Tuesday, June 25, 2019

Mùa hè 1972, Nhẩy Dù tử chiến với Bắc quân tại mặt trận Quảng Trị



Mũ Đỏ Trương Văn Út (Útbạchlan)

Mày cứ viết ra vài trang nhật ký

Đọc nghe chơi coi thử khóc hay cười?

Tuổi học trò tuổi đời rồi tuổi lính

Tuổi vào tù, tuổi vượt biển ra khơi

(Trạch Gầm)


Chúng ta, những người sinh trưởng tại nước Việt, nhất là ở miền Nam dưới thể chế Việt Nam Cộng Hòa miền nắng ấm ban mai lan toả bao nỗi niềm tự do, hạnh phúc, an bình của những năm 1955 – 1960 và chắc hẳn như bao học sinh ngày ngày cắp sách đến trường khó có thể quên được bài Tôi Đi Học của Thanh Tịnh:

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính, lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học….” .
Và có tôi trong số những cậu học trò nhỏ đó nữa… Vâng, chính tôi với những ngày xưa còn bé cắp sách đến trường học hành, vui chơi cùng “đám học trò” ngây ngô bắt dế, đá gà, trèo cây hái trái, phá phách dễ thương trong xóm làng bình dị, mộc mạc có tiếng võng đu đưa kẻo kẹt và lời mẹ ru con à… ơi lẫn tiếng chim cu đồng gáy gọi nhau nghe buồn xao xác trong buổi trưa hè oi ả …! Cứ mỗi buổi tan trường, chào thầy cô phấn bảng trở về nhà, rồi lớn dần theo thời gian … tôi thường lang thang trên những con đường dưới hàng cây bóng mát, buông lời chọc ghẹo vẫn vơ với những nữ sinh trung học dung dăng tà áo dài phất phơ bay theo cơn gió nhẹ và đem về nhà nỗi tương tư dệt nên dăm đoá mộng diễm tuyệt lung linh và ôi…thời gian đầy hoa mộng đó vội qua mau như áng mây bay qua cửa sổ.! Khi bước chân vào Quân Ngũ phải hành quân miệt mài trên đoạn đường chiến binh, lặn lội đi suốt những con đường dài hun hút gió heo may…Những con đường mòn trên dãy núi rừng Trường Sơn bạt ngàn, lởn vởn những bóng ma trơi và thần chết chực chờ từng giây, từng phút để vung tay tử khí quơ mẽ lưỡi hái đoạt hồn chiến binh trong thâm lâm u ất…! Có lúc phải chặt cây choáng chằng chịt vừa đủ chỗ để chui qua dưới những bụi tre già dày đặc um tùm thăm thẳm mịt mùng… Đi ngày chưa tới, phải cố gắng đi đêm…Còn đâu những buổi ráng chiều nắng nhạt, nhàn du dung dăng dung dẽ thơ thẩn dưới những hàng dừa nghiêng ngã nên thơ “sao không thấy em lại để cùng anh thẩn thơ” đâu đấy thoảng nghe văng vẳng có tiếng sáo diều vi vu trên cánh đồng nội cùng với tiếng bao tiếng cười nói rộn rã của những cô học trò nghịch ngợm ở lứa tuổi trăng tròn. Bây giờ là gót giày Sault dẫm lên chông gai, bùn lầy ướt sũng nước đọng mùa mưa, khô héo quắc queo mùa nắng cháy bõng da người trên khắp nẽo đường hành quân lùng và diệt địch trong những “mật khu bất khả xâm phạm” của địch quân… Còn đâu những bước chân dệt đầy mộng đẹp lứa tuổi học trò, bỏ lại sau lưng những mùa hè có hàng cây phượng trổ hoa nở đỏ thắm rực rỡ với tiếng ve sầu kêu vang và trao vội cho nhau vài hàng lưu bút ngày xanh còn thơm mùi mực mới. Con đuờng gian khổ, hiểm nguy miệt mài bây giờ là con đường đi biết bao giờ đến đâu và về đâu, đi mãi rồi sẽ “nhỡ” một mai “rách áo“ hồn bay vào hư vô với tử thần chực chờ đón tiếp và “anh trở về hòm gỗ cài hoa”! Sống còn tồn tại hay từ giả cõi đời chỉ trong tít tắt cây kim gió đồng hồ quả thật là như loài phù du trên mặt nước vô tình!

Hạt lệ khô như gió nam Trường Sơn

Qua bao tuổi tác bấy nhiêu buồn…!

.Từ Trí Bửu tới Hạnh Hoa Thôn:

Quận châu thành Mai Lĩnh nằm ở phía Đông- Nam cổ thành, cách non một cây số về hướng Bắc là làng Trí Bửu nằm ngay chính Đông, lên nữa là Hạnh Hoa Thôn, nơi đây là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 325 của CSBV, các đơn vị trực thuộc của Sư này gồm cả chiến xa, hỏa tiễn phòng thủ dọc theo con đường Duy Tân…

Vào trung tuần tháng 5 năm 1972. Chúng tôi Lữ Đoàn II Nhẩy Dù (LĐ2ND) gồm có Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù (TĐ7ND), Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù (TĐ9ND),Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhẩy Dù (TĐ1PBND), Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù (ĐĐ2TSND) triệt xuất Kontum – Chiến Trường Tây Nguyên về hậu cứ, riêng Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù (TĐ11ND) sau trận “banh xà rong” bi hùng ở đồi Charlie vào ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê Văn Mễ Tiểu Đoàn Phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo trở về Sài Gòn tái bổ sung, chỉnh đốn quân sĩ và cũng được lệnh tăng cường ra Huế chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị, trong khi Lữ Đoàn I Nhẩy Dù (LĐIND) và Lữ Đoàn III Nhẩy Dù (LĐIIIND) còn đang vất vả bảo vệ An Lộc. Ra đến Huế, tất cả tập trung ở căn cứ Hiệp Khánh (Sally) chờ lệnh xuất phát. Trong thời gian chờ lệnh và cũng đang chờ Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù (TĐ5ND) triệt xuất An Lộc trả về LĐ II ND cho đủ “bộ tam sên 5-7-11”, các toán viễn thám TS2ND bung ra xa căn cứ thám sát thì phát hiện ngay địch quân đã nằm áp sát ở bên mình với bộ binh và thiết giáp tự khi nào rồi…!!! Quảng Trị đâu chưa thấy mà thấy chúng nó trước mặt, không chừng chưa kịp đánh nó thì chúng đã “tapi” đè bẹp mình rồi. Đại Tá Trần Quốc Lịch tính toán quyết định ngay là phải “Tiên Hạ Thủ Vi Cường” ra lệnh cho TĐ11ND thử lửa để phục thù rữa hận sau trận “rách áo” ở Charlie và quả thật không hổ danh “Song Kiếm Trấn Ải” lẫy lừng, TĐ11ND phối hợp với Pháo Binh Dù tác chiến chính xác đã chiến thắng vẻ vang trên đồi Trần Văn Lý với chiến tích là xác 20 xe Tank T54 bị bắn cháy và thi thể Bắc Quân phơi đầy trên chiến địa còn đang khét nóng mùi khói lửa…!!! Không cần tịch thu chiến lợi phẩm vì con đường phải đi trước mặt còn dài xa hun hút… Trận chiến ngoạn mục này đã làm cho tinh thần Quân Cán Chính địa đầu giới tuyến vùng lên theo chiến dịch Lam Sơn 72 trở về mái nhà xưa. Chỉ buồn cho ĐĐ2TS vì một Trung Đội giúp đỡ tiếp tế tản thương cho TĐ11ND mà phải banh xác bỡi “dính” một trái mìn chống chiến xa của quân…ta khiến cho Thiếu Úy Nguyễn Văn Oanh, Trung Sĩ Thạch On cùng 6 binh sĩ chết tại chỗ, 17 bị thương nặng nhẹ, số còn lại hồn phi phách tán. Hạ Sĩ Nhất Kim Chơi vừa khóc mếu máo vừa giận giữ chữi thề:” Mẹ,… Trinh Sát Nhẩy Dù không chết rừng chết bụi mà chết trên GMC…”! Buồn cay trên mí mắt đứng tròng đã bao lâu nay khô hóng vì không ngủ cùng với gió cát nóng miền Trung …! Chỉ 5 ngày sau quân số của Trung Đội này được cấp tốc bổ sung đầy đủ với hơn 30 người.

Ngày N giờ G điểm:

Image result for Nhảy Dù và trận chiến Quảng Trị với quân Bắc Việt

Nhảy Dù với Quảng Trị năm 1972

Toàn thể lực lượng quan quân Lữ Đoàn II Nhẩy Dù (LĐIIND) súng đạn mũ sắt ba lô vượt phòng tuyến bên bờ Nam sông Mỹ Chánh do Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thuỷ Quân Lục Chiến của Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc (K16VBĐL) đang trấn thủ vào “thăm và viếng” Quảng Trị với 3 Sư Đoàn Chính Qui của CSBV, cùng đại pháo 130ly, hỏa tiễn phòng không, hỏa tiễn chống chiến xa của Liên Sô ồ ạt tiếp viện trong vòng mấy tháng qua…chúng đã điều nghiên chiến trường và chuẩn bị chu đáo thế thượng phong đang chờ đón quân “Nhẩy Dù Nguỵ”… Lần giở trong ký ức Binh Pháp Tôn Ngô thấy “tức” cười. Muốn tấn công Thành phải dùng lực lượng gấp 5 lần quân phòng thủ, nay toàn thể lực lượng chủ lực phía quân ta chỉ có một mà dám tấn công bên địch mười, thì không bể đầu cũng sức trán, không chột cũng què, ấy vậy mà vì “Nhẩy Dù Cố Gắng” chỉ trong vòng ba ngày đêm từng bước, từng bước thầm đầu đội pháo, chân dẫm lên xác địch, tác xạ lao về phía trước vượt trên quãng đường vài ba cây số ngập tràn máu lửa, đạn bắn như đan lưới địa võng biết nơi nao là không phải là hoả ngục? TĐ1ND1,TĐ5ND cũng đã tiến vào được La Vang, TĐ7ND đã vượt qua ngã ba Long Hưng áp sát vào vòng đai Cổ Thành Đinh Công Tráng, TS2 ND có lệnh theo đuôi TĐ7ND, sau đó đơn độc tách rời, rẽ về hướng Đông để tiên phong xâm nhập vào Quận Mai Lĩnh bằng kỹ thuật dạ hành ngụy trang tối đa, bảo toàn lực lượng để làm đầu cầu cho TĐ7ND của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Khôi Nguyên) Khóa 16 VBĐL và Thiếu Tá Nguyễn Lô (Sông Lô) K18 VBĐL “từng bước…từng bước thầm…đi vào hang lang sói…” cuối cùng toàn bộ TS2ND cũng “luồn” vào được mục tiêu “êm ái như mơ” địch không hề hay biết nên không một tiếng súng nổ “chơi”. Tôi và đám “con cái Trinh Thử” loại Chuột với M16, lựu đạn, M72 trang bị tận răng nằm “ém quân” hai đêm ba ngày bất động nằm “ưu ái” trong lòng địch, phải nhiều phen nín thở, nhịn ăn để tránh “đi đồng”, mở banh chong đôi mắt thăm dò trong đêm ngày, vểnh đôi vành tai nghe ngóng âm ba như loài dơi thính dò tìm động tĩnh chẳng khác gì những bóng ma vô hình, theo dõi thật sát từng bước chân của địch quân đang nhởn nha qua lại trên đường phố, đến đêm thứ hai nghe bỗng tiếng thì thào “trọ trẹ” nhẹ như tơ vàng trong máy:

– Út Bạch Lan… Sông Lô đây?

Tôi trả lời với tiếng nói “thỏ thẻ” như gió thoảng hư không trên PRC25:

- Tôi nghe!

- Tôi sẽ gặp UBL lúc hai (2) giờ sáng đêm nay… chờ!

Tôi vui mừng không thể tả tâm trạng dường như trẻ thơ chờ mẹ đi chợ về, nỗi vui bỗng chốc trấn áp biết bao lo âu, chờ đợi làm căng thẳng thần kinh mấy ngày qua vì nghĩ đã bắt tay được với TĐ7ND tức không còn đơn độc trong lòng địch nữa…! Nhưng không phải như vậy, vì “Ôn” Sông Lô sau 10 phút “bắt tay” hàm thụ xong thì rời khỏi vùng địch ngay, trở về tuyến của Tiểu Đoàn cách xa gần cây số. Tôi xin mở ngoặc để “nói” thêm về “Ôn” Sông Lô Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ7ND, sau lên Trung Tá là một trong những Sĩ Quan Chỉ Huy kiệt xuất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chí cho đến ngày tàn cuộc chiến 30-4-1975… và sau đó Sông Lô với dáng người như cây tùng trước gió bão vẫn anh hùng hiên ngang lừng lững với quần áo Nhẩy Dù rằn ri vượt trại giam, đón xe đò đi về đâu…khi tứ bề địch bủa lưới? Khi còn bị giam trong tù (nguỵ danh Trại Cải Tạo) đảng Cộng Sản gian trá đề cử nhân viên đài Truyền Hình Sài Gòn xuống trại tù thu hình làm phóng sự tuyên truyền, bọn công an bắt Sông Lô cầm cuốc làm cỏ để quay phim, Sông Lô liền dõng dạc từ chối thẳng thừng: “Tôi không chơi được cái trò khỉ đó”! Mặc cho chúng muốn hành hạ bắn giết không hề chi, tất cả bạn đồng tù lo âu tưởng rằng Sông Lô cựu Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù danh tiếng lẫy lừng sẽ bị chúng giam cùm hoặc bắn bõ. Sông Lô thời chiến yên hùng lẫm liệt giữa chốn ba quân nay trong thân tù cũng hiên ngang lẫy lừng… đã khiến cho tên sĩ quan trưởng trại thán phục với nhận xét: “Họ là những người sĩ quan kiên cường đáng phục.” Và xin hãy đọc một trích đoạn trong bài viết của người bạn cùng trại tù ngoài Bắc với Sông Lô đăng trên báo Mạch Sống số 62 tháng 9-2007 do Phan Nhật Nam phụ trách trong mục Lịch Sử Qua Lời Kể:

“Toán tử tội được dẫn đến trước những chiếc cột. Các anh có muốn nói điều gì không? Trưởng trại thoáng bối rối trước sự im lặng bình thản của năm người. Không một ai có dấu hiệu sợ hãi. Không có gì? Nguyễn Lô thay mặt các bạn trả lời (Bởi khi chấp cung, Lô đã xác nhận ông là người trách nhiệm độc nhất tổ chức vụ trốn trại). Nhưng đột nhiên, ông cười nhẹ.. Nếu cho hút điếu thuốc lào thì tốt lắm! Trưởng trại trầm mặt nghĩ ngợi (không hiểu Lô có ẩn ý gì vì yêu cầu quá nhỏ nhoi, bất ngờ) trước khi chấp thuận. Lô biết ý, giải thích:
- “Tôi có cái điếu mới, gởi ở các anh BK (đọc là Bê-Ka, Biệt Kích), tôi muốn hút cái điếu đó một lần chót!”

- “… Có đây! Có đây! Thưa ban (Ban Giám Thị), chúng tôi hiện giữ cái điếu của anh Lô. Viên trưởng toán Biệt Kích mau lẹ đứng dậy từ đám tù ngồi chật hội trường.

Chiếc điếu được đưa tới, Sông Lô cầm lấy ung dung nói: - “Mình chơi một điếu nghe mấy ông…?”

Những người bạn đưa mắt nhìn nhau. Hạnh nói nhỏ chán nản:

“– Hút làm gì Lô?

“ – Thì cứ hút đi, trước sau cũng chết!

Lô ngồi xuống, cho thuốc vào nỏ điếu, hâm cây đóm, kéo sâu hơi thuốc, thở khói lên trời. Ông cười nhẹ, đứng dậy, trao điếu cho các bạn và mời:”Làm một bi đi”! cựu Trung Tá Nhẩy Dù Nguyễn Lô nhìn quanh hội trường, đến với mỗi người tù, mặt ông không biến sắc..ký ức trận Ắp Bắc 1963,Pleime 1965, Cầu An Hòa – Tết Mậu Thân Huế 1968, Tổng Công Kích Đợt 2, Nghĩa Trang Người Pháp, Ngã Tư Bảy Hiền, Sàigòn 1968, Hạ Lào, Động Ông Đô, Chu Pao, La Vang, Quảng Trị 1972, Long Khánh tháng 4-1975... Đoạn đường mười hai năm một đời chiến đấu ông đi qua không một lần yếu đuối. Vậy hãy coi đây như chỉ là trận chiến cuối cùng trong đời, trận chiến không vũ khí, chỉ với những người bạn từng sống-chết và những người bạn tù ngồi im lặng dưới xa kia…. Nguyễn Lô thở hắt như lần trái đạn 57 ly bắn tung chiếc chiến xa và thân hình ông trước Thánh Đường Đức Mẹ LaVang, nơi quê hương Quảng Trị vào buổi chiều tháng 7 Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Ngày ấy cũng có nắng như hôm nay. Nhưng nắng miền Nam ấm, vàng tươi, sáng rỡ hơn…

Có chiếc xe đổ nhanh dưới lưng đồi, trước bộ chỉ huy trại. Bóng người cán bộ VC chạy vội lên hội trường hô to:” Dừng lại! Dừng lại!

Nguyễn Lô bình thản, tỉnh lạnh bảo với Hạnh và Bằng hai người bạn đứng gần kề bên cạnh:
- “Cứ hút đi, đừng để ý làm gì”!

Điều đáng nói là phong cách hút điếu thuốc lào cuối cùng của Sông Lô khinh bạt, lãng tử yên hùng của trang “Hảo Hán Lương Sơn Bạc” và hơn thế nữa chính là Kẻ Sĩ Đông Phương xem cái chết nhẹ tựa lông hồng quả thật là không hổ danh Cấp Chỉ Huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà…!!!” (ngưng trích).

Trở lại với hiện tiền trời nhá nhem ửng sáng, những tiếng động của xích sắt chiến xa càng lúc càng rõ dần, trước mặt xuất hiện lố nhố nón cối, AK, Đại Liên, B40-41 đang giàn hàng ngang tiến dần đến gần…oành…oành… oành… ầm… ầm… ầm… nhà bung mái ngói, cây cối gãy đôi, đất sỏi tung bay mù mịt. Trung Uý Cố Vấn Mỹ Terry Griswold chân tay run rẩy như thằn lằn đứt đuôi, hồn phi phách tán hét thất thanh trong máy:
- “Zulu…Zulu… Zulu right away! Right now…”!!!
Mẹ, muốn rút lui phải có kế hoạch từng bước, nếu rút lui cái ào hỗn loạn vô trật tự là đưa lưng lãnh đạn chết ráo còn ai để mà rút lui. Tên Trung Úy Cố Vấn mới tốt nghiệp West Point, một năm sau lên Trung Úy được điều sang VN tham chiến trong toán Cố Vấn 162 của Nhẩy Dù. Tôi phải trấn an và chậm rãi bảo hắn:

- “Terry… listen… You and your man stay here with me, don’t move and wait for my order…”!

Rồi phải “run” thôi, tháo bung “banh xà rong” dzọt lẹ với kỹ năng nhất bộ nhất biến “thao lược” nhuần nhuyễn xuất thần để bảo toàn lực lượng trong trình trạng sinh tử, tránh bị tiêu diệt là nghề của chàng, của TS2ND vốn là hậu thân của đơn vị 81 Biệt Cách Dù Lực Lượng Đặc Biệt với hỗn danh “Dog Run” chó chạy đường mòn. Chạy cũng có kỹ thuật của chạy, chạy tán loạn là táng mạng cả đám, mạnh ai nấy chạy là tự sát, bỏ xác một mình. Trong kỹ thuật tác chiến rút lui khó hơn tấn công rất nhiều, cho nên theo thứ tự rút lui với chiến thuật “nhẩy cóc”, thằng này rút trước rồi ở lại bảo vệ thằng rút sau, từng bước, từng bước thoát ra cái lưới đạn pháo đang phủ chụp lên cả đơn vị. ĐĐ2TS thoát ra được đồng ruộng, thằng què tay cõng thằng què chân, thằng què chân cà thọt lôi thằng không đi đứng được, đành bỏ lại 17 đồng đội đã ra đi nằm im lìm bất động, hơn 30 mạng máu me đầy người được TĐ6ND vừa được tăng cường từ mặt trận An Lộc giúp đở tản thương, thiếu tá Nguyễn Văn Tùng TĐP/TĐ6ND (Khóa 19 VBĐL) tử thương trong mặt trận này, trung tá Nguyễn Văn Đĩnh (Khóa 15 VBĐL) ôm xác khóa đàn em mắt lệ lưng tròng.

TS2ND lui về phía sau nghỉ “thở” ba ngày để chỉnh đốn lại hàng ngũ trong khi các Tiểu Đoàn Nhẩy Dù vẫn tiếp tục tiến chiếm từng ngôi nhà, dãy phố và áp sát cổ thành Đinh Công Tráng. TĐ 11ND đã vào đến đường Nguyễn Hoàng phía chính Nam đang nới rộng về phía tây tới cầu Thạch Hãn với TĐ1ND và hai Biệt Đội 81 Biệt Cách Dù cạnh sườn trái ở thôn Như Lệ Tích Tường. TĐ7ND sau khi bứng hết các hầm hố kiên cố chôn dấu dưới những gốc tre già bằng một cái giá sòng phẳng phải chăng, quần thảo với Bắc Quân để bước vào khu vực bến xe và sân banh Nguyễn Hoàng. TĐ6ND theo lộ trình của TS2ND đã chiếm lại chi khu Mai Lĩnh nới rộng về phía Bắc về hướng Trí Bửu. Như vậy là quân Nhẩy Dù đã kiểm soát hoàn toàn khu vực ngoại thành của thành phố Quảng Trị ở phía Tây-Nam, phía Nam và Đông-Nam. TĐ5ND được lệnh triệt thoái phòng tuyến La Vang, bọc sau lưng TĐ7ND song hành với TĐ6ND hướng về Trí Bửu phía chính Đông của Cổ Thành. TS2ND mượn đường TQLC từ hướng chính Đông, dùng thiết vận xa đưa đến điểm xuất phát là sông Nhung để cùng TĐ5ND thành hai mũi giáp công, cố chiếm cho bằng được Trí Bửu để làm bàn đạp đánh phá Cổ Thành Đinh Công Tráng. TS2ND vượt sông Nhung bằng phao dã chiến Poncho, con sông này có thượng nguồn từ trong dãy núi ở phía tây Quốc Lộ 1 chảy ra sông Vĩnh Định chỗ cầu Ba Bến. Sông Vĩnh Định có đầu nhánh phía tây chạy ngang chợ Sãi và thông với sông Thạch Hãn. Từ chỗ của tôi vượt sông để tới khu nghĩa địa phía chính Đông bìa làng chỉ cách xa khoảng vài trăm thước, bỗng nghe một tiếng cắc bùm, Thiếu Úy Lã Quý Khâm Tiền Sát Viên của TĐ1PB ND đang đứng sát bên vai với tôi, bật ngã ngửa người ra phía sau mắt trợn trừng, môi mấp máy mấy cái rồi…đi! Tôi ngồi thụp xuống bên một mô đất lạ ra lệnh cho tất cả hiệu thính viên, kể cả 5 ông Cố Vấn Mỹ cuốn ngay lá Antenna PRC25 dấu dưới ba lô. Không biết có phải vì biến cố này hay không mà chỉ vài giờ sau toàn bộ Cố Vấn Mỹ được lệnh rời khỏi TS2ND ngay tức khắc.

Trước mặt tôi quả là một khúc xương khó nuốt. Bên cạnh sườn trái của tôi TĐ5ND đã chiếm được 1/3 Trí Bửu, bằng mọi giá TS2ND phải trườn hay bò lên phía trước để giữ cạnh sườn phải cho TĐ5ND và hướng mặt về phía Cổ Thành. “Đường đi không khó vì ngăn sông, cách núi“ đường chỉ có khoảng vài ba trăm thước… Nhưng khó vì đầu đội pháo, ngực đang phơi khơi khơi trước những họng súng Nga – Tàu và đạn đã lên nòng đang hờm sẵn chờ cho mục tiêu là thân thể chúng tôi lọt vào tầm ngắm rồi nhã hằng loạt đạn… ở phía Bắc của tôi chỉ khoảng 500 mét là Hạnh Hoa Thôn, theo tin tức của Phòng 2 Sư Đoàn Nhẩy Dù cho biết là một đơn vị lớn của Sư Đoàn 320B (SĐ320B) Bắc Quân đang trú đóng ở đó, Sư Đoàn nầy do tướng Nguyễn Sùng Lãm làm Sư Đoàn Trưởng và là Tư Lệnh Mặt Trận 7 Quảng Trị thuộc Quân Khu Trị Thiên được đưa vào tăng cường, chịu trách nhiệm khu vực thuộc quận Triệu Phong từ tây bắc Vĩnh Định ra tới Cửa Việt. Trung Đoàn 27 tại vùng Đông Hà, Động Lôn, Quai Vạc, Trung Đoàn 48 (Quang Sơn) của Trung tá Lê Quang Thúy trong Cổ Thành Đinh Công Tráng, Trung Đoàn 64 tại Cam Lộ, Định Xá, Bái Sơn. Trung Đoàn này tăng phái Tiểu Đoàn 9/64 cho Trung Đoàn 48 của SĐ320B cùng TĐ3 và TĐ8 địa phương của B4 trấn giữ Cổ Thành cùng khu vực làng Trí Bửu và Hạnh Hoa Thôn… Nếu họ muốn càn quét chúng tôi, chỉ cần một chi đoàn chiến xa T54 với bộ binh tùng thiết, dùng hỏa tập tấn công thì chỉ trong phút chốc chúng tôi sẽ trở thành mây khói, bởi lẽ không yểm của quân ta gần như bất khiển dụng trong việc yểm trợ cận phòng vì lưới đạn phòng không dày đặc đan giăng như Thiên La mắc cửi, pháo yểm cũng không thể diệt được Tank 54 và bộ binh địch chớp nhoáng sẽ tràn ngập….!!! Nỗi lo âu đó trong tôi hằng phút hằng giờ trong thế bối thủy, tiến không được mà lùi cũng không xong ? Thôi thì phải tử thủ, Triệu Tử Long – Tam Quốc Chí tân thời không thể buông tay chết đứng giữa trận tiền, đành phải liều “bung Dù” tử chiến với giặc trùng điệp hoặc sẽ tan tành rã đàn xẻ nghé…? Tôi xin tăng viện khẩn cấp M72, buổi sáng ngày hôm sau TĐ5ND tăng cường cho tôi 50 hoả tiễn, buổi chiều Lữ Đoàn cung cấp thêm 100 súng M72 để thủ sẵn.

Image result for Út Bạch Lan - Đại đội trinh sát của Sư Đoà n Nhảy Dù

Đ.úy Út Bạch Lan trong trận Quảng Trị 1972

Các toán viên Viễn Thám ngụy trang như những cây di động nằm yên tại chỗ, chỉ di chuyển ban đêm khi trái sáng phụt tắt, rồi tiếp tục nằm yên khi trái sáng bục nở trên bầu trời, tất cả M72 kéo nòng, mở khóa an toàn, áp sát một căn nhà nào đó ẩn thân rồi nhanh nhẹn như một tên đạo chích đột nhập vào trong nhà, dùng lưởi lê “thích khách” Bắc Quân “êm re” không một tiếng động…và có lẽ mấy cán ngố Đặc Công, Tiền Sát Viên đã âm thầm gặp diêm vương nên cường độ pháo tập 130ly giảm dần và cũng vì tình trạng trộn trấu giữa ta với địch cùng ẩn náo, sống chung một nhà “người ơi mau về đây, cùng chung mái nhà” chẳng thằng nào nhận ra thằng nào và cũng vì các toán viên Viễn Thám mặc quân phục của VC và xử dụng súng AK47, dùng ám hiệu mật mã trên PRC25 đều bằng những con số y chang như Bắc Quân thì làm sao chúng có thể phân biệt trong thế tranh tối, tranh sáng mờ mờ nhân ảnh… cho nên chúng nó lần lượt bị “đâm sau lưng chiến sĩ” rồi trở thành liệt sĩ mà không biết tại sao và vì sao “em” đã vội “chia tay hoàng hôn”… và cứ thế các Trung Đội Trinh Sát trám chỗ để các Toán Viễn Thám tiếp tục truy lùng và diệt địch, cho đến khi song hành với TĐ5ND chỉ còn cách bờ thành Đinh Công Tráng cửa Đông Quan khoảng 100 mét nằm trong tầm đạn đạo súng cối và đại liên 12 ly7 từ trên cao của bờ thành rải như mưa xuống đầu chúng tôi…Bên trái là ĐĐ51ND của Trương Đăng Sĩ và ĐĐ52ND của Hồ Tường, tất cả lực lượng gọi là “Tiền Phương” này đều dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền Thủ Khoa K16 VBĐL). Bên phải của TS2ND là trùng trùng điệp điệp bóng dáng Bắc Quân…Bấy giờ lực lượng trừ bị hùng hậu Thuỷ Quân Lục Chiến còn ở xa chưa tới áp sát vì lệnh ở trên ! Chúng tôi trên đầu thì phải đội đạn 130 ly sơn pháo, hoả tiễn 122ly, cối 82 ly… từng giây phút, hằng giờ, trước mặt là một dãy hào sâu ngập nước với bức tường Cổ Thành dầy đặc kiên cố cao khoảng 12 mét.

– Út Bạch Lan…Tố Quyên.

– Tôi nghe Đích Thân.

– UBL nghiên cứu thử xem có thể gửi hai con vịt tiềm (Viễn Thám) vào trong được không?

– Nhận 5 trên 5 Đích Thân.

“Mission Impossible” !!! Xâm nhập vào mật khu rừng núi hay vào căn cứ địa của địch không mấy khó khăn, nhỡ bị phát hiện thì trổ tài…”dzọt”, sống còn hay tử vong mất xác là do số mạng, còn như nhận lệnh thi hành nhiệm vụ này chẳng khác gì Kinh Kha sang sông Dịch một đi không trở lại, không có đường về, cũng không có cơ may trở lại để kiếm đường về…! Tôi gọi Thiếu Úy Thông và Thiếu Úy Hiền hai Sĩ Quan trưởng toán vừa được bổ sung sau Mặt Trận Kontum, cả hai chưa có một chút kinh nghiệm gì về thoát hiểm mưu sinh để tôi “ban lệnh hành quân”. Nhìn hai đôi mắt đăm chiêu tư lự của hai Sĩ Quan trẻ độc thân này, lòng tôi bỗng chùng xuống không thể “hạ lệnh” một cách mạnh mẽ và dứt khoát được, vì biết rồi ta sẽ đưa họ vào cõi chết một cách oan uổng và phi lý cho dù “chuyên qua sông Dịch” là nghề của chàng…! Muốn tới được chân bờ thành đã khó vạn nan, rồi còn tìm cách nào để lên được tường thành rồi xâm nhập vào trong thì quả thật là liều lỉnh để tự sát, chỉ có cách duy nhất là làm sao đục thủng một lỗ tường thành thì họa may có thể …? Hiện tại TankM48 không có, pháo binh thì ở xa, phi cơ thả bom cũng chỉ đánh phá từ trên xuống không thể phá ngang hông được, đạn M72 hay 75 ly không giật công phá tường thành dầy 5-6 mét không hề hấn gì…! Tôi thật bối rối không biết phải tính toán như thế nào để xâm nhập qua bức tường thành chắn lối thật là “đá dựng ngàn năm hoang đường khói độc”…? Nếu liều lỉnh nhắm mắt xua lính cảm tử thi hành lệnh lúc này đồng nghĩa với cái chết, thì lòng can đảm chỉ là thể hiện tính chất cường bạo và vô trí tuệ mà thôi chẳng có ích gì…? Không thi hành thì lại mang tiếng hèn nhát trước địch quân đâu phải là Trinh Sát 2 Nhẩy Dù vốn xuất thân từ Lực Lượng 81Biệt Cách Dù ? Tôi gọi Tố Quyên trình bày những khó khăn trở ngại nói trên và xin cung cấp cho 6 sợi dây tuột núi cùng với móc câu.

– UBL…tôi sẽ cố gắng…nhưng không hứa !

Như vậy là tôi phải chờ! Tình hình biến chuyển từng phút, từng giờ, ĐĐ51ND (Trương Đăng Sĩ), ĐĐ52ND (Hồ Tường), ĐĐ54ND (Nguyễn Vũ Dương) và ĐĐ111ND (Đinh Viết Trinh) tăng phái dưới quyền điều động chỉ huy hành quân của Tố Quyên đã áp sát bờ thành đang chờ những phi tuần Không Quân Bảo Quốc Trấn Không “bay không ai tìm xác rơi “đang vần vũ trên bầu trời giáng sấm sét từng đợt đánh bom hạng nặng làm sập một góc tường thành thì may ra chúng tôi mới cảm tử chiến cho dù phải hy sinh nhiều chiến sĩ là phải đánh đổi bằng một cái giá rất đắt, nghĩ tới thâm tâm sinh nỗi bất nhẫn, nhưng rồi buột miệng: “chiến tranh mà” lẫn trong tiếng gầm rú của phi cơ và tiếng bom đạn nổ bùng vỡ xé trời xanh… và TS2ND chúng tôi đang trụ thế “nhất kiếm công thành” trước tuyến trận, đứng đầu sóng ngọn gió chịu áp lực từ phía Bắc càng lúc càng nặng nề. Quân số càng ngày càng hao hụt nhưng cũng phải cố gồng mình chịu đựng, vì nếu TS2ND bị chọc thủng thì Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của TĐ5ND bị đe dọa chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ. Đây là một điều ưu tư lo lắng từng phút, từng giờ của Ông niên trưởng Tố Quyên (Bùi Quyền) Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt lúc nào cũng 24/24 trên máy PRC25 với tôi và Chí Bệu (K20VBĐL) trưởng Ban 3 Hành Quân của Tiểu Đoàn. Chúng tôi tiên liệu Bắc Quân sẽ có một trận pháo cường tập và tấn công biển người và chờ đợi tới đâu hay tới đó? Tố Quyên điều động ĐĐ54ND lo bảo vệ khu vực Đông Bắc Trí Bửu và tải thương, ĐĐ51ND và ĐĐ52ND nhào vào Cổ Thành…Không Quân Việt Nam với những phi tuần Khu Trục (Skyraider AH-1) do những Phi Công dày dạn chiến trường, tài trí siêu xuất đánh bom vào chỗ kỳ đài rất chính xác như “thảy lỗ”, thì lúc đó bỗng có hai phi tuần Jet của Mỹ ở đâu bay vào vùng để yểm trợ thêm cho quân Nhẩy Dù công phá Cổ Thành, Cố Vấn Mỹ hỏi Tố Quyên có muốn sử dụng không? Tố Quyên trả lời 'OK' và chỉ cho Jet nó đánh ngay vào mục tiêu cùng chỗ phi tuần Việt Nam vừa đánh. Nhưng than ôi! “Điều động tại nhân mà tai họa tại thiên” khói bụi từ chỗ mới bị bom đánh tỏa ra bị gió thổi bạt đưa về phía ĐĐ51ND và ĐĐ52ND thế là Pilot Mỹ chơi 2 pass Smart Bomb vào Smoke Targets đó, thành ra bom bên Mỹ mình giáng xuống quân ta tan tành “banh xác pháo”!!!

.Ngày N+21:

– Út Bạch Lan… 207. (Đại Tá Trần Quốc Lịch LĐT/LĐIIND)

– Tôi nghe 207.

– Qua bên kia.

– Tôi hiểu ngay là qua tần số khẩn cấp đặc biệt của Lữ Đoàn.

– Cố giữ cạnh sườn cho Tố Quyên và Minh Hiếu, trễ lắm trong vòng 48 tiếng đồng hồ sẽ có tăng viện thay thế.

Lệnh này Minh Hiếu và Tố Quyên cũng biết, nhưng chỉ biết là sẽ có tăng cường lực lượng, nên kế hoạch mạo hiểm xâm nhập Cổ Thành hủy bỏ. Hai ngày sau tôi được lệnh chuẩn bị bàn giao phòng tuyến cho hai Biệt Đội 81 Biệt Cách Dù, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Phạm ChâuTài.

Tại chão lửa Quảng Trị nầy gặp lại những bạn cũ dưới cơn mưa pháo như Đại Úy Dương Thiện Ngộ (BĐ3BCD), Đại Úy Lê Đắc Lực (BĐ4BCD), Đại Úy Nguyễn Sơn (BĐTS/BCD-Biệt Đội Thám Sát) lòng vui mừng trộn lẫn nỗi lo buồn vì đã bỏ lại hằng chục đồng đội chưa mang được xác của họ về cho vợ con gia đình, mà đơn vị đang xác xơ chỉ còn trên dưới 40 người, tinh thần mệt mỏi rã rời sau 21 ngày đêm chống đỡ xa luân chiến với một lực lượng địch quân đông gấp chục lần quân ta.
Sau khi giao lại chiến trường cho BĐ81BCD, đám thiên lôi TS2ND chúng tôi được lệnh rút về phía sau lưng bọc hậu cho TĐ5ND giữ đường tiếp tế tản thương đến sông Nhung, nơi đây chúng tôi gọi là “Bến Đò Đưa Xác”. Vừa rời khỏi phòng tuyến chừng 200 mét thì bị một cơn bảo táp tiếng súng lớn nổ vang rền đạn bay phủ chụp lên TS2ND như một mẽ lưới tử thần, chúng tôi nằm bẹp dí như những ngọn cỏ tại chỗ chịu trận…!!! Tôi hét lên trong máy:

- “Tố Quyên… Tố Quyên… bảo mấy đứa con của đích thân ngưng bắn ngay, nó đang bắn lên đầu chúng tôi… Tố Quyên… Tố Quyên!” Hai phút sau.

– UBL… check lại xem cho tôi biết ngay. Không có đứa con nào phía sau lưng của tôi nổ súng trong khoảng một giờ trước đây!

Lúc này là ĐĐ54ND đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy của Tố Quyên. Hoàn hồn, lấy lại bình tĩnh phán đoán, tôi nhận ra ngay, tiếng nổ là B40,B41 và phòng không 12ly7 của Bắc Quân… Tôi vỡ lẽ và buột miệng:

- “thôi chết rồi!”

TĐ5ND đã bị chặn hậu, đường giây tiếp tế cũng bị bít kín, như vậy TS2ND cũng không còn “đường xưa lối cũ có bóng tre che thôn làng” rồi, bây giờ là là con đường tử địa. Tôi nghĩ chắc có thể Hổ Xám Phạm Châu Tài 81BCD cũng sẽ bị “gom bi” không còn một mống nào thoát được khi bị tấn công cường tập với đại pháo 130 ly, Tank T54, 12 ly7, cối 82… và bộ binh của Bắc Quân. Cả đám chúng tôi tiến không được, thối cũng không xong, chỉ còn sự lựa chọn duy nhất là trực diện xông vào cửa tử để tìm sinh lộ với thân thể tàn tạ sức mòn lực kiệt, “chiến bào” rách bươm tơi tã…nhưng phải đồng thời “cứu chúa phò nguy”, chết vinh còn hơn bị hốt hết rồi sẽ bị sống nhục. Tôi ra lệnh như hét:

- “Tất cả bõ Balô xuống, đưa M72 dồn cho Trung Đội 1 (chỉ còn 12 mạng), mỗi người 5 quả M72, kéo nòng, rút chốt an toàn sẵn sàng súng trên vai, nhắm vào căn nhà ngói nền cao phía trước khoảng 50 thước, quỳ dàn hàng ngang chờ lệnh…”.

Trung Đội 2 và Trung Đội 3 cũng còn trên dưới 10 mống, cùng với tôi và ban Chỉ Huy Đại Đội, súng cá nhân và lựu đạn sẵn sàng… khi nghe loạt M72 đầu tiên thì phóng như bay khoảng chừng 20 mét rồi nắm bẹp xuống, chờ loạt thứ hai và thứ ba cứ tiếp tục nhào lên cho đến khi đến sát những khung cửa sổ nhà đỗ nát, khi tiếng nổ M72 của Trung Đội 1 chấm dứt tác xạ đợt 4, thì Trung Đội 2 và Trung Đội 3 bắt đầu dùng lựu đạn tung vào trong. Bắc Quân như lũ chuột: chuột cống, chuột chù, chuột nhắt… kinh hoàng tháo thân chạy bung ra ngoài, nón cối rơi rớt vung vãi dưới những họng súng M16 thiện nghệ của Trinh Sát 2 Nhẩy Dù, thây người ngã vật xuống, không một tên nào chạy thoát. Mày là Đặc Công hả? Tao là Trinh Sát Nhẩy Dù đây, mày là “giặc từ ngoài Bắc vô đây bàn tay bắn giết đồng bào” miền Nam, bàn tay đồ tể chúng mầy nhuốm máu anh em cùng dòng máu đỏ, da vàng Việt Nam của mày, thì làm sao tao có thể tha cho mày lúc này được? Chúng mày chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót, còn tao thì chắc chắn không giết lầm cho nên không có cái vụ bỏ sót và lệnh của tao là: “Không để sót một thằng nào chạy thoát trong trận này” mặc dầu tao đã kiệt sức gần như muốn ngã quỵ… Và chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ đánh xáp lá cà như tia chớp, nhoáng TS2ND đã quét sạch Đại Đội Đặc Công của Sư Đoàn 320B, xác chết quân địch và vũ khí ngổn ngang chẳng cần thu nhặt dọn dẹp… Tố Quyên mừng lắm gọi tôi:
- “Thank you UBL… tôi sẽ cho 54 thay chỗ ngay bây giờ, UBL trở về bến đò đưa xác giúp cho tôi cõng thương binh và đem xác anh em 'rách áo' về…”!

Ôi! Đâu rồi “Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê” em ơi… TS2ND nay còn đâu mái tóc thề, rách bươm tơi tả, te tua sau 21 ngày đêm sống trong bão lửa khốc liệt như trời long đất lỡ, súng nổ vang rền tứ phương, đạn bay lấp loáng vung vãi phủ chụp, cày bung thớ đất và trong nón sắt còn âm vang vọng lại như vỡ bung màng nhĩ, nay trở về như lạc lõng nẻo tâm hồn nào vương theo lối cũ. Tôi ngồi nhìn dòng nước con sông Nhung hiền hòa cứ lững lờ trôi với tâm tư:

Sông và nguồn có bao giờ tịch lặng?

Con nước xuôi dòng chuyển chở bao niềm…

Tôi bỗng chạnh thương con sông Nhung vì trong dòng nước phù sa đầy vơi êm trôi kia có pha lẫn máu của Anh Em tử sĩ và thương binh nhỏ xuống hoặc thấm ướt qua làn vải áo trận bê bết đã tơi tã mấy ngày qua. Nhìn những chiếc bè kết bằng thân chuối, bập dừa thay thuyền chở đưa xác tử sĩ qua sông, bên cạnh tôi còn hằng chục cái Poncho gói kín thân xác anh em chờ tiếp tục qua sông… Chúng tôi vừa khiêng, vừa cõng, vừa dìu dắt những đồng đội bị thương máu me đẫm ướt quần áo trận với tâm tư trĩu nặng, thần trí như con ốc hoang trôi dạt muốn bám vào những gốc cây bần, đám lau sậy hoang ven sông mà tìm nơi trú thân bình yên tạm trong giây phút…! Trong những Poncho đó là binh lính của TS2ND được Biệt Đội Thám Sát 81 Biệt Cách Dù của Nguyễn Sơn “săn sóc” gói ghém cẩn thận trao lại cho tôi, còn những thương binh sẽ có “diễm phúc” ngồi chờ trực thăng tải thương có khi Pilot phải cắt giảm Throttle, hạ Collective để cho tàu OA (Overhead Approach) nếu bị 12ly7 đan lưới đạn đón chào và “may mắn” anh em sẽ được bốc về Nguyễn Tri Phương, Huế hay Duy Tân hoặc Đà Nẵng, rồi sau đó về Tổng Y Viện Cộng Hòa… và rồi anh sẽ trở thành “bại tướng cụt chân” tập làm quen với xe lăn, nạng gỗ hoặc mắt không còn thấy ánh sáng của cuộc đời. Tôi tạm tiếp tục nhiệm vụ làm “tư lệnh” Bến Đò Đưa Xác như thế cho TĐ5ND và BĐ81BCD, đến khi không còn sức lực để khiêng, để cõng xác tử sĩ và thương binh nữa… Tôi yêu cầu Lữ Đoàn tăng phái khẩn cấp cho TS2ND một tiểu đội Quân Y với 50 Poncho và 20 băng ca dã chiến, đồng thời ưu tiên bổ sung quân số. Chúng tôi rất cần những Poncho mới để gói lại những xác lâu ngày đã sình thối, trương phình làm bung rách nát lớp Poncho cũ, băng ca để khiêng những người bị thương nặng đem ra xa khoảng 500 mét, chất lên M113 chở ra Bộ Tư Lệnh SĐND ở Phong Điền. Hai ngày sau được bổ sung thêm hai sĩ quan, tám Hạ Sĩ Quan và 30 Binh Sĩ được lấy từ Quân Cảnh, Quân Lao, Lao Công Đào Binh, Hồi Chánh Viên tình nguyện trong QLVNCH… thôi thì có còn hơn không!

Trong những giờ phút và ngày tháng ở đây TS2ND chúng tôi bỗng trở thành lao công đào binh khiêng Poncho bọc xác đồng đội TĐ5ND và BĐ81BCD tiếp tục chất lên những chiếc bè kết bằng bập dừa “đưa anh sang sông” mà như dậy sóng ở trong lòng! Ở Bến Đò Đưa Xác nầy tương đối bình yên, không còn những trận bão lửa, đạn nổ ầm vang tiếng 130 ly, B40, B41, AK47 với tiếng gào thét xung phong đằng đằng sát khí của kẻ thù như năm bảy ngày trước đây…Nhưng lại là những đợt sóng thương tâm dậy lên lao xao đau xót vô cùng khi cõng những đồng đội thân thể đẫm máu đang ngất ngư bơi qua bên kia sông Nhung, và rồi đêm nay, hay ngày mai không biết họ còn sống hay chết…! Chiến tranh mà! Cuộc chiến nào không có máu đổ thịt rơi, không có hủy diệt tàn phá, nhà cửa ruộng vườn mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên bị cày sới tung lên rơi rớt xuống từng mảnh vụn huống chi thân xác con người bằng da, bằng thịt sao không nát tan bởi một mảnh đạn sắt thép vô tình xuyên phá.

– Út Bạch Lan…207.

– Tôi nghe đích thân.

– Vào tần số này để liên lạc với TĐ3TQLC.

Dĩ nhiên cuộc đàm thoại nào với 207 cũng bằng ám số truyền tin. Như vậy là nguồn tin Thuỷ Quân Lục Chiến sẽ tăng cường cho mặt trận Trí Bửu là có thật. Nhưng không phải tăng cường mà là TQLC sẽ thay thế toàn bộ lực lượng Nhẩy Dù trong nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng. Trung Tướng Dư Quốc Đống TL/SĐND có lần đã nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn I rằng :”…Bảo tôi đánh giặc mà đánh như thế này thì làm sao tôi đánh..” và sau đó trên hệ thống liên lạc siêu tần số cơ hữu của Sư Đoàn Nhẩy Dù, sĩ quan truyền tin Võ Trung Tín đã nghe cuộc điện đàm giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng như sau:

Image result for Tướng Dư Quốc Đống

– Trung Tướng Đống:”Trưởng có thấy không, trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy Cổ Thành, đến khi vừa vào được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế nầy thì đánh giặc cái gì đây? Đánh giặc như thế nầy thì tôi không đánh nữa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi”.

– Trung Tướng Trưởng:”Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng ngày mai tôi bay ra Sally gặp Trung Tướng sẽ bàn định lại”…

Phía Đông Bắc của Nhẩy Dù hoàn toàn bỏ ngỏ, đại quân Thuỷ Quân Lục Chiến còn đang mở đường từ Cửa Việt ở xa khoảng gần hai cây số, nếu phòng tuyến của TS2ND tan vỡ thì TĐ5ND cũng vỡ, và theo vết dầu loang xuống phía Nam với TĐ6ND sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến các lực lượng vòng đai phía chính Nam của Thành Phố Quảng Trị. Kế hoạch chiếm lại Cổ Thành Đinh Công Tráng như công dã tràng, mặc dù ĐĐ51ND của Đại Úy Trương Đăng Sĩ đã lên được bờ thành, nhưng liệu hai Biệt Đội 81BCD có chịu đựng nổi hay không khi phải tam đầu thọ địch…? Nếu hướng về tường thành là mục tiêu phải đến thì bên trái được “ấm lòng” vì dựa vào TĐ5ND, bên phải bị áp lực nặng nề với quân số chênh lệch như trứng chọi đá, phía sau lưng trống trơn, trong thế gọng kìm đó chỉ có thủ cầm hơi may ra chờ tăng viện, còn công thì bất khả thi chỉ biết ngạo nghễ ca vang “trên đầu súng Bắc Quân, Ta vì tổ quốc phải quên mình”. Hơn ai hết, Tướng Dư Quốc Đống đã thấy và biết điều đó, Ông không muốn những đứa em “đứa con” của Ông bị chết một cách oan uổng để được Tổ Quốc Ghi Ơn vì sự phối hợp hành quân, hợp đồng tác chiến một cách lỏng lẻo sơ hở tắt trách của cấp trên. Do đó mới có lệnh hoán chuyển toàn bộ phía Bắc,phía Đông, phía Tây cho Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến là lực lượng hùng hậu chưa sứt mẻ, quân số mỗi TĐ/TQLC trên dưới 800 người với chiến xa Tank M48 và đặc biệt được ưu thế không yểm trực tiếp cận phòng của Không Lực Hoa Kỳ. Hợp đồng tác chiến dưới quyền chỉ huy duy nhất với 3 Lữ Đoàn gồm có 9Tiểu Đoàn, 3Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh…thì Thành Phố Quảng Trị đã nằm trong tay của Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân rồi…?!!! Sư Đoàn Nhẩy Dù dạt qua hướng Tây Nam Thành Phố Quãng Trị nối vòng tay với Sư Đoàn 1Bộ Binh để giữ tuyến từ La Vang xuống Ba Lòng kéo dài tận phía tây Huế. Lúc nửa đêm về sáng tôi nghe tiếng gọi lạ trên PRC25 tần số Lữ Đoàn:

– Út Bạch Lan…909 đây.

909 có một ám danh khác là Chương Thiện,Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh (K16VBĐL-TĐT/TĐ3TQLC)

– Tôi nghe 909.

– Thằng con đầu của tôi sẽ gặp UBL khoảng nửa giờ sau, đón nó giùm ?

– Nhận 5/5…tôi đang chờ.

Thằng con đầu của TĐ3TQLC là “thằng”…Đại Úy Nguyễn Kim Chung (ám danh C18) bạn cùng Khóa 22 Đà Lạt (K22ĐL) với tôi. Ba giờ sáng nó tới gặp tôi dưới ánh đèn pin quét qua quét lại, tôi nói với nó:”Chỗ này của tao, mày lo phối trí cho con cái nghỉ ngơi và đón Tiểu Đoàn rồi sáng nói chuyện”.

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, ngồi trước căn nhà lá nghiêng ngả đổ nát cạnh bờ sông, phía trước là sân gạch phơi lúa với Poncho sắp thứ tự (get line) để chờ chuyển về đi phép miên viễn nơi cõi vĩnh hằng, chung quanh đâu đó bên hiên nhà, dưới gốc cây lố nhố những “cây” bông băng trắng xóa, kẻ ngồi ,người nằm, vài ba “ông thần” còn tỉnh táo lần mò trong ba lô lôi ra Beret đội lên đầu, mũ đỏ Nhẩy Dù, mũ xanh lá cây Biệt Đội 81Biệt Cách Dù chen lẫn nhau trong đám mũ xanh dương Thuỷ Quân Lục Chiến vừa mới tới còn khoẻ mạnh pha cà phê, mồi thuốc lá cho hai màu mũ thương binh đang nằm ngồi la liệt…! Định mệnh cũng có những trò chơi oái oăm lạ kỳ đun đẩy tôi vào hoàn cảnh cười không ra cười, khóc không ra khóc, tôi đang làm “giám đốc” bệnh viện dã chiến kiêm luôn “giám đốc” nhà xác mà thân chủ của tôi lại là gốc gác, cội rễ xuất thân binh nghiệp của tôi “một đời binh nghiệp hai màu mũ” 81BCD và ND…!!! Với ba ca cà phê dã chiến, Thiếu Tá Cảnh mắt đang dán chặt vào phóng đồ hành quân,thằng Chung cất tiếng hỏi tôi:

– Trời ơi ,…sao mày vầy nè Út…”?!

– Vầy nè, là vầy làm sao…?

Mặt tôi râu ria xồm soàm, mắt sâu má hóp, quần áo rách bươm bê bết loang lỗ đầy vết máu sậm mầu khô, tươi còn bốc mùi ngay ngáy tanh hôi trong cơn gió nóng nhẹ thổi qua, thần khí tiêu tan, oai phong rũ liệt, chẳng có còn gì để nói, để cười, người về từ cõi chết, bây giờ đang sống ở địa ngục trần gian, chỉ cần định mệnh run rủi một quả đạn 130ly trúng ngay chỗ ngồi thì Thiên Thần Nhẩy Dù hay Lính Nhẩy Dù ngã xuống có mặt đất hướng dẫn đường lên Thiên Thai ngay…Viễn du trên thiên đường để đầu thai kiếp khác…?! Thằng Chung bật cười, cái cười đầy tự tin, nhưng có chút méo mó vì nó biết rồi chính “đương sự” sẽ cũng đi vào “con đường xưa em đi” của tôi đã đi qua, làm sao “nó” nhớ và có lối để về không…? Nó tiếp tục hỏi nữa:

– Tao nghe nói mày bị thương nặng, rồi bây giờ mày có sao không…?!

– Có sao thì tao đâu có ngồi ở đây để đón mày, hay không bằng hên, đạn tránh tao chứ tao tài cán gì như Đoàn Dự mà lăng ba vi bộ để tránh được đạn chứ …? Nhưng đau ở chỗ đạn tránh tao để sơi tái thằng đứng bên cạnh mới buồn xót xa chứ…!

Thiếu Tá Cảnh hỏi tôi:

– Út cho tôi biết sơ sơ tình hình trong đó ra sao? Tôi nhận lệnh vào thay thế TĐ5ND và hai biệt đội 81BCD…?

– Thưa Thiếu Tá…chua cay và cam go lắm… ! Vì phía Bắc trống trơn, nên cứ lo sợ nó chơi xả láng một cú là mình mặc quần xà lỏn sáng về sớm…!!!

Thiếu Tá Cảnh bật cười:

– Tôi cũng chịu thua và sợ ông luôn, ở trạng huống này mà ông còn “tếu ngạo giang hồ” được…!!! Nhưng cứ yên tâm vì chúng tôi sẽ vào đó với thế liên hoàn của 3 Lữ Đoàn (LĐ147TQLC, LĐ369TQLC, LĐ258TQLC) cùng giờ phát xuất, Đông, Bắc và dần qua Tây, phía Tây thì nhẹ hơn vì có sông Thạch Hãn làm rào cản, chỉ có lo pháo từ Ái Tử thôi, còn cua (TankT54) của chúng nó, chúng tôi rang muối cũng khá nhiều rồi trên đường đổ bộ từ bờ biển đến đây. Thôi,… 9 giờ chúng tôi bắt đầu qua sông…để tôi gọi ngay cho Tố Quyên, chắc hắn mừng lắm.

TS2ND chúng tôi được lệnh di chuyển về làng Vân Xá cách Huế 10 cấy số, hai ngày sau được lệnh ra phi trường Phú Bài để lên C130 bay về hậu cứ SàiGòn nghỉ phép xả trại 100% 15 ngày, để đi hớt tóc cạo râu, thay quần áo mới, tẩm bổ với những thang thuốc “hoàn hồn linh dược”, viếng mộ, thăm thương binh, cô nhi quả phụ… Trong khi chờ máy bay ở phi trường Phú Bài thì tôi thấy “thằng” Nguyễn Kim Chung mặt mũi băng trắng kín mít với đôi mắt vẫn còn tinh ranh. Chỉ mới hai ngày trước “tôi đưa em sang sông bằng Poncho hay bập dừa” mà bây giờ nó lại lội qua sông ở “Bến Đò Đưa Xác” theo tôi ra đây cùng về và…Ôi …”Anh về thủ đô gò má anh băng đầy bông” ở phiá gò má bên trái của nó ăn một viên “kẹo” AK47 làm thủng “dớt” cái quai hàm máu còn thấm ướt qua lớp band gaz quấn quanh. Tôi đùa lập lại câu hỏi mà nó hỏi tôi hai ngày trước đây khi “hội ngộ” ở Bến Đò Đưa Xác:

– Trời ơi sao mày vầy nè Chung…?

– Vầy nè, là vầy làm sao …? Mẹ…tại tao không chịu luyện nội công lăng ba vi bộ như mầy, nên bị thằng Mộ Dung Phục nó chơi một phát vào mặt, may là không bị mất mặt chỉ bể má thôi…!!!

Tôi và nó là hai thằng bạn thân cùng Khoá 22 Võ Bị Đà Lạt ôm nhau lăn ra đất cười ngặt nghẽo, méo mó bên cạnh một đám thương binh bốn màu mũ: Đỏ, Nâu, Xanh Lá Cây, Xanh Dương …!!! Sách Giáo Khoa Thư Tiểu Học: “thân thể người ta chia ra làm ba phần, đầu, mình và chân tay ”…thì quan quân chúng tôi tay chân, đầu ngực băng bông trắng xóa, máu tươi thấm ướt “chiến bào” bao nhiêu ngày không được tắm rữa giặt giũ mùi “hương” máu còn thoang thoảng “riêng một góc trời”…!!! Nhưng ở đây nơi bình yên, tôi thấy trong ánh mắt của họ như không còn lưu lại một chút gì dù chỉ mõng mõng một tí thôi nét kinh hoàng lửa khói “thời qua” để “làm tan nát lòng nhau”, thay vào đó là niềm vui hân hoan “hôm nay đây còn vui trông thấy nhau” và rạng ngời lên một thứ tình cảm đồng đội chiến trường đã cùng vào sanh ra tử trong suốt một tháng trời lửa đạn vừa qua…!!! Họ vẫn còn sống và sắp sum họp với gia đình một thời gian dù dài hay ngắn để không còn nghe những tiếng gào thét tử thần của bom đạn, lửa khói bất chợt phủ chụp lên đầu và nín thở lắng nghe, chong mắt trong đêm đen dõi theo những tràng đại pháo của Bắc Quân cày sới mặt đất, hất tung những bạn đồng đội lên cao, rớt xuống rồi nằm im bất động. Họ sẽ hưởng được những ngày dưỡng thương, nghỉ phép trong an bình với gia đình vợ con… !!! Tôi chợt nghĩ đến những cán binh Bắc Quân “sinh Bắc tử Nam” tuổi đời còn non dại, bị bắt buộc hay bị khích động bởi những giáo điều láo lếu của Mao – Hồ rồi bị đưa đẩy vào chiến trường khốc liệt miền Nam như con thiêu thân lao vào ánh đèn sáng nóng 1000 watt, để rồi ngã gục, thịt nát, xương tan trên con đường đi không đến và chẳng có nẻo về…! Họ có cùng máu đỏ như tôi, da vàng mũi tẹt, cùng Lịch Sử một Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm con nên gọi nhau là “Đồng Bào”, cùng sinh trưởng trên mảnh giang sơn hình cong chữ S này… rồi truy tìm bắn giết lẫn nhau có gì vui làm hạnh phúc…?

Đơn vị về đến hậu cứ, tôi giao hết cho Trung Úy Tài chỉ huy hậu cứ lo hết mọi thủ tục như sau mỗi cuộc hành quân, tôi vội vã ký giấy phép cho tất cả quân nhân trong đơn vị ngoại trừ nhân viên hậu cứ, nói với Hạ Sĩ Quan kế toán và tiếp liệu xoay sở tiền nong ứng trước cho mỗi người 10 ngàn để làm lộ phí về thăm gia đình, thăm cô nhi quả phụ rồi chờ tôi trở về cùng nhau ra Nghĩa Trang Quân Đội viếng mộ Tử Sĩ, thắp nén nhang cầu siêu hương linh quí Anh – Em là Hồn Thiêng Sông Núi hiển linh và siêu linh nơi cõi an lạc hạnh phúc…!!!

Máu đã từ chối không chảy về tim nữa

Thì thôi anh tìm một chỗ để yên nằm

(The soldiers never die, they just fade away)

Sau 15 ngày phép qua đi như một cơn gió thoảng, bây giờ nào là vợ con, thân nhân, bằng hữu…quyến luyến giữ chân muốn không rời xa ! Một ngày đêm trong vùng địch dài như bách nhật, 15 ngày phép với thân tình ngắn ngủi như chạy nước rút 100 mét ở thao trường. Trở ra vùng hành quân, TS2ND được lệnh tăng phái cho LĐIND làm lá bùa trấn yểm Thôn Như Lệ Tích Tường với TĐ1ND, sau đó tăng cường cho TĐ8ND lên Động Ông Đô, Đồi Gió Hú, tương đối dễ thở hơn Trí Bửu, Hạnh Hoa Thôn, bởi lẽ tất cả nỗ lực của hai bên đều dồn vào Quảng Trị để rút lá bài cuối cùng trên cái bàn thương thuyết bốn bên hình ôn hoàng hột vịt lộn ở Paris ! Đầu tháng 9 năm 1972 TQLC đã kiểm soát hoàn toàn thị xã Quảng Trị, chỉ còn cái nhân bánh chưng Cổ Thành ngày giờ cắm cờ đếm trên đầu ngón tay, Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC có thể khui sâm banh ăn mừng được rồi. Ngày 16 tháng 9 năm 1972: “cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…cờ bay…” do Đại Úy Giang Văn Nhân (K22VBĐL) thuộc TĐ3TQLC cắm trên một điểm cao nhất trong nội vi Cổ Thành, điểm cao nhất trên một đống gạch vụn, bởi thành phố giờ thành bình địa, không còn một ngọn cây, một nóc nhà nào nguyên vẹn, từ Trí Bửu có thể nhìn thấy dòng sông Thạch Hãn không cần phải leo lên cao, và từ Hạnh Hoa Thôn có thể thấy tháp chuông nhà thờ La Vang khi đi bộ trên đường Duy Tân vừa chiếm lại đêm qua bằng Máu! Máu của ai? Máu của cả hai bên Nam Quân và Bắc Quân, máu vương vãi khắp thôn làng thị trấn, ai có thể lấy thước đo bề dầy của máu đã đổ xuống thấm vào từng thớ đất quê hương…À …ơi…”quê tôi nghèo lắm ai ơi, mùa Đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn” này…! Để những lãnh tụ, lãnh đạo ngồi ở phủ, ở huyện và cả cái mảnh giấy “lộn” khốn nạn gọi là “Hiệp Định Paris” tháng giêng 1973 chỉ là thành quả, hệ quả đẩy đưa dìm chết toàn thể Quân – Dân miền Nam vào địa ngục dưới bàn tay cai trị ngu xuẩn và trả thù tàn bạo của tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt và đây là lời nói uẩn lương của cố Tổng Thống Ronald W. Reagan Mỹ Quốc:”Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là ngàn năm đen tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về sau”.

Trước khi TQLC vẻ vang dựng lên lá cờ vàng ba sọc đỏ, thì ai đã trãi bao nhiêu xương máu lót đường…? đã có biết bao nhiêu thân xác Quân Dân Cán Chính vùng địa đầu giới tuyến ngã xuống chôn bờ, lấp bụi, lớp nhựa đường “Đại Lộ Kinh Hoàng” đã được phủ thêm độ dầy bằng lớp da thịt mỡ người chết phân huỷ dính khằn hong dưới trời nắng quái và mùa gió khô hóc quắc queo thổi qua, đâu đấy còn lặt lìa tử thi quân nhân vướng vít đong đưa vạt áo trận trên quân xa hư hỏng vì đạn đạo pháo Bắc Quân…!!! Ôi,… tang thương ngất trời và tôi biết chắc chắn trong niềm hân hoan đại quân Thuỷ Quân Lục Chiến kéo vào Quảng Trị chiến đấu đem chiến thắng về cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã có Máu của chính đồng đội Thuỷ Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Biệt Cách Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Cảnh Sát, An Ninh và cả quân xâm lăng Bắc Việt đã đỗ xuống thấm sâu vào lòng Đất Nước Việt thân yêu làm nên mầu mỡ cho mai hậu chăng?

Chỉ có máu mồ hôi và nước mắt,

Nhỏ xuống thấm lòng đất tổ quê cha,

Tôi và Anh ai bảo vệ sơn hà?

Ai hại nước, lừa ai mà vẽ mặt…?

Chiến thắng hay chiến bại đều phải trả một cái giá của nó. Sau Kontum Kiêu Hùng, Bình Long Anh Dũng, Quảng Trị Vùng lên…không biết các vị Tướng Tư Lệnh “khạc ra lửa, mữa ra khói“có ngồi độc ẩm Bồ Đào Mỹ Tửu Dạ Quang Bôi để nhớ câu “Cổ Lai Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi” ? Sau năm 1975, không biết các Tướng hai sao, ba sao và ba xạo… của Bắc Quân vốn đã trở thành quán tính quen ngồi xổm ở cánh đồng Nông Cống ngập sũng nước, hay khệnh khạng vung vít thế tiểu nhân đắc chí tự cười vang hô hố để quên câu:”Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô”… Vì theo tài liệu đã được phổ biến từ những xung đột nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam phía “Bên Thắng Cuộc” đã tiết lộ: Chính Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã cho Tướng Văn Tiến Dũng lên thay Tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy Chiến Dịch Xuân Hè 1972 vì chính Võ Nguyên Giáp đã khuyến cáo Chính Trị Bộ không nên tiến đánh Nam Việt Nam vào năm 1972 vì Quân Lực Miền Nam rất hùng mạnh. Đúng như Giáp đã nhận định và kêu than sau thất bại Chiến Dịch Hè Xuân 1972 rẳng:” hơn 10 000 (mười ngàn) bộ đội ta đã bị chết ở Mặt Trận Trị Thiên không có được mấy ai trở về…”!

Đêm đã khuya, người người an giấc, còn ta Viết như nhắn gởi với mười phương bằng hữu Huynh Đệ Chi Binh thân tình rằng ta nhớ lắm và mơ một ngày về…?

Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông

Các anh về, mái ấm nhà êm

Câu hát tiếng cười rộn ràng trong xóm nhỏ

Các anh về, tưng bừng trước ngõ

Xóm làng tôi còn nhớ mãi

Hỡi đoàn người trai trẻ đấu tranh

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông…

(Các Anh Đi – Văn Phụng)

Út Bạch Lan và phu nhân với Tất niên Mậu Tuất tại Arlington, TX hôm 5/1/2019

Nhưng cuộc chiến nầy vẫn chưa kết thúc! Chúng ta, những người bị gọi là chiến bại vẫn còn cơ hội để giành lại đất nước. Thua một trận chiến (a battle) không có nghĩa là thua một cuộc chiến (a war). Điều kiện tiên quyết để thắng kẻ thù Cộng Sản Bắc Việt là chúng ta phải có quyết tâm tranh đấu và học hỏi, để tích cực tham gia thực hành. Quyết tâm sống và bảo vệ những điều mình yêu, tin và lý tưởng. Phải thắng chính bản thân trước khi thắng kẻ thù. Phương thức để chiến thắng Cộng Sản là: Chúng Ta không được hèn ngu, tất là phải có sự hiểu biết tròn đầy viên mãn về mọi mặt, phải có hệ thống tư tưởng làm căn bản cho sự nhận định, thông suốt đại biện chứng thế giới,phải có ý thức hệ, chủ thuyết giải quyết được vấn đề một cách triệt để, toàn diện và hướng thượng. Không được hèn, tất phải có lòng can đảm hơn người, đại đởm, không quản ngại gian nan khổ cực, quyết tâm là dám chết để tìm đường sống (kinh nghiệm trong trận chiến Quảng Trị). Nhưng không phải là liều lĩnh, vọng động quờ quạng, lấy sự can đảm mà thi hành theo sách lược bỡi hiểu biết Chu Tri cao hơn và đẹp hơn phù hợp với Nhân Bản, phát huy được Nhân Tính để đạt tới mức Nhân Chủ như một lý tưởng vươn tới tất yếu của loài Người. Chúng tôi tin rằng trước thời thế nầy, hầu hết người Dân Việt chúng ta ở trong cũng như định cư ở cá c quốc gia Tự Do – Dân Chủ trên thế giới trong đáy lòng ưu tư đến Dân Tộc – Đất Nước đều có cảm giác sâu sắc là chúng ta cần phải mạnh dạn hành động quyết liệt để đánh đỗ, tháo cởi gông cùm, xích xiềng do đảng Cộng Sản ngu dốt, tàn hại áp đặt cho Dân Ta? Nhẩy Dù cố gắng.

Mũ Đỏ Trương Văn Út (Útbạchlan) Viết và tham khảo với cựu Trung Tá Bùi Quyền (Tố Quyên) Thủ Khoa Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù hiện đang cư ngụ tại San Jose, California USA.

Houston Ngày 8 Tháng 2 Năm 2016

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...