[1] SEATO: South East Asia Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in
the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National
Liberation Front Army.
Những cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước đó
ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này, chứ không phải ở
mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ tàn sát ở Huế, sau khi
chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho ta nhìn rõ được mức độ tàn ác
của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc tàn ác ở những nơi khác trên miền Nam
Việt Nam, cho dù có thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào đi nữa.
Vụ thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh đấu –
cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng minh sức mạnh của
phe mình, mà lại khác hơn ở chổ xuống tay sát hại dân lành trong vùng do du
kích của CSVN kiểm soát.
Không phải một chiến dịch đe dọa để quảng bá lý thuyết
cộng sản. Không nhắm vào mục đích lay chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa
số những nạn nhân đều bị giết một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu
những phần tử đối nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ
so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường phản ứng
của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn, đây đó cũng có
vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó, nhưng tất cả vẫn không đủ
để giải thích được những hình thức giết hại và sự lan rộng của những cuộc thảm
sát ở Huế.
Điều mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề
liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn giản và
không có sự chọn lựa.
Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý đến “ba sự thật”
quan trọng. Có hai điều chính yếu mà khách du lịch nào đến Huế để tìm sự thật về
thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi: cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa
là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán
đơn giản và thường đi ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói
chuyện, thẩm vấn một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa
phương lúc bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh
tái chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người cộng
sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt nhưng đã thoát
chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không thấy rõ
bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không phải vì lý
do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng rút lui ra khỏi
Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên, nhưng những lý do nầy
quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái lại, nếu chúng ta xét lại từ
đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng vừa chiếm được thành phố Huế,
mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ hành quyết này đều là kết quả của một
quyết định và sự toan tính của đảng cộng sản Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những
vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng sản Việt Nam.
SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất
cả các vụ hành quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng,
không phải ở quân chính quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã
chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số thường
dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt động ở tỉnh Thừa
Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ tiêu các nạn nhân ở Huế.
Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy (và ban lãnh đạo trung ương CSVN),
và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như thế nào? Cho đến nay vẫn
không ai biết rõ chi tiết.
SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài việc hành quyết những “cường hào ác bá”, cộng sản đã
giết hại những nạn nhân còn lại một cách bí mật và đã không thèm dấu diếm tội
ác của họ. Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như một pháp trường để hành quyết
tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng trong những ngày đầu tiên Huế bị
chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết được bộ đội và cộng sản nằm vùng loan
báo để đồng bào đến xem. Những mồ chôn trong thành phố Huế tương đối dễ tìm thấy,
vì để chôn người nơi đông đảo rất khó dấu được những soi bói tò mò của người
xung quanh. Tất cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở vùng rừng
núi hoang dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính khiến cho những nơi
này đã được chọn lựa.
Một thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò chôn
sâu trong cát trên bờ biển với sóng biển xoá đi những dấu tích trên chỗ chôn.
Suối Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và chắc hẳn đã làm
cho cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để giết. Khi đến những
nơi này, người quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực
che đậy tội ác của họ.
Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây
là dự định của cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ hành
quyết họ đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể thấy được rằng,
họ đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế, mà chỉ thi hành những mệnh
lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và với tình hình thay đổi lúc bấy giờ.
Một điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để chứng
minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt cộng; Thay vào
đó, những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường xảy ra theo diễn tiến
của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu ra rất rõ và được chia ra vào
ba phần.
Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi chiến thuật trong suốt
26 ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh hành quyết” cũng thay đổi để
thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết luận này tôi đã có sau khi sưu tầm những
tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, phỏng vấn người tù số 1 và hồi chánh, tường
thuật của những nhân chứng còn sống sót, những tài liệu tịch thu được bởi
QLVNCH trên chiến trường, và những đường lối nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam
lúc bấy giờ.
Chiến lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam -
PRP) cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân lệnh phát
hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải nhất quyết phối hợp các
thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm được thành phố. Cấp tố trang bị vũ
khí cho các cán bộ chính trị cũng như dân sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh
xuống đến quận hạt, phường khóm, thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ
cấu để yểm trợ quân đội khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không,
và nâng cao tinh thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân phản
công...”
Đây là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những ngày
sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết khác nhau.
Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn công, Quân Đội
Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, nhà tù và tất cả
các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy … Quân Đội Nhân Dân đã trừng trị đích
đáng những tên tay sai ác độc của quân ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố,
bắt giữ những tên phản động, phản cách mạng, và đánh xập đổ chánh phủ ngụy hà
hiếp nhân dân …”
Trong thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố Huế, những cán bộ chính trị cộng
sản, tháp tùng bởi các toán hành quyết, đi bắt và giết sạch các yếu nhân của tỉnh
Thừa Thiên để chánh phủ VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt Cộng rút lui ra khỏi
thành phố. Đây là giai đoạn “hành quyết theo sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng
lên, buộc tội, và hành quyết một cách chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện,
tay cầm danh sách và địa chỉ của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành phần
mà chúng gọi là “phản cách mạng”.
Những phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc trong vườn
rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử thường chỉ cần 10
phút để VC tuyên truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào được
trắng án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử bắn
ngay tại chỗ. Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu xin.
Những người bị bắt xữ theo lối này, nhiếu nhất là các công an, cảnh sát của
thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và binh sĩ, và những người
không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là những vị lãnh đạo của các đảng
phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của chiến
dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam. Hủy
diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra trong các làng xã trong suốt 10 năm
trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt động đã được chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng
chỉ chờ cơ hội để thi hành những dự tính này mà thôi.
Tuy nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất nhiếu
người trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết. Suốt cuộc
chiến 24 ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất bận rộn truy lùng
tìm bắt tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó, họ đã chuyển mọi nỗ lực
vào các công tác mới khi đã không bắt được hết tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ
dàng (nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã nhận những
bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng bằng sông Cửu
Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có thể giữ được thành phố
Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã không dám nghĩ đến quyết định tử
thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin như
thế. Một thông tin mật của cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày Mồng Hai
tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết tâm tử thủ Huế, đã
tuyên bố như sau:
“Một giai đoạn mới trong lịch sử, một cuộc cách mạng đã bắt đầu
(vì chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để kết
thúc cuộc giải phóng trong thắng lợi vinh quang.”
Tờ báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế:
“Như một
tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các tay sai đế quốc Mỹ
… Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng
đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ đã
trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các chiến sĩ cách
mạng.”
Đương nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần chúng,
thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng cộng sản là như
thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là ước nguyện của đảng cộng
sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi
chánh viên, cũng như bắt được làn sóng để nghe lén những mật tin của cộng sản,
các cán bộ cao cấp cũng như lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ chiếm giử
thành phố Huế mãi mãi, và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn lại
và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ thị mới được
ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán bộ Việt cộng đi truy
lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có nghĩa là, bất cứ những cá nhân
hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực để đi ngược lại đường lối của đảng
trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ
đen” nữa, mà ủy thác toàn quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này,
mục tiêu không còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp trong xã
hội.”
Như đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc nào
cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người trí thức, lãnh
tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo (các cao
tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các đảng phái, các tổ chức xã hội (đàn
bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả những sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì
gia đình khá giả thuộc loại tư bản.
Cũng như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản. Trong một
trường hợp khá nổi tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như sau:
Một toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị trong
thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ, hai
người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng bị bóp cổ cho chết, con
chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà dãy dụa
chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một
“cơ cấu xấu của xã hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai
cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả
còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng
sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống
cộng, đã không màng đến CSVN.
Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản
như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng
sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo
lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa
cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỷ 1920, 1930.
Huế không màng biết tới
cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các
chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn
vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý
thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có
chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng
Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu
với nhân tánh như đạo Phật.
Vì thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi chủ
nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi bởi những
giới trí thức khác hay tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay vì bị hất hủi, họ
đã bị loại hẳn ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với sự trung thành và tin tưởng
tuyệt đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm cách trả thù và san bằng những sự
khác biệt này. Những người trí thức còn sống sót đã phải trả một giá rất đắt
cho bài học này, từ đó họ đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu không là một
chủ thuyết chính đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng tín vô thần rất nguy
hiểm!
Trong giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó vẫn
chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì đã hiểu
rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay chuyển trong cuộc
chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội (bị QLVNCH nghe được) bởi
đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin ban tham mưu hành quân cho phép
được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày
hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra,
nhưng rất yếu ớt, không gây thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24
tháng Hai, Thành Nội được giải tỏa khi VC bị đánh bại.
Từ tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến. Khi đó,
giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang chứng. Có thể
trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm vùng ở Huế đã bị lộ
mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù đã không bao giờ bị nghi ngờ
là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay
cộng sản). Chuyện thường tình như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi
biết được người hàng xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ
MTGPMN (hắn là một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết ông ta 18 năm
nay, mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động chính trị như vậy.” Những
người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ diện mỗi khi không có ai hay biết
để giữ kín tông tích của mình.
Vì thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”. Có thể giai đoạn này, số
nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do này. Những người trước đó bị bắt đi
học tập với ý định ban đầu là sẽ thả họ về. Nhưng vì là dân làng, cũng như những
tên cán bộ nằm vùng đã bắt họ; tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ này giờ đã
lộ. Vì thế, họ đã phải chết, không phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng
vì họ sẽ trở thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là
nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học sinh
trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biển.
Việc tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao, dựa
trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ vẽ lại một
hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường không đơn giản như
bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian những vụ hành quyết dựa vào “sổ
đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có những chuyện trả thù theo “đường lối công
bằng của cách mạng”. Và chắc chắn cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những
cán bộ với người họ ghét bỏ!
Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ
ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những toán
nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và kêu gọi những
tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân ngụy ra đầu hàng. Những tên
ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.”
Ở Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không phải do
bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán bộ ở Huế bất mãn
với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải
Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài
đã phát thanh rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng
tay vào máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
giết hại vào tháng Ba tháng Tư.”.
Những lời tuyên truyền này sau đó đã được
thay thế bởi một lý do khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh
chấp giữa các đảng phái ở Huế mà thôi.”
trích từ "Viet Cong Strategy of Terror” trang 23 đến trang 29
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
(Thứ nam của Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Ðại Học
Texas Tech, Texas, U.S.A
Nguồn:
http://www.trinhanmedia.com/2013/01/xuan-ve-hay-nho-en-nhung-oan-hon-tren.html
No comments:
Post a Comment