Bỏ Dấu Tiếng Việt - Trước và Sau 1975
Hồng Đức
Trên trang web của Trung Tâm Từ Điển Học Việt Nam1 thì tác giả của cái quy tắc này là Vũ Xuân Lương nhưng trong bài “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của quy tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái quy tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.
Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái quy tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.
Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Từ Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những quy luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái quy tắc này đã trở thành quy luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.
Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái quy tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có quy luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kỹ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả Dũng Vũ là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.
Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông Cao Xuân Hạo trong lãnh vực gọi là “Âm Vị Học” của tiếng Việt và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông Cao Xuân Hạo làm ra.
Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)
Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành quy luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kỳ kỳ thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.
Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “quy tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những quy tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá cao. Nhưng không phải vậy!
Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.
Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.
Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các quy tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản quy tắc này gồm năm quy tắc, xin tóm lược như sau:
Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Ví dụ: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).
Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Ví dụ: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”
Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Ví dụ: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”
Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”
Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Ví dụ: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”
Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc.
Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.
Áp đặt võ đoán
Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là 'cách bỏ dấu truyền thống'), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này.
Thế nên cách truyền thống viết: “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.
Để giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng quy luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái quy luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.
Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một quy ước xưa nay chứ chưa bao giờ là quy luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.
Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thêm thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có 'bán nguyên âm' thì phải có 'bán phụ âm' chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực Ngữ Âm đành có cảm giác bị khuất phục.
Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.
Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của quy tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”
Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm.
Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.
Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia.
Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”).
Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.
Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.”
Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp: “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”
Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.
Nói thêm cho rõ
Nếu để ý, ai cũng thấy ngay:
“ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn,
“â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn.
Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a];
và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â”
làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.
Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i” và “y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi.
Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi,
và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.
Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.
“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.
Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây.
“Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.
***Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:
Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình, chùa, miếu, am... ra xem mà chả hiểu gì mấy.
Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ.
Thế là họ tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó.
Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.
- Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm
Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6/Đệ Lực cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w].
Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành quy tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.
- Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người miền nam đã viết thành “quỉ ban” rồi!
Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được
“Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson),
“phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ
“thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề.
Còn dân mê đá bóng thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi bốn năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!
Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?
Vì cố gắng đưa ra quy tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các quy tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên.
Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm.
Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do quy ước cả.
Mà đã là quy ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý.
Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?
Hóa ra, nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng.
Tương tự, Nếu áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được.
Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm, nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội, và vì thế chính tả chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng.
Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó, nên các quy ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó, để mọi người có thể chấp nhận.
Vì thế, cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói -- “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.
Những nhược điểm trong nhận định của Vũ Xuân Lương lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.
Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn quy tắc giống y hệt với chính tả truyền thống.
Nhưng may mắn này lại không xảy ra với quy tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các quy tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta
Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết;
Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...
Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...
Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...
Chú ý: đương nhiên
phụ-âm-ghép
“qu” và “gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:
♦
quả, què, (kiệt) quệ, quý, quở (trách), quẹo, quái, quào, quới, quyệt...
♦
giả, gié, gió, giặt giũ.
Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:
♦
gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa,
không cần sửa giặt gịa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8
Quy tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ.
Quả thật quy tắc đặt dấu giọng của tiền nhân nó rất thống nhất, nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng, nay sau 1975, với cái "cải cách hiện đại" chữ viết, thì ta cứ phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.
Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa sau 1975 ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ võ đoán, nhưng lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ như hợp lý để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi.
Nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn - thay đổi mọi thứ - của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.
Hồng Đức
30/10/07
1
http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2
Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3
Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4
Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội
5
Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6
Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7
Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8
Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9
Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.
|
No comments:
Post a Comment