiếng nói một trong những người ấy qua giọng Bắc Kỳ của Trung Sĩ Linh, Hạ Sĩ Quan Đạn dược.

-- “Tụi nó chết hết rồi Đại Úy à, đây súng tụi nó tụi em lấy nè.”

Tôi cố mở mắt ra nhìn cho mấy đứa em vui lòng.

Tôi đang mừng vì đã giải quyết xong cái Lô Cốt, đầu máy phía trước gọi tôi:

-- “Mộc Tinh! Đây Sao Băng gọi.”

Người lính đưa máy cho tôi, tôi nghe tiếng ông Trung Tá Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực ra lệnh:

-- “Anh dùng M14 đi. Ở phía trước cũng như vậy.”

Xử dụng M14 là một mệnh lệnh mà cả đời một pháo thủ không bao giờ muốn nhận. Nó làm tôi xây sẫm mặt mày và tuyệt vọng. Đây là lần đầu tiên trong đời làm lính Pháo Binh tôi nhận lệnh này. Bỏ lựu đạn M14 vô nòng súng phá hủy đại bác để địch không còn xử dụng được nữa. Có nghĩa rằng mạnh ai nấy chạy?

Tại sao phải đến tình huống như thế này? Cái giây phút này làm rã rời tâm trí và thân xác, đau đớn gấp trăm lần hơn bị thương. Tôi vừa hiểu được chuyện gì sắp xảy ra kế tiếp. Tôi cho gọi Trung Úy Pháo đội Phó tới và ra lệnh:

-- “Anh Sinh! Anh dùng lựu đạn M14 đi. Tôi lập lại một lần nữa mệnh lệnh rất quan trọng này. Anh nghe rõ không, anh dùng M14.”

Sinh chạy đi lo liệu mọi thứ, và trở lại gặp tôi. Như chợt nhớ ra rằng Sinh phải thay tôi lo cho cả Pháo Đội tôi bảo Sinh:

-- "Anh rút trong túi quần bên đùi phải tôi, tiền nuôi ăn binh sĩ 100.000 đồng. Cố gắng đưa anh em về đến hậu cứ Tiểu đoàn an toàn. Còn tôi có lẽ phải tản thương."

Sinh kéo số tiền ra khỏi túi quần, máu dính đầy tiền, vì vết thương tại đùi chảy náu xuống cái túi gần đó. Sinh nói trong tiếng như khóc vì xúc động sắp xa tôi, và sắp nhận lãnh một nhiệm vụ nặng nề hơn trong niềm tuyệt vọng đã phá súng. Pháo Thủ mà không đại bác thì còn gì Pháo Thủ và có lẽ vì tiền đầy máu Sinh nói không ra lời:

-- “Trời ơi! Tiền máu không à Đại Úy ơi!”

Tôi hỏi Sinh

-- “Anh em có ai sao không?”

-- “Dạ có Kiều Xuân Ba chết, Thiếu Úy Đúng bị thương, và tám binh sĩ nữa.”

Sinh kể tên những người lính và Hạ Sĩ Quan bị thương, trong đó có tất cả bốn người trong xe tôi, không kể tôi vì đạn B40 ngay từ đầu.

Tôi nghe tiếng người Trung Uý Pháo Đội Phó thay tôi ra lệnh binh sĩ dưới quyền:

-- “Tìm một chiếc xe nào còn có thể chạy được, chở Đại Úy, Thiếu Úy Đúng và những anh em bị thương chạy tìm Trung Đoàn để tản thương. Còn các anh em còn lại bỏ tất cả quân dụng ở lại, chỉ mang theo súng đạn cá nhân và đi theo tôi trong đội hình.”

Tôi được bỏ nằm trên chiếc băng ca đặt dọc theo thùng xe GMC. Những người khác cũng nằm xung quanh trên sàn xe. Hạ Sĩ Nhứt - Y tá thì được giữ lại đi cùng pháo đội. Tôi được mang theo một bịch nước biển và túi bông gòn, cứ chạy chừng 15 phút tài xế ngừng lại leo lên xe phía sau lấy bông gòn thấm nước biển chậm vào môi cho tôi đỡ khát nước, và tuyệt đối không cho tôi uống nước; bị ra máu nhiều nếu uống nước sẽ dễ chết.

Tôi cứ đinh ninh rằng xe chở tôi gặp Trung Đoàn sẽ xin trực thăng tản thương, ai ngờ lúc ấy là giờ phút vĩnh biệt tất cả anh em binh sĩ. Đâu có ngờ là sẽ mất luôn Miền Nam đúng một tháng sau. Ngày tôi bị thương là 31 / 3. Ngày mai mất Bình Định.

Sau nhiều giờ đồng hồ, chiếc xe GMC chở tôi và các anh em khác đã bắt gặp Trung Đoàn. Tôi bị chứng ngũ sắc hoa mắt chỉ thấy toàn những màu xanh đỏ tím vàng mà không còn nhìn thấy gì hết, nhưng tai vẫn nghe được. Thì ra Trung Đoàn cũng bị chận lại không di chuyển dễ dàng. Không biết lúc ấy Bộ Binh còn hàng ngũ và theo lệnh chỉ huy của cấp trên hay không. Tôi nghe thấy tiếng ông Đại Tá Lê Cầu, Trung Đoàn Trưởng 47, người rất thân thiện leo lên xe thăm tôi, và ra lệnh cho thuộc cấp

-- “Khiêng tất cả anh em Pháo Binh qua bên kia sông và bỏ lên chiếc xe của mình tiếp tục chở họ đi.”

Tôi cũng nghe lần lượt tiếng nói của Đại Úy Chương, Sĩ Quan Trực của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Trung Đoàn, của ông Trung Tá Nguyễn Trùng Hanh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 220 PB và các người khác leo lên hỏi thăm tôi. Không ngờ lần ấy là lần sau cùng không bao giờ gặp nữa.

Lính Bộ Binh đã khiêng tất cả chúng tôi qua bên kia sông bỏ lên một chiếc xe khác. Tài xế bây giờ không còn là lính của tôi nữa, coi như tôi thực sự “bị lạc đàn” bởi vì chỉ có lính của mình mới lo cho mình nặng tình hơn là khác binh chủng.

Chiếc xe chaỵ cũng được khá lâu trên những miếng đất gồ ghề (không còn được chạy trên quốc lộ nữa). Bỗng chiếc xe dừng lại, im lặng một lúc, tôi nghe tiếng nói lớn:

-- “Bắn vô xe! Bắn vô xe!”

Tôi hiểu người tài xế Bộ Binh này muốn bỏ xe chạy bộ vì không thể lái được nữa, hay là địch đang bao vây? Tôi sợ bắn vào xe sẽ chết người trên xe nên tôi la lớn:

-- “Đừng bắn! Có người trên xe.”

Giây phút này tôi thực sự bị đau điếng trong lòng, vì tôi biết chắc rằng không còn ai lo cho tôi nữa. Lính Pháo Binh của tôi đã xa từ sáng. Lính Bộ Binh họ lo thân họ chưa xong thì lấy gì lo cho tôi. Thà rằng tôi bị viên đạn đi thẳng vào đầu và chết ngay lúc sáng thì đỡ đau khổ hơn là tôi bị bỏ rơi lại chiến trường lúc này. Máu và huyết tương vẫn chảy ra ướt lưng áo, nhất là vết thương ở sau cổ. Tâm trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Tôi biết chắc bị ở lại đây, đến ngày mai rồi cũng chết vì đói khát, vì nhiễm trùng, nếu VC không bắn khi gặp.

Như một bản năng sinh tồn, tôi cố lết tới gần thành ghế chiếc xe GMC lấy hai tay dùng hết sức lực kéo thân người nhô cao lên để nhìn ra bên hông xe, mắt chỉ thấy ngũ sắc nhiều màu quay cuồng, không thấy rõ, chỉ thấy từng đoàn dập dìu bóng đen chạy ngang qua xe dưới mặt đất.

Tôi mệt quá và gục đầu lên thành ghế xe coi như chấp nhận thương đau, rồi thiếp đi.

Bỗng có tiếng kêu:

-- “Trời ơi! Đại Úy, sao Đại Úy nằm đây?”

Tôi còn nhận biết ra tiếng của Hạ sĩ Nhứt Loan, người Nam, hay làm thịt chó trong đơn vị. Một mình Loan tình cờ chạy ngang qua đây và nhìn thấy tôi gục trên thành ghế xe.

Một điều rất may mắn đến cho tôi rằng tôi gặp được người lính của tôi và ai xui khiến sao để nhìn thấy và đem hết lòng cứu tôi lúc bấy giờ. Giờ phút này chỉ có tình nghĩa, lương tâm chứ không phải bổn phận của thuộc cấp. Về sau tôi hiểu em gái tôi xui khiến để người Hạ Sĩ này nhìn thấy tôi, và đem hết lòng ra cứu giúp.

Loan lẩm bẩm nói một mình như trách ai đó:

-- “Sao tụi mày đành bỏ Đại Úy một mình ở đây?”, rồi Loan nói lớn hơn:

-- “Đại Úy lết ra đây tôi cõng Đại Úy đi, lết ra lết ra!”

Loan nói trong tiếng thở dốc vì chạy bộ đã mệt. Tôi cũng cố gắng lết ra tới cửa sau xe, tôi nói cho Loan nghe rõ:

-- “Sao mà Loan cõng cho nổi đường còn xa lắm.”

Loan bảo “Kệ nó tới đâu hay tới đó, chắc cũng phải ba bốn chục cây số nữa mới tới Quy Nhơn.”

Loan đưa lưng vào bảo tôi ôm cổ hắn, chỉ ôm một tay, tay còn lại bị thương không nhúc nhích gì được. Loan vòng một tay ra sau mông, bợ mông tôi và bước đi lạng quạng. Tôi biết là không thể nào cõng như thế này lâu hơn được. Tôi bị trì xuống vì một tay không giữ nỗi thân tôi. Một tay của Loan cũng không nâng tôi lên hoài được, cứ tụt xuống chốc chốc Loan ngừng lại sốc người tôi lên. Một tay Loan cầm khẩu M16, tôi nói:

-- “Sao không bỏ súng đi.”

Hắn nói:

-- “Để tử thủ Đại Úy ạ.”

Giữa trưa nắng chang chang, người đẫm mồ hôi nhưng Loan không hề nao núng, Loan không than một lời. Tôi nhắm nghiền mắt và phó thác cho định mệnh.

May mắn làm sao, tình cờ Trung Úy Sinh nhìn thấy Loan đang cõng tôi, Sinh cũng đang đứng giữa miếng đất hoang có nhiều bụi cây, Sinh đi một mình. Tôi nghe Sinh nói:

-- “Để Đại Úy xuống! Để Đại Úy xuống nằm đây, tôi đi tìm lính của mình.”

Một lúc sau Sinh dẫn về sáu người lính trong Pháo Đội, tôi cũng không nhìn được là ai. Sinh nói:

-- “Để tôi đi tìm cái võng.”

Đám lính vây quanh tôi và hỏi han nói chuyện với Loan, không nói với tôi. Máu và huyết tương vẫn tiếp tục ứa ra, các miếng băng vết thương khi sáng lúc bị thương bây giờ có cái còn dính cái rớt lòng thòng. Hạ Sĩ Y tá giờ này đã thất lạc đâu rồi.

Sinh đi đâu khá lâu, mang về một cái võng nylon. Hai người khiêng bỏ tôi vào võng xong, Trung Úy Sinh nói như ra lệnh:

-- “Các anh hai người một, khiêng Đại Úy đi, đến khi nào mệt thì đổi cặp khác.”

Tôi biết chắc lần này sẽ không hy vọng gì sống để trở về Nha Trang gặp Cha Mẹ hay về Sài Gòn gặp được vợ mình nữa.
Con đường từ đây đến Quy Nhơn còn quá xa, chắc cũng phải 35 cây số nữa. Tôi muốn Sinh là người chứng kiến trực tiếp kể lại cho vợ tôi nghe cảnh tượng cuối cùng của tôi sau khi tôi chết. Tôi bảo Sinh:

-- “Anh Sinh, anh lấy cái bóp trong túi tôi, trong đó có sáu ngàn và giấy tờ, có hai tấm hình của vợ tôi, anh đem về Sài Gòn và kể lại cho vợ tôi biết trong giờ cuối.”

Sinh xúc động thật sự, tay cầm cái bóp mà muốn khóc nghẹn lại:

-- “Dạ tôi hứa.”

Cảnh tượng này y chang như trong phim, hay màn kịch trước giờ vĩnh biệt vậy. Tôi cố nhớ lại nhiều người thân của mình.
Đoàn người gồm tất cả tám người lần lượt khiêng tôi, lúc lên dốc, lúc xuống suối lội nước bì bỏm. Cứ mỗi lần xuống dốc, thân thể tôi tụt theo với cái võng nghiêng xuống, lúc lên dốc cũng tụt ra sau. Sinh đã tìm ra đâu một cái mền rằn ri nylon đắp cho tôi khỏi nắng. Không biết ai đã cho lon sữa bò đặc còn rất ít, Sinh đưa cho tôi. Cái miệng của tôi hả ra để nút sữa bắt đầu thấy khó khăn vì đau, có lẽ chỗ ba viên AK thoát ra làm phá thủng má trái một lỗ khá lớn.

Từ lúc được khiêng võng cũng khoảng giữa trưa, đến 5 giờ chiều thì vào đến vòng đai ngoài cùng của phi trường Phú Cát. Một phi trường quân sự khá lớn của Mỹ để lại dùng cho việc tiếp tế cả vùng Bắc Bình Định. Còn đang ngoài hàng rào kẽm gai, có ba chiếc C-130 lần lượt cất cánh rời khỏi phi đạo trong hàng ngàn tiếng súng phòng không của địch bắn lên từ vòng ngoài phi trường. Cộng Quân chưa vào được phi trường, chỉ đang pháo kích vào. Tôi cầu nguyện cho ba chiếc vận tải cơ không trúng đạn.

Vượt hàng rào kẽm gai phòng thủ phi trường là nỗi cam go vì mìn đầy dẫy. Đã có dấu chân của những người lính Trung Đoàn đi trước, toán lính pháo binh tám người bước từng bước một theo trên từng dấu chân đi trước để khỏi dẫm mìn.

Khi võng tôi vào được hàng rào kẽm gai cuối cùng một kho đạn trong phi trường trúng đạn pháo kích, nổ dữ dội. Phải nói rằng đưa cái võng chui qua một lỗ nhỏ vừa bằng thân người của mấy chục hàng rào kẽm gai là một kỳ công ghê gớm, một người chui qua trước, nâng đầu võng, lòn chầm chậm qua khe hở, cứ như thế cũng vào tới vùng đất bên trong hàng rào cuối cùng.

Vừa đến đây thì toán khiêng gặp được Trung Sĩ Khôi, Khẩu đội trưởng vừa ra trường hơn một năm, người Sài Gòn, nhà ở đầu Cầu Trương Minh Giảng. Khôi đi lạc một mình. Vừa gặp, Trung Úy Sinh gọi lớn tiếng từ xa:

-- “Khôi! Lại đây khiêng tiếp Đại Úy.”

Khôi rất vui như được tham dự chung vai cùng anh em, mà từ sáng đến giờ chưa có dịp. Trung sĩ Khôi kê vai vô cùng với ai trong đoạn đường này tôi không biết. Nghe Trung Úy Sinh nói:

-- “Có trực thăng rồi Đại Úy ơi! Để tôi tới xin cho Đại Úy đi.”

Vài phút sau Sinh trở lại nói bằng giọng mừng rỡ:

-- “Nó cho đi rồi Đại Úy à!”

Thế là cả đám khiêng tôi tới chỗ trực thăng HU1B đang nổ máy còn đậu dưới đất, bên cạnh cái mả xây bằng đá tổ ong, và một cây to cao gần giống như cổ thụ. Trung Sĩ Khôi, người mới vừa kê vai vào khiêng tôi, và Trung Úy Sinh khiêng tôi rời khỏi cái võng và bỏ lên nằm trên các anh em binh sĩ Bộ Binh khác đã ngồi trước trên trực thăng. Chiếc trực thăng HU1B theo lý thuyết chỉ chở 11 binh sĩ sĩ với đầy đủ súng ống đạn dược, nhưng giờ đã phải gồng đến 34 người trên đó.

Tôi không có chỗ ngồi, (mà cũng chẳng ngồi được) vì chật cứng rồi. Tôi nằm dài trên vai trên cổ của những binh sĩ Bộ Binh. Họ chấp nhận như vậy, vì thấy trên người tôi có tới 9 vết thương.

Trung Úy Sinh và Trung Sĩ Khôi đặt tôi lên trực thăng xong thì lui ra một khoảng cách an toàn cho trực thăng cất cánh. Tôi đang nghĩ mình sẽ về Quân Y Viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang để điều trị. Đây cũng là mộng ước thật lãng mạn của tôi khi còn là học sinh, muốn làm lính trận và được bị thương, điều trị tại quân y viện để chiều chiều có người yêu tới thăm. Hồi đó sao mà ước mơ ngu quá!

Chiếc trực thăng vừa cất cánh trong tích tắc, tôi nghe một tiếng “Rắc” rất lớn. Nó khập khừng nâng lên rớt xuống mấy lần rồi rớt hẳn xuống đất. Tôi bị bất tỉnh, khi mở mắt ra chỉ thấy chiếc trực thăng cách xa tôi đến 5 hay 6 mét. Trên trực thăng trống không, máy không còn nổ, cánh quạt đã ngừng hẵn. Có hai cái xác bị mất từ ngực trở lên văng đi đâu, không nhận diện được là xác của ai, nằm song song nhau cách nhau một mét.

Linh tính cho tôi biết một trong hai cái xác không đầu ấy dường như là xác của Trung Úy Sinh (?) vì cái dáng còn lại rất quen thuộc, người lùn lùn nhỏ con. Toán khiêng tôi đi từ lúc trưa gồm có sáu người, cùng với Loan cõng tôi và Trung Úy Sinh là tám, mãi về chiều gặp được Khôi, tổng cộng là chín. Bây giờ Lính Bộ Binh không còn ai và phi hành đoàn cũng chạy đi đâu hết. Toán khiêng tôi gồm cả thảy chín người, bây giờ chỉ thấy hai cái xác không đầu nằm song song nhau, và ba người lính của tôi đứng xa xa không dám chạy lại.

Tôi đưa tay vẫy vẫy ra dấu như còn sống, ba người ấy chạy tới, tôi thấy nghi ngờ xác nằm ấy là Trung Úy Sinh nên hỏi ba nguời lính vừa chạy tới:

-- “Trung Úy Sinh đâu rồi.”

Hạ Sĩ Nghiêm, người lính thân cận nhất của Sinh trả lời như khóc:

-- “Dạ em không biết.”

Tôi hỏi tiếp:

-- “Còn lính Bộ Binh đi đâu hết rồi?”

Nghiêm trả lời:

-- “Dạ họ chạy hết rồi Đại Úy ơi!”

Tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra, trực thăng có lẽ vì nặng quá mà rớt xuống, hay vì cánh quạt chặt trúng cành cây nên có tiếng “Rắc” trước khi rớt. Khi rớt xuống, cánh quạt quay nhanh đã chặt vào hai người đang đứng không xa chỗ rớt. Một nữa thân người của hai xác ấy đã văng ra xa lắm. Lính Pháo Binh có mang huy hiệu Sư Đoàn 22 trên cánh tay áo, có bảng tên và huy hiệu Pháo Binh phía trước ngực. Bây giờ không còn thấy gì nữa ngoài hai cái thây người bị đứt tiện ngay dưới ngực một chút xíu.

Tôi muốn xác nhận một trong hai xác ấy có phải là Sinh hay không. Tôi nhớ ra sáng nay lúc bị B40 và đạn AK, trước khi tôi được chở bằng xe GMC rời khỏi Cầu Cương, tôi có bảo Sinh lấy tiền trong túi quần bên đùi phải của tôi và bảo Sinh giử tiền ấy để nuôi ăn binh sĩ. Tôi nói với Hạ Sĩ Nghiêm: “Em lại lục một trong hai xác kia coi có tiền hay không.” Tôi không còn lòng dạ nào để tìm tiền bạc lúc này, mà chỉ muốn nhờ tiền để xác nhận có phải đúng là Sinh hay không, nếu quả thật có tiền thì đúng rồi.

Nghiêm nói trong sự sợ sệt nghẹn không ra lời:

-- “Em sợ lắm Đại Úy ơi!”

Tôi thúc:

-- “Cứ lục đi đừng sợ!”

Tôi mệt quá nhắm mắt lại và không còn biết gì, đang nửa mê nửa tỉnh thì tiếng Nghiêm đến cạnh tôi nói rất rõ, và câu nói này tôi nhớ như in trong đầu từng âm phát ra trong nỗi nghẹn ngào xúc động:

-- “Đại Úy ơi! Nếu Đại Úy chết rồi thì thôi, nếu còn sống, em báo Đại Úy biết là tiền đã tìm thấy rồi, thằng Tấn đang giữ tiền ấy.”

Tôi mở mắt ra và nói nhỏ:

-- “À! Thì ra là Trung Úy Sinh.”

Tôi hiểu rằng chiếc trực thăng rớt xuống, Sinh và Khôi sau khi khiêng bỏ tôi lên trực thăng không lui ra xa mấy nên cánh quạt đã quay mạnh, tốc độ cánh quạt giảm nên nó quay nghiêng một bên thấp một bên cao, mới xảy ra sự đau đớn này. Bình thường người ta đứng không cao bằng chiều cao của cách quạt trực thăng.

Tôi không hiểu tại sao tôi bị văng ra xa cách trực thăng 6 hay 7 mét và bị bất tỉnh mà không bị thương gì cả. Có lẽ lúc tôi nằm trên vai trên cổ những người lính Bộ Binh; trực thăng rớt xuống, mấy người ấy văng ra, tôi bị văng theo. Cũng may là trực thăng không bị nổ hay cháy trong khi tôi nằm cạnh. Tất cả mọi người đều chạy hết, kể cá đám lính của tôi chỉ còn lại ba người, trong đó có Nghiêm, Tấn là tài xế xe GMC kéo súng, và Trung Sĩ Minh, Khẩu trưởng cũng vừa mới ra trường được hơn năm.

Họ xúm lại hỏi tôi một câu:

-- “Giờ sao Đại Úy? Giờ sao Đại Úy?”

Trong xúc động thì thào. Tôi hiểu bây giờ tôi là một gánh nặng của mấy đứa em này. Chúng bỏ tôi không đành, mà cưu mang thì nặng nhọc cho chúng. Nhưng để tôi nằm lại đêm nay có lẽ cũng sẽ chết, giữa khoảng trống vắng vẻ này đâu có ai biết mà cứu giúp, nên tôi nói với ba người còn lại:

-- “Hãy cố khiêng tôi vô trong phi đạo rồi tính.”

Hai người kê vai vô chiếc cán võng mà Sinh đã làm từ trưa, một người đi đầu dẫn đường. Trời đã tối dần sao mà ảm đạm thê lương quá! Ngày cuối cùng đời lính của tôi chăng? Tôi không bao giờ nghĩ ra là sẽ mất nước! Tôi chỉ nghĩ đang bị Việt cộng tấn công vùng đất này, mình tạm rời bỏ và sẽ tái chiếm lại như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, đã tái chiếm lại ba Quận Bắc Bình Định.

Đang đi trong khuôn viên phi trường thì thấy một chiếc xe Jeep của Tiểu Đoàn 4 Phòng Không của phe ta, chiếc xe còn rất mới của một trung đội Pháo Binh Phòng Không trấn giữ Phi trường. Tấn reo lên:

-- “Có xe rồi Đại Úy! Có xe rồi! Để tụi em chở Đại Úy đi.”

Nó mừng là phải vì chỉ có ba người khiêng nên mệt quá. Chúng nó không nở bỏ tôi mà chạy trốn nhưng đeo theo cái cục nợ này thì thật là khổ. Tôi hiểu rõ tâm lý các đứa em lúc này nên nói:

-- “Cố đưa tôi vào phi đạo rồi trốn đi được rồi.”

Tôi hy vọng vào trong ấy còn máy bay bốc tôi hay ít nhất cũng không đơn lẻ một mình khi phải nằm đây.

May mắn thay! Chiếc xe Jeep không nổ máy, Tấn thất vọng trở lại chiếc và cũng hỏi câu cũ:

-- “Giờ sao Đại Úy?”

Mãi về sau này tôi mới hiểu ra rằng - chúng tôi rất may mắn. Nếu chiếc xe chạy được thì đời chúng tôi cũng tiêu tùng vì ăn B40, khi phải lái xe ra Quốc Lộ. Khắp vùng rộng lớn ấy địch đã kiểm soát hết rồi. Có điều gì đó khiến chiếc xe không nổ máy được. Tôi tin như thế!

Tôi giữ nguyên ý định cố vào cho được trong phi đạo rồi tính sau, nên khuyến khích:

-- “Hãy cố đưa tôi vào phi đạo rồi các em về nhà.”

Tôi biết mấy người này có gia đình loanh quanh Phù Mỹ và Phù Cát.

Đoạn đường từ đây vào đến phi đạo rất chông gai, mặc dù cũng đang trong khuôn viên Phi Trường. Có rất nhiều hàng rào kẽm gai chia ra nhiều khu vực khác nhau. Mỗi lần đưa được chiếc võng chui qua lỗ hàng rào là cả một kỳ công, cũng như rất tốn thời gian. Làm gì có kềm cắt kẽm gai để chui qua. Chúng để tôi xuống đất, ba người thay phiên nhau tìm cách banh lỗ hàng rào cho vừa đủ chiếc võng. Một người chui qua trước, một người bên này hàng rào nâng đầu võng đút qua, người bên kia đỡ lấy.

Tôi xúc động biết chừng nào cho tấm lòng của lính không bỏ tôi vì công lao của họ mỗi lần đi qua một hàng rào kẽm gai. Đâu phải chỉ có một, phải đến hàng chục lần như thế. Mãi về sau này tôi hiểu được đã có một sức mạnh vô hình thôi thúc mấy đứa em đã hết lòng với tôi. Tôi mang ơn họ suốt đời.

Cuối cùng, bốn anh em chúng tôi cũng tới được phi đạo. Vừa tới nơi, một trong ba người lên tiếng trong tiếng thở hổn hển vì quá mệt:

-- “Tới rồi Đại Uý, tới rồi Đại Úy.”

Tôi giữ đúng lời hứa, dù biết rằng mình không biết sẽ làm gì sau đó, tôi nói:

-- “Tôi cám ơn các em nhiều lắm đã cứu tôi, thôi cứ để tôi đây, các em trốn, và tìm cách về nhà đi.”

Tôi thực sự bị xúc động với lần chia tay này. Xem như vĩnh biệt, những người lính cuối cùng đã cứu tôi.

Địch vẫn tiếp tục pháo kích vào bên trong, một kho đạn lửa cháy rực sáng kèm theo những tiếng nổ của đạn đủ loại. Tôi đoán chừng cũng phải đã quá 10 giờ đêm rồi. Tôi mệt quá, nhắm mắt lại thiếp đi.

Dường như tôi bị mê thiếp, đến lúc tỉnh dậy không biết bây giờ là mấy giờ nhưng vẫn biết hôm nay là đêm 31 tháng 3 năm 1975. Ngày tôi bị thương hai lần và rớt trực thăng, chặt đứt đôi hai người khiêng tôi. Đã có mấy người vì tôi mà phải vĩnh viễn ra đi.

Tiếng động những bước chân dồn dập tiến tới gần tôi, cùng với những âm thanh xì xào nghe không rõ. Tôi mở mắt ra thì nhận biết lính của Trung Đoàn 47 đang từ ngoài vào đến Phi Trường. Đã khuya lắm rồi, lòng tôi mừng hẳn lên vì giờ không cô đơn nữa. Tôi hy vọng sẽ bám theo toán lính Bộ Binh này.

Họ mệt mỏi, tụ từng đám ngồi xuống nền xi măng nghỉ mệt sau một ngày hành quân rồi tan hàng và suốt nửa đêm mới vào được tới Phi Đạo. Tôi nhìn thấy người lính có mang chiếc máy truyền tin PRC 25, tôi vẫy tay bảo anh ấy:

-- “Anh cho tôi mượn cái máy.”

Anh đem đến, tôi nói:

-- “Anh mở cho tôi tần số…”

Tôi gọi mấy lần về Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn, cấp cao nhất của tôi tại Sư Đoàn 22 Bộ Binh, với hy vọng xin trực thăng tản thương. Tôi nhờ anh lính đổi tần số nhiều lần, nhưng không có tần số nào có ai trả lời. Mãi khi vào tù tôi mới vỡ lẽ họ đã di tản Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn vô Nha Trang rồi.

Tôi mệt mỏi tuyệt vọng trả máy lại và cám ơn, tôi chấp nhận số phận cho Đinh Mệnh an bài. Tôi kéo chiếc mền rằn ri dù vẫn còn mang theo, đắp lên quá đầu, giống như một người nằm chết.

Có tiếng:

-- “Mở Đường Máu! Mở Đường Máu!”

Trời ơi họ lại bỏ tôi trong tư thế mở đường máu. Mà mở đường máu thì coi như liều mạng để tranh giành sự sống trong cái chết. Tôi như thế này làm sao cùng mở đường máu? Khi họ lục đục đứng lên kéo đi, tôi cũng chống cây đòn của chiếc cán võng đứng lên với ý chí quyết đi theo, than ôi vừa đứng lên chưa trọn thì bị té xuống ngay.

Một cảm giác tuyệt vọng và chấp nhận thương đau trở về, tôi nghĩ bụng: “Thôi đành cho số phận.” Nhưng dù thế nào tôi vẫn thấy “đau đớn” trong tâm ghê lắm, mình đang rớt lại trong vũng cô đơn tuyệt vọng, và cái chết đang từ từ đến với mình.

Xung quanh phi truờng kho xăng, kho đạn đang cháy và tiếp tục nổ, Việt cộng vẫn tiếp tục pháo kích vào. Một vài nơi có tiếng súng cá nhân chạm địch khi đoàn người mở đường máu. Tôi đã cố gắng đi theo những người lính Trung Đoàn 47 mở đường máu để thoát ra chỗ này, tôi sợ sáng ngày mai thế nào quân ta từ trong Nha Trang cũng cho máy bay ra oanh tạc chỗ này. Tôi cũng sẽ chết vì bom nếu chưa bị địch bắt.

Chiếc quần lính trận của tôi sáng nay lúc Loan cõng tôi, nó cứ tụt lên tụt xuống làm trở ngại trong lúc cõng, nên Loan đề nghị bỏ đi, tôi chỉ còn mặc mỗi chiếc áo và cái quần xà lỏn.
Không phải tôi hèn, không dám để cho địch quân biết tôi là một Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà tôi vừa nghĩ ra rằng, trong giờ phút đầu tiên khi gặp tôi, biết đâu sự hận thù dâng lên ngút ngàn đối với bọn chúng, nhất là tên tôi được chúng biết từ lâu trong những tháng ngày đóng quân tại quận Hoài Ân vì tôi phản pháo rất nhanh làm thiệt hại nặng cho chúng. Chúng đã loan truyền trong dân chúng tại Hoài Ân về cái giá treo đầu tôi. Vì vậy tôi nảy ra ý tưởng phải ngụy trang và nói dối trong lúc tụi nó bắt mình, tôi chợt nhìn thấy một cái áo màu đen, giống như của Xây Dựng Nông Thôn thường mặc.

Tôi lết tới và đã cố gắng thay cho được chiếc áo, làm sao biết được bọn họ trả thù tôi như thế nào, thôi thì cứ ngụy trang trước đã. Cái đòn khiêng với chiếc võng và cái mền Dù vẫn bên tôi, tôi lết đến nằm trên võng, đắp mền lại. Máu đã ra quá nhiều, tôi khát nước tưởng không còn cơn khát nào bằng và đói bụng nữa, tôi thiếp đi tự bao giờ.

Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng quát tháo đầy sắt máu của bọn Việt cộng đã vào được bên trong phi trường. Tôi đoán chắc đã bốn hay năm giờ sáng, kho đạn vẫn nổ, một vùng khác lửa cháy bốc lên cao có lẽ kho xăng bị trúng đạn. Một cây AK chĩa thẳng vào tôi quát lớn tiếng: -- “Ai đây?.” Tôi nghe giọng hỏi đã biết ngay là bọn cộng sản từ Bắc vào với cái giọng the thé trẻ con.

Tôi từ từ mở chiếc mền ra khỏi mặt và nói chầm chậm:

-- “Tôi đây! Tôi bị thương.”

Nó lại quát để khủng bố tinh thần:

-- “Sao không đầu hàng mà để bị thương?”

-- “Tôi là tài xế xe Daihasu, chở khách, hôm qua hai bên đánh nhau, tôi bị thương và được các anh lính khiêng tôi vào bỏ ở đây.”

Tôi cứ nói bừa ra vậy, tin hay không là chuyện của chúng, để tránh nhận một viên đạn trong lúc này. Hắn có vẻ không tin, nhưng cũng không gắt nữa, và nói giọng Bắc Kỳ rặc mới vô:

-- “Ừ, bị thương thì nằm đó, chờ bộ phận khác tới lo.”

Tôi liều mạng nói khi tôi chợt nhớ hình ảnh một người lính Nga bị thương nằm bên cạnh người lính Đức cũng bị thương trong trận Đệ Nhị Thế Chiến trong một phim chiến tranh, tôi xem từ hồi nhỏ. Người lính Nga đã cho người lính Đức uống nước khi lính Đức họ xin. Tôi nói với tên VC:

-- “Anh cho tôi xin chút nước, tôi khát quá.”

Tên Việt cộng còn non choẹt trả lời nhanh:

-- “Tôi hết nước rồi.”

Và hắn bỏ đi nhanh, như để lục soát tiếp trong khu vực. Qua ánh lửa hừng hực cháy xa xa tôi thấy mọi người bị bắt để hai tay ra sau ót đi từng nhóm với tiếng quát lớn:

-- “Đi hướng này!”

Hay tiếng hét:

-- “Khẩn trương lên!”

Tôi hiểu là lính của mình đã bị bắt và dẫn đi tập trung ở chỗ nào đó. Tôi đắp mền lại, coi như không có chuyện gì.

Cũng một chiếc lưỡi lê gắn đầu nòng súng chĩa vào người tôi quát giống như lúc nãy:

-- “Ai đây?”

Tôi diễn lại màn cũ, nói y những lời cũ, không biết hắn có tin hay không, nhưng không thấy nói gì. Tôi cũng xin chút nước vì khát nước không thể chịu nổi. Họ vẫn bảo hành quân suốt đêm hết nước rồi, họ nói lý do không còn nước; tôi tin họ. Rồi họ rời chỗ tôi.

Người thứ ba đến chỗ tôi và hỏi có vẻ nhẹ nhàng hơn một chút: -- “Ai đây?” Tôi mở mền ra khỏi mặt và đáp: -- “Tôi bị thương.”. Hắn hỏi tiếp: -- “Sao bị thương?”. Ba câu hỏi của ba người sao giống nhau quá, và tôi cũng giữ vững lập trường để bảo vệ sự sống trong lúc này nên cũng đáp: -- “Tôi tài xế xe Daihasu bị thương hôm qua được lính khiêng vô đây.” Tôi chợt nhớ ra chắc mấy tên địch này chẳng biết xe Daihasu là xe gì, nhưng thây kệ nó. Hắn cũng nói một câu giống như hai tên trước như học thuộc lòng. -- “Bị thương nằm đó, có bộ phận khác lo.”

Tôi muốn rời chỗ này ngay, vì sợ lúc trời sáng thế nào cũng có phi cơ từ Nha Trang ra oanh tạc căn cứ Phi Trường đã bị chiếm. Vừa nhìn thấy đám lính của mình bị bắt đi qua, tôi nói với tên thứ ba này tướng tá giống cấp chỉ huy hơn hai tên trước vì thấy không cầm AK mà chỉ có khẩu K54: -- “Anh nói với mấy người kia đến khiêng tôi đi đi.”

Hắn như thấy có lý, và gọi lớn:

-- “Mấy anh kia, lại đây.”

Trong lúc đợi những người lính bị bắt tới, tôi nói với tên VC

-- “Anh cho tôi xin chút nước.”

Hắn nói:

-- “Anh bị thương uống nước chết đấy.”

Tôi nói: -- “Tôi biết, cứ cho tôi hớp một chút thôi.”

Hắn bảo:

-- “Anh giữ đúng nhé, chỉ một chút nhé.”

Tôi cũng giữ đúng lời vì cũng biết uống nhiều sẽ loãng máu, tiếp tục ra máu, nên tôi hớp chỉ một hớp nước rồi trả lại cái bi đông cho hắn.

Khi mấy người lính Trung Đoàn 47 bị bắt đến, hắn nói lớn:

-- “Các anh khiêng anh này đi ra chỗ tập trung.”

Trời đã mờ mờ sáng, ngày đầu tiên của tháng 4 khí hậu lành lạnh, cõi lòng tan nát, tuyệt vọng, tôi chính thức trở thành tù binh Việt cộng từ lúc này. Tôi nhớ lại chuyện bắt tù binh trên mặt trận Tân Cảnh năm 1972, Mùa Hè Đỏ Lửa mà tôi tham dự trận chiến. Nhớ lại cảnh trao trả tù binh năm 1973 trong lúc người ta khiêng tôi ra đặt trên nền xi măng của phi đạo cùng với tất cả những người bị bắt.

Không nhìn thấy mọi người, nhưng tôi biết chắc những người xung quanh bây giờ là lính Trung Đoàn 47 Bộ Binh, thế nào cũng có Pháo Binh của tôi trong ấy. Tôi cứ nhắm mắt lại mặc cho thế sự đẩy đưa.

Có tiếng nói lớn phán rằng:

-- “Ai “nà” người biết “nái” xe bước ra một bên. Các anh giờ đã bị bắt, các anh hãy “nập” công với “Cách Mạng”, “nái” xe giúp “Cách Mạng” dọn dẹp sân bay “lày.”

Trong phút im lặng, tôi nghe tiếng lục đục từng tiếng động đứng lên và bước đi.

Kế tiếp vẫn tên nói ngọng ấy:

-- “Ai “nà” Sĩ Quan bước qua bên “lày.”

Tôi nghe tiếng thì thầm rất nhỏ chỉ trong đám ngồi gần nghe được:

-- “Có ông Đại Úy Pháo Binh, có ông Đại Úy Pháo Binh”.

Tôi hiểu ai cũng biết mặt tôi trong Trung Đoàn 47 này, dù tôi có ngụy trang mặc áo đen của Xây Dựng Nông Thôn. Họ lo lắng cho số phận sắp tới của tôi đang bị thương chứ không là tố cáo tôi.

Tôi quyết định rất nhanh “Mình cứ giả như không nghe không thấy không biết gì hết về lời kêu gọi.

-- “Sĩ Quan bước qua bên này”

Nếu vế sau chúng nó phát giác thì cứ bảo tôi bị thương làm sao nghe được. Tôi hiểu họ đang phân loại và đưa riêng các cấp vào rừng sâu để nhốt. Mà tôi đi theo chúng thì chỉ chết ngay ngày hôm sau.

Tôi cứ nằm nguyên không nhúc nhích, có tiếng động từng người bước ra khỏi hàng. Sau cùng là tiếng nói lớn:

-- “Ai nà binh sĩ bước qua chỗ 'lày'.”

Vậy là còn một mình tôi duy nhất nắm trên võng có cái đòn cây, trên đầu trên bụng, trên tay, trên đùi và ống quyển chi chit nhiều miếng băng đầy máu cái đã khô, cái còn ướt trông rất ghê tởm. Có lẽ chúng nó biết đem tôi đi là một của nợ, nên lờ đi bỏ mặc tôi nằm đó.

Tất cả đều được áp giải ra đi, tôi ở lại một mình với hai tên VC miền Bắc trẻ như con nít còn búng ra sữa. Một đứa mang máy truyến tin, đứa còn lại chộp được chiếc xe Honda 67 màu đen ở đâu đó tập chạy.

Cứ mỗi lần hắn đạp nổ máy, sang số, rồ ga, chiếc xe lồng lên, hắn té xuống, và xe tắt máy vì lần đầu tiên từ Bắc vào cỡi xe đâu biết sang số ra sao (có lẽ nhấn số lớn và vô ga mạnh nên xe lồng lên và té triền miên) tôi cũng mắc cười. Tên còn lại cứ chừng năm phút một, liên lạc theo định kỳ với đơn vị bạn. Tôi cố lắng nghe mà không hiểu nó nói gì, vì toàn một tràng số.

Nắng buổi sáng đã chói chang phi đạo, tôi nhìn xa xa cuối phi đạo, thấy mờ mờ bóng dáng những người dân, nhiều màu áo băng qua phi đạo, tôi nghĩ họ cũng đang bị xung công vào thu dọn phi trường. Thỉnh thoảng tôi hỏi hai tên Việt cộng con:

-- “Sao không khiêng tôi đi.”

Một câu trả lời dù mấy lần vẫn giống nhau rằng:

-- “Chờ có bộ phận khác tới khiêng.”

Tôi nghĩ “Có lẽ ban y tá đến sau”.

Có nhiều điều xui khiến cho tôi ứng xử và quyết định, mà tôi tưởng không phải tôi, có ai đó đang nói thầm trong đầu, thúc đẩy tôi phải hành động hay nói nhiều điều mà tôi không nghĩ ra, vì tâm trí tôi mơ mơ màng không tỉnh táo. Tự nhiên tôi bảo hai chàng VC con:

-- “Dân đi đâu hết rồi?”

Một trong hai đứa trả lời:

-- “Đi hết rồi.”

Tôi nói tiếp:

-- “Vậy anh cho tôi theo với dân nhen.”

Nó đáp:

-- “Ừ anh đi đi.”

Tôi hoạt động vùng Bắc Bình Định, cũng như Quận Phù Cát này có đến gần tám năm, trong khi thời gian quân ngũ chỉ hơn chín năm một chút xíu. Tôi rành địa thế, dân tình ở đây. Tôi biết hướng nào để lết ra cổng phi trường. Thế là với bản năng sinh tồn, tôi cố lết đi bằng hai bàn tay và cái mông, nhưng vẫn cố kéo theo cái đòn khiêng có chiếc võng là bùa hộ mạng về sau này, nếu có ai muốn cứu tôi.

Tôi lết được vài mét là tối đa rồi phải nghỉ cho đỡ mệt. Trời đang nắng bỗng tối sầm lại sắp sửa trút mưa, tôi vội đổi hướng cố tìm một chỗ trú mưa. Tôi lết vào tới chỗ dùng để sửa máy bay, nằm co ro trong đó vì mưa ướt và lạnh quá, có một đống cỏ khô trong chiếc ghế của Mỹ bị bể ra, tôi kéo lấy đắp lên người cho đỡ lạnh. Tôi bị đói, khát nước, tưởng như không còn cử động được, nó mệt lã ra. Đang co ro người hình số 4, bỗng có tiếng hỏi:

-- “Sao nằm đây?”

Tôi nói:

-- “Tôi bị thương và lạnh quá trú đỡ ở đây.”

Tên VC này có vẻ là cấp lớn hơn bọn thường vì chỉ có cây súng ngắn và cái xắch cốt lủng lẳng. Hắn nói:

-- “Ừ lạnh thì nằm đó đi.”

Rồi hắn bỏ đi.

Tôi sợ hắn kêu người tới bắt dẫn đi vào mật khu Vĩnh Thạnh như sáng nay họ đã làm thì bỏ mạng. Tôi thấy đã bị lộ, nên quyết định rời chỗ này ngay dù trời còn mưa lất phất. Tôi tiếp tục lết ra và nhắm về hướng cổng phi trường.

Khi ra đến giữa đường lớn, khoảng trống rộng mênh mông, phía trước mặt có ba người con trai, chừng muời bảy mười sáu tuổi mặc áo dân dã, tay cầm ba cây súng Carbin đang tiến về phía tôi. Tôi mừng trong bụng, chắc đám này có thể cứu được mình đây. Không ngờ, còn cách chừng trên năm mươi mét cả ba đều đưa ba cây súng lên nhắm vào tôi mà cùng bắn một lúc.

Tôi phát giác kịp khi nhìn thấy chúng vừa đưa súng lên ngắm, tôi đã bật ngữa người ra sau nằm ngữa xuống tránh lằn đạn của chúng. Bắn xong có lẽ chúng nghĩ tôi đã trúng đạn hay sao mà vẫn còn nằm ngữa. Chúng chạy lại, vừa chạy vừa nói với nhau:

-- “Khóa an toàn làm sao mày?”

Tôi biết ngay là đồ gà mờ mới lượm súng đi hôi của. Chúng chạy đến thấy tôi còn sống và băng đầy vết thương, tôi vội nghi binh nói nhanh:

-- “Trong kia nhiều xe Honda lắm vô trong đó mà lấy.”

Tôi cố tình chỉ về hướng hai tên bộ đội hồi nãy. Chúng mừng lắm cùng hỏi:

-- “Ở đâu? Ở đâu?”

Rồi chạy đi.

Bây giờ thì không thể câu giờ được nữa, phải rời khỏi chỗ này để ra gặp dân thì còn hy vọng sống. Tôi lết tiếp tục, chỉ vài mét phải ngừng lại để nghỉ lấy sức.
Đến hơn sáu giờ chiều, cũng ra tới cổng phi trường Phù Cát, tôi đoán giờ như vậy vì trời nhá nhem tối rồi. Khi đến còn cách cổng chừng mười thước, tôi ngã lăn ra nằm ngửa vừa để nghỉ mệt vừa ăn vạ bọn gác cổng phi trường.

Một đám đông bọn Việt cộng gác cổng, cửa đóng kín. Có hai ba người lăm le cây AK chạy lại hỏi tôi, nhưng không gắt gỏng:

-- “Tại sao bị thương? Tại sao không đầu hàng để bị thương?”

Tôi hiểu mấy người này nghĩ tôi là lính Không Quân, cố tử thủ nên không ra hàng. Tôi nói:

-- “Tôi là tài xế xe Daihasu, bị thương hôm qua ở Phù Mỹ, mấy anh lính Trung Đoàn thấy tội nghiệp mang tôi vào phi trường đêm qua.”

Họ không tin nhưng không nói gì, và trả lời:

-- “Anh nằm đây chờ có bộ phận khác tới chở đi.”

Đúng là con vẹt, bọn nó chỉ nói giống nhau mà không hề biết có làm được không.

Bên ngoài cổng phi trường, có cả hàng trăm người dân tụ tập dọc theo hàng rào sát cổng để đón chờ con, chồng của họ từ trong phi trường bỏ ngũ chạy ra. Họ nhôn nháo khi thấy tôi lết gần tới cổng và nằm xuống. Họ hy vọng là chồng hay con họ, vì trời tối, không thấy rõ tôi, vì khoảng cách còn xa.

Chờ một lúc lâu tôi chẳng thấy ai tới chở tôi đi, trong giờ phút giao thời ai muốn nói sao cũng cứ nói. Tôi bèn ra dấu vẫy tay gọi một tên VC gác cổng chạy lại:

-- “Không có ai chở tôi, anh cho tôi ra cho dân cứu vết thương của tôi.”

Anh chàng này nghe hợp lý vì để tôi nằm đây chỉ có vạ lây chăng, hắn nói:

-- “Ừ anh đi đi.”

Tôi lại bảo:

-- “Anh khiêng tôi ra ngoài cổng giùm.”

Tôi được đặt xuống chỗ đất trống trước cổng chừng mười thước, tức thì vô số người dân vây quanh tôi và hỏi liên tục, tựu trung chỉ có ý nghĩa:

-- “Sao không đầu hàng đi mà để bị thương chi nặng quá vậy?”

Tôi trả lời cũng y như từ sáng tới giờ trả lời cho VC, vì tôi đâu thể tin ai với ai. Dân cũng có thể giết mình trong lúc này. Bình Định là xứ 'Ai theo cộng sản là theo chết bỏ, trung thành triệt để. Ai chống Cộng Sản là chống cũng triệt để', vì là vùng Liên Khu Năm nổi tiếng từ ngày xưa.

Đa số những người đang vây quanh tôi đều không tin tôi là tài xế xe Daihasu, trong cách nói tôi hiểu họ ám chỉ tôi là phi công lái máy bay trong phi trường. Hiện đến giờ này vẫn còn nhiều đơn vị khác nhau chống cự quyết liệt trong và ngoài phi trường, hoặc tử thủ trong các ống cống lớn nằm xung quanh phi trường.

Mọi người cứ nói trống không:

-- “Sao không đầu hàng để khỏi bị thương quá nặng như thế này?”

Họ nhìn tôi với cặp mắt thương hại của người cùng chiến tuyến. Họ thấy tôi mà lòng đang mong đợi những người chồng, hay con trai của họ giờ này chưa thấy mặt. Mọi người dường như theo tôi nghĩ:

-- “Họ là những người cùng chiến tuyến với tôi lúc này.”

Có một chiếc xe Honda Dame từ hướng Ngã Ba Gò Găng chạy tới, thấy tôi nằm dài với nhiều vết băng còn dính, có cái lòng thòng. Anh chàng thanh niên mặc sơ mi trắng bỏ ra ngoài quần, dáng có vẻ có chút đi học trông sáng sủa, không có gì là nông dân, anh cũng tò mò muốn nhìn cho biết. Khi đến gần tôi thấy anh chàng đeo cây súng Carbin M1. Tôi đoán ngay rằng chắc mới a dua theo.

Anh chàng cũng hỏi tôi: “Sao bị thương vậy?” Tôi cũng trả lời giống như trước, chắc là không tin. Thôi kệ tôi cứ giữ vững một mực như vậy để thoát qua giai đoạn khó khăn cái đã.
Tôi nghĩ cơ hội may đã đến. Từ đây ra Ngã Ba Gò Găng có đến trên ba cây số, đâu có ai khiêng mình được. Chỉ có Ngã Ba Gò Găng mới là chỗ dân chúng ở có nhà thuơng, may ra mới cứu mình trong đêm nay. Chỉ có chiếc xe Honda này mới chở đi đường xa như vậy, tôi liều mạng nói:

-- “Anh làm ơn cứu tôi, chở tôi ra Ngã Ba Gò Găng bỏ tôi đó rồi anh đi về nhà anh.”

Anh lắc đầu lia lịa, không nhận mà cũng không nói lý do. Tôi thấy anh có cây súng, nên đoán là “phe địch” không muốn cứu phe ta. Tôi thất vọng và buồn hiu.

Những người vây quanh, nhất là đàn bà nhiều tình cảm, yếu lòng, cứ chắc lưỡi tỏ vẻ tội nghiệp tình cảnh tôi. Họ cũng góp lời liên tục năn nỉ anh chàng Honda chở tôi đi. Anh vẫn từ chối. Khi anh ấy rời ra xa hơn một chút để quan sát cổng phi trường, thì có tiếng nói nhỏ cho mọi người cùng nghe rằng:

-- “Anh ta chở anh này đi sợ địa phương thấy làm khó dễ là bao che lính ngụy.”

Thì ra là vậy, thì ra không có ai tin tôi là tài xế xe Daihasu. Như có một quyền năng vô hình nào đó thúc dục tôi lên tiếng, tự nhiên tôi cảm nhận trong đầu lúc bấy giờ, như có tiếng nói thì thầm bên tai tôi bảo tôi hãy nói với những người xung quanh. Tôi chợt nhớ ra, và tôi nói:

-- “Xin các bác, các anh chị năn nỉ giúp tôi cho anh ấy chở tôi ra Gò Găng để may ra tôi còn sống.”

Khi người thanh niên quay lại chỗ tôi thì cùng một lúc có nhiều người lên tiếng xin anh hãy làm phước cứu người lấy đức về sau. Tôi liếc thấy anh gật đầu và nói nhát gừng:

-- “Bỏ anh ta lên đi”.

Có hai người đàn ông bế tôi đặt lên sau yên xe Honda. Tôi vội nói:

-- “Xin cho tôi đem cái đòn theo.”

Một người vội cầm lấy cái đòn tre cột chung với cái võng đưa cho tôi, tôi nói với anh thanh niên đi Honda:

-- “Anh cầm giùm cái này, tay tôi bị thương không giữ được”.

Người đứng dưới đất luồn cái đòn tre dọc theo hông anh tài xế và tôi. Anh ta đỡ lấy nó, còn lái xe chỉ một tay. Một tay tôi ôm thật chặt vào eo anh thanh niên, tay còn lại buông lỏng vì vết thương. Tôi quay nhìn và cúi đầu chào tỏ lòng biết ơn những người đứng dưới đất.

Chiếc xe chạy loạng quạng trong đêm tối trên đường từ phi trường đến Ngã Ba Gò Găng dài hơn ba cây số, con đường có nhiều ổ gà làm xuýt tôi rớt xuống đất. Nếu mà có rớt chắc tôi bị bỏ lại, vì làm sao anh ta bế tôi bỏ lên xe trở lại.

Khi đến ngay Ngã Ba Gò Găng tôi muốn giữ đúng lời nên yêu cầu anh thanh niên:

-- “Anh bỏ tôi xuống đây được rồi anh ạ!”

Anh dừng xe hẳn lại nhưng lúng túng, không thể rời xe để vòng ra sau bế tôi xuống, tôi không thể tự xuống được. Anh thấy có nhiều người xúm lại chiếc xe vì tò mò từ trong hướng phi trường ra đây, anh gọi họ và nói:

-- “Bác giúp cho anh này xuống xe giùm.”

Có hai người đàn ông cùng bế tôi rời khỏi xe và đặt vào vỉa hè cạnh một tiệm bán gì đó đã đóng cửa ngay ngã ba. Vừa đặt tôi nằm xuống tức thì có vô số người xúm lại, nhìn tôi với ánh mắt thương hại. Các băng vết thương lòng thòng, máu khô máu ướt vung vãi. Tôi với cái quần đùi và chiếc áo Xây Dựng Nông Thôn màu đen, cả một ngày một đêm không ăn uống, bị ra máu, người tiều tuỵ hốc hác, thật tình giống y con chó ghẻ lở bị bỏ hoang.

Mọi người ngồi xuống cạnh tôi và hỏi tới tấp:

-- “Sao con bị thương zậy? Sao anh để bị thương? Sao không đầu hàng để chi bị thương? Tội nghiệp quá!”

Tôi vẫn một mực nói rằng:

-- “Tài xế xe Daihasu bị thương từ hôm qua ngoài Phù Mỹ.”

Không ai tin tôi và cứ nghĩ tôi từ trong phi trường ra là dân lái máy bay. Bây giờ trong phi trường vẫn có có chỗ đang có tiếng súng vì những người lính quốc gia tử thù không chịu đầu hàng. Dân đông nghẹt ngoài đường mặc dù trời đã tối. Họ đi tìm chồng, tìm con, tìm anh em là những người lính VNCH đóng trong phi trường. Họ thấy tôi tưởng như gặp được người thân của họ, có bà tìm con thấy tôi rồi ngồi khóc; có lẽ nhìn tôi mà liên tưởng đến con của bà. Tại địa danh này Việt cộng mới thực sự làm chủ có mấy giờ đồng hồ. Tình hình không ổn định, nháo nhác lộn xộn nhiều.

Đám người ngồi một lúc lâu, hỏi han đủ thứ rồi cũng dần giải tán. Có một chị tuổi còn rất trẻ, chắc đi tìm chồng, mà không gặp, cũng ngồi xuống cạnh tôi và khóc nức nở. Sau khi biết tôi từ phi trường được chở ra đây, chị đi tìm chồng có lẽ lo cho chồng và xúc động trước hình ảnh bê bết máu của tôi mà ngồi khóc. Ai đi ngang cũng tưởng vợ của tôi, được một lúc chị cũng bỏ đi.

Tôi mệt quá nhắm mắt liên tục, chừng nghe tiếng nói:

-- “Trời ơi! Sao con nằm đây?”

Tôi mở mắt ra thấy một người đàn bà bằng tuổi Mẹ tôi, mặc áo nâu, đầu đội nón lá, tôi trả lời là

-- “Con bị thương từ hôm qua ngoài Phù Mỹ.”

Bà cũng hỏi nhiều thứ, trong đó có nhà cửa của tôi. Bà rất xúc động nhìn thấy tôi co ro lạnh và bẩn thỉu. Bà hỏi

-- “Con có đói không?”

Tôi trúng ý trong bụng và mừng lắm vội nói:

-- “Dạ con đói lắm.”

Bà nói:

-- “Con nằm đây để bác vào trong xóm này xin chút gạo nấu cháo con ăn.”

Tôi chợt nhớ ra, và cũng nghĩ nếu nấu cháo thì biết bao giờ mới chín, nên tôi vội nói:

-- “Bác ơi! Bác làm ơn xin cho con chút sữa bò, con thèm sữa lắm, ra máu nhiều nên thèm ngọt.”

Bà hiểu ý tôi nên nói ngay:

-- “Ừ để bác vào xin thử.”

Sau một lúc tôi nghe bà ta nói:

-- “Có sữa đây con, người còn có chút hè, con uống đỡ, Bác ở xa đây lắm mà nhà nào cũng sợ đóng cửa hết.”

Tôi mừng lắm vì đói và thèm ngọt quá chừng, tôi cầm hộp sữa chỉ còn gần sát đáy mà nút sữa sống. Tôi tưởng bà bỏ đi, không ngờ lúc sau bà bưng cho tôi một tô cháo trắng có muối. Bà nói trong giọng lật đật:

-- “Đây đây có cháo nè con để bác đút con ăn, bác sợ con đói nên chắc chưa kịp chín tới.”

Tôi xúc động trước những tấm lòng thương người mà từ chiều tới giờ tôi đã gặp. Hình ảnh người đàn bà trẻ đi tìm chồng ngồi khóc lâu bên cạnh tôi làm tôi nhớ đến người vợ giờ đang ở Sài Gòn chắc không bao giờ biết rằng chồng của mình đang như thế này. Đúng 15 ngày trước đây, trong lúc tôi đang còn trong thời gian nghỉ phép thường niên, hai vợ chồng tôi đang đi chơi Sở Thú cùng với gia đình bên vợ, chiếc Taxi vừa ngừng trước nhà, ba vợ tôi vội chạy ra chỗ taxi đưa cho tôi cái điện tín và nói:

-- “Đây con có điện tín từ Tiểu Đoàn gởi cho con.”

Tôi liếc vội nội dung bức điện tín: “Nếu Đại Úy thấy không cần thiết những ngày phép còn lại và vì Pháo đội nên trở lại Đơn vị, Pháo đội bị đánh tan một nữa.” Tôi bàng hoàng mệt mỏi, từng giọt mồ hôi lăn trên trán. Ngày tôi đi phép Đơn vị đang hành quân ở mật khu Vĩnh Thạnh gần đèo Mang Giang.

Sáng sớm hôm sau tôi thay đồ trận và vào Bộ chỉ Huy Pháo Binh lúc bây giờ đang trú tạm trong Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Sau khi làm các thủ tục trình diện, một người đưa tôi vào phòng thuyết trình, Ông Thiếu Tá Pháo Binh tôi không quen, chỉ trên tấm bản đồ thuyết trình cho tôi biết: “Pháo đội A / 221 Pháo binh kéo vào tăng cường hỏa lực cho Trung Đoàn thì bị pháo binh địch dập nát và tấn công bằng biển người. Quân số và quân dụng bị thiệt hại một nửa.”

Tôi trở về nhà, nóng ruột quá, bảo đứa em vợ đi mua gấp vé máy bay dân sự, ngày hôm sau tôi phải ra đơn vị mặc dù tôi vẫn còn bảy ngày phép nữa. Ba vợ tôi cản, khuyên tôi không nên ra sớm, vợ tôi khóc nắm tay giữ lại. Ba tôi cũng khóc làm như đi là lần vĩnh biệt không bằng.

Tôi không hề ân hận chút nào về việc ra đơn vị sớm để rồi bị thương như thế này. Và chắc giờ này vợ tôi không bao giờ biết tôi đang nằm đây như một con chó ghẻ, rất thê thảm; khắp người đầy màu trắng của những chiếc băng. Một người đàn bà bằng tuổi Mẹ tôi không quen biết tôi đang ngồi đút từng muỗng cháo cho tôi. Chắc Mẹ tôi cũng chỉ có làm được như thế này không hơn.

Giữa chiến trận, náo loạn như hôm qua và trong ngày hôm nay, ngày mùng một tháng Tư, tôi được may mắn có nhiều người đã cứu tôi, trong đó có người phải chết. Tôi biết rất rõ đã có một phép nhiệm mầu nào đó, một bàn tay khuất mặt đã luôn theo tôi và cứu tôi. Cũng như tôi được hưởng cái Đức của Mẹ tôi, vì con trai nhờ Đức của Mẹ mà.

Tôi ăn xong cháo, nhắm mắt lại, người đàn bà đút cháo cũng đi từ lúc nào tôi không biết. Tôi nghe tiếng nói của một trong hai người đàn ông có giọng khàn khàn vì đã già rồi:

-- “Trời sao cậu nằm đây?”

Cũng bổn cũ tôi soạn lại, tôi trả lời cho hai ông già như từ trước, vì đâu thể tin ai trong giữa lúc tranh tối tranh sáng. Trời tối như mực, tôi không thấy rõ nét mặt của hai người đàn ông đang ngồi chòm hổm bên cạnh tôi. Tôi trả lời:

-- “Dạ con bị thương từ hôm qua”. Một ông khác hỏi:

-- “Bị thương làm sao?”

-- “Dạ con là tài xế xe Daihasu, hai bên đánh nhau con bị thương và được lính Trung Đoàn khiêng con vào phi trường bỏ trong ấy. Con mới được người ta chở bỏ con ở đây.”

Tiếng chặc lưỡi thương cảm hoàn cảnh tôi, một ông nó với ông kia:

-- “Giờ mình làm sao cứu cậu ta chớ tội nghiệp quá!”

Tôi chụp lấy thời cơ, nói thì thào:

-- “Hai Bác làm ơn cứu con, ở chỗ này có nhà thương không bác?”

Có tiếng ông kia nói:

-- “Có chỗ này, mà khiêng tới nó đánh chết.”

Tôi giật mình và cũng ngạc nhiên:

-- “Sao lại đánh chết, mà ai đánh?”

Tôi liền nghĩ ra:

-- “Có lẽ họ đánh hai ông già vì dám cứu người phía bên kia.”

Thì ra “Chỗ đó chính là ổ kiến lửa chăng?” Nhớ lại trưa hôm qua, lúc Loan đang cõng tôi đi bộ, thì gặp Trung Úy Sinh, Sinh bảo để xuống đất và Sinh đi tìm lính và cái võng cùng cây đòn tới khiêng.

Tôi biết mình không còn sống nổi, muốn nhờ Sinh về Sài Gòn kể sự tình giờ phút cuối cho vợ tôi biết, cũng như cho Ba Má ruột tôi hay, vì nhà tôi cách làng của Sinh chỉ một cái xã ngăn bởi con sông bên làng Xuân Phong. Tôi bảo Sinh lấy cái bóp trong túi áo của tôi có giấy tờ, hai tấm hình, và sáu ngàn đồng tiền riêng của tôi đem về làm chứng tích tôi đã chết.
Bây giờ trong người tôi không có tiền như một thây ma biết cử động. Tôi tiếc, phải chi có tiền thì có thể chữa được vết thương. Nhưng tôi cũng liều mà nói khi nghe khiêng tới họ đánh chết:

-- “Hai Bác ơi! Hiện giờ con không có tiền nhưng hai Bác cứ khiêng con tới đó cho người ta chữa, sau đó con nhắn gia đình con mang tiền ra trả lại.”

Có một khoảng trống im lặng, có lẽ hai ông già suy nghĩ. Một ông liền nói:

-- “Thôi mình cứ liều cứu cậu ta để đức lại cho con cháu. Mình khiêng tới đó để xuống rồi bỏ đi ngay.”

Hai ông già chắc khoảng trên 70, bỏ tôi nằm trên chiếc võng và khiêng đi. Tôi chỉ nhận được hướng khiêng là về hướng Nam từ chỗ tôi nằm. Đến nơi, hai ông để xuống hơi mạnh tay, tôi nằm dài còn trên võng. Nhà nào cũng thắp bằng đèn dầu không sáng đủ, dù chỗ này là Phố thị Gò Găng, nơi rất sầm uất của quận Phù Cát, ngay cửa vào Phi Trường Phù Cát.

Có một người đàn bà độ tuổi năm mươi chạy lại chưa kịp hỏi gì, hai ông già nói vội:

-- “Cậu này bị thương nặng nhờ tôi khiêng tới đây cứu giùm”. Người đàn bà nhìn tôi không hỏi lời nào, bà chỉ lắc đầu như có vẻ ngao ngán hay lo lắng, bà nói:

-- “Không biết ổng có chịu không đây?”

Hai ông già lật đật bỏ đi nhanh như tránh tai họa cho hai ông. Câu nói “Không biết ổng có chịu không đây” làm tôi nghĩ rằng: “Vậy là vào chỗ Việt cộng rồi còn gì, hèn chi hai ông già nói lúc nãy khiêng tới họ đánh chết.”

Ôi thôi, cứ mặc cho số phận đẩy đưa, nguời đàn bà không nói gì với tôi, gọi một cô gái:

-- “Trâm ơi! Đem cậu này vào bên trong rửa vết thương thay băng và chích một mũi thuốc cầm máu.”

-- “Anh Sơn ơi ra phụ với em.”

Tiếng người con gái gọi vào trong kêu anh Sơn nào đó chắc để khiêng tôi vào bên trong. Thế là người đàn bà đã bị đặt vào thế bắt buộc phải chữa cho tôi.

Người con gái tên Trâm cởi chiếc áo cho tôi, loay hoay tháo những miếng băng của người y tá băng từ sáng hôm qua, rồi rửa vết thương, và băng tất cả lại, sau cùng chích thuốc cho tôi. Trâm nói:

-- “Anh là Pilot hả? Sao không đầu hàng mà để bị thương nặng quá vậy?

Tôi chán câu hỏi quen thuộc này lắm rồi, tôi lắc đầu:

-- “Không phải, tôi là tài xế xe Daihasu. Họ đánh nhau giữa đường và tôi bị thương… Lính Trung Đoàn khiêng tôi bỏ trong phi trường.”

Trâm có vẻ không tin chút nào, cô ta nói:

-- “Đáng lẽ em đi về nhà rồi, vì hôm nay nhà hộ sanh vắng không có ai nhưng không hiểu sao còn nấn ná lại thì có anh.”

Tôi nghĩ bụng: “Thế mình cũng may mắn lắm.” Người con gái tên Trâm bỏ đi đâu một lúc, tôi nhắm mắt nằm im trên chiếc giường của mấy người sanh đang bỏ trống. Căn phòng rộng hình vuông chứa cũng phải chục chiếc giường cho mấy bà đẻ, không ngăn vách từng phòng, chỗ giường này kê sát giường kia trông thấy lẫn nhau. Chiếc đèn dầu không đủ sáng cho cả phòng đặt trên bàn cạnh giường tôi nằm. Cô Trâm trở lại và lên tiếng:

-- “Để em nấu cháo cho anh ăn nhen, chắc anh đói lắm.” Tôi gật đầu.

Cô bưng chén cháo đặt trên bàn, rồi nói:

-- “Anh ngồi dậy ăn cháo.”

tôi nói: -- “Tôi không tự ngồi dậy được, cô đỡ giúp tôi.”

Trâm lòn tay qua lưng tôi nhấc lưng tôi ngồi dậy. Trâm phát giác máu hay huyết tương vẫn chảy ra từ nãy giờ làm ướt hết tấm Drap trắng của nhà Hộ Sinh. Trâm có vẻ bối rối vì vết thương không cầm máu. Cô ta nói:

-- “Để em phải thay tấm Drap cho anh trước, chắc anh phải nằm bằng tấm nylon để khỏi bị ướt drap nữa nhen, em xin lỗi chuyện đó, anh chịu khó nhen!”

Trâm thay drap mà không cần đưa tôi qua giường khác rất là thành thạo. Sau đó nàng ngồi sát bên tôi, một tay đỡ sau lưng, một tay đút từng muỗng cháo trắng với muối. Tôi thấy cảm động vô cùng với tấm lòng săn sóc của Trâm. Hình ảnh này giống y hệt như một người vợ lo cho chồng. Trâm cũng trạc bằng tuổi vợ tôi.

Trong lúc đút cháo cho tôi, cô bé lại tiếp tục thuyết phục tôi nên khai thật: -- “Bây giờ “Cách Mạng” đã chiếm hết rồi, đâu có chém giết gì ai đâu, anh đừng sợ, như anh Sơn đó, ảnh cũng là Trung Úy Quốc Gia trong Tiểu Đoàn 63 An Ninh Phi Trường Phù Cát đó, ảnh cũng trở về hôm qua. Ba ảnh là ông Hiếu, Chủ tịch Xã đây, mới được bầu lên.”

Tôi vẫn giữ vững lập trường tài xế xe Daihasu, và tỏ ra không bối rối sau khi nghe cô ta nói. Thì ra tôi được lọt vào nhà ông Chủ tịch Xã VC, hèn chi lúc nãy vợ ông ta có nói: “Không biết ổng có chịu không đây.” Không có chịu tức là không chấp nhận chữa trị cho binh lính phía bên kia.

Đút cháo xong, Trâm hạ tay cho tôi nằm xuống, cô ta chạy đi đâu đó một lúc trở lại chỗ tôi. Tay vừa kéo chiếc giường khác kế bên đến sát giường tôi, cô lấy một cái “bô” đặt dưới chân giường rồi nói:

-- “Đáng lẽ tối em về nhà, nhưng bữa nay vì có anh bị thương nặng quá, em phải ở lại canh chừng anh. Em ngủ sát bên anh đây, để có gì em lo. Tối anh có mắc tiểu có cái “bô” đây và gọi em dậy đỡ cho anh.”

Tôi thực sự cảm động trước sự săn sóc này tôi nói:

-- “Cám ơn cô nhiều lắm, tôi rất may mắn được gặp cô.”

Tôi trả lời Trâm mà lòng nghĩ rằng, mai mốt vết thương lành và khi tái chiếm lại vùng này, tôi sẽ đền ơn cô ta thật xứng đáng với tấm lòng bác ái của cô dành cho tôi.

Cô ta kể, nhà cô ta cách đây chừng một cây số, cô là nhân viên y tá cho cái nhà Hộ Sinh tư này do ông Hiếu có bằng Diploma về ngành sản phụ và phía trước mở nhà thuốc tây Đồng Dụng, phía sau mở nhà Hộ Sinh tư. Ông Hiếu bấy lâu nay nằm vùng không ai biết. Ổng vừa được bầu lên làm Chủ tịch Xã sáng nay.

Tôi thắc mắc “Tại sao cô Trâm cứ lúc nào cũng thuyết phục tôi nói thật về chuyện tôi là Pilot trong Phi Trường. Cô không một mảy may tin tôi là dân sự, mà nói thật để làm gì?” Tôi có cảm tưởng cô là người yêu hay phải lòng anh chàng Pilot nào trong Phi Trường Phù Cát. Vì lúc nào cô cũng khen ngợi, hay bày tỏ lòng mến mộ với các chàng Không Quân.
Và cô đã tưởng lầm tôi là Pilot, nên đã rất hết lòng săn sóc cho tôi chăng hay cô đầy lòng bác ái? Nhưng đồng thời cô vẫn cứ bảo tôi khai thiệt, đừng giấu diếm, vì “Cách Mạng” không làm gì mình hết. Ngày hôm sau buổi sáng sau khi đút cháo xong, cô nói:

-- “Em phải đi về nhà em chút, anh nằm đây, có gì em sẽ về với anh.”

Tôi gật đầu rồi nói rằng:

-- “Cô ơi tôi thèm sữa lắm, cô có tiền làm ơn mua cho tôi một hộp sữa đặc, mai mốt tôi sẽ trả tiền lại cho cô, giờ tôi không có.”

Cử chỉ của Trâm không có gì bối rối ngập ngừng sau khi nghe tôi nói nhờ mua sữa:

-- “Được rồi em sẽ mua cho anh.”

Tôi nằm nhà chờ mòn mỏi, nghĩ đến được uống sữa thì sung sướng vô cùng, vì ra máu quá nhiều sao mà thèm ngọt dữ vậy. Quá giờ trưa không thấy cô về trở lại. Hay là cô đã trốn tôi rồi khi tôi nhờ mua sữa mà không đưa tiền, tôi nghĩ oan cho cô ta không?

Chừng độ trưa, một người đàn ông xuất hiện đứng bên cạnh giường, nhìn tôi không bắt tôi kê khai lý lịch, và không hỏi tại sao bị thương như những người khá. Ông ta có vẻ là người có học chút chút, nước da trắng, tướng người cao ráo, dường như ông ta biết tổng tòng tong tôi là ai rồi vậy. Ông nhìn thẳng vào tôi và nói:

-- “Anh có nhà hay người bà con gì ở Quy Nhơn không? Ngày mai tôi có một chuyến xe Lam đi công tác vô Tỉnh, tôi sẽ gởi anh theo chuyến đó, vô trong ấy người ta chữa cho anh.”

Tôi giật mình nghĩ rằng ông này đang gài tôi để biết lý lịch, nếu tôi nói rõ người quen có thể ổng sẽ cho điều tra và biết tôi là Đại Úy Pháo Binh thì đem ra bắn chăng. Tôi đề phòng tình huống xấu nhưng cũng muốn tôi phải rời khỏi chỗ này, nên nói:

-- “Nhà tôi ở xa lắm, tôi chỉ có người quen ở Quy Nhơn.”

Ông nói:

-- “Sáng mai chừng tám giờ, xe đến đón anh về Quy Nhơn.”

Rồi ổng bỏ đi… Tôi mừng được tin ấy, mừng vì không muốn trực tiếp để ông khai thác tôi thêm. Tôi biết ông chính là Chủ Tịch VC của Xã Gò Găng.

Ngày hôm qua, ngày mùng một tháng Tư trời ở vùng này mưa lớn, tôi nghe cô Trâm nói ở đây đang bị lụt. Sau khi ông Hiếu, Chủ Tịch Xã đi rồi, có một toán khoảng mười người vác AK, mang dép râu, áo quần ướt sũng vào trong phòng Hộ Sinh, giũ áo, và nói với nhau:

-- “Trời ơi tôi dọn dẹp trong Phi Trường chỗ cái mả đá vôi có hai cái xác không có đầu ghê quá!”

Tôi biết ngay là của Trung Úy Sinh và Trung Sĩ Khôi, mà tôi không dám lên tiếng hỏi rằng bác chôn ở chỗ nào. Tôi hiểu rõ tôi đang nằm trong ổ kiến lửa.

Khoảng hai giờ cô Trâm về, tôi không thấy cô cầm sữa. Tôi nói trong cơn giận lẫy: -- “Sao cô không mua sữa cho tôi? Bộ cô sợ tôi không trả tiền cho cô chăng?”

Trâm bối rối ra mặt nói lắp bắp: -- “Không có đâu, em nói thiệt đó, không có chỗ nào bán sữa hết, tất cả quán đều đóng cửa hết rồi.”

Cô tiếp tục lòn tay đỡ lưng tôi dậy và đút cháo, ngày nào cũng đút cháo ba lần. Sao tôi thấy cô tận tâm quá. Trâm còn đổ ‘bô’ cho tôi mỗi ngày. Mỗi lần mắc tiểu là cô rất tận tình giúp tôi cởi quần để tiểu, cô không có vẻ gì mắc cỡ, mà tôi lại mắc cỡ.

Cả ngày hôm sau tôi không thấy xe Lam nào đến đón tôi về Quy Nhơn. Tôi nghĩ ông Hiếu đã lừa tôi chăng.

Sáng sớm ngày 4 tháng Tư tức là tôi đã ở trong nhà Hộ Sinh này được ba đêm, cô Trâm đến nói với tôi:

-- “Anh ở nhà chờ em đi chợ mua cá về nấu cháo cá anh ăn nhen. Mấy bữa giờ chỉ ăn cháo muối, tội nghiệp anh quá!”

Tôi nghe mà lòng cảm động vô cùng, thấy thương cô quá, tôi nói:

-- “Cô tốt với tôi quá...”

Chừng mười lăm phút sau khi cô đi, có người con trai đến nói với tôi:

-- “Anh chuẩn bị đi.”

Anh ta không chào hỏi, chỉ một câu như ra lệnh. Tôi đoán anh là Sơn, Trung Úy Địa Phương Quân thuộc Tiểu Đoàn 63 giữ An Ninh Phi Trường, mới rã ngũ chạy về với người Cha nằm vùng vừa được bầu làm Chủ Tịch.

Tôi chấp nhận những sự kiện sắp xảy ra kế tiếp, dù tình huống xấu, không biết sẽ đi đâu, tôi không hỏi Sơn, mà chỉ nói:

-- “Anh có bộ đồ cũ nào cho tôi xin một bộ vì lạnh quá.”

Tôi vẫn mặc cái áo đen hôm nọ với quần đùi từ mấy ngày nay. Sơn đi lấy cho tôi một cái quần Jean màu xanh cũ nhưng còn tốt, chắc là của hắn, vừa với kích thước của tôi, và một chiếc áo Pyjama sọc màu ngà.

Hắn gọi thêm một người bạn nữa, đang ngồi trên chiếc Jeep lùn nhà binh vào phụ với hắn khiêng tôi ra xe. Đến lúc này tôi đã chính thức xa lìa cái đòn võng.

Tôi được đặt trên ghế ngồi phía trước, và ép vào trong cho Sơn ngồi bên ngoài giữ tôi. Người kia lái xe chạy về hướng Quy Nhơn. Tôi cứ tưởng họ đưa tôi về Quy nhơn dù từ đây về thành phố còn xa lắm.

Chiếc xe lên dốc cầu cứ bị tắt máy và tụt xuống nhiều lần. Mỗi lần sang số đạp ga là bị tắt máy, mỗi lần xe tụt lui dốc là mỗi lần xanh cả ruột gan. Hắn bỏ số lớn (vì không biết số nào với số nào) rồi tăng ga nhiều đương nhiên bị tắt máy. Chiếc xe như con ngựa chứng tụt lùi xuống dốc. Sơn hỏi:

-- “Bộ mày không biết lái hả?”

-- “Mới tập lái hôm qua.”

Người tài xế trả lời làm tôi càng hồi hộp hơn. Đạn bắn không chết, mà chết vì lật xe thì oan quá.

Xe gần đến một đoạn cua ngặt thì rẽ phải xuống dốc lề đường rồi đậu lại trước sân nhà. Sơn nói với tôi:

-- “Anh chờ tôi một chút.”

Hai người bỏ đi nhanh vào một dãy nhà bằng gạch, một lúc sau, một người lính còn mặc nguyên đồ trận ra khỏi nhà, tiến gần đến xe, và ngạc nhiên nói:

-- “Trời Đại Úy!”

Tôi để ngón tay lên môi ra dấu. Thì ra Hạ Sĩ Giám cũng bị thương và được giữ ở đây.

Giám là lính Pháo Binh của tôi. Bây giờ hắn tình cờ gặp tôi ở đây nên ngạc nhiên lắm. Vài phút sau có cả một toán lính bị thương và bị bắt đi ra khỏi căn nhà tiến đến chiếc xe tôi đang ngồi.

Mọi người ngồi lên chiếc Jeep, bình thường chở được 5 người cả tài xế; thì nay dồn tất cả 12 người. Ba người cũ và chín người mới. Anh tài xế loạng quạng mới tập hôm qua, nếu xe lật thế nào cũng có người chết vì đã bị thương sẵn rồi.

Xe quay ngược đầu trở ra lại hướng Bắc tức là về lại chỗ tôi ở mấy ngày nay. Nhưng chạy được một lúc thì rẽ phải về hướng Đông xuống miền biển. Không còn chạy trên Quốc lộ nữa, mà trên đường đất gồ ghề, nhiều lần xe lọt xuống ruộng rồi leo lên. Cuối cùng xe dừng lại trước một ngôi trường làng cũ kỹ chỉ có một lớp học.

Một đám đàn bà con gái mang AK với dép râu chạy ra đón chúng tôi. Tôi vẫn được anh Sơn và người tài xế khiêng vào đặt trên bàn học trò. Mọi người ngơ ngác không biết chuyện gì. Anh Sơn nói lớn:

-- “Trên Xã điều mấy người này xuống đây để bác sĩ chữa cho họ.”

-- “Trời ơi là trời! Trên ấy mà còn chưa có bác sĩ huống hồ bác sĩ gì ở đây.”

Mấy người du kích đồng thanh nói như vậy.

Rõ ràng lệnh lạc của Việt cộng chẳng có ai giống ai, thật khôi hài…

Ngay tại phố thị dù là một cái Xã, cũng không có thuốc men y tá chữa trị. Sao lại đem xuống chỗ cùng cốc khỉ ho cò gáy nói rằng để bác sĩ chữa. Không kể tôi, chín người mới, có một anh Thiết Giáp bị thương làm sao mà trúng ngay bộ phận sinh dục rất nặng, người khác, bị mất miếng thịt lớn nơi vai trái. Cả hai người này đều bị nhiễm trùng và thúi nồng nặc. Những người khác chỉ bị thương nhẹ.

Đám đông dân chúng tụ tập tại đây. Không ai hiểu sao lại chở mấy người bị thương đến đây, đám du kích lại càng ngơ ngác hơn. Có hai bà lớn tuổi thấy mủi lòng, lăng xăng hỏi từng người muốn ăn cơm hay cháo để bà về nấu mang ra. Nhìn vết thương trên mặt của tôi là bà biết ngay:

-- “Con ăn cháo nghen.”

Hơn một giờ đồng hồ sau, hai người đàn bà gánh cơm và cháo từ những ngôi nhà cách trường học không xa đem đến. Người đàn bà hỏi tôi hồi nãy, bây giờ đút cháo cho tôi, xong xuôi họ cũng đi đâu hết. Chừng ba giờ chiều, một anh du kích cầm tờ giấy học trò đi hỏi từng người tên họ cấp bậc chức vụ, đơn vị.

Tôi bắt đầu khai là lính Pháo Binh, vì đến nước này không còn giấu diếm gì nữa, dù sao cũng có đông anh em không sợ họ bắn ẩu.

Năm giờ chiều, một xe Pick up màu xanh của Không Quân phe ta, đến trước trường học và bảo mọi người ra xe. Tôi cũng được khiêng và được ngồi phía trước. Chiếc xe chạy lên quốc lộ trở lại, và trực chỉ hướng Nam, về Thành Phố Quy Nhơn. Tôi mừng thầm, biết đâu lần này họ đưa mình về bệnh viện Quy Nhơn.

Tôi thất vọng khi gần đến Đập Đá, xe quẹo phải trên con đường rất nhỏ bằng đất đi về hướng Tây, có nghĩa rằng vào Mật khu Vĩnh Thạnh hay sao. Xe chạy loanh quanh các con đường làng, đến rừng thưa hoang vắng đã tám giờ tối mà cũng không tìm ra chỗ nào để dừng.

Đến bờ sông thì cụt đường hết đi được, tên Sơn nhảy xuống xe chạy một hồi gặp người dân để hỏi:

-- “Chỗ nào có bác sĩ?“

Người dân vô cùng ngạc nhiên nói:

-- “Bác sĩ gì? Chỗ này làm sao có bác sĩ ?”

Sơn cho xe quay đầu trở về, tôi sợ trở lại trường học, nhưng không, trở về chỗ chín người hồi sáng ra đi. Lúc này đã muời giờ đêm. Ai cũng đói, và sợ nhất là mùi hôi thúi của hai vết thương nặng của anh Thiết Giáp và Bộ Binh. Tôi may mắn đã được băng bó mấy ngày trước tại nhà tên Chủ tịch Xã.

Căn nhà nơi chín người đã trú ngụ, coi như bị thương và giam ở đây, là cái nhà Hộ Sinh Công Cộng của Xã. Nó có hình chữ nhật dài mười lăm mét, bề ngang chỉ bốn mét. Bề mặt nhà là chiều ngang, phía trước có cái băng gỗ dài dùng làm chỗ chờ đợi, để làm thủ tục trước khi vào, bên trong chia ra làm nhiều phòng nhỏ chỉ vừa đủ một cái giường nằm cho sản phụ. Các phòng tối thui như mực. Tôi vốn sợ ma nên không dám nằm trong đó. Tôi tình nguyện nằm trên chiếc ghế dài ngoài phòng đợi. Các anh em khác chia từng chỗ bên trong.

Tôi không ngủ được, suy nghĩ triền miên về tình hình. Ở đây tôi không hề biết nơi nào đã lọt vào tay cộng sản, chỗ nào bình yên. Hàng đêm xe Molotova và nhất là xe kéo hỏa tiễn chạy trên Quốc lộ, ngang qua chỗ tôi, nườm nượp nối đuôi nhau. Tâm trạng đau đớn và não nùng.

Ban ngày nhiều người dân lén đến chỗ chúng tôi lấy trong bụng ra bịch gạo, dúi vào tay chúng tôi và nói rất vội:

-- “Con giữ mà ăn.”

Có người mắt nhìn trước nhìn sau rồi hỏi:

-- “Con có áo quần dơ đưa đây bác giặt.”

Tôi thấy tình thương của người dân dành cho chúng tôi còn rất nhiều. Họ sợ vì chính quyền địa phương cấm không cho liên lạc giao tiếp với “Lính Ngụy”.

Ông chủ nhà cũng là chủ nhà Hộ Sinh Công, là một người trực tính, ghét CS, hay chửi CS với chúng tôi vì biết chúng tôi là cùng phe với ổng. Nhưng vì nghèo không có gì giúp chúng tôi, chính quyền Xã bỏ mặc không để ý tới. Ông chủ nhà nói: “Tao không có gì cho mấy đứa mày, mỗi ngày tao cho một ít gạo nấu cháo với muối, có đám rau muống, đứa nào khỏe thì cắt rau luộc và lo cho cả đám.”

Ngày nào họ cũng nấu cháo ăn chung, tôi may mắn có Hạ Sĩ Giám, lính của tôi đút cháo cho tôi mỗi ngày. Ông chủ nhà còn giúp rửa Hydrogen cho các vết thương vào buổi sáng một lần. Vào tối thứ nhì thì anh Thiết Giáp chịu không nỗi và qua đời. Ông chủ nhà bảo:

-- “Mấy đứa đem cuốc xẻng ra phía trước đào lỗ chôn.”

Sáng hôm sau từng đoàn người dân bị lùa đi làm công tác dọn dẹp vệ sinh sau ngay “giải phóng”. Hạ Sĩ Mai, y tá của tôi trong đám người này lén vào gặp được tôi, thầy trò gặp nhau mừng quá. Tôi hỏi:

-- “Sao biết chỗ này mà tới.”

Hạ Sĩ Mai bảo:

-- “Em nghe người ta nói có nhốt lính mình bị thương ở đây.”

Hạ Sĩ Mai hỏi tôi cần gì ngày mai nó đem lên. Tôi bảo cần thuốc trụ sinh, đem càng nhiều càng tốt để cho các anh em khác nữa, cho tôi một bộ đồ để thay đổi, và một cái gối nhỏ vì nằm trên ghế gỗ đau đầu quá. Mai hứa:

-- “Ngày mai em đem lên.”

Suốt cả ngày hôm sau tôi có ý mong đợi, nhưng không thấy người y tá của tôi đem đến. Mai xuất hiện như một tấm ván gỗ trôi dạt trên sông khi tôi sắp chết đuối. Vì những vết thương vẫn chưa lành và tiếp tục ra huyết tương hay máu loãng, mỗi lần tôi ăn cháo, đang vừa được đút cháo trên miệng thì vết thương nơi đầu cứ chảy ra.

Một buổi tối khác, khoảng tám chín giờ, mọi người đang chuẩn bị ngủ, tôi đang nằm phía ngoài phòng chờ đợi của cái nhà Hộ Sinh Công của Xã, bỗng từ ngoài sân có người lăm lăm cây súng Carbin đi vào, vừa đi miệng vừa nói lớn giọng Bình Định rặc, một thổ âm rất quen thuộc:

-- “Ở đây có ông Đại Úy Pháo binh đâu? Đại úy pháo binh đâu?”

Câu hỏi ở cuối câu có phần lên giọng như một kẻ đối phương tìm kiếm địch. Tôi nghĩ chắc tên du kích nào đây đã phát giác ra tôi, và nhân cơ hội ban đêm hắn muốn trả thù. Đang trong buổi giao thời này, bọn Việt cộng muốn làm gì mà chẳng được.

Một người đàn ông tuổi độ bốn mươi, tay cầm súng đến chỗ tôi, dừng lại và vẫn câu hỏi cũ:

-- “Nghe nói có ông Đại Úy Pháo Binh ở đây phải không?

Tôi nghe giọng quen quen, sao tiếng nói giống người y tá của tôi quá. Biết đâu anh chàng này muốn hại tôi, tôi nghĩ thế và cố tình nói khác đi:

-- “Tôi không biết, anh vào bên trong hỏi mấy người kia.”

Tôi vẫn nghĩ các anh em trong phòng trong không tố cáo tôi đâu. Người đàn ông vào bên trong, rồi ở trong ấy suốt đêm, anh ấy nói lớn tiếng rằng:

-- “Bữa trước tôi có nghe em tôi, nó là lính Pháo Binh, nhân lúc làm công tác vệ sinh do Xã triệu tập, nó có gặp ông Đại Úy Pháo Binh, cấp chỉ huy của nó bị thương nằm ở đây. Nói đòi đem thuốc men áo quần cho ổng, mà tôi không cho, vì nó là “lính Ngụy” mới trở về. Nó mà lên tiếp tế cho cấp chỉ huy của nó, thì chính quyền địa phương thấy được sẽ gây rắc rối cho nó. Tôi bảo để tôi lên xem xét tình hình trước, vì tôi là Trưởng Toán Du Kích ở đây, không ai nghi ngờ tôi.”

Tôi nằm bên ngoài đã nghe ông ta nói và hiểu rằng “Không phải muốn ám hại mình.” Trưởng Toán Du Kích còn nói “toạc móng heo”, tại sao được bầu làm Trưởng Toán Du Kích khi bọn nó về? Tôi nghĩ bụng, cũng không có gì nguy hiểm cho mình nữa.

Sáng hôm sau, khi ông ta vác súng đi ngang chỗ tôi, tôi gọi lại và nói:

-- “Anh nè, tôi là Đại Úy Pháo Binh đây, anh là anh của Hạ Sĩ Mai phải không?”

Sau một lúc nói chuyện, anh ta nói:

-- “Tôi sẽ đích thân mang những thứ cho Đại Úy, thằng em tôi không nên mang đến vì chính quyền nó để ý”.

Nhưng không thấy anh ta tiếp tế, mà lại là người em Hạ Sĩ Mai của tôi, vội vàng trao cho tôi rồi đi ngay. Lúc này có trụ sinh trong tay quý hơn vàng vì cứu được mạng sống của cả nhiều người, cả đám chúng tôi mừng lắm. Tôi giao cho Giám lo việc thuốc men cho anh em và cho tôi, cũng từ ấy các vết thương đã lành dần.

Có một bữa, có người đàn bà còn rất trẻ xăm xăm bước vào chỗ chúng tôi và hỏi:

-- “Có phải các anh bị bắt và nhốt ở dây không?”

-- “Chị tìm ai?“

Tôi hỏi lại:

-- “Dạ tôi từ Phú Yên ra đây tìm chồng là lính Pháo Binh, anh Nguyễn Thái Học.”

Tôi nghe đến Pháo Binh làm tôi tỉnh ngay, rồi hỏi thêm:

-- “Có phải Nguyễn Thái Học mới cưới vợ klhông?”

-- “Dạ phải, mà sao anh biết?”

Tôi nhớ lại ngày người Binh Nhứt này xin tôi về phép cưới vợ cách đây không lâu, và sau đó cũng xin phép cho mang vợ lên đơn vị dù đang chỗ hành quân ở chơi vài ngày. Nhưng nay tôi không nhận ra cô dâu trẻ này của ngày nào, và chính cô ta cũng không nhận ra tôi. Tôi tự giới thiệu:

-- “Cô có còn nhớ lúc mới cưới, anh Học dẫn cô lên đơn vị chơi không? Anh Học và cô có đến gặp tôi. Tôi là Pháo Đội Trưởng của anh Học đây.”

Cô ta bật khóc như gặp được người thân thiết. Cô lặn lội tìm chồng sau khi Việt cộng chiếm hoàn toàn Bình Định và Phú Yên. Cô vượt trên 150 cây số từ Phú Yên ra đây trong lúc xã hội náo loạn, phương tiện di chuyển bế tắc. Dò tìm mãi mới được chỉ đến chỗ này là nơi có giam giữ “lính Ngụy” bị thương.

Cô hy vọng gặp được chồng, tôi xúc động với tình nghĩa phu thê. Tình cảnh hiện tại tôi hoàn toàn bất lực, tôi cũng nghẹn lời. Cô chia tay tôi, đầy nước mắt. Cô khóc vì thấy hình ảnh tang thương của tôi, không ngờ tôi ra nỗi này, và chắc chắn cô nghĩ về hoàn cảnh người chồng hiện tại nhiều lắm. Tôi viết tờ giấy nhỏ gởi cô ta mang về nhà người quen của tôi ở Quy Nhơn, để nhắn tin rằng tôi bị thương và đang ở đây.

Chúng tôi, những người bại trận và bị thương, đã ở trong căn nhà Hộ Sinh Công này được một tuần. Phía cộng sản có biết, nhưng không bao giờ săn sóc hay cho ăn. Chỉ có người chủ căn nhà, thương lính Quốc Gia mà nuôi chúng tôi với mỗi ngày một nồi cháo, muối cùng nắm rau muống luộc, ông ta trồng sau vườn. Chúng tôi chưa biết ngày mai sẽ đi về đâu. Bỗng một buổi sáng sớm, có chiếc xe Lam ngừng trước sân căn nhà Hộ Sinh, hai anh du lích cầm AK nhảy xuống xe, bảo chúng tôi lên hết trên xe Lam, tôi hỏi:

-- “Đi đâu?”

Một anh đáp:

-- “Đi bệnh viện.”

Lần này xe chạy mãi vào hướng Quy Nhơn nhưng lại quẹo phải về hướng Quận An Nhơn, và ngừng trước một biệt thự đã bỏ trống, chắc chủ đã chạy vào Sài Gòn. Hai người du kích bảo chúng tôi ngồi yên đó để các anh vào “liên hệ” với Quận.

Chừng mười phút sau hai anh du kích đi ra than phiền rằng:

-- “Ở đây không ai biết gì hết về vụ này.”

Anh tài xế tỏ vẻ khó chịu vì giam xe lâu. Đang chưa biết giải quyết như thế nào, bỗng có một anh chàng du kích thứ ba xuất hiện và nói:

-- “Đâu ai là Đại Úy đâu đi theo tôi.”

-- “Đâu được, tôi chở đi bao nhiêu người, phải trả về đủ số chứ.”

Anh du kích áp tải trả lời.

Cuối cùng tôi được ngồi tiếp trên xe Lam. Hai anh du kích bảo phải vào trong Quận “liên hệ” lần nữa. Anh tài xế la lớn tiếng, không bằng lòng để xe ở lại lâu hơn.

Thế là du kích thua cuộc, đành khiêng tôi xuống bỏ lên bậc thềm của biệt thự. Xe Lam chạy đi, hai du kích cũng đi vào Quận.

Đang ngồi nằm lỗn ngổn trên thềm nhà, bỗng có một tên Việt cộng, vai mang xắc-cốt ra vẻ “cán bộ” đến hỏi chúng tôi sao nằm đây. Tôi trình bày, hắn cũng chẳng biết làm gì, thực sự hắn không có nhiệm vụ gì với chúng tôi. Bất ngờ cậu em tôi quen, chạy xe Honda trờ tới tìm được ra tôi, cậu ấy nói:

-- “Em nhận được thư nhắn của anh, người ta nhét vô kẹt cửa. Sau khi chạy giặc vào tới Cam Ranh, rồi không đi được nữa, em phải trở về. Em thấy anh nhắn tin anh cần thuốc men, em tức tốc đi tìm anh. Ra chỗ nhà Hộ Sinh, người ta bảo anh mới vừa đi về hướng Nam nên em chạy vô đây tìm đại.”

Đang có người “cán bộ” trên trời rớt xuống tôi liền nói:

-- “Anh ơi! Có người nhà tôi đến, anh cho cậu ta bảo lãnh tôi về nhà chữa bệnh được không?”

Dường như cũng muốn làm oai với thiên hạ và với đám chúng tôi anh ta ừ đại:

-- “Ừ thì viết giấy bảo lãnh đi.”

Tôi mừng như vớ được cơ hội ngàn vàng thoát ra khỏi tụi này, bèn thúc giục cậu Trung chạy ra mua hai tờ giấy carô để viết hai bản, một cho anh cán ngố, một cho người bảo lãnh giữ, mà thực sự đâu cần thiết nhưng cứ làm như hợp pháp. Tôi dặn nhỏ cậu ta:

-- “Đừng ghi địa chỉ của mình.”

Đưa tờ giấy bảo lãnh cho anh “cán bộ cà ngơ” tôi hối thúc chở tôi rời ngay vì sợ hai tên du kích trở ra ngăn lại. Tôi bảo Trung đưa hết thuốc men sữa hộp cho những người lính bị thương. Tôi chào từ biệt anh em. Hai người đến khiêng tôi đặt lên yên sau chiếc Honda.

Xe chạy ra Quốc lộ, Trung tắp vào một quán nước, làm như kêu nước uống, nhưng dụng ý là cho tôi thay áo quần khác, để nếu có ai đuổi theo cũng không nhận ra.

Phải vất vả lắm mỗi lần xuống xe và lên xe Honda vì phải nhờ người đi đường phụ giúp. Trung chở tôi về đến nhà Trung, chỉ có một mình cậu ta, Trung để tôi nằm đó và chạy tìm bác sĩ chữa vết thương cho tôi.

Cả một Thành Phố Quy Nhơn không có một bác sĩ nào còn ở lại. Trung tìm được một ông y tá của VNCH, đã chạy giặc nhưng tới Cam Ranh cũng dội ngược về vì kẹt đường.

Ông ta chữa cho tôi mỗi ngày bằng cách tới nhà Trung chích thuốc, thay băng cho tôi. Được ba ngày thì ông hỏi tiền, Trung hỏi bao nhiêu. Ông bảo hai chục ngàn, tôi muốn chóng mặt. Tôi nói ông cho nợ mai mốt tôi sẽ trả bằng cách nhắn gia đình gởi ra. Ổng không chịu và đòi lấy chiếc nhẫn cưới trên tay tôi, tôi nói:

-- “Chiếc nhẫn này là vật kỷ niệm của tôi, không thể nào đưa cho ông được. Ông hãy chịu khó chờ tôi xoay xở.”

Trung cũng hẹn lại, nhưng sau đó Trung đã tìm ở đâu có hai chục ngàn và tới nhà giao cho ông ta rồi.

Thời gian này, Thành phố Quy Nhơn mọi người đã chạy loạn trốn Việt cộng và gần như bỏ lại thành phố vắng đìu hiu. Chính Quyền cộng sản vừa lên nắm giữ kêu gọi, khuyến khích người dân hãy vào Nha Trang và Cam Ranh; kêu gọi người thân của mình còn kẹt lại đó trở về Quy Nhơn. Họ đọc trên các loa phóng thanh ròng rã suốt ngày lời kêu gọi. Họ cấp “giấy thông hành” cho những ai chịu đi vào Cam Ranh.

Tôi lợi dụng thời cơ ấy bảo Trung ra phường xin “giấy thông hành” cho tôi về quê Nha Trang nhưng tên của Trung ghi trong giấy, chứ không phải tên tôi.
Trung pha cho tôi một bình sữa đầy đem theo đi đường, một mớ thuốc tây đủ loại để xử dụng khi đến nhà, và một bộ áo quần còn tốt. Tất cả được đựng trong một túi vải có sợi dây rút trên miệng túi.

Trung chở tôi ra bến xe đò, nhờ người khiêng lên xe đò. Sau khi mua vé xong, trở về quê bằng một giấy thông hành giả. Khi đến bến xe Nha Trang, tôi nhờ hai người hành khác cùng xe khiêng tôi xuống xe, và cũng bỏ tôi lên chiếc xe Lam gần đó. Chiếc xe Lam chạy đến Cây Dừa, một địa danh của làng tôi, xe ngừng lại và tôi được người ta khiêng bỏ xuống nằm dưới đất. Làng tôi ai cũng biết tôi, nên họ la lớn có tôi bị thương, và chỉ một lát sau, người anh cả tôi chạy chiếc xe Vespa ra đón tôi về nhà.

Cả nhà xúm lại khóc ơi là khóc. Ngày tôi đi lính người anh này không bằng lòng và la mắng tôi vì muốn tôi tiếp tục học đại học. Ông ta đã “từ” tôi, không nhận là đứa em trong suốt thời gian tôi trong Quân Trường Thủ Đức. Có một điều trùng hợp ngẫu nhiên rằng, ngày tôi đi lính cũng chỉ trên tay một túi xách bằng vải có sợi dây rút trên miệng túi, và khi vào đến Sài Gòn thì bị ông anh “từ” không nhận. Ngày trở về, cũng một túi xách giống y chang ngày đi, và cũng chính ông anh này đón tôi ngoài đầu làng. Về đến nhà người anh tắm rửa cho tôi và ông đã ứa nước mắt nhìn thấy tôi tàn tạ như thế này.

Tôi còn có năm câu chuyện thoát chết trong đường tơ kẽ tóc khác, mà chưa có dịp kể. Nếu tôi tổng hợp lại tất cả sáu câu chuyện, tôi tin ai cũng phải nghĩ rằng: “Đời tôi rất may mắn” và sẽ nói: “Đúng là sống hay chết đều có số.”

Số mình ông trời chưa cho chết thì chắc chắn chưa được chết. Từ đó tôi luôn tin tưởng tôi sẽ không chết bây giờ, và một điều luôn trong đầu tôi: “Chỉ có Trời hại mới sợ, còn Người hại không sợ.”

Nguyễn Trãi,
Mùa Tháng Tư Đau Thương
28 Tháng 5 năm 2016


Nguồn:
https://hoiquanphidung.com/content.php?4301-S%E1%BB%91ng-Ch%E1%BA%BFt-C%C3%B3-S%E1%BB%91-Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i





 

 

 

 photo f2c6cd95-e262-4836-91fa-82939b4b3528_zpsu8iocwqx.jpg

 

 

Cuộc phản phục kích của tiểu đoàn 1/14 gần Ấp Bắc
- Uyên Sơn
https://youtu.be/kAIaGhal8wc



 

 

2

 photo artillery-gun-silhouette-152-231912_zpsfy9pfwky.png  photo explode_zps1srvxrl4.gif
Cuộc phản phục kích của tiểu đoàn 1/14 gần Ấp Bắc
︻╦╤─  photo explode_zps1srvxrl4.gif                                   




- Uyên Sơn


Theo thông lệ, mỗi lần nhận được “overlay” cho cuộc hành quân ngày hôm sau, tối đó tôi đặt phóng đồ lên bản đồ, xem xét địa thế và chấm các hỏa tập dự trù, cho làm yếu tố và ghi vô sổ tác xạ để khi cần thiết xử dụng ngay. Thường bản đồ để xử dụng trong các cuộc hành quân có tỷ lệ 1/50.000. Riêng xạ bản của Pháo binh vì phải được chính xác nên có tỷ lệ lớn là 1/25.000. Ngoài ra các đơn vị Pháo binh còn được cung cấp thêm các không ảnh của vùng đang hoạt động cũng có cùng tỷ lệ 1/25.000 để dễ dàng nhận diện ngoài địa thế khi tác xạ yểm trợ. Đôi lúc còn lấy không ảnh làm giấy kẻ ô vuông để tính yếu tố tác xạ.

Chiều nay tôi nhận được phóng đồ hành quân ngày mai của Tiểu Đoàn 1/14. Đúng ra chỉ là cuộc hoạt động lục soát trong kế hoạch bình định vùng mật khu Ấp Bắc phía Bắc Long Định, chứ không phải là cuộc hành quân quy mô. Tiểu Đoàn 1/14 đã hoạt động quanh quẩn trong vùng này đã mấy ngày rồi, Tiểu đoàn do Thiếu tá Châu Ngọc Sanh làm Tiểu đoàn trưởng. Sanh sau tôi một khóa, chúng tôi biết nhau khi Sanh còn làm Trung đội trưởng trong Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 14, lúc đó tôi đang đi “délo” cho các Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 14. Sanh người gốc Vĩnh Bình, chững chạc ít nói, nhưng đánh giặc thì gan lì nổi tiếng, từng là con cưng của nhiều thời Trung đoàn trưởng như Trung Tá Quý, Đại Tá Lãm, Đại Tá Năm, Đại Tá Thẩm… tôi không chơi thân với Sanh lắm vì tánh nghiêm nghị ít nói đó, chỉ gặp gỡ bàn bạc trong những buổi họp hành quân bên trung đoàn thôi.

Hướng Tây Bắc của khu quân sự Long Định theo đường chim bay khoảng sáu bảy cây số là một khu cây cối sầm uất hoang vu với kinh rạch thiên nhiên chằng chịt. Càng ăn thông sâu vô Đồng Tháp Mười địa thế càng trở nên hoang dã với những cụm rừng tràm chỗ thưa chỗ dầy. Mùa nước nổi tháng 7 tháng 8 đến tháng 11 ngập nước mênh mông, đến mùa nước rút thì lại có thêm những chòm cây mới xuất hiện tạo nên một vùng vô cùng hiểm trở. Đồn bót rất khó xây dựng vì không có đường sá liên lạc tiếp tế kể cả đường thủy vì kinh rạch thiên nhiên cây cối um tùm không lưu thông được.

Từ thời đệ nhất Cộng Hòa, chính phủ đã cố gắng xây dựng một hệ thống Ấp Chiến Lược và khu Trù Mật trong vùng này để bình định. Các khu Trù Mật Hậu Mỹ, An Phước Đông, Tân Phú Trung… Ấp Chiến Lược Bà Bèo, Tân Lợi, Ấp Bắc… được hình thành vào thời kỳ này.

Tuy nhiên những Ấp Chiến Lược này lần lượt bị phế bỏ vì quá hẻo lánh, và cũng chính tại nơi đây vào đầu thập niên 1960 đã xảy ra một trận đánh đi vào lịch sử chiến tranh Việt Nam, với sự trắc nghiệm chiến thuật Trực thăng vận của Lữ đoàn Nhảy dù phối hợp với Thiết quân vận M113. Dù thiệt hại của đôi bên ngang nhau, nhưng bộ máy tuyên truyền của Cộng sản vẫn quảng bá trận Ấp Bắc như là một chiến thắng lớn lao của họ.

Trở lại với cuộc hành quân ngày mai của Tiểu Đoàn 1/14, sau khi nhận được phóng đồ, tôi và Pháo đội phó đem ra đặt lên bản đồ, đồng thời dùng viết chì mỡ kẻ đại khái trục tiến quân lên không ảnh 1/25.000. Quan sát kỹ tôi thấy lờ mờ trên không ảnh cách điểm xuất phát của tiểu đoàn khoảng 500 thước là một chòm cây mỏng chắn ngang trục tiến, đồng thời cách khoảng 300 thước bên phải trục tiến cũng có một chòm cây chạy dài song song, riêng bên trái trục tiến là đồng trống. Như một động tác thường lệ, tôi chấm lên hai hàng cây có chữ L ngược đó sáu hỏa tập tiên liệu, và rải bên trái trục tiến vài hỏa tập vì đồng trống không mấy gì nguy hiểm, ngoài ra trên các mục tiêu chính của Tiểu đoàn cũng đều có ít nhất mỗi nơi hai hỏa tập.

Sau khi chấm xong các điểm tọa độ của hỏa tập lên bản đồ và xạ bản, các yếu tố tác xạ được thiết lập, đánh tên và ghi vào sổ tác xạ tiên liệu. Sau khi công việc xong xuôi, mọi người giải tán, chỉ còn mình tôi và Hạ sĩ quan trực đang ngồi bên máy truyền tin với chiếc loa khuếch đại chạy rè rè. Tôi vẫn thường có thói quen riết thành tật, là mỗi khi làm yếu tố tác xạ tiên liệu cho các cuộc hành quân xong, hay ngồi lại hàng giờ trước các tấm bản đồ.

Đêm nay cũng giống như vậy, sau đó kiểm soát lại các hỏa tập phòng vệ tiếp cận vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 1/14 cũng như các tác xạ quấy rối ban đêm đã phân phối cho các khẩu đội xong, tôi lên ghế bố với giấc ngủ bình thản.

Không biết ngủ được bao lâu, trong chập chờn tôi nghe văng vẳng tiếng người lay gọi:

– Đại úy! Dậy tác xạ!

Tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy hỏi người Hạ sĩ quan đang ngồi trực máy:

– Ai xin tác xạ vậy?

– Dạ đâu có ai xin tác xạ đâu Đồng Nai!

Nói xong lại chúi đầu vào quyển sách đọc tiếp, tiếng rè rè của máy truyền tin phát ra từ chiếc loa với âm thanh đều đặn. Tôi nằm xuống tiếp tục dỗ giấc ngủ không một sự thắc mắc gì.

Đang chập chờn sắp sửa ngủ lại được, trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, tôi lại nghe tiếng văng vẳng lay gọi tôi dậy:

– Đại úy! Dậy tác xạ!

Choàng tỉnh dậy không thấy ai, bên tấm vách mỏng kế bên lưng người Hạ sĩ quan trực tác xạ dựa ngửa vào ghế đọc sách, và tiếng máy truyền tin vẫn tiếp tục vang lên đều đặn. Tôi cảm thấy hoàn toàn tỉnh ngủ, sau khi vệ sinh rửa mặt, tôi mở bình thủy pha một tách cà phê bước ra đài tác xạ vừa hút thuốc vừa nhìn bản đồ không ảnh.

Người Hạ sĩ quan trực hỏi tôi sao thức dậy sớm quá vậy, tôi bảo hơi khó ngủ.

– Có lẽ Đồng Nai nhuốm cảm rồi.

Tôi cười:

– Chắc vậy.

Dù vẫn đối đáp nhưng mắt tôi vẫn không rời bản đồ không ảnh. Hai hàng cây hình chữ L ngược lờ mờ trên bản đồ như nhấp nhô chuyển động trước mắt tôi, mũi tên đỏ kẻ bằng viết chì mỡ vẽ trục tiến quân của Tiểu đoàn 1/14 khi mờ khi tỏ dưới mặt giấy kính phủ ngoài bản đồ. Trong người tôi bỗng nổi lên một sự bồn chồn lo lắng, tôi bảo Hạ sĩ quan trực ra đánh thức Pháo đội phó và ông Thường vụ Pháo đội vào Đài tác xạ gặp tôi, lúc đó đồng hồ chỉ gần 5 giờ sáng.

Khi hai người vào, tôi nói cho Trung úy Tòng và Thượng sĩ Thường vụ cảm giác bất an của tôi về chuyến xuất phát hoạt động sáng nay của Tiểu Đoàn 1/14 và tuyệt nhiên không kể gì về vụ có tiếng người lay gọi.

Trung Úy Tòng hỏi tôi:

– Vậy Đồng Nai tính sao?

Tôi nói:

– Đánh thức Pháo đội, cho các Khẩu đội làm đạn, ghi yếu tố lên súng và chờ lệnh.

Ông Thường vụ nhận lệnh xong đi nhanh ra ngoài đánh kiểng báo thức Pháo đội.

Tôi bảo tiếp Trung úy Tòng vừa chỉ vào không ảnh:

– Toa lấy sáu yếu tố hỏa tập ở hai chòm cây này

cho ghi lên riêng rẽ từng Khẩu đội, sơ khởi chuẩn bị Pháo đội 10 quả.

Khi các Hạ sĩ quan tác xạ Pháo đội lần lượt vào Đài tác xạ, Tòng ra khẩu lệnh tác xạ cho Pháo đội:

– Pháo đội vào chỗ bắn! 10 quả thuốc nạp 5 không nạp đạn!

– Khẩu 1 độ giạt… góc thăng bằng…

– Khẩu 2 độ giạt… góc thăng bằng…

Tòng lần lượt ra lệnh tác xạ đến khẩu 6, khi các khẩu trưởng lập lại các yếu tố của khẩu đội mình và báo cáo sẵn sàng, Tòng ra khẩu lệnh cuối cùng:

– Pháo đội nghỉ tại chỗ! Tác xạ khi có lệnh!

Trong Pháo binh, khẩu lệnh “Nghỉ tại chỗ” có nghĩa là toàn thể nhân viên khẩu đội bắt buộc ở tại khẩu đội của mình không được đi đâu ra ngoài, để khi có lệnh là nạp đạn tác xạ tức khắc, những thành phần nhân viên khác cũng túc trực tại chỗ phần hành của mình.

Sau khi Pháo đội đã sẵn sàng, tôi gọi điện thoại sang Bộ chỉ huy Trung đoàn nhờ gọi Tiền sát viên Pháo binh Tiểu đoàn 1/14 lên máy và dặn dò thật kỹ:

– Khi Tiểu đoàn bắt đầu vượt tuyến xuất phát, đích thân Sĩ Quan Tiền sát viên giữ liên lạc chặt chẽ với Pháo đội, và khi có bất trắc khẩn cấp chỉ báo ngắn gọn để Pháo đội can thiệp kịp thời.

Khi mọi sự chuẩn bị xong xuôi, đồng hồ chỉ gần 6 giờ sáng. Ngoại trừ các Sĩ quan Trung đội trưởng đang túc trực ở vị trí của Trung đội mình, trong Đài tác xạ, tôi, Trung úy Tòng, ông Thường vụ và các Hạ sĩ quan Tác xạ đang đứng ngồi rải rác chung quanh xạ bản và máy truyền tin, kẻ uống cà phê người hút thuốc. Trời bên ngoài vẫn chưa sáng hẳn, xa xa bên kia bờ sông Long Định, sương mù vẫn còn lãng đãng trên những ngọn cỏ chòm cây. Ngoài Quốc lộ 4 dưới dốc cầu Long Định về hướng Trung Lương, những chiếc xe đò xe hàng đang đậu thành hàng dài cả cây số chờ lực lượng mở đường hướng dẫn cho phép qua cầu.

Tôi biết cả Pháo đội rất thắc mắc trước quyết định cho cả Pháo đội đặt trong tình trạng chuẩn bị tác xạ khẩn cấp, vì hôm nay không phải là cuộc hành quân quy mô, chỉ có mỗi một Tiểu đoàn 1/14 đã hoạt động trong vùng này đã mấy ngày qua cùng với vài Đại đội Địa phương quân án ngữ, riêng Chi đoàn 3/2 Thiết quân vận hoạt động sát quốc lộ để mở đường giống như thường lệ.

Để giải tỏa một phần nào thắc mắc đó, tôi nói với anh em:

– Vùng này Việt cộng nó hỗn lắm, ít đồn bót nằm sâu trong vùng nên nó dễ bám theo mình, nhất là khi vừa rời tuyến xuất phát, với lại hai hàng cây phía trước và bên phải trục tiến quân rất đáng ngại, chuẩn bị sẵn cho chắc ăn.

Tôi cũng không muốn kể dài dòng với anh em về những tiếng văng vẳng lay gọi trong đêm cũng như một lần tôi thoát chết hồi đi “délo” cho Tiểu đoàn 2/13, khi Tiểu đoàn bị phục kích gần ngã ba Lai Vung quận Đức Thành bởi những chòm cây hình chữ L như vậy.

Đúng 7 giờ, Tiền sát viên gọi máy báo Tiểu đoàn bắt đầu di chuyển, tôi dặn dò lại phải thật cẩn thận giữ liên lạc với Pháo đội. Điện thoại bên Trung đoàn cũng gọi cho biết Tiểu đoàn rời tuyến xuất phát. Mọi người trong Đài tác xạ vẫn cười nói đùa giỡn bình thường, riêng tôi trong người có một cảm giác như lửa đốt, tôi cố trấn tĩnh bằng cách vừa uống cà phê vừa nói vài câu góp vui với anh em. Tiếng máy truyền tin vẫn phát tiếng rè rè đều đặn, Tiền sát viên của Chi đoàn 3/2 nằm trên Quốc lộ nên cũng không có gì để báo cáo, các Đại đội Địa phương quân thì không có Tiền sát viên, họ chỉ liên lạc trên tần số bộ binh của Trung đoàn. Ngoài vị trí Khẩn đội, các nhân viên quanh quẩn bên trong ụ súng nói cười vui vẻ.

Bỗng trong loa máy truyền tin, tiếng “combiné” bấm đứt quãng, sau đó giọng nói của Chuẩn úy Tâm, Tiền sát viên Tiểu đoàn 1/14 hét lên:

– Đồng Nai! Đồng Nai! Gia đình em bị lọt ổ rồi… Tụi nó đông lắm!

Chuẩn úy Tâm nói được bao nhiêu đó rồi im bặt. Tôi chụp ống liên hợp gọi lại Tiền sát viên 1/14:

– 41! Đây Đồng Nai! 41! Đây Đồng Nai!

Vẫn im bặt không có tiếng trả lời.

Tôi biết ngay Tiểu đoàn 1/14 có biến rồi, chạy vọt ra cửa hầm Đài tác xạ, tôi ra lệnh thật lớn:

– Pháo đội 3 quả! Bắn khi sẵn sàng!

Ầm! Ầm! Ầm!…

18 quả đạn từ 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội trong tích tắc xé không gian tĩnh mịch của buổi sáng sớm bay thẳng vào mục tiêu đã tiên liệu.

Tiếng điện thoại bên Trung đoàn reo vang, tôi chụp ống điện thoại, giọng nói của Đại úy Trưởng ban 3 Trung đoàn vang vang:

– Pháo đội bắn cái gì vậy Sơn?

– Thằng Sanh bị lọt ổ rồi! Liên lạc với nó đi, để tao bắn cho Tiền sát viên!

Bỏ điện thoại nhanh xuống, tôi chụp ống liên hợp máy truyền tin gọi lại Tiền sát viên 1/14:

– 41 đây Đồng Nai! 41 đây Đồng Nai!

Vẫn không có tiếng đáp lại của Chuẩn úy Tâm, tôi và cả Đài tác xạ muốn đứng tim, tôi vụt ra cửa Đài tác xạ ra lệnh kế tiếp:

– Pháo đội yếu tố cũ 3 quả! Bắn khi sẵn sàng!

Tiếng đạn đi ầm ầm tiếp tục, bỗng tiếng Chuẩn úy Tâm, Tiền sát viên 1/14 hét lên trong máy:

– Đồng Nai! Đồng Nai! Đây 41! Trúng ngay tụi nó rồi! Đông lắm! Kéo gần vô nữa Đồng Nai!

Trong loa máy truyền tin, tiếng của Chuẩn úy Tâm hòa lẫn với tiếng nổ dòn dã của hàng trăm vũ khí ngoài chiến trường. Dù không điều chỉnh theo đúng kỹ thuật Pháo binh, nhưng trong Đài tác xạ ai cũng biết là Tiền sát viên muốn đạn nổ gần hơn nữa, có lẽ địch đã tiến sát quân mình. Trung úy Tòng nhanh nhẹn cắm một kim mục tiêu vào gần trục tiến quân của Tiểu đoàn 1/14 trên xạ bản, đồng thời di chuyển thước đo độ giạt vào cạnh kim mục tiêu, đọc lớn độ giạt mới với tầm xa không thay đổi.

Tôi chuyển lệnh lớn ra Pháo đội:

– Pháo đội 5 quả! Độ giạt… Góc thăng bằng cũ! Bắn khi sẵn sàng!

Vài giây sau Pháo đội tiếp tục bắn 30 quả đạn vào mục tiêu. Bỗng trên máy Thiếu tá Sanh gọi hòa lẫn với tiếng đạn nổ lụp bụp trong máy:

– Đồng Nai! Tao Sơn Tây đây! Tốt lắm, đã chận đứng được tụi nó rồi! Mày rải thêm phía Bắc giúp tao, trên đó còn nặng lắm!

– Okedo! Đừng lo! Có ngay cho mày, Sơn Tây!

Tòng đọc ngay yếu tố các chòm cây chắn ngang phía Bắc trục tiến quân cho Trung đội 1 và 2:

– Trung đội 1, 2 Pháo đội 5 quả! Độ giạt… Góc thăng bằng…

– Trung đội 3 yếu tố cũ 5 quả!

– Tất cả bắn khi sẵn sàng!

Tiếng đạn đi tiếp tục nổ dồn dập, khói thuốc nạp phủ mờ mịt cả căn cứ hỏa lực Long Định.

Khoảng 15 phút sau, trực thăng C&C (CNC) và hai chiếc trực thăng võ trang từ Bộ tư lệnh nhẹ Sư đoàn tại căn cứ Vĩnh Nhi bay đến chở Đại tá Trung đoàn trưởng bay lên vùng.

Tiếng ông trên hệ thống truyền tin Pháo đội:

– Đồng Nai đây Bạch Hổ! Sẽ bay tránh “đường tên” của em! Cứ tiếp tục nuôi ăn cho Sơn Tây, khi đến vùng sẽ báo!

– Đáp nhận Bạch Hổ!

Tôi trả lời ông trên máy.

Pháo đội tiếp tục tác xạ cho Tiểu đoàn 1/14 với sự điều chỉnh của Chuẩn úy Tâm, Tiền sát viên 1/14 đã lên máy liên lạc đều đặn.

Chưa đầy 10 phút sau, Đại tá Trung đoàn trưởng yêu cầu ngưng tác xạ để hai chiếc gunship bắn yểm trợ. Đồng thời ngoài Quốc lộ 4, Chi Đoàn 3/2 Thiết Quân Vận cũng đang làm “capstan” vượt con rạch cạnh đường cái để tiến vào vùng, Tiền sát viên liên lạc vô tuyến rất tốt với Pháo đội. Tôi cho Pháo đội tạm ngưng tác xạ và nghỉ giải lao.

Trên vùng trời xa tít, hai chiếc trực thăng võ trang đang quần thảo, Chuẩn Úy Tâm gọi máy báo cáo Tiểu đoàn đang cho bung các đứa con lên các chòm cây để lục soát, kết quả sơ khởi lấy khá nhiều súng, bên mình dĩ nhiên Tiểu đoàn 1/14 không tránh khỏi thiệt hại vì bị phục kích tấn công trước bằng chiến thuật “đội mồ” của Việt cộng.

Sau khi có trực thăng võ trang yểm trợ và Chi đoàn 3/2 Thiết quân vận vào vùng tiếp ứng cho Tiểu đoàn 1/14, Pháo đội không còn tác xạ cho Tiền sát viên nữa mà chỉ còn thi hành các tác xạ ngăn chặn và truy kích trên các con đường tình nghi rút lui của Việt cộng do Ban 3 Trung đoàn yêu cầu. Khoảng trưa Chi đoàn 3/2 chở Tiểu đoàn 1/14 cùng các binh sĩ tử thương ra quốc lộ, riêng các thương binh đã được các trực thăng tản thương từ sáng. Cùng di chuyển ra đường với Tiểu đoàn 1/14 là trên 20 xác Việt cộng bỏ lại chiến trường cùng mấy chục vũ khí các loại.

Khi các trực thăng CNC và võ trang trở về Bộ chỉ huy Trung đoàn, Thiếu tướng Tư lệnh cùng Đại tá Trung đoàn trưởng qua căn cứ gặp tôi và anh em Pháo đội.

Thiếu tướng Tư Lệnh nói:

– Pháo đội các em yểm trợ lẹ làng lắm, sư đoàn sẽ ban thưởng cho các em.

Riêng Đại tá Trung đoàn trưởng bắt tay tôi:

– Anh cám ơn Sơn và các anh em lắm! Pháo binh các em đã giúp Thiếu tá Sanh làm cuộc phản kích tuyệt đẹp này!

Thực ra thì Thiếu tướng Tư lệnh và Đại tá Trung đoàn trưởng cứ đinh ninh một cách thông thường là Pháo đội bắn yểm trợ khi có lời yêu cầu của Tiền sát viên Tiểu đoàn sau khi đã bị phục kích, chớ hai ông đâu có biết cả Pháo đội đã thức dậy từ năm giờ sáng để chuẩn bị trước cho trận đánh phủ đầu này.

Chiều đó Thiếu Tá Sanh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/14 lái xe vào căn cứ gặp tôi:

– Cám ơn mày lắm Sơn, mày và anh em đã cứu tao, cứu Tiểu đoàn, chiều nay bận quá không làm gì kịp, để trưa mai Tiểu đoàn sẽ đãi mày và anh em một bữa ăn trưa.

Sau đó Sanh hỏi tôi làm sao bắn nhanh quá vậy khi chưa có lời yêu cầu tác xạ, tôi chỉ nói vắn tắt:

– Tao có linh cảm Tiểu đoàn sẽ bị bất trắc nên chuẩn bị trước.

Riêng Chuẩn úy Tâm Tiền sát viên Tiểu đoàn sau khi theo Tiểu đoàn về điểm đóng quân tại trường tiểu học Long Định, đã tạt vào căn cứ gặp tôi và anh em Pháo đội, Tâm nói:

– Không có Pháo binh mình là tiêu hết rồi!

Tâm kể tiếp với anh em:

– Sau khi đã lấp hầm hố chỗ đóng quân đêm, Tiểu đoàn bắt đầu di chuyển theo kế hoạch. Vì được Đồng Nai căn dặn trước nên tôi đích thân mang máy 25 để liên lạc thay vì để cho đệ tử mang như thường lệ. Khi xuất phát được chừng nửa tiếng khoảng hai ba trăm thước thì từ phía ven cây tay phải hàng chục loạt B40 phóng thẳng vào Tiểu đoàn rồi hai đầu đại liên Đông Đức quạt chéo góc với lửa đạn xanh rờn, đồng thời ngoài ruộng tụi Việt cộng tốc rơm đứng dậy vừa quét AK vừa hô xung phong. Tôi bóp máy gọi Pháo đội trong lúc nhảy xuống bờ mẩu nằm, bên trên còn nghe tiếng la vang trời của tụi nó. Rồi thình lình tôi nghe tiếng “départ” đạn đi liên tục của Pháo đội mình ngoài này, trong tích tắc mấy chục quả đạn nổ ngay hàng cây bên phải và phía trước, Việt cộng dội ngược liền! Tôi biết Đồng Nai đã chuẩn bị trước nên mới có đạn đi ngay tức khắc trên đầu tụi nó như vậy. Khi thấy có Pháo binh bắn chận, Thiếu tá Sanh liền cho Đại đội đi cánh phải xung phong ngược vô điểm kích của tụi nó, lính Tiểu đoàn phải xài lựu đạn vì quá gần. Vì bị đạn Pháo binh mình bất thình lình chụp ngay trên đầu và phía sau lưng nên đội hình tụi nó tan nát, thối lui rồi chạy tứ tán…

Trưa hôm sau Sanh cho chiếc xe dodge tiền cứ chở vào Pháo đội tôi mấy con heo quay, bánh hỏi, bánh mì cộngvới bia, nước ngọt để khoản đãi anh em.

Đến bây giờ, tôi cũng không biết vì giác quan thứ sáu bén nhạy hay chính Trung úy Thạch Um – bóng ma trong căn cứ Long Định – đã giục tôi có những hành động kịp thời để cứu quân bạn. Nhưng có một điều chắc chắn là Việt cộng đã chọn lầm địch thủ để tổ chức cuộc phục kích “đội mồ” này. Tiểu đoàn 1/14 không phải mới đây mà cách đây cả chục năm về trước đã là Tiểu đoàn số 1 của Sư đoàn, được mang giây biểu chương màu đỏ “Bảo Quốc Huân Chương” đầu tiên. Rồi bây giờ dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Châu Ngọc Sanh, một sĩ quan dày dạn chiến trường, gan lì dũng cảm, cũng như cộng với sự bất ngờ của Pháo binh, thì quả là đơn vị Việt cộng này đã chọn cho mình một tử địa. Nhưng thường có những cái không may đến cho những bậc anh hùng, khi tôi rời đơn vị để đi học khóa Pháo binh Cao cấp, được tin Châu Ngọc Sanh đã hy sinh trên chiến trường Long Khốt Mộc Hóa.

https://hoiquanphidung.com/showthread.php?7593-Nh%E1%BB%AFng-M%E1%BA%ABu-Chuy%E1%BB%87n-Ng%E1%BA%AFn-Tr%C3%AAn-Chi%E1%BA%BFn-Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-QL-4

https://dongsongcu.wordpress.com/2018/02/13/cuoc-phan-phuc-kich-cua-tieu-doan-1-14-gan-ap-bac/

 

 

 

Cuộc rút quân khỏi chi khu Quảng Đức
- Cựu Thiếu tá Pháo Binh Trần Văn Bường
https://youtu.be/VgqHaubUXz0


 

 





CUỘC RÚT QUÂN KHỎI QUẢNG ĐỨC THÁNG 3 – 1975

Thiếu Tá TRẦN VĂN BƯỜNG

Giới thiệu tỉnh Quảng Đức
Sau khi thắng trận đánh thừa chết thiếu sống tại Căn Cứ 42A (đèo Chupao-Pleiku), ngày 19/6/1972, tôi được vinh thăng thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Ðây là một phần thưởng cao quý nhất tôi may mắn được (vì lên cấp tại mặt trận rất hiếm hoi đối với quân đội, đặc biệt binh chủng Pháo Binh (PB) như tôi lại càng khó khăn gấp trăm lần). Một tháng sau tôi rời Tiểu Đoàn 233 PB sang làm tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 69 PB đóng tại Biển Hồ Pleiku. Với chức vụ mới này, tôi thường đi hành quân với tư cách Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Quân Khu II của Ðại Tá Phạm Duy Tất (sau lên chuẩn tướng) hoặc Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn II (QĐII).
Vào giữa tháng 12/73, từ Pleiku tôi theo Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân Đoàn II do Ðại Tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy bay đến Tiểu Khu Quảng Ðức (TK/QÐ) điều động cuộc hành quân giải tỏa áp lực địch tại căn cứ Buprang (quận Kiến Ðức). Căn cứ này nằm cạnh quốc lộ 14 sát ranh giới Campuchia, cách thị xã Gia Nghĩa (Quảng Ðức) chừng ba mươi cây số, được bảo vệ bởi Liên Đoàn Địa Phương Quân (ÐPQ) của Tiểu Khu Khánh Hòa và Tiểu Khu Quảng Ðức. Vừa đến Trung Tâm Hành Quân TK/QÐ chưa tới hai đêm, căn cứ Buprang bị thất thủ bởi đặc công địch được xe tăng T54 yểm trợ. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nghĩa (Phan Thiết), Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Tiểu Khu Quảng Đức bị mất tích trong trận này. Tôi nhận lệnh thay thế Thiếu Tá Nghĩa ngay hôm đó. Một tuần sau Đại Tá Phạm Văn Nghìn về làm tỉnh trưởng Quảng Ðức thay thế Trung Tá Nguyễn Văn Thiện và sau đó, ông giao tôi kiêm nhiệm luôn chức vụ tham mưu phó Hành Quân Tiểu Khu. Vì vậy tôi có dịp đi lại nhiều nơi, biết nhiều điều đặc biệt về quân sự thuộc TK/QÐ từ lúc tới cho đến khi rút quân. Trước khi trình bày cuộc rút quân của TK/QÐ, tôi xin nói sơ lược về tỉnh này.

Quảng Ðức là một tỉnh nhỏ được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, nằm dọc theo quốc lộ 14 giáp ranh Campuchia và các Tiểu Khu Phước Long, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và Ban Mê Thuột. Tỉnh có ba quận: Kiến Ðức, Ðức Lập, Khiêm Ðức (Gia Nghĩa) và Chi Khu biệt lập Ðức Xuyên. Dân chúng hầu hết là người Thượng sống về nghề làm rẫy và săn bắn thú rừng, còn lại là người Kinh, hầu hết là gia đình quân nhân, công chức và dân buôn từ miền xuôi lên. Ðặc biệt quận Ðức Lập nằm về hướng Bắc của tỉnh Quảng Ðức, giáp với thị xã Ban Mê Thuột, đất đai màu mỡ, dân chúng phần nhiều là người miền Trung di cư vào lập nghiệp từ năm 1954, sau ngày chia đôi đất nước, sống về nghề trồng trà và cà phê rất thịnh vượng. Quảng Ðức là một tỉnh nhỏ và nằm sát ranh giới Campuchia, hành lang xâm nhập của quân Bắc Việt nên chịu áp lực của Cộng Quân rất nặng nề. Từ năm 1972, quốc lộ 14 nằm song song và sát với ranh giới Miên Việt xuyên qua ba tỉnh Phước Long, Quảng Ðức, Ban Mê Thuột bị gián đoạn giữa ranh giới Phước Long và Quảng Ðức. Vì vậy Quảng Ðức chỉ còn sử dụng được đoạn đường bộ duy nhất từ Bubinh xuyên qua thị xã Gia Nghĩa đi Ban Mê Thuột mà thôi. Tỉnh Phước Long rơi vào tay địch đầu năm 1974.


Trận đánh mở màn “Chiến Dịch Mùa Xuân” của Việt Cộng

Theo tin tình báo cũng như tài liệu thu được tại chỗ do pháo binh bắn quấy rối và hệ thống điện tử chung quanh Chi Khu Ðức Lập cho biết: Sư Đoàn 968 Tân Lập cùng Sư Đoàn 10 Bắc Việt có thể sắp tấn công Ban Mê Thuột, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức, Đại Tá Phạm Văn Nghìn đã xin thêm quân phòng thủ quận Ðức Lập nhưng chưa được. Sáng ngày thứ bảy (8/3/75), tôi tháp tùng Đại Tá Nghìn đáp trực thăng ra quận Ðức Lập có gặp Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 Bộ Binh (BB) cũng đến đây thị sát tình hình. Ðại tá Nghìn chỉ thị Trung Tá Trần Nguyên Khoa (khóa 18 Ðà Lạt), Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 53 Bộ Binh, đang chỉ huy Trung Đoàn trừ đóng gần Chi Khu Ðức Lập phải dời Bộ Chỉ Huy Nhẹ của ông cùng các đơn vị bảo vệ vào căn cứ Daksak, một căn cứ thật kiên cố do Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ để lại, cách vị trí đóng quân hiện tại chừng ba cây số. Hiện Trung Đoàn 53 BB trừ đang được tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Đức.

Nói là Trung Đoàn trừ chứ thực sự quân phòng thủ tại Bộ Chỉ Huy Nhẹ này chỉ có một Chi Đoàn trừ (-) 1/8 Thiết Vận Xa M113 của Đại Úy Tánh, Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn mà phân nửa đã hoạt động bên ngoài tìm tin tức, một Trung Đội Pháo Binh 105 ly (Tiểu Ðoàn 231 PB), một Trung Đội PB 155 ly thuộc Tiểu Đoàn 230 PB và một ít bệnh binh của Tiểu Đoàn 2/53 BB. Thám sát xong, nhận thấy không có đủ thời gian, việc di chuyển dời lại sáng hôm sau (9/3/75). Nào ngờ, khoảng năm giờ sáng - trước giờ quân ta chuẩn bị di chuyển vào căn cứ Daksak như dự định, Cộng Quân bắt đầu pháo ào ạt rồi sau đó tấn công biển người vào các đơn vị ta.

Đáng tiếc thay, những đợt pháo đầu tiên lại trúng ngay vào Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Trung Tá Trần Nguyên Khoa. Dù ông là một sĩ quan giỏi, lanh lợi, đã từng được thăng cấp tại mặt trận nhưng vì nơi đóng quân hiện tại là một căn cứ dã chiến, hầm hố không được kiên cố lắm nên không chịu nổi sức công phá của các loại pháo địch, đặc biệt pháo 130 ly. Cầm cự không lâu, hơn phân nửa số thiết vận xa bảo vệ Bộ Chỉ Huy Nhẹ bị tê liệt, hầm chỉ huy của Trung Tá Khoa bị sập, Đại Úy Bùi Minh Ngọc (Phan Thiết), Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Trung Đoàn 53 BB bị thương nặng và chết ngay sau đó, Trung Tá Trần Nguyên Khoa bị thương ở sau ót và cánh tay trái gãy gần đứt lìa được lính pháo binh dìu ra khỏi căn cứ nhưng rồi bị bắt làm tù binh ngày hôm sau. Nếu.. nếu... hôm đó (8/3/75), Bộ Chỉ Huy Nhẹ Trung Đoàn 53 di chuyển đi, Việt Cộng không điều nghiên kịp mục tiêu, tình hình có thể khác. Ðiều này rất đúng với câu ta từng nghe “Không nên để lại ngày mai những gì có thể làm hôm nay.”
Chi Khu Ðức Lập gần đó cũng bị pháo và tấn công tơi bời cùng một lúc nhưng nhờ hầm hố kiên cố cộng với sự gan lì, mưu lược của Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Cao Vực (Khóa 13 Ðà Lạt), Việt Cộng không làm gì được, đành bỏ đầy xác ngoài bờ rào quận. Cùng lúc tại căn cứ Núi Lửa cách Chi Khu Ðức Lâp về phía Tây chừng sáu cây số, nơi Trung Đội Pháo Binh 105 ly của Trung Úy Nguyễn Văn Quý (Phan Thiết) đóng, được bảo vệ bởi Đại Đội Chỉ Huy thuộc Tiểu Đoàn 261 ÐPQ/QÐ (các đại đội tác chiến hoạt động bên ngoài) của Thiếu Tá Bùi Ngọc Long cũng bị pháo khủng khiếp.

Tóm lại, Việt Cộng đồng loạt tấn công ba nơi trên cùng một lúc với những cơn mưa pháo tới tấp khiến chúng ta không thể yểm trợ hỗ tương nhau được. Chúng đã áp dụng tiền pháo hậu xung biển người trận này rất hiệu quả. Khoảng bảy giờ sáng, sau khi nhận được chiếc trực thăng tăng phái từ Phi Đoàn 235 Trực Thăng Pleiku, tôi tháp tùng Đại Tá Nghìn bay về hướng Ðức Lập. Trước khi rời Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu ra trực thăng, tôi còn nghe Trung Úy Quý vừa nói vừa cười báo cáo thành tích hạ địch của đơn vị mình:

-- “Bắn đã tay quá Bắc Bình ơi. . .”

Bắc Bình là danh hiệu tôi thường dùng trong nội bộ pháo binh. Tôi mừng thầm lên phi cơ gọi tiếp anh để biết tình hình nhưng không thấy Trung Úy Quý trả lời. Bên tần số bộ binh bảo vệ anh cũng không liên lạc được. Bay gần tới Căn Cứ Núi Lửa cũng không thấy hồi âm mà chỉ thấy một làn khói trắng từ căn cứ bốc lên. Làn khói đó, chính địch đã đánh dấu cho phe chúng biết đã chiếm được mục tiêu Núi Lửa. Thấy làn khói bốc lên chúng tôi nhìn nhau không ai nói gì ngoài sự ngậm ngùi thương xót số phận quân mình, thuộc cấp mình và chỉ còn có cách báo cáo lên thượng cấp và xin tăng viện từ Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và Quân Đoàn II.

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để nói rõ hơn về sự mất liên lạc đột ngột nói trên.
Cuối năm 1983, sau khi được phóng thích khỏi trại tù (từ Nam ra Bắc), trên đường về Phan Thiết thăm Ba Má tôi, tình cờ gặp anh Nguyễn Văn Quý (trung đội trưởng PB Núi Lửa nói trên) đang bán quán cà phê chồm hổm tại bến xe Phan Thiết đi Sài Gòn. Anh em nhìn nhau nghẹn ngào trong lần tái ngộ đau thương giữa cuộc đổi đời cay nghiệt. Anh mời tôi dùng ly cà phê gọi là tình nghĩa thầy trò thuở nào trong đơn vị. Nhắc lại chuyện mất liên lạc tại Căn Cứ Núi Lửa năm nào, anh trầm ngâm một lát, ánh mắt hướng về nơi xa xăm dường như để hồi tưởng lại quá khứ đầy u ám rồi cho biết,

-- “Sở dĩ mất liên lạc với tôi vì đang bắn địch ngon lành, bỗng dưng đài tác xạ bị pháo sập chết mấy quân nhân và địch ùa vào từ lưng đồi phía sau bất ngờ không trở tay kịp đành phải tìm đường “tẩu mã.”

Anh vừa nói vừa cười một cách chua chát, đắng cay vì phải dùng chữ 'tẩu mã'. Tôi hỏi anh:

-- “Anh bắn hay quá, sao để chúng bắn sập hầm chỉ huy?”

Mặc dù biết tôi đùa nhưng anh cũng giải thích cho vui:

-- “Chúng trốn chui trốn nhủi nơi nào mình đâu có biết, trong khi đó mình nằm một chỗ trơ trơ chúng bắn điều chỉnh một hồi phải trúng thôi.”

Và cũng tại bến xe đò đó năm nay (11/2006), khi từ Mỹ trở về thăm gia đình, người chạy Honda ôm cho tôi biết anh Quý đã trở thành người thiên cổ, tôi không còn cơ hội mời lại anh dùng một ít chất cay, vĩnh biệt Quý, một đàn em đáng mến thuở nào.

Tóm lại, lúc bấy giờ chỉ còn Chi Khu Ðức Lập của Trung Tá Nguyễn Cao Vực, dù không được yểm trợ của quân bạn vẫn cầm cự với địch. Ngoài việc kêu gào cấp trên tăng viện gấp, Đại Tá Tỉnh Trưởng vẫn bay vòng vòng rất thấp trên khu vực quận Ðức Lập đến trưa đễ hướng dẫn, trấn an và khuyến khích Trung Tá Vực và thuộc hạ cố gắng phòng thủ chờ quân ta tiếp viện. Xa xa đằng kia, cũng tại vùng trời Đức Lập, Trung Tá Võ Ân (Khóa 12 Thủ Ðức), Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh (lên Đại Tá trước ngày quân ta nhận lệnh đầu hàng) cũng đang bay tìm quân của Bộ Chỉ Huy Nhẹ Trung Đoàn đang thất lạc. Khác với những lần trước, mỗi khi bị địch tấn công mạnh, ngoài lực lượng pháo binh sẵn có, phi cơ yểm trợ đủ loại bay đầy trời; lần này, mấy ngày nay vùng trời Ðức Lập phẳng lặng, vắng vẻ làm sao! Tàu bay tàu bò biến đâu cả ngoài hai chiếc trực thăng chỉ huy nói trên.

Trong khi đó tại ngã ba Dakson cách Căn Cứ Núi Lửa chừng tám cây số về hướng Tây do Tiểu Đoàn 2/53 BB của Ðại Úy Nguyễn Tiên (khóa 2 Thủ Ðức vừa thay thế Thiếu Tá Võ Ðức Lai) và một Trung Đội Pháo Binh 105 ly đóng quân, không thấy đấm đá gì, nhưng không hiểu tại sao chúng tôi không liên lạc được họ. Quá đau lòng trước sự thất thủ của quân bạn gần đó không được yểm trợ nên sau khi Đại Tá Nghìn quay về Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu, tôi cùng phi hành đoàn mỗi người một khúc bánh mì bay trở lai hướng Dakson.

Trực thăng bay vòng nhiều lần trên vùng này, càng lúc càng thấp để cố gắng liên lạc và quan sát tình hình. Thấy Tiểu Đoàn 2/53BB vẫn đang tư thế bố trí sẵn sàng chiến đấu, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Hùng Thầy Tu hay anh Vệ) tìm cách đáp xuống. Anh bay thêm mấy vòng để xem hướng nào thuận tiện và an toàn, rồi anh... đột nhiên nhào xuống rất nhanh trông như chú diều hâu đang xà xuống gắp mồi. Ðang tư thế sắp đậu, bỗng nhiên nhiều loạt pháo đối phương rớt cạnh máy bay khiến anh ta cho tàu lướt về phía trước cất cánh lên lại, xém đụng rừng cây trước mặt. Một phen xém chết đã qua! Anh quay lại nhìn tôi với nét mặt thầm trách, “Nguy hiểm vậy mà bảo đáp.” Anh phi công này rất lanh lợi và bình tĩnh, nếu không thì cả tàu không chết vì pháo địch cũng chết vì các cành cây. Từ đó đến khi rút bỏ Tiểu Khu Quảng Ðức, tôi không liên lạc được với cánh quân này.

Ngày thứ nhất trôi qua, ngày thứ hai trông chờ quân ta tăng viện như cấp trên đã định. Bất hạnh thay! Ngày thứ hai đó lại là ngày thất vọng nhất khi Cộng Quân tấn công thẳng vào thị xã Ban Mê Thuột và phi trường Phụng Dực. Riêng các lực lượng khác của ta đồn trú tại Quảng Ðức đều bị địch cầm chân cả không thể nào lấy đi giúp Ðức Lập được. Càng chờ đợi, sự tổn thất càng tăng lên trước những loạt pháo đủ cỡ của địch; mặt khác không còn trông chờ vào sự tăng viện của quân bạn được nữa, Trung Tá Vực cùng thuộc cấp đành rút khỏi quận, băng rừng về căn cứ Ðạo Trung mấy ngày sau và được trực thăng đón về Tiểu Khu Quảng Ðức (Ðạo Trung cách Quảng Đức trên 15 cây số).

Rút quân

Ðức Lập và Ban Mê Thuột đã mất, từ trái (Phước Long) sang phải, cả về hướng trước mặt của tỉnh Quảng Ðức đã hoàn tòan lọt vào tay Việt Cộng, chỉ còn một phần phía sau giáp với tỉnh Tuyên Ðức và Lâm Ðồng, phân ranh bởi sông Kinh Ðà, con lộ duy nhất nối liền hai tỉnh Quảng Ðức, Lâm Ðồng đã bỏ phế từ lâu và do Việt Cộng kiểm soát.
Như vậy tỉnh Quảng Ðức đã mất gần phân nửa lãnh thổ. Trước tình trạng tỉnh bị cô lập tam hướng lại không còn được yểm trợ quân sự và địch ngày càng bám sát đánh phá ta nhiều nơi trong tỉnh, khiến tinh thần chiến đấu quân dân có phần sa sút. Các vị thân hào nhân sĩ trong tỉnh đã liên lạc với trung ương xin tỉnh Quảng Ðức được rút bỏ sớm hầu giảm thiểu sự thiệt hại. Chưa thấy kết quả ra sao, bỗng trưa ngày 25 tháng 3 năm 1975, khi biết tin Quân Đoàn II bị tổn thất nặng nề lúc rút lui và toán Liên Lạc Không Quân (ALO) Tiểu Khu Quảng Ðức đột nhiên lên trực thăng rời tỉnh, mang theo tất cả phương tiện điều động không yểm, khiến tinh thần quân dân trong tỉnh càng thêm nao núng.

Hôm đó, trong lúc Ðại Tá Phạm Văn Nghìn đang đi họp ở QÐ II chưa về, Trung Tá Phạm Ðức Dư, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu, liền tổ chức buổi họp khẩn cấp. Ngoài sự hiện diện của Trung Tá Dư còn có Trung Tá Hồng Kim Thanh, Liên Đòan Trưởng Liên Đoàn 24 BÐQ đóng tại quận Kiến Ðức; Thiếu Tá Trần Văn Bường, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân Tiểu Khu; Thiếu Tá Phạm Văn Tư, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu (đừng nhầm với Thiếu Tá Phạm Văn Tư khóa 19 Ða Lạt, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu, vượt ngục bị bắn chết tại trại tù Suối Máu, Biên Hòa năm 1976). Vừa vào họp, Trung Tá Dư tuyên bố, “Hôm nay chúng ta hành quân về phương Ðông.” Chỉ một câu đơn giản ai cũng hiểu đó là lệnh rút lui, không cần sơ đồ phóng đồ gì cả. Thành ra, với vị trí đóng quân hiện tại, Liên Đoàn 24 BÐQ đi theo phương giác từ, từ quận Kiến Ðức về Lâm Ðồng, các đơn vị cơ hữu hoặc tăng phái tiểu khu cũng từ nơi đóng quân di chuyển về Lâm Đồng.

Sau khi rời phòng họp, tôi cho lệnh Thiếu Tá Trưởng Phòng 3 Phạm Văn Tư ra lệnh các đơn vị tăng phái cũng như các đơn vị trực thuộc đóng quân quanh thị xã, đi theo đường mòn “xe be” đến bờ phà sông Kinh Ðà về quận Di Linh (Lâm Ðồng), các đơn vị còn lại tùy tình trạng an ninh tại chỗ rút về Lâm Ðồng. Trung Tâm Hành Quân, Trung Tâm Tiếp Vận Tiểu Khu, đặc biệt kho xăng và kho đạn phải phá huỷ; không được phá phách bệnh viện, phố xá, chợ búa. Cần nói thêm, trong thời gian này, Tiểu Khu Ninh Thuận tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Ðức hai đại đội biệt lập (4 đại đội luân phiên), một của Đại Úy Nguyễn Văn Ðức (Phan Thiết, Khóa 20 Ðà Lạt), một của Đại Úy Tôn Thất Kỳ (Huế), Đại Úy Trần Công Triệt (Phan Rang, Khóa 18 Ðà Lạt) và... Riêng pháo binh, tôi cho lệnh các trung đội trưởng phá hủy súng bằng loại lựu đạn M14 (lựu đạn có chứa chất chì đặc biệt chảy ra bám vào nồng súng không sử dụng được). Chỉ có trung đội pháo binh của Trung Úy Bá đóng trên đường hành quân được giữ nguyên kéo theo đoàn quân thôi.

Đoàn quân dân rời Bộ Chỉ Huy Quảng Ðức được khoảng năm giờ đồng hồ, một tin không vui đưa đến. Từ đầu máy bên kia, Trung Úy Bá báo cáo, “Chiếc cầu nhỏ bắc qua suối bị hư không thể nào kéo súng qua được Bắc Bình ơi!”
Chết cha! Đi hành quân không có đại bác yểm trợ cả một sự bất lợi khi địch xuất hiện ngoài tầm vũ khí cá nhân hay dùng biển người tấn công ta. Tôi than thầm như vậy, nhưng mặt khác vẫn cố giữ bình tĩnh ra lệnh cho anh Bá cố gắng thám sát hai bên cầu tìm mọi cách kéo súng qua. Bấy giờ trời vừa tối, ánh hoàng hôn cuối cùng vừa bị khuất sau rặng núi cao. Tôi vừa cho đoàn quân tạm nghỉ. Chừng nửa giờ sau, Trung Úy Bá cho biết không có nơi nào đem súng qua được vì con rạch tuy nhỏ nhưng đất mềm dễ bị lún. Tôi đành cho lệnh phá súng pháo binh và tiếp tục bám sát theo đoàn quân trước. Ði được hơn một giờ đồng hồ đoàn quân nghỉ qua đêm và tới bờ sông Kinh Ðà khoảng năm giờ chiều ngày hôm sau.

Ðang chuẩn bị vượt sông để theo đường mòn về hướng quận Di Linh như lời đề nghị của Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn (Quận Trưởng Di Linh cùng Khóa 18 Ðà Lạt với Trần Nguyên Khoa và tôi), bỗng từ bên kia bờ sông có tiếng la của đám Việt Cộng dội lại,

-- “Muốn qua sông phải bỏ súng xuống, đi từng người một, đưa hai tay lên đầu.”

Nghe chúng hô “Ðưa tay lên đầu,” mình đâm tức xổ nho, “Ð.. m... đầu hàng cái....” Quan sát thấy chúng chỉ có chừng mươi lăm người nối tiếp nhau đi chung quanh các gốc cây cổ thụ bên bờ sông để chúng ta lầm tưởng họ nhiều lắm. Biết vậy, nhưng vì khúc sông này rộng khoảng bốn năm trăm thước; nước sâu tới rốn chảy hơi xiết khó lòng vượt nhanh để lấn áp chúng. Tôi tiếc thầm, nếu súng pháo binh không bị bỏ lại, ta chỉ cần trực xạ mấy quả cha con chúng nhảy hết, tha hồ lội qua sông. Nhưng dù sao cũng may cho chúng ta phát giác được chúng bên đó, nếu không, đoàn quân ta cứ tà tà lội qua như chỗ không người thì sẽ... nếu không bị bắt làm tù binh thì cũng bị đi mò tôm cả đám giữa dòng sông. “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng,” ông bà ta nói như vậy. Biết mình ở thế bất lợi, thôi đành nhịn nhục tìm đường khác đi để tránh thiệt hại, đó là thắng vậy.

Sau khi bàn với Trung Tá Dư, tôi cho lệnh Đại Úy Ngô Văn Nhị (Khóa 12 Thủ Ðức), Chỉ Huy Phó của tôi, hướng dẫn toán quân hỗn hợp Ðịa Phương Quân và Pháo Binh đi lui về sau, dùng phương giác từ đi về hướng Tây dọc theo bờ sông tìm chỗ vượt sông dễ hơn để đánh bọc hậu địch cho đoàn quân sau vượt qua.
Mục đích cho đi lui về sau để đánh lạc hướng địch và dân chúng khỏi bám theo. Nếu dân chúng bám theo sẽ làm lộ kế hoạch; hơn nữa họ không thể gồng gánh, bồng bế con cái lên đồi xuống dốc được. Bảo vệ an ninh họ, phía sau còn có quân của Chi Khu Khiêm Ðức do Thiếu Tá Quận Trưởng Nguyễn Khắc Hiếu (Khóa 19 Ðà Lạt) chỉ huy, bên cạnh đó còn có mặt cả hai vị Trưởng và Phó Ty An Ninh Quân Đội (Thiếu Tá Ðậu Văn Ðề, Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðiệp) và nhóm Cảnh Sát Quốc Gia của Trung Tá Giang.
Trong khi cánh quân của tôi đi về phía phải (hướng Tây) thì Tiểu Đoàn 259 ĐPQ của Thiếu Tá Phan Văn Giỏi đi về phía trái (hướng Ðông) dọc sông Kinh Ðà về cầu Đại Ninh, ranh giới Ðà Lạt và Lâm Đồng. Ði nhiều hướng địch không thể theo dõi hết.

Màn đêm dầy đặc, đoàn quân di chuyển rất chậm, nhiều lúc phải sử dụng đèn “pin” tìm lối đi. Thỉnh thoảng nghe nhiều tiếng kêu “oan ốt” từ xa của các chú mang (nai con) lạc đàn hoặc thấy những đôi mắt ngơ ngác dại khờ của các chị mễn đang nhìn chăm chăm ánh đèn “pin.” Bình thường gặp như vậy số mạng các chị xem như đã xong rồi; đằng này có lệnh không được nổ súng chỉ trừ trường hợp gặp địch. Nhờ vậy các chị được thêm tuổi thọ.
Lội suốt đêm gần tới năm giờ sáng, Đại Úy Ngô Văn Nhị báo cáo đã tới khúc sông có thể vượt được. Ðại Úy Nguyễn Duy Huynh, xử lý thường vụ Trung Tâm Tiếp Vận thay thế Thiếu Tá Trương Minh Dũng đi học, tiến về phía trước tăng cường cho Đại Úy Nhị tìm cách vượt sông. Vì đường đồi lên xuống khó khăn, tối om như mực lại đi theo phương giác từ trong màn sương bao phủ nên khi gặp bờ sông, chỉ cách điểm đứng chiều hôm qua ba bốn cây số thôi. Khúc sông hơi cạn, đá lởm chởm, nước chảy hơi siết có thể vượt được. Ðại Úy Nhị cho anh hạ sĩ quan Pháo Binh buộc sợi dây thừng lội qua bờ sông bên kia cột vào gốc thông nào đó cho đoàn quân sau nắm đi qua. Chẳng may anh này bị trượt chân và chết giữa dòng sông. Toán quân gần đó đổ xô tới tiếp cứu nhưng vô vọng. Sợ bị lộ điểm vượt sông bởi những tiếng la ồn ào khi tiếp cứu, đoàn quân tiếp tục đi tìm nơi an toàn hơn để vượt. Ði mãi đến chiều mới gặp khúc sông sâu rộng, nước chảy lờ đờ có thể vượt qua dễ hơn.

Vượt sông Kinh Ðà về Bảo Lộc

Theo các quân nhân từng sống ở đây cho biết khúc sông này có thể có cá sấu nguy hiểm. Dù vậy, nhưng không thể nào đi xa hơn về hướng Tây sợ bị ngộ nhận với Liên Đoàn 24 BÐQ cũng đi về Lâm Ðồng phát xuất từ phi trường Nhơn Cơ. Hơn nữa, càng đi xa về hướng Tây điểm đến Bảo Lộc càng xa, thà vượt sông nơi đây rủi gặp cá sấu đói chỉ nuốt vài người xấu số còn hơn quanh quẩn lâu trong rừng càng nguy hiểm mà chưa chắc có nơi nào tốt hơn. Lệnh chặt cây kết bè ban hành, chỉ có những người yếu hoặc không biết lội mới được ngồi trên bè thôi.

Bộ Chỉ Huy qua bờ sông bên kia trời đã khuya, tất cả đoàn quân nghỉ đêm, đồng thời giữ an ninh cho số người qua sau. Dù hai ngày qua chưa có hạt cơm nào trong bụng nhưng không cảm thấy đói. Phải chăng cái đói nhường chỗ cho sự mệt nhọc lo âu. Theo dõi hệ thống truyền tin, được biết đoàn quân dân hôm qua kẹt tại bờ Kinh Ðà, được Đại Tá Tỉnh Trưởng lần lượt chuyển qua Bảo Lộc (Lâm Ðồng) nên ý nghĩ quay lại cứu họ không còn nữa. Với tình hình hiện tại, tôi nghĩ, địch không còn lẩn quẩn trong rừng như trước mà đã ra thị thành uy hiếp quân ta. Nghĩ vậy nên sự e ngại bị phục kích không còn cao và khi gà rừng vừa dứt tiếng gáy báo hiệu bình minh đang đến, tôi cho lệnh đoàn quân phía trước tiếp tục đi theo đường mòn về hướng xã Tân Rai (Lâm Ðồng) mặc dù phải băng qua các hậu trạm của Việt Cộng. May mắn không có gì trở ngại trên đường hành quân, nhờ vậy thời gian đến Lâm Ðồng rất nhanh (ba đêm bốn ngày). Toán quân đi trước băng qua các nhà lá Việt Cộng chỉ gặp mấy chàng thương binh bắn vài phát súng lẻ tẻ rồi đâm đầu vọt hết. Các trạm này (nhà lá) chứa đầy ắp các bao gạo Mỹ, còn mới tinh, lính đốt bỏ.

Trên đường về Tân Rai vài quân nhân cho tôi biết, “Đêm vượt sông, khi bè gần đến bờ có nghe vài tiếng ơi ới rồi buông tay không hiểu nguyên do và cũng không phân biệt được ai vì trời tối thui.” Có thể một vài quân nhân xấu số nào đó bị đuối sức buông tay hay có thể bị cá sấu đói ăn thịt chăng! Chỉ một trong hai điều đó hay cả hai! Thật đáng thương!

Trung Tá Phạm Ðức Dư xuất thân từ Sĩ Quan Tài Chánh, làm Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Lâm Ðồng từ khi còn Đại Úy cho đến khi chuyển qua làm Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức gần một tháng thôi (tôi xử lý thường vụ chức vụ này trước khi ông đến). Trung Tá Dư đã lớn tuổi, chưa quen lội hành quân, thành ra ông đã để tôi điều động tất cả đoàn quân từ lúc bắt đầu di chuyển. Và sau mấy ngày vất vả trong rừng, Trung Tá Dư bị mệt xỉu khi đoàn quân vừa tới xã Tân Rai (Lâm Ðồng) và được một lính Nghĩa Quân xã này (đệ tử cũ) đưa về nhà riêng của ông tại quận Bảo Lộc chăm sóc. Từ đó tôi không còn gặp ông.

Sau đó Bộ Chỉ Huy Nhẹ chúng tôi được Đại Tá Nghìn cho trực thăng đón về tỉnh. Riêng Đại Úy Ngô Văn Nhị vẫn tiếp tục chỉ huy cánh quân về thẳng thị xã Bảo Lộc. Đến phi trường Bảo Lộc trời đã xế chiều. Thời tiết mát dịu với những cơn gió hiu hiu thổi qua mang theo mùi hương thơm ngào ngạt từ các cánh đồng trà vừa mới đâm bông đầy hương sắc. Tình hình rất yên tĩnh, chợ phố sinh hoạt bình thường, chỉ nghe lai rai những tiếng đạn đại bác của ta từ xa dội lại, có thể đang yểm trợ cho một tiền đồn nào đó đang bị địch tấn công. Chúng tôi yên tâm như không có gì xảy ra, thong thả dùng một bữa cơm chiều no nê với lẩu canh chua cá bông lau nóng bỏng, dĩa thịt kho tàu kèm theo ít rau chua thật ngon miệng, bù đắp lại phần nào những ngày đói khát hiểm nguy băng rừng vượt suối. Với tình hình còn sáng sủa đó, sau khi dùng cơm xong chúng tôi vào đánh một giấc ngon lành đến sáng như chưa bao giờ có. Sáng ra, Đại Úy Nguyễn Duy Huynh, tôi và các quân nhân thuộc cấp ra ăn sáng tại một quán xập xệ ngoài chợ. Tứ bề yên tĩnh không nghe một tiếng súng nào nổ cả. Dự định ăn xong sẽ dạo phố kiếm đôi giày nhà binh khác thay thế cho đôi giày Mỹ lội mấy ngày nay đã bị há mỏ rồi. Nào ngờ, đang ăn ngon miệng bà chủ quán bỗng nói:

-- “Xe tăng Việt Cộng vào thành phố từ hồi hôm đến giờ, sao mấy ông còn ngồi đây?”

-- “Vậy hả! Bà nói đùa hay nói thật đó?”

Tôi hỏi lại bà chủ quán.

-- “Ai dám đùa với mấy ông chuyện quan trọng như vậy.” Bà chủ nói tiếp.

Nghe xong, tôi vẫn bình tĩnh. Tính tiền xong (không thuộc loại cao lâu ăn quỵt, thổ đĩ chơi lường), vội rời quán. May thay lúc đó có một chiếc xe “Jeep” của toán Liên Lạc Không Quân (ALO) thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng trờ tới, trong xe chỉ có một tài xế thôi. Đại Úy Huynh là bạn của thầy anh tài xế này từ lâu nên chận lại hỏi,

-- “Thầy mầy đâu rồi?” “Dạ, ổng bay khi hôm rồi.”

Người tài xế trả lời.

-- “Vậy mầy theo tao,”

Đại Úy Huynh nói như ra lệnh. Anh tài xế bước ra sau nhường tay lái cho tôi, Huynh ngồi ghế bên cạnh, các quân nhân còn lại ngồi hết phía sau. Tôi trực chỉ ra phi trường Bảo Lộc cách đó không xa vì lính Quảng Đức về tập trung nơi đây từ tối qua đến giờ. Vừa đến cổng phi trường, tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy lính Lâm Ðồng từ trong phi trường túa ra. Họ nói tăng Việt Cộng tới đầu phi đạo rồi, lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong bảo họ về Ðà Lạt. Tôi chưa tin vì tình hình còn yên lặng quá, chỉ thấy phe ta ùa ra ngày càng đông mà chả nghe tiếng “xe tăng xe tiết” gì cả.

Ðang do dự, bỗng Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn từ bên kia máy PRC25 rủ rê tôi,

-- “Mầy đến đâu rồi, đến quận ăn cơm rồi tử thủ với tao.”

Tôi trả lời nửa đùa nửa thật,

-- “Mầy lạnh cẳng rồi hay sao rủ tao, mầy hãy chuẩn bị heo gà nhiều đi, Cậu sẽ đến ngay.”

Thế là tôi lái xe hướng về quận Di Linh (Di Linh nằm khoảng giữa Bảo Lộc và Ðà Lạt). Xe đang phon phon trên đường nhựa, bỗng lệnh của Đại Tá Nghìn từ trực thăng bảo tôi,

-- “Sao bây giờ anh mới mở máy?”

Tôi chưa kịp trả lời, Đại Tá ra lệnh tiếp,

-- “Anh phải tập trung các đơn vị của mình vào phòng thủ với quận Di Linh.”

Nhận được lệnh trên, tôi cố lái xe nhanh hơn (thua Cao Bồi một xíu thôi, nếu chậm các xe lính phía trước vọt hết sao!), qua mặt một số xe chở lính đằng trước rồi thắng gấp giữa đường và xuống xe bắt đầu chận các xe chở lính lại.

Chiếc xe đầu tiên tôi chận lại là lính thuộc Tiểu Khu Lâm Ðồng. Họ thấy tôi mang hia đội mão trông oai vệ chứ chưa biết tôi là ai nên còn cự nự chưa muốn xuống xe; viện cớ lệnh Trung Tá Phong bảo họ về Ðà Lạt.
Nói vậy chứ cuối cùng thấy gương mặt tôi có chút cô hồn vương vấn nên họ đành xuống (không phải hiền lành như nai tơ khi gặp các cô đâu). Chỉ có lính Quảng Ðức khi thấy tôi ra hiệu tự động xuống xe. Bố trí quân tạm xong, tôi và Huynh từ từ vào gặp Quận Trưởng Ấn. Vừa đi vừa mừng thầm “trong hoàn cảnh này hai thằng cùng khóa, chiến đấu bên nhau càng vững tâm hơn.” Tại quận, tình cờ gặp Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong rời Lâm Ðồng đến đây từ bao giờ. Tôi chỉ nghe tên ông thôi, chứ đây là lần đầu tiên được gặp. Tôi chào và trình Trung Tá Phong về ý định phòng thủ của Ðại Tá Nghìn. Vừa nghe xong ông hỏi tôi:

- Anh đảm nhận chức vụ gì bên Tiểu Khu Quảng Ðức?

- Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân TK/QÐ, tôi trả lời.

- Anh có quân đây không?

- Dạ có, đang bố trí ngòai kia, tôi lại đáp.

- Tỉnh trưởng anh đang ở đâu? Ông lại hỏi tiếp.

- Đang bay trên vùng để hướng dẫn các cánh quân còn kẹt trong rừng, tôi lại tiếp như vậy.

Không cần suy nghĩ Trung Tá Vương Ðăng Phong nói,

“Tình hình như thế này, tỉnh trưởng anh có máy bay, có chuyện gì ông ta bay đi, còn tôi với anh... thì sao?”

Không cần tôi có ý kiến, ông tiếp,

-- “Vậy anh muốn ở lại thì ở, tôi đi.”

Nói xong, ông ra lệnh Thiếu Tá Nguyễn Văn Ấn nhổ ăng ten dù (antenna 292) và chuẩn bị di chuyển. Trầm ngâm một lát, tôi báo cáo Đại Tá Nghìn quyết định của Trung Tá Phong như vậy. Im lặng một hồi lâu, Đại Tá Nghìn nói,

-- “Thôi, ai sao mình vậy!!!”

Suy nghĩ một lúc không tìm ra kế hoạch nào khác, chúng tôi âm thầm rời quận không buồn nói câu nào từ giã Ấn.

-- “Cả đoàn quân ra sau bị kẹt hết rồi,”

tôi thầm nghĩ như vậy. Ðứng trước đàn em, thuộc cấp đang bố trí chờ lệnh, tôi chậm rãi nói trong nghẹn ngào,

-- “Thôi… các anh tìm mọi phương tiện… về Ðà Lạt.”

Trở lại Ðà Lạt

Tới cầu Ðại Ninh trời vừa xế bóng, thấy Trung Sĩ Vũ Nguyên Cường đang đứng xớ rớ cạnh hai chiếc xe thiết giáp V100 của Tiểu Khu Lâm Ðồng. Anh cho biết hai chiếc xe V100 được tăng cường giữ cầu Ðại Ninh mấy ngày nay và Trung Tá Tỉnh Trưởng Vương Ðăng Phong đã qua cầu rồi. Lúc bấy giờ, Đại Úy Ngô Xuân Diên, Yếu Khu Trưởng khu cầu Ðại Ninh, đứng đầu thành cầu chuyển lệnh trên, “Quân Quảng Ðức được qua cầu còn quân Lâm Ðồng chưa thấy địch đã bỏ chạy phải ở lại chiến đấu.” Dù không bị ràng buộc bởi lệnh trên nhưng chúng tôi quanh quẩn nơi đó nửa giờ sau mới bắt đầu về Ðà Lạt.

Ðã lâu lắm rồi tôi mới trở lại xứ sương mù Ðà Lạt; quanh năm thời tiết mát lạnh rất thích hợp với bao loài hoa quý kể cả loài “Hoa Biết Yêu.” Ðà Lạt, nơi có Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam thân yêu đã từng một thời nổi tiếng đẹp và lớn nhất Ðông Nam Á (trước năm 1975). Ở đó tôi được mặc vào người bộ đồ lính đầu đời, được huấn luyện từ lúc chập chững bước vào đời binh nghiệp đầy gian lao nguy hiểm, bỏ lại sau nếp sống thư sinh nơi Sài Gòn hoa lệ, và ở đó tôi vào đời với một niềm tự hào mãnh liệt, một tương lai huy hoàng đầy hứa hẹn của trai thời loạn như ta từng học:

“Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Ðông, Ðông tĩnh; lên Đoài, Đoài yên.”

Ðà Lạt chiều Xuân trời man mác lạnh, thỉnh thoảng từng cơn gió nhẹ thổi qua làm bay bay những mái tóc bồng bềnh của các nàng kiều nữ cao nguyên quanh năm môi thắm má hồng, đang rảo bước trên các con đường đồi thoai thoải quanh co. Hình ảnh gợi tình đó hôm nay hơi vắng.

Chung quanh cái hồ nổi tiếng thơ mộng ngàn đời mang tên nữ sĩ tài hoa đầy nhựa sống, Hồ Xuân Hương, hằng ngày thường đầy ắp nam thanh nữ tú, những cặp tình nhân, những đôi uyên ương vừa mới kết tóc se duyên, đến đây tâm sự, tay trong tay, cặp từng cặp, dìu nhau theo nhịp đập con tim, nay vắng vẻ làm sao!!! Hàng hoa Anh Đào tươi mát rộ nở trong khí tiết xuân đang khoe sắc trắng hồng nằm ngạo nghễ bên lề đường từ rạp Hòa Bình đến bờ Hồ, chắc không mấy ai còn đủ tinh thần chiêm ngưỡng hay ca tụng vẻ đẹp kiêu sa đài các của nó.

Rất tiếc, thời gian và hoàn cảnh không cho phép đến thăm lại những thắng cảnh tươi mát bốn mùa như Thung Lũng Tình Yêu, Hồ Than Thở, Thác Prenne, Thác Cam Ly, Trại Hầm, Chùa Sư Nữ, vân vân và vân vân; những nơi đã từng có ít nhiều vương vấn bao kỷ niệm vui buồn khắc sâu trong tiềm thức ở tuổi đôi mươi, lúc còn trong quân trường Ðà Lạt, nhất là vào những dịp dạo “phố Hoa Ðào” cuối tuần. Còn nhớ lúc bấy giờ, có rất nhiều người đẹp từ các nơi, thỉnh thoảng trong đám xuân xanh ấy, cũng có mấy Nàng trông khá quen, thuộc dạng Hoa Khôi Xứ Mắm Phan Thành (như H.M, H.U, H.L., v.v...) vào thăm các Chàng Võ Bị Hào Hoa. Những đoạn phim tình cảm tuy ngắn ngủi nhưng mang nhiều kỷ niệm xa xưa đó hiện ra trong tiềm thức tôi không lâu, rồi tan biến nhường chỗ cho nỗi âu lo của những ngày hiểm nguy sắp đến, như cụ Nguyễn Du đã viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

Thật vậy, Ðà Lạt đang ngột ngạt trong không khí chiến tranh, những người giàu có và các sinh viên từ xa đến học hầu như di tản gần hết, phố xá mở cửa lưa thưa, người bộ hành vội vã trên đường về, thỉnh thoảng đó đây những chiếc xe đầy lính lui tới tuần tra trên đường phố trong thế sẵn sàng.
Qua một đêm ngon giấc trên nệm ấm giường êm tại khách sạn La Palace bên cạnh bờ hồ Xuân Hương; sáng hôm sau điểm tâm ở cà phê Tùng xong, tôi bay về Lâm Ðồng hướng dẫn các cánh quân còn trong rừng ra.
Bầu trời Lâm Ðồng hôm nay rất quang đãng, tầm nhìn rất tốt. Từ trực thăng nhìn xuống thấy đoàn người đang hối hả vừa đi vừa chạy trên đường hướng về Ðà Lạt. Trong quận Di Linh loáng thoáng một ít bóng người ăn mặc hỗn tạp ra vào. Trực thăng xuống thấp hơn các bóng người này trốn mất. Ðoán chắc đó không phải là quân ta mà cũng không phải là dân hôi của, thành ra khi liên lạc được với các cánh quân bạn, tôi hướng dẫn họ đi về hướng cầu Ðại Ninh an toàn hơn.

Khi biết tôi đang bay trong vùng Bảo Lộc, từ cánh quân dưới đất Thiếu Tá Nguyễn Khắc Hiếu (Khóa 19 Đà Lạt) cho biết đã bị sốt rét mấy ngày nay không thể tiếp tục đi được, yêu cầu tôi bốc dùm anh, đồng thời cho xin mấy cục “pin PRC 25.” Anh cho biết đã giao quyền chỉ huy lại cho Ðại Úy Tích, sĩ quan phụ tá của anh rồi. Quan sát một lúc thấy bãi đáp khá trống trải, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Huỳnh Chí Thành hay Trần Hồi, Phi Đoàn 215 Trực Thăng) đáp cạnh quả đạn khói màu vừa đánh dấu bãi đáp. Thiếu Tá Hiếu vào xong, trực thăng cất cánh lên ngay lại bị mấy loạt súng AK47 bắn theo tới tấp. Lại một phen lên ruột vì địch bắn ta mà ta không thấy hướng địch. Nếu bắn lại không trúng địch mà trúng quân bạn lại càng ân hận, vì vậy phi cơ chỉ tiếp tục bay. Bình phi xong trực thăng bay thêm nhiều vòng nữa hầu tìm thêm có cánh quân nào cần giúp không, nhưng vì Thiếu Tá Hiếu quá mệt chúng tôi phải rời vùng trở về Ðà Lạt (anh Hiếu qua Mỹ dịp tháng 4/75 tại Nam Cali và chết vì bệnh năm 2003. Một niên đệ thân tình ra đi!) Và ngày hôm sau Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu chúng tôi đi đường bộ về Nha Trang.
Sở dĩ phải quan sát kỹ quận Di Linh như đã nói trên vì tôi biết hôm qua, sau khi quận này bỏ ngỏ, Tiểu Đoàn 202 ÐPQ/Tuyên Ðức đóng tại cầu Ðại Ninh (Di Linh cách cầu Đại Ninh chừng 60 cây số) được lệnh tái chiếm quận này mà không biết giờ đó đã vào được chưa!

Sau này mới biết địch đã chiếm quận rồi như đã quan sát thấy, vì chính Trung Úy Nguyễn Thắng Lợi (Sĩ Quan Quân Số kiêm xử lý thường vụ Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 202 ÐPQ) xác nhận. Anh cũng cho biết thêm, trên đường tiến đến quận Di Linh, tiểu đoàn anh đánh bắt được chiếc “xe be” trang bị súng 57 ly không giật, giả làm tăng T54 của địch để hù ta; nhưng tiểu đoàn chưa chiếm lại được quận; một phần vì các nút chận của địch khá mạnh, một phần vì áp lực tâm lý rút lui của quân bạn lúc đó. Xin nói thêm, Tiểu Đoàn 202ÐPQ/TÐ là một đơn vị đánh giặc nổi tiếng ở Quân Khu II, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Xuân Phong. Anh Phong là một vị chỉ huy dũng cảm và lanh lợi, đã từng hai lần vượt ngục nhưng không thoát nổi để rồi chịu nhiều trận đòn thù trối chết. Tôi từng ở tù chung với anh tại trại giam huyện Tân Kỳ tỉnh Nghệ Tĩnh vào thập niên 1980. Lúc ở tù anh thuộc thành phần cứng đầu, làm việc tà tà cho qua ngày mà mình thường dùng chữ “cà nhỏng chống xâm lăng” chứ không phải thuộc loại “lao động là vinh quang” như Việt Cộng dụ khị.

Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân

Lâm Ðồng mất không chỉ làm cho lực lượng TK/QÐ chới với mà còn làm cho Liên Ðoàn 24 BÐQ một phen xính xáng. Xin mở dấu ngoặc ở đây để giới thiệu sơ qua về LÐ24 BÐQ. Ðứng đầu tàu là Trung Tá Hồng Kim Thanh, Liên Đoàn Phó là Trung Tá Ðào Ðức Châu. Liên đoàn gồm ba tiểu đoàn sau:
    - Thiếu Tá Trần Ðình Ðàng (Khóa 15 Ðà Lạt) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 63 (TÐ63BÐQ).
    - Thiếu Tá Hồng Ðình Mẫn (Khóa 2 Ðồng Ðế Nha Trang) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81.
    - Thiếu Tá Vương Mộng Long (Khóa 20 Ðà Lạt), Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 (TÐ82BÐQ).
    - Pháo Đội PB 105 ly của Đại Úy Giang yểm trợ trực tiếp cho Liên Đoàn này.

Như phần trên đã nói, LÐ24 BÐQ được tăng cường cho TK/QÐ, nhiệm vụ chính bảo vệ quận Kiến Ðức. Sau khi rời phòng họp TK/QÐ, Trung Tá Hồng Kim Thanh về lệnh cho các đơn vị trực thuộc thi hành kế hoạch như đã định (không phải TK/QÐ bỏ quên LĐ24BÐQ).
Khi Liên Đoàn còn ở điểm vượt sông Kinh Ðà, quân ta vô ý để lựu đạn nổ khiến Trung Tá Liên Đoàn Trưởng và Trung Úy Minh, Sĩ Quan Truyền Tin LÐ và vài binh sĩ bị thương phải chờ tải thương. Ngày hôm sau Thiếu Tá Hồng Ðình Mẫn cũng được rời Liên Đoàn vì cơn bệnh sốt rét cấp tính và hai ngày sau nữa Trung Tá Ðào Ðức Châu cáo bệnh cũng được bốc đi.

Liên Đoàn như rắn mất đầu cụt đuôi (chữ của Thiếu Tá Trần Ðình Ðàng xác nhận tình trạng LÐ lúc đó). Tuy là khóa đàn em, kém thâm niên cấp bậc và quân vụ so với các vị tiểu đoàn trưởng khác nhưng nhờ tài chỉ huy, lanh lợi, gan dạ chịu đánh đấm, Thiếu Tá Vương Mộng Long được cấp trên chỉ định chỉ huy liên đoàn này từ lúc đó. Vì phải di chuyển theo phương giác từ lại xuyên qua rừng thông rậm rạp và chờ tải thương nhiều lần nên khi ra tới Bảo Lộc thấy cờ Việt Cộng đã “cấm dùi” từ hồi nào, liên đoàn đành phải chuyển hướng về Ðức Trọng, rồi Thiện Giáo (Bình Thuận).

Phải lòng vòng trong rừng mất nhiều ngày, quần áo tả tơi, lương thực khô cạn. Mãi đến ngày 5 tháng 4 năm 1975 từ chiếc L19 của Quân Đoàn III, Trung Tá BÐQ Nguyễn Khoa Lộc (Khóa 18 Ðà Lạt) mới liên lạc được với LÐ 24 BÐQ và khẩn cấp xin trực thăng bốc đơn vị này ra. Sau mấy ngày dưỡng thương bình phục, Trung Tá Hồng Kim Thanh trở lại nhiệm vụ lần lượt trực thăng vận liên đoàn về Phan Thiết an toàn.

Tiểu Đoàn 82 BÐQ của Thiếu Tá Vương Mộng Long được xem như đơn vị chủ lực và cũng là đứa con cưng của liên đoàn được không vận ra trước tiên tại phi trường Phan Thiết, lấy xăng rồi tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Long Khánh trong ngày 6/4/75. Tại đây tiểu đoàn này đã đánh một trận oai hùng với Việt Cộng mà chúng ta biết được lúc còn trong tù hay hải ngoại sau này. Nhưng với tình hình đất nước lúc bấy giờ, dù gan dạ và tài giỏi đến đâu cũng khó lòng chận đứng được sức tiến của Cộng Quân. Ðịch quân bị dội lại vì ăn phải hai quả bom tinh khôn (C.P.U) bất đắc dĩ của ta mà thôi.

Vì không đủ trực thăng bốc liên đoàn ra cùng ngày nên hai tiểu đoàn 63 và 81 được chuyển ra sau bảo vệ phi trường Phan Thiết. Sau đó không chịu nổi áp lực địch, hai tiểu đoàn này rút ra hướng biển để được trực thăng vận về Hàm Tân. Dù không được đi suông sẻ như Tiểu Khu Quảng Đức, Liên Đoàn 24BÐQ phải trải qua nhiều ngày đói rách tả tơi, băng rừng vượt suối hiểm nguy, song vẫn duy trì được kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao. Chính Tiểu Đoàn 82 BĐQ đã chứng minh điều đó qua trận đánh với Việt Cộng tại Long Khánh trong những ngày cuối cùng. Họ chỉ buông súng đầu hàng vào giờ chót vì lệnh thượng cấp. Thật đáng ca ngợi thay!

Nhân đây tôi xin được giới thiệu về Thiếu Tá BÐQ Vương Mộng Long, cựu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 BÐQ. Năm 1972-1973, tôi thường hành quân với tư cách Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh cạnh Bộ Chỉ Huy BÐQ/QKII dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Duy Tất, lúc đó anh Vương Mộng Long là Trưởng Phòng 2 của BÐQ Quân Khu II. Anh đã từng chỉ huy quân báo nhảy từng toán nhỏ vào sào huyệt địch, đôi lúc anh nhảy cùng với họ để làm gương và tìm những tin tức sốt dẻo. Ngoài trận Long Khánh nói trên, nếu ai đã từng ở Pleiku tháng chín năm 1974 chắc không quên mình đã từng xuống đường chào mừng Tiểu Đoàn 82 BÐQ của Thiếu Tá Vương Mộng Long về thành phố khao quân sau trận tử thủ căn cứ Pleime. Tiểu đoàn anh đã đánh tan Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt khi họ thí mạng cùi tấn công căn cứ này. Khi bị tù ngoài Bắc, với sự can đảm có thừa, anh đã hai lần vượt ngục trốn lâu cả tháng trời nhưng cuối cùng vẫn không vượt khỏi gông cùm Cộng Sản. Mỗi lần bị bắt lại đều được “đấm bóp” kỹ, bị “bề hội đồng” xém chết. Dở mũ xin chào lòng dũng cảm đầy gan dạ của anh, Thiếu Tá Vương Mộng Long, khóa 20 Trường Võ Bị Ðà Lạt, “Con Cọp Ðộc” của Biệt Ðộng Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ðạn khói pháo binh trị tăng

Nói về xe tăng địch, tôi xin trình bày một sự việc dù muộn màng nhưng mục đích không phải để khoe mình, còn nói để lấy kinh nghiệm thì trễ rồi không còn nữa.
Giữa tháng 12/1973 tại quận Kiến Ðức tỉnh Quảng Ðức (nay là Ðắc Nông), sau khi chiếm đồn Buprang địch thừa thắng xông lên, tăng T54 tiếp tục tiến chiếm đồn Bu-Bơng gần đó chừng hai cây số đường chim bay. Trung Úy Nguyễn Văn Năm (Bến Tre), Trung Đội Trưởng PB 105 ly tại đồn Bu Bơng dùng đạn nổ bắn trúng tăng địch nhưng nó vẫn lù lù tiến về anh; anh báo tôi như vậy. Từ Bộ Chỉ Huy Nhẹ Hành Quân của QÐII tại Tiểu Khu Quảng Đức, tôi cho lệnh anh nạp đạn khói vào bắn (cách xe địch khoảng hai cây số).

Thế rồi, quả đạn khói thứ nhất đi, một chiếc tăng địch bị khựng lại; quả đạn khói thứ hai đi, một chiếc tăng nữa đứng yên và các chiếc tăng còn lại đâm đầu chạy trốn vào rừng gần đó, đơn vị anh reo hò mừng rỡ. Khi nghe anh báo cáo về Trung Tâm Hành Quân đã hạ được hai xe tăng địch (lần đầu tiên Pháo Binh hạ xe tăng địch bằng đạn khói), chúng tôi rất vui mừng và thấy “cặp lon đại úy sắp lấp lánh trên cổ áo anh.”

Nhưng... tiếc thay, đơn vị bảo vệ trung đội PB của anh bị đánh te tua không đủ khả năng chống lại địch buộc anh phải rút, nếu không họ bỏ lại (pháo binh không trực tiếp chiến đấu một mình ngoài trường hợp bất khả kháng). Vì vậy anh đành ngậm ngùi nuối tiếc phá súng tháp tùng theo họ. Nửa giờ sau các anh không quân vào vùng lại báo cáo hạ được hai tăng địch!!! (trễ rồi anh bạn, nhưng dù sao cũng cám ơn anh đã xác nhận có tăng địch CHẾT tại trận).
Thoáng nghĩ của tôi khi cho bắn đạn khói lúc đó là vì trong đạn khói có chất lân tinh (phốt pho); khi đạn trúng xe chất lân tinh tỏa ra tứ hướng trúng da thịt người, cháy âm ỉ không chịu nổi hoặc nếu trúng đứt xích, xe sẽ không sử dụng được. Sách vở cả Mỹ lẫn Việt không có dạy đạn khói pháo binh hạ tăng địch. Tôi cho bắn đạn khói vì vài thoáng nghĩ nói trên, nào ngờ đạn khói lại hiệu quả như vậy. Rất tiếc lực lượng ta lúc bấy giờ không tái chiếm đồn Buprang nên không thể khai thác được hiệu quả thật sự của đạn khói như thế nào ngoài việc làm xe tăng địch không sử dụng được như trên.

Vì trận này quân ta tổn thất khá nặng (mất đồn Buprang) ngoại trừ pháo binh hạ được hai chiếc tăng địch nên thành tích của Trung Úy Nguyễn Văn Năm không được cấp trên lưu ý. Anh chỉ được thượng cấp cho đi du lịch Ðài Loan năm 1974 trong đoàn “Chiến Sĩ Xuất Sắc” qua sự giới thiệu của tôi.

Ðầu tháng 1/1974, trước mặt Trung Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Lực VNCH, tôi xác nhận “đạn khói pháo binh trị được xe tăng” nên sau đó Bộ Chỉ Huy Pháo Binh có ra văn thư về việc phải sử dụng đạn khói pháo binh bắn tăng địch, nhưng có lẽ văn thư này không được phổ biến rộng rãi cho toàn thể Quân Lực VNCH nên quân ta rất còn e sợ khi nghe có tăng địch xuất hiện. Ðã e sợ thì không còn tinh thần chiến đấu. Giới đá gà gọi những con gà mới thấy mặt đối phương đã bỏ chạy là gà rót. Thất bại từ tâm lý đó!!!

Về vùng cát trắng
Kẻ viết bài này xin được nói rõ hơn một chút về mình sau khi rời Đà Lạt. Chúng tôi đến Nha Trang trời vừa chạng vạng, đường xá tấp nập xe chạy, người đi, hầu hết là quân đội và dân chúng chạy giặc từ Cao Nguyên về hoặc từ vùng ngoài vào. Tôi lê la ra quán cơm Việt Nam nằm sát bờ biển, mục đích không phải để nhìn trăng “di chuyển qua các làn mây” (lúc nhỏ tôi tưởng như vậy) mà cũng không phải để ngắm dáng Chị Hằng phản chiếu dưới mặt nước hay nghe những tiếng sóng vỗ rì rào pha lẫn những tiếng rao “đậu hũ nóng hôn” của các cô bán tàu hũ về đêm, mà chỉ muốn cho tâm hồn bớt căng thẳng và kiếm chút gì bỏ bụng sau một ngày mệt mỏi. Tình cờ gặp hai người bạn cùng khóa năm xưa (Thiếu Tá Phạm Văn Trung, thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang và Thiếu Tá Huỳnh Văn Giai, Trưởng Phòng Tuyển Mộ Nhập Ngũ Khánh Hòa). Gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng nụ cười không trọn vẹn trên vành môi vì sự bi thảm của đất nước hiện tại. Như đàn chim sau khi đủ lông đủ cánh phải lìa tổ ấm tung bay khắp bốn phương trời, chúng tôi sau hai năm tròn dùi mài văn võ, phải rời mái trường mẹ thân yêu cuối năm 1963 về phục vụ bốn vùng chiến thuật, nay tình cờ hội ngộ trong hoàn cảnh éo le này. Tuy nhiên dù hoàn cảnh nào chúng tôi cũng không quên nhắc nhở những kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan, nay thằng nào sống chết ra sao và cũng không quên mời nhau “năm mươi phần trăm em ơi” để vơi đi phần nào nỗi lo hiện tại và cũng làm tăng thêm niềm vui của sư sống. Đang thao thao bất tuyệt những chuyện đánh nhau sống chết, bỗng Phạm Văn Trung hỏi tôi,

-- “Vợ con mầy đâu rồi, sẵn sàng sáng mai tao gửi máy bay về Sài Gòn cho sớm?”

Trong hoàn cảnh này được người bạn nhã ý vậy thật là quá quý. Riêng vợ chồng Giai đã biết gia đình tôi nhiều trong những lần đi học hay nghỉ mát ở Nha Trang rồi, còn Trung chỉ mới gặp lần đầu nên tôi cám ơn và giải thích lòng vòng một tí cho anh biết.

-- “Cám ơn hảo ý của mầy, vợ tao đang làm tại Tổng Cục Du Lịch ở Sài Gòn. Riêng hai đứa con vừa được cậu nó đưa lên thăm tao. Thấy tình hình không yên, tao gửi tụi nó theo trực thăng của cơ quan DAO (cố vấn tiểu khu) về nhà ba má Trần Thiện Thanh ở Bảo Lộc để nhờ hai ông bà lo xe cho chúng về Sài Gòn cách nay gần mươi ngày, nếu trễ tụi nó bị lội hành quân với tao rồi.”

Hôm nay tình hình quân sự tại đèo Khánh Dương hơi bi quan, quân Dù đóng tại đèo Khánh Dương có vẻ muốn nhúc nhích. Dù trời chưa khuya nhưng chúng tôi vẫn ý thức được “vui chơi không quên bổn phận.” Khoảng chín giờ chúng tôi vội chia tay nhau sớm về lo việc mình. Riêng phần tôi trưa hôm sau vào trình diện Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Quân Ðoàn II (trong Nha Trang) nhận nhiệm vụ mới. Hôm ấy, trước khi vào trình diện BCH/PB/QÐII, Đại Tá Nghìn dặn tôi, “Anh vào xem thấy nhận được thì nên nhận, ngược lại thì ra đây bay trở lại Ðà Lạt với tôi nhận nhiệm vụ mới, tôi chỉ chờ anh một tiếng đồng hồ thôi.”

Trình diện đúng giờ hẹn, Đại Tá Phan Ðình Tùng, Chỉ Huy Phó Pháo Binh QLVNCH và Trung Tá Phạm Hữu Chương rất vui vẻ đề nghị tôi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 69PB thay thế Trung Tá Chương (tôi từng làm phó cho ông tại tiểu đoàn này năm 1972). Trung tá Chương đưa tôi đi quan sát hậu trạm tạm thời của tiểu đoàn 69PB trú trong sân bay Nha Trang. Trên đường đi, Trung Tá Chương cũng khuyến khích tôi, “Biết khả năng và thâm niên cấp bậc của anh nên đại tá chỉ định thẳng anh, đây là cơ hội bằng vàng hiếm có để bắt cái lon trung tá chứ binh chủng mình khó lên lắm.” Nghe hai tiếng trung tá cũng ham nhưng mà… qua nửa giờ đồng hồ gọi là “thăm lính cho biết sự tình” nhận thấy tiểu đoàn di tản từ Pleiku về đây có vẻ bi thảm quá, súng ống chưa trang bị kịp. Nếu tôi chấp thuận phải đem đơn vị vào căn cứ Ðồng Bà Thìn (giữa đường Nha Trang-Cam Ranh) huấn luyện, trang bị lại. Lâu quá!

Nhận thấy nhiệm vụ quá nặng nề khó lòng thực hiện được trong hòan cảnh bi đát này, tôi từ chối. Ra đến nơi hẹn, Đại Tá Nghìn chờ không được đã đi Đà Lạt rồi; thấy trễ tôi (tài xế và tôi) nghỉ qua đêm chờ sáng mai đi Ðà Lạt.

Sáng hôm sau, trên đường rời Nha Trang, người và xe cộ hỗn độn chật ních, hầu như không còn trật tự lưu thông nữa. Chúng tôi lách đi rất khó khăn mới tới được Phan Rang. Gặp bà vợ Trần Công Triệt đang lăng xăng với năm đứa con dại muốn tìm cách vào phi trường về Sài Gòn. Riêng Đại Úy Triệt đang chỉ huy đại đội trấn thủ trên đập Đa Nhim. Tôi đưa sáu mẹ con bà Triệt (đầy xe “jeep” tám người) vào phi trường và được Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt (Khóa 18 Đà Lạt) và Thiếu Tá Trương Khương (Khóa 19 Đà Lạt) là Không Đoàn Trưởng và Không Đoàn Phó phòng thủ đưa lên phi cơ về Sàì Gòn mấy phút sau đó. Phần tôi tiếp tục hướng về Đà Lạt. Vừa qua khỏi đèo Sông Pha, bị đoàn xe từ Ðà Lạt đổ xuống không thể nào tiếp tục được. Họ cho biết Đà Lạt đã bỏ ngỏ. Tôi đành quay lại phi trường Phan Rang (2/4/75?). Tối đó quân Dù đã nhớm khỏi đèo Khánh Dương và Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn bắt đầu rút. Tướng Phú và Đại Tá Lý Bá Phẩm (Tỉnh Trưởng Nha Trang cũng có mặt tại phi trường Phan Rang đêm đó). Thấy tôi ở đó vài ngày chẳng có nhiệm vụ gì, Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt (bạn cùng Khóa 18 Đà Lạt) và Thiếu Tá Trương Khương giúp tôi về Sài Gòn. Tôi trình diện Bộ Chỉ Huy Pháo Binh QLVNCH và nhận lệnh tăng cường cho PB Quân Đoàn III phòng thủ tại Long Thành cho đến ngày mất nước rồi khăn gói đi tù từ Nam ra Bắc. Sang Mỹ theo diện “Ho Lao” (H.O.) năm 1991.

Kết luận

Ðó là một số hiểu biết trong phạm vi trách nhiệm hạn hẹp của tôi tại một vùng Cao Nguyên hẻo lánh trong giai đoạn đen tối nhục nhã của lịch sử nước nhà. Cuộc chiến quân sự đã qua dù kết thúc không theo chiều hướng mong đợi của ta. Ta không thể hoàn toàn trách Mỹ vì họ bỏ rơi đồng minh; mà không khe khắt chính mình; đặc biệt những người từng nắm chức vụ chỉ huy cao trước ngày có Hiệp Định Paris 1973. Ông bà ta từng nói, “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.” (Trách mình trước khi trách người).

Cuộc chiến đã qua, những đau thương dân tộc từ đó vẫn còn tồn tại. Hình ảnh của những người cùng một chiến tuyến, thượng cấp, thuộc cấp, bạn bè phơi thây nơi trận địa, những người dân vô tội nằm chết đó đây, những người chết do bị hành hạ đói khát trong lao tù Cộng Sản, trong rừng sâu hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do chưa phai mờ trong trí tôi. Có những người không chỉ chết một lần. Họ đã hy sinh để cho quê hương Việt Nam Tự Do, Dân Chủ, Hạnh Phúc, Phú Cường. Là Người Việt Quốc Gia, chúng ta không thể quên ơn Họ. Chúng ta hãy cùng thắp nén hương lòng nhớ đến Họ và cầu nguyện cho linh hồn Họ về nơi Họ muốn. Chúng ta cũng không quên ơn những “Quân, Cán, Chính” đã hy sinh đời trai trẻ của mình và đặc biệt không quên các Anh, Chú, Bác thương bệnh binh đang sống đói khổ nhục nhã nơi quê nhà, nơi vùng kinh tế mới xa xôi hẻo lánh nào đó.

Houston,Texas, Xuân 2005

TRẦN VĂN BƯỜNG
__________

LTS: Tác giả Trần Văn Bường sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận, cựu học sinh Trung Học Phan Bội Châu, Phan Thiết:
--Tốt nghiệp khóa 18 Sĩ Quan, trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và trường Pháo Binh Dục Mỹ,
--Ra trường phục vụ ngành Pháo Binh tại Sư Đoàn 9 Bộ Binh,
-- Vinh thăng cấp bậc đại úy từ tháng 1/1969,
--Từ tháng 11/71 – 8/72: Pháo đội trưởng thuộc Tiểu Đoàn 233 PB kiêm Sĩ Quan Liên Lạc tại Tiểu Khu Ninh Thuận,
--Tháng 7/72 vinh thăng đặc cách Thiếu tá tại Mặt Trận Chu Pao (Pleiku),
--Từ tháng 8/72 – 11/73: Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh tại Biển Hồ (Pleiku),
--Tháng 11/73 – 3/75: Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân tại Tiểu Khu Quảng Đức.
Sau tháng 5-1975, bị Việt Cộng đày đọa nhiều năm tù, trong các trại giam từ Nam ra Bắc. Năm 1991 tới Mỹ qua diện H.O. và là hội trưởng Hội Thân Hữu Bình Thuận Hải Ngoại tại Houston (Texas) với một LÝ TƯỞNG CHỐNG CỘNG sắt đá.

http://tvvn.org/tvvn/index.php?categoryid=67&p2_articleid=310

 

 

===============================

 

Quả đạn đại bác 130 ly và chiếc hố cá nhân
- Nguyễn Trãi
https://youtu.be/zYVH8n-SyuU


 







Quả Đạn Đại Bác 130 ly của Địch và Chiếc Hố Cá Nhân




Nguyễn Trãi


Quốc Lộ 14 nối liền thành phố Pleiku đi ngang qua Kontum và cuối cùng là Tân Cảnh thuộc quân Dakto. Từ Tân Cảnh có một ngả ba, một hướng đi về Quận Dakto, một hướng về căn cứ Benhet, căn cứ của lực lượng Biệt Động Quân Biên Phòng trú đóng ngay sát ngả ba biên giới Việt – Miên – Lào.

Con đường từ ngả ba Quốc Lộ 14 nối liền với căn cứ Benhet không còn là con đường trải nhựa nữa, mà là con đường đất lẫn đá gồ ghề dằn sốc, chiều ngang nhỏ hẹp chỉ vừa đủ cho hai xe chạy ngược chiều tránh nhau khó khăn lắm. Nó chạy ngang qua Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh, trực thuộc Sư Đoàn 22, đang có nhiệm vụ hành quân, an ninh lãnh thổ, tiếp đến là căn cứ Phượng Hoàng, một căn cứ không lớn lắm, nhưng có một sân bay đủ để máy bay C-130 đáp xuống tiếp tế lương thực và quân trang vũ khí cho cả vùng. Con đường được tiếp nối đến căn cứ Hỏa Lực Dakmot và sau cùng là căn cứ Benhet.

Căn cứ Dakmot nằm ngay trên một đỉnh đồi nhỏ, vì diện tích ngọn đồi hẹp cho nên buộc lòng phải để con đường chạy ngang chính giữa căn cứ và chia đôi pháo đội 105 ly của tôi ra làm hai, ba khẩu đại bác bên này đường và ba khẩu bên kia đường. Một cây cầu sắt bắc ngang con sông dưới chân đồi, hai bên bờ sông vách núi đá cao và dòng nước chảy siết vào mùa mưa.

 photo Artillery_arvn43_zpsxbjayni2.jpg

Tuy ngọn đồi nhỏ nhưng vách núi thẳng dốc, con đường phải quanh co hai vòng mới lên tới đỉnh đồi. Từng ba tháng một, các pháo đội trong Tiểu Đoàn của tôi phải luân phiên di chuyển từ Bồng Sơn, Tam Quan đến đây để tăng phái cho mặt trận phía bắc Kontum. Vì địa thế hiểm trở và vị trí súng trên cao cho nên tôi cũng yên tâm địch khó có thể tấn công bằng chiến thuật biển người. Bên ngoài vòng đai căn cứ hỏa lực Pháo Binh này còn có một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng giữ an ninh.

Cứ mỗi chu kỳ ba tháng tăng phái một lần và rời căn cứ sau khi có Pháo Đội khác đến thay thế, ba tháng luôn mãi bên núi rừng buồn hiu quạnh với những tác xạ bất kể đêm ngày khi có yêu cầu của quân bạn. Ở đây cũng đúng nghĩa của “tiền đồn biên giới” vì không còn bao xa nữa là vùng Tam Biên ngả ba biên giới Việt Miên Lào. Những buổi chiều xuống mau, mây phủ ngay trên đỉnh đầu lòng thấy thấm thía chi lạ cho nên chợt thấy:

“Núi sông ôm kín đời chinh chiến,
Tiền đồn heo hút nặng gánh vai,
Mây giăng trắng xóa mờ nhân ảo,
Se sắt bên lòng một chí trai….”


Đêm nay có những dấu hiệu khác thường hơn mọi đêm, các đơn vị Địa Phương Quân xung quanh Quận Dakto nhiều lần chạm địch, hay có nhiều lần báo cáo nghe tiếng xe tăng chạy trong vùng, nhiều hướng khác các điểm phục kích của lính Bộ Binh Trung Đoàn 42, cũng như của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù xin tác xạ nhiều lần, tôi đã liên tưởng tới một trận chiến ác liệt hơn.

Từ 10 giờ đêm Pháo Đội tôi đã phải tác xạ liên tục yểm trợ cho nhiều cánh quân một lúc, bao nhiêu lần đóng ở đây, tôi chưa bao giờ chứng kiến một sự yểm trợ liên tục nhiều giờ như thế này, các cánh quân đều chạm địch và cũng thấy lo âu khi nghe báo cáo có tiếng xe tank chạy. Chừng quá nửa khuya, được nghỉ ngơi một chút thì đã sang ngày mới. Một ngày lịch sử và cũng là ngày cuối cùng trên vùng đất này cho đến hôm nay.

Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 1972 tất cả các khẩu đại bác đều nhã đạn liên tục không phải do yêu cầu tác xạ của Bộ chỉ Huy Trung Đoàn 42 mà là của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 22. Vì tình hình chiến sự tại đây nên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Phương được di chuyển từ Quy Nhơn đến đặt ngay trong Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn 42 sát ngay tại thị trấn Tân Cảnh.

Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn bị tấn công trực tiếp mà trong đó có đơn vị cấp cao của tôi cũng bị tấn công theo, đó là Pháo Binh Sư Đoàn, thế thì làm sao mà tôi không dồn hết sức mình để yểm trợ cho được. Căn cứ Hoả Lực Dakmot của tôi nằm cách Tân Cảnh 11 cây số, bắn yểm trợ xem như mút tầm, xử dụng thuốc nạp hết cỡ, và mỗi viên đạn rời khỏi nòng súng là mỗi sự gầm thét tung trời chát chúa, cả khẩu đại bác nhấc tung lên rồi rớt xuống do sự giật lùi của nòng súng. Bất cứ giá nào và bất cứ yêu cầu nào tôi cũng cố gắng thỏa mãn, tôi trưng dụng tất cả mọi người lính trong Pháo Đội dù họ không có nhiệm vụ tác xạ vẫn phải vác đạn tháo đạn tiếp tế cho từng khẩu đội.

https://i1.wp.com/vnafmamn.com/Airborne/Airborne_ARVN17.jpg (hình)

Các đường khương tuyến của các khẩu đại bác chắc cũng đã mòn đi khá nhiều, vì toàn là xử dụng thuốc nạp 7 là loại thuốc nạp tối đa. Người lính khá mệt mỏi, cả căn cứ được bao trùm bầu khói súng màu trắng đục rất khó thở. Các cánh quân bộ binh bên ngoài lần lượt không liên lạc được qua các Tiền Sát Viên Pháo Binh mà tôi yểm trợ trực tiếp, tuy nhiên cũng nhờ sự liên lạc chung trong cùng một hệ thống truyền tin cho nên tôi vẫn còn biết được giờ này tình hình ra sao, ai đang ở đâu trong căn cứ, ai đã bung được ra khỏi căn hầm chỉ huy của Trung Tâm Hành Quân.

Tôi bắt được liên lạc với một người Sĩ Quan liên lạc Pháo Binh Nhảy Dù, và tôi được lệnh bắn yểm trợ cho Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù đang trong vùng, mà trước đây họ có súng đại bác riêng của họ, nhưng giờ thì không biết tại sao tôi phải quay qua yểm trợ cho Nhảy Dù, tôi đoán bên Sư Đoàn của tôi vì đã mất liên lạc cho nên phải dồn hỏa lực cho Nhảy Dù.

Người Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Nhảy Dù này sau khi nói chuyện trên hệ thống vô tuyến thì cả hai nhận ra nhau là cùng khóa 22 Pháo Binh. Sáu năm sau khi ra trường bây giờ mới được gặp lại trên hệ thống truyền tin, và nhất là đang trên trận chiến tối tăm mặt mày như thế này cho nên chỉ biết trong xúc động mừng mừng tủi tủi chưa kịp nói gì với nhau thì phải nhận điện văn xin tác xạ từ một Sĩ Quan Tiền Sát Viên (thông thường gọi là Sĩ Quan Đề Lô) Pháo Binh Nhảy Dù khác do anh ta điều hợp chuyển cho tôi.

Tiếng người Sĩ Quan Đề Lô oang oang trong máy với vẻ khẩn cấp hối hả lắm, tôi kiểm soát vị trí đứng của anh ta (tọa độ điểm đứng của Đề Lô), tôi thấy rất gần với tọa độ xin tác xạ, tuy nhiên vẫn còn có thể bắn được và tôi đang tin tưởng tọa độ xin tác xạ và tọa độ điểm đứng do anh ta chấm là chính xác.

Sau khi nhiều loạt đạn điều chỉnh, đến lúc bắn hiệu quả thì tôi cho ngưng tác xạ vì nó chỉ cách quân bạn không đầy 50 mét mà tầm sát hại của đạn 105 ly đã đủ để làm chết người. Tôi đích thân cầm máy liên lạc với Đề Lô:

-- “Tôi không thể bắn cho anh được nữa vì đã quá gần quân bạn”.

SI QUAN TIEN SAT PHAO BINH tai Pleiku (hình)

Người Sĩ Quan Đề Lô trả lời trực tiếp trên hệ thống vô tuyến một cách rất dõng dạc và cương quyết:

-- “Anh cứ bắn đi, bắn cho đến khi nào không còn nghe tôi nói nữa thì coi như tôi đã chết”.

Tôi tưởng chừng như là chuyện huyền thoại trong phim xi nê hay tôi nghe lầm; nhưng không, tôi đã thực sự xúc động và nghẹn lại trong vài giây! Tôi nhắm hai mắt và như trước mặt tôi cảnh tượng khủng khiếp sẽ phải xảy ra… Câu nói rất khí tiết và anh hùng của một Sĩ Quan Pháo Binh Nhảy Dù dù phải hy sinh để cứu đơn vị, và tôi tin chắc tình thế đang bị một đại đơn vị địch tràn ngập.

Tôi không còn một sự chọn lựa nào khác với những loạt đạn bắn hiệu quả này và hy vọng sẽ cứu được quân bạn; và cũng cầu xin thật an toàn cho sinh mạng của người Sĩ Quan Đề Lô này.

Sau khi chấm dứt tác xạ, đích thân tôi cầm máy gọi danh xưng truyền tin của người Đề Lô, nhưng gọi bao nhiêu lần cũng không thấy trả lời. Tôi lặng người đi trong đôi phút và biết rằng anh đã gục xuống bởi chính những quả đạn đại bác của tôi mà do chính anh yêu cầu. TÔI ĐÃ GIẾT BẠN TÔI MẤT RỒI…

Cũng vào giờ phút này thì tôi không còn liên lạc được với bất cứ Tiền Sát Viên nào trên vùng cũng như các Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực của Trung Đoàn và Sư Đoàn. Tôi cảm thấy bơ vơ như “rắn mất đầu”. Không biết trông cậy vào ai, đâu còn ai chỉ huy đơn vị tôi, ra lệnh cho tôi bắn yểm trợ nữa đây?

Trước đây chừng nửa giờ, tôi vẫn còn biết Vị Tư Lệnh Sư Đoàn Đại Tá Lê Đức Đạt, và cả vị Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn của tôi, Trung Tá Trịnh Lê Triễn, một ông thày của tôi từ ngày mới ra trường về Ban Mê Thuột trình diện ông ta năm 1966, hai người đã thoát được ra ngoài căn hầm chìm dưới đất được gọi là Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương Sư Đoàn trước khi chiếc xe tăng T54 của địch tràn vào.

Bây giờ im lặng và không còn bắn yểm trợ được nữa, tôi quay sang tần số của chiếc L19 đang quần quần trên bầu trời Tân Cảnh mà ở đây nhìn thấy được, họ báo động cho tôi biết những chiếc tank đang chỉa hướng về Căn cứ Phượng Hoàng và cũng cùng hướng với căn cứ của tôi. Tôi nghĩ đến những khẩu M-72 đã trang bị sẵn cho Pháo Đội từ lâu.

Trên trời có hai chiếc phản lực đang trút những loạt bom xuống trong căn cứ Tân Cảnh, tôi nhìn thấy rõ những viên đạn phòng không bắn theo khi chiếc máy bay ngóc đầu bay vút lên. Một cuộn khói đen bay theo với chiếc máy bay, dường như đã trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 thì phải? Cái không khí tang thương sẵn có càng thê lương hơn khi cuộn khói đen uốn lượn nhiều vòng trên bầu trời trước khi một cột lửa bùng phát kèm với tiếng nổ lớn, may mắn thay chiếc dù của người phi công cũng bung ra đúng lúc trước khi chiếc phi cơ rơi xuống đất.

Có một điều thông thường rằng bao giờ Cộng Quân tấn công một vị trí nào đó, chúng cũng pháo kích tới tấp vào căn cứ Pháo Binh trong tầm yểm trợ để khống chế làm vô hiệu hoá sự yểm trợ cho vị trí đang bị tấn công. Nhưng hôm nay rất đặc biệt, họ không pháo kích đơn vị Pháo Binh của tôi đang yểm trợ trực tiếp cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 trong suốt thời gian họ tấn công. Có lẽ họ khinh địch và cho rằng sự can thiệp của đơn vị tôi không làm chùn bước tiến chăng?

Nhưng không, bây giờ họ bắt đầu quay sang tôi, cái gai phải nhổ tiếp trước khi thống lãnh một vùng đất. Đại bác 130 ly có tầm xa 18 cây số, họ đặt bên triền núi trước mặt tôi nghe rất rõ tiếng đạn rời khỏi nòng súng ngay sau khi nhìn thấy tia lửa chớp lên tại vị trí đặt súng, có nghĩa rằng thấy tia lửa phát ra từ chỗ đặt súng trước khi nghe tiếng đạn depart vì tốc độ ánh sáng đi nhanh hơn tốc độ tiếng động.

Nhìn thấy rõ vị trí đặt súng của địch qua ánh chớp lửa, biết được hướng đặt súng của địch, dân Pháo binh chúng tôi đã xác định được tọa độ của địch nhờ phương giác và khoảng cách, thế mà đành bó tay chỉ núp dưới mỗi hố cá nhân và nhìn cho vui. Địch quân đã sử dụng đại pháo 130 ly là cố tình vượt lên tầm xa của đại bác 105 và 155 ly của Quân Lực VNCH. Súng của chúng tôi chỉ bắn tối đa 11 mét 100 thước mà thôi. Thấy mà không làm gì được nó, thế mới ức cành hông.

Chỉ trông cậy vào máy bay oanh kích vị trí đặt pháo, nhưng giờ không có máy bay nào nữa, tôi lo cho số phận của 150 mạng người giờ đây biết phải làm gì khi hỏa lực của mình ngoài tầm tay.

Trong vòng một giờ đồng hồ, căn cứ hỏa lực Dakmot của tôi trở thành một đống bầy nhầy hỗn độn, hai cây anten 292 bị gãy xuống hoàn toàn tê liệt không liên lạc được với ai, các căn hầm bị bung mái tung lên cao, Đài Tác Xạ là nơi xem như trung tâm hành quân của căn cứ cũng bị sập xuống trước sức công phá của đạn 130 ly. Tiền sát viên của địch chắc chắn áp rất sát căn cứ của tôi để quan sát và điều chỉnh mỗi loạt đạn rất chính xác nhất là mỗi khi thấy có người di chuyển trên mặt đất.

Cả một căn cứ thành bình địa, nhưng không có một pháo thủ nào bị thương hay bị chết vì nhờ tất cả đứng dưới hố cá nhân. Ai ai cũng phải đào một cái hố sâu tới cổ của mình khi đứng để còn tác xạ được khi địch tràn vào, chiều rộng vừa với mỗi một cơ thể đứng và xoay trở được, trên miệng hố một cây súng M16 và một cây M72 chống chiến xa là bửu bối tự vệ lúc bấy giờ.

Tôi len lỏi trong một đường giao thông hào từ căn cứ của tôi đến chỗ đặt bản doanh Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ. Đến nơi tôi mới biết ông Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương nơi cánh tay phải bởi một mảnh đạn pháo kích, người lính phụ tá còn đang băng vết thương. Đơn vị ông ta còn liên lạc được với Đại Đơn Vị của Ông là Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Căn cứ Benhet bằng máy PRC 25. Ở đây vẫn chưa có lệnh lạc gì cho ông.

Tôi trở về căn cứ của tôi, vì thấy tình hình im lặng và cũng do đã đói bụng vì đã quá 4 giờ chiều mà từ sáng tới giờ chưa có ăn gì; tôi nhảy lên khỏi chiếc hố cá nhân được đào gần Đài Tác Xạ sau lưng chiếc xe GMC (xe kéo súng) đậu tại đây để chạy bình điện cho máy truyền tin đánh morse.

Tôi lên khỏi miệng hố và cất tiếng gọi lớn “nhà bếp” đem lương khô lên ăn tạm. Trong khi anh Binh Nhất Nguyễn Văn An, nhân viên Hỏa Đầu Vụ, mang những bịch cơm sấy đến chỗ tôi thì tôi đã rời xa rồi vì phải đi kiểm soát lại các cộng sự phòng thủ và từng hố cá nhân của nhân viên.

Chỉ có bóng dáng hai người đang hiện diện trên mặt đất, tức thì đạn 130 ly bắt đầu rơi trở lại trên căn cứ. Từ khi nghe tiếng depart cho tới lúc đạn rơi trên mục tiêu cũng có thể ước chừng được bao nhiêu lâu nữa đạn sẽ nổ nên có đủ thời gian để nhảy xuống hố cá nhân khác, vì tôi đang xa lìa chỗ của tôi. Anh Binh Nhứt Nguyễn Văn An khi vừa đến ngay hố cá nhân của tôi thì nghe tiếng đạn của địch depart nên một phản xạ tự nhiên nhảy ngay xuống hố cá nhân của tôi dưới chân mình.

Loạt pháo kích vừa rồi cũng chỉ chừng 10 quả rớt lung tung trên mặt đất của căn cứ Hỏa Lực, tất cả pháo thủ vẫn còn đứng yên dưới hố, và tôi cũng hy vọng và tin tưởng tuyệt đối rằng không ai bị chuyện gì về nhân mạng. Theo kinh nghiệm chiến trận và theo trong nhà trường thì quả đạn pháo kích nổ trước miệng hố hay sau miệng hố theo chiều đạn đạo hình Parabol cũng sẽ tạt về phía trước và sẽ không làm chết hay bị thương người đứng dưới hố.

Tôi vội vàng trở lại hố cá nhân của tôi thì thấy máu thịt xương như bị bằm nhỏ giống như bằm tiết canh vịt, văng cả nắm lên vách thành xe GMC ngay đó (chiếc xe nằm ngay phía sau hố và là hướng tạt của lực theo chiều của đạn đạo). Tôi cúi xuống nhìn vào trong hố, chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy bằm nhỏ cùng với đôi giày trận còn nguyên. Anh Binh Nhứt An đã chết rồi và chết không toàn thây, tim tôi đập mạnh, xúc động vô vàn. Nguyễn Văn An đã vì tôi mà chết rồi, tôi ngẩn ngơ như người không hồn, tôi kêu “An ơi, An ơi!”

Lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái chết của người lính thuộc cấp thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới số? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố? Một sự tình cờ xảy ra hay có sự “sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó?”

Tránh pháo kích địch một cách hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố cá nhân. Đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng. Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống miệng hố. Điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi? Tim tôi đập mạnh hơn, tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN.

Tâm tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, không còn một thứ gì có thể nhận ra là con người, vì nó nát bấy như băm nhỏ, một viên đạn đại bác 130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viên đạn lệch đi, hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên đạn lệch qua chỗ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chỗ viên đạn rơi.

Nhiều yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã khiến tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy hố, nó chỉ còn rõ nhất đôi giày trận của Binh Nhứt Nguyễn Văn An.

Trong nỗi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì, từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn cứ chuyển cho tôi một cái lệnh. Hệ thống truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt; chỉ còn duy nhứt đơn vị bảo vệ căn cứ của tôi là chỗ dựa trong lúc này.

Lệnh của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn cho tôi “triệt thoái khỏi căn cứ đi về Trại BENHET ngay bây giờ”. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi, thực ra không phải nghĩ đến tôi mà nghĩ đến sáu khẩu đại bác cần được xử dụng.

Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn, mà chỉ thi hành lệnh qua trung gian là Biệt Động Quân Quân Khu 2. Pháo Binh của tôi mất tiêu hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc.

Tôi trở lại Pháo đội và ra lệnh “cấp tốc di chuyển khỏi nơi này”. Khi người Đề Lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được dù là bể bánh xe, hay bể két nước. Phải bỏ lại một khẩu vì không còn kịp.

Nếu cố gắng kéo cho được sáu khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân nhân trúng đạn pháo kích. Tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hỏa của khẩu bỏ lại và ném ra xa, giấu đi làm vô hiệu không cho địch quân xử dụng khẩu đại bác này khi họ tràn vào.

Tôi cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cúi xuống nhìn cái hố, nơi có xác bầy nhầy bị băm nhỏ như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích địch vẫn tiếp tục rơi. Tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và phóng hết ga về hướng căn cứ Ben Hét, một căn cứ đầu não của Biệt Động Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên. Đi về hướng BENHET tức là không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên Lào.

Khi đến BENHET xong, tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân, Căn cứ Trưởng, ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau. Khi mặt trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một toán lính gan dạ, lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại Căn cứ Dakmot để lấy khẩu đại bác bị bỏ lại. Vì tôi là người giấu khối kích hỏa, biết chỗ nên tôi phải đi, và tôi cùng đi thì binh sĩ sẽ lên tinh thần.

Địch quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về Ben Het. Ở đây pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch rú gầm xung quanh, cả Pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực xạ phải tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và nhân viên pháo đội tôi từ Benhet về Kon Tum.

Không phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt đến bốc chúng tôi, mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu đại bác nào để tử thủ KonTum. Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo kích bắt đầu rơi tới tấp, trực thăng không thể chờ mình được nên cũng liều mạng móc súng, đạn 105 ly và dụng cụ. Coi như chơi trò ú tim hên xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu.

Mỗi lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dễ trúng đạn pháo kích. Có tất cả 10 chuyến thì xong hết đơn vị. Chỉ khi nào trực thăng lên đến độ cao an toàn thì mới biết mình thoát nạn.

Thời điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây KonTum chỉ còn có cái lỏm, trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là có dàn chào đạn của VC ngay. Bọn nó ở đâu sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên không phải làm sao cả.

Những ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đơn vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được, mà chỉ đến bằng người, không thể mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo Chu Pao. Không biết do cái số còn hên có người thương nghĩ tới, đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23, ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn bị trực thăng vận về Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí. (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn 22).

Gia đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra sao trong hai tháng. Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một Sư Đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, cũng không còn biết tôi thì làm sao từ Nha Trang và Sài Gòn biết được.

Khi về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm nhà. Tất cả “gia tài” quân ngũ của tôi để lại tại căn cứ Đệ Đức Bồng Sơn, cũng bị tràn ngập. Căn cứ mất, tôi cũng mất hết tất cả, nơi này có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn của tôi cũng mất tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạt gì nên cứ mặc quần áo trận lên xe đò về Nha Trang.

Vừa ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nhatrang, một cô ngồì sát bên bảo:

-- “Anh anh, anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô, tuị nó chận và bắt anh đó”.

Cô nói tiếp:

-- “Để em đưa cái áo này cho anh mặc đỡ”.

Tôi nghĩ bụng “về tới đây còn gặp rắc rối”! Thế là tôi cũng phải nghe lời cô ấy. Vừa mặc xong, một bàn tay của một người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh cô gái cho mượn áo cầm tay tôi mà không cần hỏi han giáo đầu chi hết:

-- “Có phải anh vừa thoát một đại nạn lớn lắm phải không? Tôi thấy anh thoát chết là do một người nào đó khuất mặt họ cứu anh”.

Tôi thấy đúng ở chỗ thoát đại nạn, nhưng do ai cứu thì tôi không biết, tôi nghĩ thầm mà không trả lời.

Không lẽ ông này thấy tôi mặc đồ lính rồi đoán vậy? hay ông ta có bùa ngải gì đây? Tôi tự hỏi mà không dám thố lộ. Ông ta tiếp:

-- “Tôi nói thực cái mạng anh rất lớn, có một vong linh người Nữ theo cứu anh, chứ không thì anh không có ngồi đây.”

Tôi thấy đúng như trúng tim đen ở chỗ may mắn thoát chết, nhưng mà ai đã cứu mạng tôi thì không biết. Và rồi tôi lẩm bẩm:

-- “Cũng có thể lắm….”

Tôi về được tới nhà trong bất ngờ mà Ba Má tôi không hề biết. Mọi người đều khóc, khóc vì sung sướng tôi đã về bằng xương bằng thịt, mà có ông thầy bói nào nói với Ba tôi là “tôi không còn nữa, tan xác hết rồi“. Cái cảnh xum họp này coi thật là cảm động, cả nhà vui mừng hẳn lên. Tối hôm đó sau khi cơm nước xong Ba Má tôi kể chuyện cho tôi nghe trong lúc có các cô chú cũng có mặt cùng nghe. Ba tôi kể rằng: “năm nào nhà mình cũng mướn mấy ông ngoài Bình Định cứ vào sau mùa gặt thì đào đất ruộng xung quanh nhà dùng xe cút kít đẩy đất lên bồi đất xung quanh nhà cho cao để trồng cây ăn trái. Họ ăn ngủ tại nhà mình và trả lương khoán. Khi nào làm xong hết việc thì họ đi nơi khác, làm bảy ngày một tuần tối ngủ ở đây”, Ba tôi vừa nói vừa chỉ chỗ ngủ của ông ấy.

Có một buổi tối nọ sau khi ăn xong như thường lệ, cũng đang ngồi nói chuyện bâng quơ thì bỗng nhiên ông ta bụm hai bàn tay rồi vuốt mặt, thả tay ra thì thấy mặt đỏ rần như Trương Phi. Ông ta rung người lắc lắc đầu mấy cái rồi nhìn thẳng vào mặt Ba tôi mà nói:

-- “Sao nhà Ngươi đẻ ta ra mà bỏ, không ngó ngàng gì tới? Nhà ngươi có còn nhớ vào một buổi sáng chừng tám chín giờ đẻ ta ở gốc keo rồi chôn ở đó không? Nhà Ngươi không có đặt tên, không có bàn thờ cho ta. Nhưng giờ ta không còn ở đây nữa, ta ở trên cao lắm. Ta có hai người anh đang trong nguy hiểm, và chính ta đã cứu một người anh đó.”

Ba Má tôi rợn tóc gáy rất là sợ, vì sao ông này nói trúng y chang sự việc mà ông ta không là người trong gia đình, ông ta không thể nào biết được chuyện riêng tư này đã xảy ra mấy chục năm trước (chuyện cái bào thai bị sẩy).

Ba Má tôi nhớ lại, vào một buổi sáng, Má tôi đi tiểu ngoài hàng rào keo cách xa nhà chừng vài chục thước sát bờ ruộng; trong lúc bà mang thai ba tháng. Bà đã để lọt cái thai ra ngoài, coi như sẩy thai. Ba tôi vội lấy cái nồi gọ bằng đất, một loại nồi nhỏ chỉ nấu cơm cho một người ăn, bỏ cái thai trong đó và đem chôn cũng ngay gốc cây keo bà vừa tiểu.

Vì Ba tôi nghĩ rằng cái thai mới có ba tháng, còn quá nhỏ nên không quan tâm, và không hề quan tâm đến nữa. Đó là đứa em gái kế tôi, chuyện đã mấy chục năm, nay được một ông lạ hoắc kể ra, làm sao không làm kinh ngạc mọi người. Sau đó Ba Má tôi làm một cái “trang” để thờ đứa nhỏ mà không để chung với bàn thờ chính giữa nhà thờ Ông Bà và đặt tên cho nó.

Em Gái tôi nói lúc nào cũng theo sát tôi để phù hộ độ mạng khi xảy ra nguy hiểm. Tôi nghe kể lại cũng thấy rợn da gà và liên tưởng tới Căn Cứ Dakmot.

Tôi nhớ đến chuyện Binh Nhứt Nguyễn Văn An đã thế chỗ trong hố cá nhân của tôi để rồi thịt xương bị nổ tung và bằm như tiết canh. Tôi thở ra và nghĩ không ngờ vẫn còn có thế giới vô hình đâu đây. Tôi không biết phải làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng tôi. Và từ đó tôi rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN, cũng như tôi tin CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ.

Nguyễn Trãi

http://baotgm.com/index.php/van-hoa/82-truyen-ngan/2804


Nguồn:
https://hoiquanphidung.com/content.php?4301-S%E1%BB%91ng-Ch%E1%BA%BFt-C%C3%B3-S%E1%BB%91-Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i





 

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...