Tuesday, January 29, 2019

GIÓ BỤI MỘT THỜI

Bút Ký PHAN XUÂN SINH


South Vietnamese soldiers march in 1973 in the Mekong Delta in Vietnam.
Photo by David Hume Kennerly/Getty Images

Tôi rời Đà Nẵng gần cuối năm 1974 để vào sống tại Sài Gòn. Trong dự trù, sau khi giải ngũ tôi được lãnh số tiền trợ cấp hàng tháng để yên tâm đi học trở lại. Số tiền nầy dư giả cho tôi trang trải mọi chi phí về chuyện ăn ở tại Sài Gòn mà không cần sự trợ cấp của gia đình. Tất cả hồ sơ giải ngũ của tôi từ Trung Tâm I Quản Trị được gửi vào Trung Tâm III Quản Trị. Nếu không có biến chuyển gì thì tháng 4 năm 75 tôi sẽ ra Hội Đồng để duyệt xét mức độ tàn phế. Thế nhưng chiến cuộc leo thang, mọi dự định liên quan đến cuộc đời tôi đều trật. Tháng 3 Đà Nẵng mất, suốt ngày tôi lang thang ngoài phố, ngồi các quán café Thu Hương, Thanh Bạch v. v… ở đường Lê Lợi tìm người quen mới chạy thoát vào Sài Gòn, để hỏi thăm tin tức liên quan tới Đà Nẵng, liên quan đến gia đình đang kẹt lại. Mọi tin tức tôi thu lượm được đều xấu. Tối về mở radio để nghe BBC hay VOA về tình hình chiến sự ngoài đó, tôi đều thất vọng. Làn sóng di dân vào phía Nam bằng mọi phương tiện nhiều vô kể, trong đó những thảm cảnh xẩy ra cho người dân không ít. Chỉ có người dân gánh chịu mọi hậu quả tang thương nhất trên con đường chạy loạn.

Một hôm, ngồi một mình trên chiếc ghế kê sát vỉa hè của quán Thanh Bạch, tôi gặp Cường đang đi trên hè phố, mặc bộ đồ lính của Trinh Sát Trung Đoàn 51, lon Trung Úy màu đen trên cổ áo. Bộ đồ lính thân quen với tôi, đến khi tôi bị bỏ cuộc tại chiến trường, mới rời nó. Tôi đứng dậy gọi Cường. Cường đứng lại nhìn tôi rồi chạy lại ôm tôi. Hai đứa ràn rụa nước mắt, không ngờ rốt cuộc hai đứa lại gặp nhau tại Sài Gòn. Cường không ngờ rằng tôi vào được Sài Gòn giữa lúc tình thế hổn loạn như thế nầy, với tấm thân tật nguyền của tôi, chứ Cường không biết tôi đã vào trước. Còn tôi không nghĩ gặp lại Cường vì đơn vị của Cường lúc đó đang trấn thủ tại địa đầu giới tuyến, không cách nào thoát được. Cường cùng một khóa với tôi ở quân trường Thủ Đức, hai đứa ra cùng một đơn vị đại đội Trinh Sát của Trung Đoàn 51/ Biệt Lập, đóng quân tại Quảng Nam. Sau khi tôi bị thương trong Mùa-Hè-Đỏ-Lửa 1972 thì đơn vị ra Huế sáp nhập vào Sư Đoàn 1. Sư Đoàn 3 vào Quảng Nam thay chỗ của Trung Đoàn 51 cũ.

Tôi nhớ lại lúc mới ra trường, Cường với tôi làm trưởng toán viễn thám. Lúc nào nhảy viễn thám thì đi riêng theo toán của mình, còn lúc nào hành quân diện địa thì đi chung với nhau. Cường bao giờ cũng mang đầy đủ đồ đạc trong ba lô nặng trĩu khi đi hành quân, còn tôi sợ mang nặng nên đồ đạc mang theo đại khái. Trời lạnh tôi hay rúc vào chăn của Cường, hay khi dừng quân ăn cơm Cường bao giờ cũng chia cho tôi những đồ ăn mang theo. Tội nghiệp con bồ của nó ở Sài Gòn lấy chồng khác, làm cho nó mất ăn mất ngủ mấy tháng. Nó nói với tôi là tụi nó yêu nhau khi còn đi học hơn hai năm rồi, ăn nằm với nhau như vợ chồng thế mà vẫn chia tay dễ dàng. Tôi nói đùa với nó là bởi vì mầy ăn nằm với con nhỏ thường xuyên, bây giờ mầy ở xa làm sao nó chịu nổi. Chẳng lẽ đêm nào cũng nằm chàng hảng chờ mầy sao? Đâu được, phải kiếm ngay một thằng khác để làm chuyện đó chứ. Con gái như vậy mới thực dụng, yêu mấy thằng tác chiến làm gì cho khổ, trước sau gì cũng chết, rồi chít khăn tang, rồi cô nhi quả phụ, đủ thứ lỉnh kỉnh, rắc rối cuộc đời. Lấy một thằng lính kiểng ở Sài Gòn khỏe re, đêm nào cũng bắt nó làm tình cho bỏ ghét. Cái lý luận cùn của tôi coi vậy mà thằng Cường tin phong phóc. Sau khi ăn cơm chiều, 5 thằng sĩ quan viễn thám ra ngồi trước hiên hút thuốc. Cường nói với tôi là ‘tau nghĩ đi nghĩ lại mấy ngày nay, mầy phân tích đúng, thôi thì để cho nó lấy chồng cho rồi chứ chờ mình biết khi nào mới xong’. Mấy thằng ngồi quanh cười hể hả bắt tay Cường như chia sẻ một chút đắng cay.

Chúng tôi ngồi trước quán Thanh Bạch mấy tiếng đồng hồ, kể cho nhau nghe về chuyện của đơn vị, chuyện riêng tư, chuyện thiên hạ. Nghĩa là nhớ đâu kể đó, nhớ đâu hỏi đó. Tôi hỏi Cường về Sài Gòn có gặp lại con bồ cũ của nó không? Nó cười cười khoái chí: “Em nghe tau về có qua thăm, em khóc dữ lắm. Em bảo là gia đình của em bắt em phải lấy thằng đó cho an toàn. Còn tau ở tận ngoài Vùng I, chỗ khỉ ho cò gáy, chết sống mong manh. Chờ làm chi cho uổng đời con gái. Có một điều lạ, là khi gặp lại em, trong lòng tau dửng dưng hết sức. Em bảo là muốn có với tau một đứa con, nên tau chìu ý em. Sau khi thằng chồng đi làm là em qua nhà tau ở tới chiều, ngày nào cũng vậy. Thôi thì mình cũng làm ơn, làm phước một lần”. Nghe cái giọng đểu cáng của nó, làm cho tôi khựng lại. Một thằng khi mới ra đơn vị hiền lành, ngô nghê, bị mấy thằng lính chọc quê. Thế mà trong vòng mấy năm chiến trường trui rèn cho nó trở thành một con người cứng cỏi, lọc lừa như vậy.

Cường kể cho tôi nghe về chuyện bỏ Huế ra đi, nó không ngờ tan hàng nhanh quá trong lúc các đơn vị vẫn còn đóng quân tại chỗ. Đài phát thanh Huế kêu gọi các đơn vị tử thủ để giữ Huế. Trên máy truyền tin cấp chỉ huy ra lệnh không được di chuyển đơn vị, nằm yên tại chổ chờ lệnh. Chờ dài cổ không có lệnh lạc gì cả, gọi lại Phòng 3 trung đoàn, sư đoàn, thì không liên lạc được vì nơi đó tắt máy yên lặng. 7 giờ tối nghe BBC mới biết Huế sắp mất. “Quần Thần lơ láo” mạnh ai nấy chạy. Cường hỏi tôi:

— “Mầy còn nhớ thằng Thẻo không?”

Tôi gật đầu. Thẻo là hạ sĩ mang trung liên của Trung Đội Viễn Thám, nhà ở Cầu Hai, gia đình làm nghề đánh cá. Thẻo dẫn Cường chạy theo nó về nhà ở Cầu Hai rồi lấy ghe đưa Cường vào Lăng Cô, để nhập vào đoàn người chạy loạn vượt đèo Hải Vân vô Đà Nẵng. Từ đó Cường may mắn leo được lên tàu hải quân vào Vũng Tàu. Trong những ngày gần cuối tháng 4 năm 75 tụi tôi sáng nào cũng đi uống café, chiều thì làm vài xị đế, nói chuyện đủ thứ trên đời, vui buồn, cười đùa, hằn học v. v… phần nhiều nói về đơn vị cũ. Sau nầy có một thằng bạn của Cường phục vụ tại tiểu khu Quảng Nam cấp bậc thiếu úy, chạy thục mạng, qua bao nhiêu gian truân mới vào được tới Sài Gòn. Nhập bọn với tụi tôi. Nó biết tôi là dân Đà Nẵng, nên cay đắng kể cho tôi nghe về những giờ phút hấp hối của Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3. Nó kinh tởm kể về những cấp chỉ huy hèn mạt của nó: Ngồi trên tàu cùng với vợ con chuẩn bị chạy vào Sài Gòn, mà vẫn ra lệnh trên máy truyền tin cho các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Đến giờ phút cuối mà còn lường gạt thuộc cấp của mình một cách hèn hạ như vậy, thì thử hỏi làm sao đất nước không rơi vào tay cộng sản nhanh chóng được. Tụi tôi những thằng sĩ quan cấp bậc tép riu, chỉ huy những đơn vị nhỏ, trấn giữ các tiền đồn heo hút làm sao chạy kịp. Khi đã biết mình bị bỏ rơi, thì liều mạng mở đường máu. Còn nếu không còn cách nào khác thì cùng với anh em, bắn tới viên đạn cuối cùng rồi tự tử. Tôi ngồi nghe mà thấm đau. Những nhọc nhằn, nghiệt ngã đối với anh em chúng tôi trong giờ phút cuối cùng của cuộc chiến, nó giống như những vở kịch mà người ta mang những mặt nạ cho thích nghi với cuộc sống, thay lên đổi xuống không ngượng ngập. Đầu óc của anh em chúng tôi trong veo, cả tin và chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của thượng cấp. Ngồi kể cho nhau nghe mà lòng của tụi tôi đầy ngán ngẫm, mọi thần tượng trong quân đội trước đây tụi tôi rất kính trọng, bây giờ đều sụp đổ.

*

Một lần ngồi uống rượu ngà ngà, Cường hỏi tôi có còn nhớ lần nhảy viễn thám ở quận Đức Dục không? Nghe nhắc lại tôi tỉnh người ngay. Làm sao tôi quên được một kỷ niệm khó quên. Lúc đó tôi và Cường mới về đơn vị. Trung đội tôi được chia thành ba toán để đi nhảy viễn thám. Tôi, Cường và Sơn (Sơn ra đơn vị trước tụi tôi ba tháng) là toán trưởng của ba toán đó. Toán của tôi nhảy đầu, tôi vừa từ trực thăng nhảy xuống thì nghe tiếng hô “xung phong” vang dội núi rừng. Thằng lính truyền tin chỉ kịp bấm vào ống liên hợp của máy PRC25, báo cho đại đội biết là toán đã bị phát hiện, rồi tháo máy vất lại đó bỏ chạy. Sau nầy tôi được Cường cho biết là toán của tôi bị phát hiện nên hai toán còn lại rút về ngay, chứ không nhảy viễn thám bữa đó. Trong 5 thằng tụi tôi trên người chỉ còn lại bộ đồ đang mặc còn tất cả vất hết. Vì phải lo thoát thân ra khỏi vùng bị phát hiện nên không biết địa hình và phương hướng. Từ sáng chạy tới chiều, mọi người mệt lả mới tìm chỗ nghỉ chân. Khi tỉnh người lại tôi mới thất kinh, bây giờ tôi làm sao định hình để tìm điểm đứng của mình hiện tại, núi rừng trùng trùng điệp điệp trên tay không có máy truyền tin, súng ống, bản đồ, la bàn v.v… Chuẩn úy mới ra lò, kinh nghiệm chiến trường không có, mà lại cầm mạng sống của năm thằng lính ngu ngơ như mình. Tôi không biết phải tính sao với cái vốn liếng chiến trường là con số không nầy, chỉ biết ngữa mặt lên trời phó thác cho số mạng. Lúc nầy tôi mới thấy sợ, đang ở trong vùng địch đóng mà trên tay không có một tấc sắt hộ thân, chỉ biết trông cậy vào đôi chân “chạy” của mình.
Những bài học về “Mưu Sinh Thoát Hiểm” ở quân trường Thủ Đức sợ quá bay đi đâu mất. Trong đầu cũng chẳng còn một chút xíu nào trang bị cho một người lính khi gặp hiểm nguy. Tôi tự trách mình, khi học ở quân trường xem thường các bài học về chiến thuật, cứ ngủ gà ngủ gật, đêm ngày cứ lo viết thư tình cho mấy con bồ, không để tâm trí cho cái chuyện “làm quan” của mình, cái chuyện chết sống của đời mình. Tôi nghĩ trong đầu, nếu có dịp trở về Thủ Đức để học lại, hay tu nghiệp tôi sẽ không bao giờ bỏ sót một tiết học nào. Thế nhưng bây giờ thì quá muộn.

Ngồi nghỉ chừng một tiếng đồng hồ, tôi hỏi chung chung:

— “Bây giờ mình đi, hay ngồi nghỉ ở đây?”

Hợi (trung sĩ, toán phó) trả lời:

— “Chạy từ sáng tới giờ, chân tay bủn rủn đứng không nổi thì làm sao mà đi được. Để anh em nghỉ đêm ở đây rồi mai tính sau, Thiếu úy ạ.”

Thường thường trong các đơn vị quân đội, các thuộc hạ hay gọi chỉ huy của mình lên một cấp bậc. Nghe nó gọi mình là “Thiếu Úy”, trước đây thì không sao, nhưng bây giờ tôi thấy nó mỉa mai quá. Một thằng sĩ quan ngu ngơ, mặt mày búng ra sữa mà chỉ huy bốn thằng kinh nghiệm đầy mình trên trận mạc. Tự nhiên sao tôi cảm thấy thẹn quá. Để đỡ bớt chút thẹn thùng nầy, tôi nói:

— “Thôi được, mình di chuyển vào phía trong, tránh đường mòn xa xa để họ khỏi phát hiện. Tìm một lùm cây, anh em mình nằm chung với nhau, sống thì sống hết, còn chết thì cũng vậy cho có bạn”.

Thằng Hải Con (sau nầy nó làm tài lọt cho tôi) xoay qua tôi:

— “Đi hành quân, đừng nói chuyện “chết”, xui lắm Thiếu úy ơi!”.

Tôi làm thinh, cùng với anh em đi tìm chỗ nghỉ. Tôi không tài nào ngủ được, một tiếng động nhỏ cũng làm cho tôi hết hồn. Nhìn qua bên cạnh, tôi thấy mọi người đều ngủ say, hình như họ quen với chuyện hiểm nguy, nên cứ tỉnh bơ. Còn tôi lần đầu tiên gặp hoàn cảnh nguy kịch nầy, sợ hãi và lo lắng không làm cho tôi chợp mắt được. Tôi ngồi dậy bò ra bên ngoài dựa lưng vào gốc cây, lấy nón lưỡi trai che kín để hút thuốc vừa canh chừng cho anh em ngủ. Hít một hơi thuốc thật dài, tôi thấy nó “đã” làm sao đâu, một hơi thuốc mà cả ngày không đụng tới, không thấy thèm, không nghĩ tới nó vì vừa sợ, vừa chạy. Còn bây giờ được ngồi yên một chỗ, định thần trở lại, bụng đói meo nhưng điếu thuốc cần hơn. Lật đồng hồ trên tay, bây giờ mới 5 giờ chiều mà núi rừng đã tối mò, còn một đêm dài dằng dặc phải nghĩ ra cách thoát khỏi nơi đây. Nhớ lại cái thời Đông Châu, nghĩ cái chuyện thoát thân thôi mà Ngũ Tử Tư sau một đêm đầu bạc trắng. Còn tôi bây giờ không biết có được may mắn như ông không? Sau một đêm phờ phạc, chẳng nghĩ ra được cách thoát thân, hay sớ rớ bị họ tóm cổ. Tôi thông cảm tâm trạng của người trong tư thế cùng đường, vì chính tụi tôi đang ở trong tình huống nầy. Sau nầy qua Mỹ, tôi có làm một bài thơ về nhân vật nầy:

"Ngài vượt qua cửa ải thoát thân,
Ta cũng trốn chạy năm lần bảy lượt.
Cái nguy của ta Ngài đâu sánh được,
Rừng thẳm bể sâu tan xác như chơi.

Ta mạt kiếp kẻ bất phùng thời,
Sống chết trong đường tơ kẽ tóc,
Thân rời rã, hồn xiêu phách lạc,
Mê man mù tịt cõi đi về".


Nửa đêm, tất cả đều thức dậy thầm thì bàn chuyện thoát thân. Tôi đề nghị, phải tìm cho ra một con suối rồi men theo bờ suối đi xuống đất liền. Để giải quyết tình trạng”khát nước” của tất cả anh em, còn “đói” có thể chịu đựng được vài ngày. “Còn tới được đất liền, thì đi đâu?”, một thằng toán viên làm khó tôi? Hỏi một câu mà tôi chưa nghĩ ra được cách trả lời. Tôi buộc miệng:

— “Nhắm hướng mặt trời mọc mà đi”.

Trời ơi, sao tôi thông minh quá vậy. Bài học ngày xưa thời tiểu học mà không biết đấng vô hình nào nhắc cho tôi nhớ lại. Miền Trung của tôi phía tây giáp núi, phía đông giáp biển. Cứ theo hướng đông mà đi thế nào cũng gặp Quốc Lộ I, con đường xuyên Việt nầy là cái xương sống của đất nước, bao giờ cũng được lính Quốc Gia bảo vệ. Từ toán Phó cho tới toán viên mới bắt đầu tin tưởng vào tôi, thằng chuẩn úy non sữa nầy cũng còn có chút thông minh, đáng tin cậy được. Tôi nói với trung sĩ Hợi ‘áp tai xuống đất nghe xem có tiếng nước chảy gần đây không?’ Hợi làm theo lời tôi và nói ‘có nghe nhưng chắc còn xa lắm, vì tiếng kêu quá nhỏ’. Tôi bảo ‘cứ 15 phút thì áp tai một lần, nếu không nghe tức là mình đi trật hướng, còn nếu nghe tiếng nước rõ hơn, tức là mình đi đúng hướng’. Thế mà tìm ra được con suối chúng tôi phải mất gần 5 tiếng đồng hồ. Tới nơi, việc đầu tiên là uống một bụng nước, tắm rửa nghỉ ngơi, sáng hôm sau đi tiếp. Đường trên núi thì chúng tôi ngày đi đêm nghỉ, còn dưới đồng bằng thì ngược lại ngày nghỉ đêm đi. Thật tình thì chúng tôi di chuyển rất chậm, đường trên rừng núi phải luồn lách để vượt qua và giữ cự ly với con suối để giải quyết tình trạng khát nước của anh em.

Một lần chúng tôi đi gần vào chỗ đóng quân của quân ‘giải phóng’ (tôi đoán như vậy). Vì chúng tôi thấy họ tắm giặt dưới suối. Tìm một bụi cây rậm rạp, cách con suối 50 mét chúng tôi nằm yên bất động, để chờ không còn người nào thì chúng tôi mới di chuyển tiếp. Đây là lần đầu tiên tôi mới chạm mặt với những con người của ‘giải phóng quân’. Buồn cười nhất, có một người vắt cái khăn trên vai, vừa đi vừa nghêu ngao hát “Em ơi, nếu mộng không thành thì sao. Non cao đất rộng biết đâu mà tìm…”. Bản nhạc Duyên Kiếp của Lam Phương, bản nhạc mà tụi tôi sau nầy hay đùa là nó cũng đã vượt lằn ranh của thù hận, tụi tôi nhìn nhau mĩm cười. Người anh em bên kia chiến tuyến cũng tình tứ quá đi chứ. Sau lớp đàn ông tắm xong, thì tới lớp đàn bà tắm. Con mắt mấy thằng tụi tôi muốn nổ tung, vì cái cảnh thay áo quần của họ.

Gần ba ngày sau, chúng tôi mới xuống được đất liền. Sức khỏe của anh em rất bệ rạc. Tôi bảo với trung sĩ Hợi là leo lên cây thật cao để quan sát tình hình chung quanh, đến chạng vạng tối là tụi tôi di chuyển thật nhanh. Đêm hôm sau vào lúc 1 giờ sáng chúng tôi tới được một khu nhà tranh cách một cái đồi chừng 500 mét. Đói quá không còn chịu nổi, chúng tôi mò vào nhà bếp của một trong những căn nhà đó để tìm cơm nguội. Không ngờ một ông cụ trong nhà phát hiện. Ông nằm trên nhà nói vọng xuống bếp:

— “Mấy ông là Quốc Gia hay Giải Phóng?”.

Thằng Hải bò lên gần cửa nhà trên, trả lời nho nhỏ:

— “Quốc Gia”.

Ông thắp đèn dầu đi xuống bếp, rồi cũng nói nho nhỏ cho chúng tôi đủ nghe:

— “Đi khỏi đây nhanh lên, căn cứ West đóng trên ngọn đồi đã mất cách đây mấy ngày”.

Thằng Hải nói:

— “Đói quá bác ơi, năm ngày ni không có hạt cơm bỏ bụng, làm sao đi nổi. Bác làm ơn cho tụi con một chén cơm được không?”.

Ông già gật đầu, bảo tụi tôi lên nhà trên ngồi ở đó rồi ông nấu cho một nồi cơm, rang một lon đậu phụng, xong mang chén đũa lên nhà trên cho tụi tôi ăn trong bóng tối. Ông chỉ cho tụi tôi chạy theo đường mòn trước nhà, chừng 5 cây số sẽ thấy một cái đồn nghĩa quân. Chúng tôi không ngờ gặp được một người tốt như vậy. Quốc gia hay cộng sản đối với người dân vùng nầy lúc đó chẳng có gì quan trọng, miễn sao để cho họ yên thân, còn bên nào cũng được. Tôi hứa trong lòng có dịp trở lại vùng nầy, tôi sẽ tìm gặp ông, cám ơn ông thật nhiều mà trong lúc nguy biến gấp quá, chúng tôi không nói gì được. Làm sao phải trả lại ông một món nợ vô cùng to lớn mà ông đã giúp cho chúng tôi trên con đường sinh tử của chiến tranh. Nghĩ vậy nhưng không bao giờ có một dịp gặp lại ông lão ấy. Một điều lạ, sau khi ăn uống xong trong người thấy phục hồi ngay, có lẽ vì quá sợ sẽ bị bắt nếu chần chờ trễ nãi, vì vậy đứa nào cũng cảm thấy đủ sức chạy đường dài. Chạy đến 5 giờ sáng chúng tôi mới nhìn thấy đồn nghĩa quân hiện ra giữa cánh đồng mờ mờ, bao bọc chung quanh nhiều lớp concertina.

Dừng lại giữa đường, tôi nói với tất cả anh em là mình ra nằm ngoài bờ ruộng, vì đứng lại trên đường rất nguy hiểm. Một phần sợ nghĩa quân trong đồn bắn ra, một phần sợ du kích phát hiện, chúng tôi cùng nhau bò ra bờ ruộng để chờ trời sáng, nằm trong tư thế yên lặng. Khi mặt trời bắt đầu lên, mọi vật đều trông thấy rõ ràng, tôi giơ cao áo thun trắng cho lính gác trong đồn trông thấy, chúng tôi đứng trên bờ ruộng chờ đợi. Tôi thấy anh em nghĩa quân chạy ra giao thông hào trong tư thế sẳn sàng tác chiến, mọi họng súng chỉa đến chúng tôi. Một người lính trên vọng gác ra lịnh cho tụi tôi chỉ một người đến gần hàng rào nói chuyện, còn mấy người kia đứng yên tại chổ. Tôi bước đến trước nói chuyện với một người chỉ huy trong đồn (tụi tôi sau nầy mới biết đó là Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân).
Tôi cho anh biết tên đơn vị của chúng tôi, nhảy viễn thám bị Việt cộng phát hiện nên phải chạy thoát. Bây giờ nhờ anh liên lạc giùm để cho trực thăng đến đón chúng tôi. Anh vào trong trại gọi máy chừng nửa giờ rồi bước ra báo cho tôi biết một giờ sau trực thăng sẽ tới. Anh ra lệnh cho anh em trong đồn ra mở cổng cho tụi tôi vào bên trong. Khi vào trong đồn lúc ấy tụi tôi mới chắc chắn mình còn giữ được mạng sống. Anh nấu nước mời chúng tôi uống và hỏi chuyện đủ thứ. Trong lời nói chuyện anh rất nể nang chúng tôi, vì anh nghĩ hai chữ “Trinh Sát” của tụi tôi đang mang là thuộc loại lính thứ dữ, chứ anh đâu biết bây giờ tụi tôi chỉ là những con “thỏ đế” run sợ trước mọi thứ. Tôi thầm khâm phục tinh thần của anh em Nghĩa Quân, sự chiến đấu dũng cảm của họ giữa cái đồn heo hút, súng ống không đầy đủ, lương bổng chẳng bao nhiêu và mọi thứ đều thiếu thốn, thế mà họ là mối khiếp sợ của du kích trong vùng đó. Sức chiến đấu gan lì của họ không thua gì các đơn vị chủ lực.

Anh lính Nghĩa Quân gác ngoài cổng gọi vào cho biết, có ba chiếc trực thăng trên bầu trời. Tụi tôi mừng quá chạy ra bên ngoài nhìn lên, tất cả đưa tay vẫy. Tôi nói với anh Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân cho tôi xin một trái lựu đạn khói, rồi bảo một người lính của tụi tôi chạy ra tìm một bãi trống ném trái khói ra đó để trực thăng đáp. Chúng tôi lần lượt bắt tay từng người lính Nghĩa Quân và nói lời cám ơn, rồi ra bãi chờ trực thăng bốc. Một chiếc sà xuống bãi để bốc chúng tôi, còn hai chiếc gunship bay phía trên làm nhiệm vụ yểm trợ. Leo lên được máy bay chúng tôi đưa tay vẫy chào các anh Nghĩa Quân trong đồn. Khi máy bay lên cao độ nhìn xuống tôi mới biết cái đồn nghĩa quân nầy heo hút thật. Tội nghiệp những con người chiếu đấu âm thầm không một lời than thở!

Bay chừng nửa giờ, chúng tôi nhìn xuống thấy phi trường trực thăng của trung đoàn phía dưới, phi trường thân quen mà chúng tôi từng đi hành quân viễn thám hay diều hâu bằng trực thăng. Trông thấy lính đứng lố nhố dưới sân bay, tôi biết anh em trong đại đội trinh sát ra đón chúng tôi, tâm trạng buồn bã của mọi người trong 5 ngày mất tích của tụi tôi, như “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Họ mừng biết mấy thấy chúng tôi trở về, tâm trạng của những người cùng cảnh ngộ thương nhau lắm.

Chúng tôi bước xuống máy bay, cả đại đội ào ra ôm lấy tụi tôi. Mừng mừng, tủi tủi như người chết đi sống lại. Đại Úy Điệp, đại đội trưởng của tụi tôi đến bắt tay rồi ôm tôi, ông nói những lời khen tôi sẽ là một sĩ quan giỏi sau nầy. Tôi không có dịp thể hiện bài học Lãnh Đạo Chỉ Huy mà trong quân trường đã dạy, không ra một mệnh lệnh nào để cả toán chúng tôi tránh được sự truy lùng của Việt cộng. Chỉ biết chạy và trong cái may mắn đó là trên con đường di chuyển chúng tôi không đối mặt với họ. Thế thì tôi không biết làm thế nào tôi trở thành một sĩ quan tác chiến giỏi được. Tôi cúi mặt cảm thấy thẹn thùng với lời khen tặng đó. Trong trung đội viễn thám của tụi tôi các sĩ quan ở chung một phòng. Trung đội trưởng là Thiếu Úy Âu (khóa 24 sĩ quan Đà Lạt, Âu cũng học một lớp với tôi thời trung học), trung đội phó là Thiếu Úy Nguyên. Sơn, Cường và tôi chuẩn úy làm trưởng toán. 8 giờ tối ngày hôm đó, mệt quá tôi lo đi ngủ trước, còn những người khác ngồi đánh domino. Đang thiu thiu thì Sơn dựng tôi dậy bảo là Đại Úy bồi dưỡng cho mầy, ngồi dậy ăn. Tôi nhìn trên bàn có một dĩa thịt gà lớn và một soong cháo. Thằng lính làm ở Câu Lạc Bộ mang đồ ăn cho tụi tôi. Sơn nói với nó là xuống lấy 1 lít đế lên, ghi sổ cho Thiếu Úy Âu thiếu chịu. Âu hỏi Sơn ‘tại sao lại ghi chịu cho tau’. Sơn giải thích là ‘Đại Đội Trưởng bồi dưỡng thức ăn thì Trung Đội Trưởng phải bồi dưỡng rượu chứ. Âu gật gù bảo với thằng lính còn đứng đó, mang cho tau 3 lít, để tau cho tụi nầy chết đêm nay. Thế là anh em tụi tôi ngồi uống tới sáng.

*

Tuổi trẻ của tụi tôi thế đó, được trui rèn và trưởng thành trong chiến tranh. Ngụp lặn giữa một biển lửa ngùn ngụt thiêu hủy tất cả. Sống sót được đó là một phép lạ. Tôi nhìn Cường ngồi gật gù trên ghế, mới có 6 năm trong chiến trường, mới có 27 tuổi đầu trông như một ông cụ non. Cái hồn nhiên không có trong tuổi trẻ của chúng tôi, mà hạt mầm nầy nó đã chai cằn và lụi tàn trong bệnh hoạn. Những gì nhớ lại đã trải qua trong thời chinh chiến, nó giống như một cơn lốc cuốn phăng tất cả chỉ còn để lại hoang tàn đổ nát cho một đất nước điêu linh, lòng người tan vỡ.

Dallas, 30 tháng 7 năm 2007

Phan xuân Sinh

* (Bài thơ nầy trong tập “Đứng Dưới Trời Đổ Nát”, so sánh cái hiểm nguy của Ngũ-Tử-Tư và cái nguy hiểm của tôi khi tìm đường thoát thân ra khỏi đất nước. Ông thì ra khỏi đất nước nuôi chí lớn rất thành công. Còn tôi thì nuôi chí nhỏ lụn bại suốt cả cuộc đời. Khi viết bút ký nầy tôi thấy cái tình huống tương đối giống nhau nên tôi để mấy câu thơ vào.)

http://saigontimesusa.com/bai/vanchuong/1411b.shtml

Bút Ký PHAN XUÂN SINH



===============================

MƯA ĐÊM NGOẠI Ô - HƯƠNG LAN

https://youtu.be/U_SCOxbptOs





------------------------------

Hành Quân Lam Sơn 719 –TÐ/39/BÐQ




Nhằm mục đích vinh danh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như một tượng đài tinh-thần và cũng để tìm hiểu những sự thực trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam; Trước đây khá lâu, tôi đã viết loạt bài về cuộc hành quân Lam Sơn 719 xảy ra tại Hạ Lào hay Nam Lào vào năm 1971. Loạt bài này, đã có trong Đặc San Không Quân từ 2009-2013, chia thành khoảng 20 tiết mục đặt nặng về hoạt động của trực thăng thuộc LĐ/51/TC, mỗi mục nói về một giai đoạn của chiến dịch quan trọng này.

Vì tôi được vinh dự trực tiếp tham chiến tại Hạ Lào nên bài viết chỉ căn cứ vào các tài liệu thâu thập do chính mắt và sự hiểu biết của tôi cùng phối hợp với tài liệu trên youtube, Internet và sách của học viện quân sự Army Aviation, đương nhiên kém chính xác về bao vùng khắp chiến trận trải rộng và vô cùng sôi động, chấp nhận có thiếu sót so với những điều mắt thấy tai nghe bao quát cuộc hành quân, tuy là nhân chứng có mặt tại chiến trận. Tuy nhiên, cũng rất có thể vì vậy mà bài tường thuật lại có phần khách quan và thú-vị hơn, vì đối với một cuộc hành quân lớn và phức tạp như trận Hạ Lào, một cá nhân dù có mặt tại trận địa cũng rất khó nắm vững được toàn bộ chi tiết các biến cố trên chiến trường dù rằng với lối bay trên chiếc Gunship bằng chiếc thuật cạ càng trên ngọn cây 

Tôi không thể nào không kể lại chiến công của LÐ1BÐQ trong trận chiến Lam Sơn 719: Là định mệnh đặt để cho sự chiến đấu dũng cãm của TÐ39 BÐQ và sự thảm bại của LÐ51TC, có phải do thiên định mà 2 phi hành đoàn của PÐ 213 và 233 phải hy sinh 8 NVPH cho sự nhầm lẫn như dưới đây:

Ðêm 10, February qua chưa … mà trời sao lại sáng! – Trong đôi mắt nhắm nghiền vì quá mệt mỏi cho số phận của hai đoàn viên UH-1H đã bị bắn tan xác vào buổi chiều hôm qua. Tôi bổng giựt mình choàng mở to đôi mắt vì một tràng đại bác bắn yểm trợ hay quấy rối gì đó cho quân bạn của Mỹ. Tiếng của đạn 175 Long Tom không chác chúa bằng 8 inch đang mỗi lúc càng ác liệt thêm lên, 42 khẩu đại bác nầy ở đây Mỹ yểm trợ cho ai? Cho TÐ39 BÐQ ở Landing Zone Ranger North, nơi trực thăng của LÐ51TC bị bắn tan xác khi cuộc hành quân mới bắt đầu đến ngày thứ ba [N+3] Thật không có cái cay đắng nào hơn hôm nay, ngày 10, February, 2 đoàn viên UH1-H đã bị bắn tan xác mà người đơn vị trưởng như tôi chẳng biết ất giáp mô-tê gì cả, Tôi như con Gà đá độ bị thua trận te-tua, ấm-ức xù lông, đang bị giam hãm dưới bốn góc mùng quân đội u-tối xám xịt không lối thoát. Cái nhục đau đớn nhứt là người anh cả không biết tình trạng của con em mình ra sao! Rồi những gương mặt thân thương của hai phi hành đoàn nầy không bao giờ không ẩn hiện trong tâm tưởng tôi như kêu-rêu oán trách đắm chìm trong những cơn ác mộng triền miên! Sáng nay tôi sẽ phải tìm đủ mọi cách để hiểu biết tường tận về tình trạng của con em mình …

Cũng vì sức khỏe của Nhân-Viên-Phi-Hành, đối với BTL Hành Quân, sự tranh đấu cũng không dễ dàng với Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh, TMP/Hành Quân/QÐ1 để cho anh em Trực Thăng không phải đậu tại phi trường Khe Sanh nầy vì cần phải có giấc-ngủ tốt về đêm mới có sức lực yểm trợ cho quân bạn, nên anh em được về Ðồng Hà, Ái Tử ngũ đêm. Một mình tôi chịu trừng phạt bằng những âm thanh nhức óc chói tai nầy bên cạnh TOC và BCH tiền phương Dù cũng đủ bảo đảm cho nhiệm vụ yểm trợ cho ngày mai; Dù sao dựa vào tình huynh đệ chi binh tôi có nói đùa với Ðại tá: “Theo sự hiểu biết của tôi, trong mùa nầy, nếu có buổi sáng nào … Ðại tá thấy sương mù tan trước 9 giờ … Ðại tá đem tôi ra bắn bỏ!” Ðể rồi Ðại tá Vinh rất thông-cảm nhưng miễn sao chu-toàn phi vụ là OK.

Tôi quyết tâm phải tìm hiểu dữ kiện tai nạn ra sao?

Ngày 8 tháng February 1971

- Hồi 1 giờ chiều, TÐ 21 BÐQ do Th/Tá Tiểu-đoàn Trưởng Nguyễn Hiệp được trực thăng vận tới bãi đáp [Landing Zone South] BÐQ Nam, khoảng 5 cs Tây Bắc FSB Ðồi-30, phòng không 12.7 ly của Việt Cộng trên đồi trọc bắn xuống dữ dội khiến 11 BÐQ bị thương; Trực thăng võ trang Cobra của toán Không Kỵ Hoa Kỳ bắn phá các ổ phòng không để bảo vệ cho trực thăng tiếp tục đổ quân [trực thăng vỏ trang P.Ð 213 chỉ chịu trách nhiệm yểm trợ cho quân Dù mà thôi] Các cuộc oanh kích này gây một số tiếng nổ phụ và phá hủy một số công sự của địch. Cuộc đổ quân hoàn tất vào lúc 11 giờ đêm (trong đêm tối phi cơ AC và EC-130B dễ dàng yễm trợ tiếp cận cho quân bạn và không chế, cũng như tiêu diệt các ổ phòng không địch).

- Hồi 7 giờ 20, tại địa điểm XD 632370 gần Căn Cứ Hỏa Lực, Phú Lộc nơi đặt BCH/LÐ1/BÐQ và TÐ 37 BÐQ trú đóng bị địch pháo kích bằng khoảng 50 quả đạn vừa súng cối 120, 82ly cùng đại bác 152, 130ly khiến BÐQ 3 chết và 15 bị thương.

Ngày 9 tháng February - Thời tiết xấu khiến việc chuyển quân bằng trực thăng bị đình hoãn 24 giờ; dù vậy, các đơn vị VNCH khoảng 5000 chiến binh đã sang Lào trong ngày hôm trước đã lập tức bung ra hoạt động trong vùng trách nhiệm cũng như đào công sự phòng thủ chiến đấu.

- Hồi 3 giờ 45 chiều, TÐ/21 BÐQ chạm địch khoảng 1 Ðại Ðội cách 4 cs Tây Bắc CCHL Ðồi-30. Kết quả địch 8 chết, 1 AK 47 bị tịch-thu, phía BÐQ thiệt hại 1 chết, 1 bị thương.
Ngày 10 tháng February - 2 chiếc UH1-H của PÐ/ 213 và P/Ð233 bị bắn tan xác- trong khi thời tiết có sáng sủa hơn.

- Hồi 1 giờ chiều: Tại gần Landing Zone South, BÐQ Nam, một hợp đoàn 4 trực thăng của Liên Ðoàn 51 Tác Chiến, SÐ1KQ chở các SQ Tham Mưu QÐ/I bị phòng không 37 ly của địch bắn cùng phòng không 12, 7 và 14, 5 trên PT-76 bên sườn đồi bắn chéo qua. Kết quả 2 trực thăng bị rơi, tất cả mọi người trên 2 trực thăng này đều bị chết; Chiếc thứ nhất chở các Ðại Tá Trưởng Phòng 3 và 4 của QÐ1. Chiếc thứ ba chở 4 phóng viên ngoại quốc là các anh Larry Burrows của báo Life, Henri Huet của hãng AP, Ken Potter và Keishaburo Shimamoto của tờ Newsweek. Tin cho biết vị Trưởng Phòng 3 có mang theo bản đồ hành quân và đặc lệnh truyền tin, tuy quân ta có lục soát nhưng không tìm ra chỗ trực thăng bị rơi. Do đó địch có thể đã bắt được các tài liệu quan trọng ngay từ khi cuộc hành quân khởi đầu. Ðó là điều mà báo chí tây phương muốn đánh hỏa mù theo ý đồ của một siêu quyền lực trong bóng tối muốn vậy, làm sao ai hiểu được nhóm phản chiến do Jane Fonda và Pentagon do Trung úy Hải quân phản chiến John F Kerry đã cho Hà Nội biết tất cả chi tiết bằng ngôn từ tiếng Việt qua Tam trùng Phạm Xuân Ẩn, chứng cớ hầm dấu vũ khí súng ống đạn dược được đào sẳn chung quanh các CCHL thì rỏ, nơi đây còn là một Trung Tâm Huấn Luyện bổ sung quân số ngay tại chiến trường vào những năm tháng trước ngày thành lập Quân Ðoàn 70B. Hiểu tường tận trận đồ như thế, nên là phóng viên chiến trường nhưng tam-trùng Phạm Xuân Ẩn có dám leo lên trực thăng bao giờ đâu, trái lại trận Ấp Bắc 1963 thì Ẩn khệnh khạng, ung dung ngồi trên trực thăng H-21 bước chân xuống Ấp Tân Thới quan sát, chụp hình hậu quả trận đánh.

Mọi chi tiết về phi vụ trực thăng này được biết như sau: Trong cuộc phỏng vấn ngày hôm ấy, Ðại tá Nguyễn Văn Hiệp cho biết 4 trực thăng của KQVN này có nhiệm vụ đưa các sĩ quan Tham mưu QÐ/I đến Phú Lộc để giải quyết vài trở ngại về vấn đề tiếp tế lương thực cho LÐ/1/BÐQ, vị Trưởng Phòng 3/QÐ/I là Ðại tá Cao Khắc Nhật, Trưởng Phòng 4/QÐ/I là Trung Tá Phạm Vi. Không hiểu vì lý do gì, toán trực thăng bay lạc xa về hướng Tây Bắc tới gần các căn cứ của BÐQ trong phần đất Lào. Khoảng 3 giờ chiều, khi thấy toán trực thăng bay khá lâu mà vẫn chưa thấy báo cáo đã tới Phú Lộc nên tướng Lãm có hỏi LÐ/1/BÐQ; Cùng lúc đó, Ðại Tá Hiệp nhận được tin có hai chiến trực thăng của Việt Nam bị bắn rơi tại Lào. Sở dĩ BTL Hành Quân không biết tin vì hai chiếc trực thăng còn lại bay thẳng về Ðông Hà. Về phía Hoa Kỳ, một trong những phi công trực thăng có mặt tại chỗ là Trung Tá Robert F. Molinelli, Chỉ Huy Trưởng Tiểu-đoàn 2, Lữ Ðoàn 17 Không Kỵ, thuộc Sư Ðoàn 101 lúc đó đang chỉ huy toán trực thăng Hoa Kỳ yểm trợ cho các đơn vị BÐQ trong vùng, cho biết: "Toán trực thăng VN bay quanh theo một khúc sông, nhưng thay vì bay bên bờ Nam, lại quẹo ngược sang bờ Bắc là nơi chúng tôi biết rõ Cộng quân tập trung rất nhiều súng phòng không 37 ly và một đơn vị chiến xa của Trung Ðoàn 202. Lúc đó, toán trực thăng gồm bốn chiếc Hueys, bay hàng dọc hình nất than Trái, tốc độ chừng 90 knots, cao độ 2,200 feet; Chúng tôi thấy rõ toán trực thăng nầy đang bay vào nơi nguy hiểm và đã cố gắng liên lạc trên mọi tần số Guard để báo động, Tôi thấy chiến trực thăng dẫn đầu (trên chở các sĩ quan tham mưu QÐ/I) trúng đạn nổ tung trên trời, còn chiếc thứ nhì (chở các phóng viên) bị bắn bay mất một cánh quạt chính, main rotor qua hình ảnh theo dõi từ vệ tinh cố-định (stationed satellite) chuyển về Pentagon do tướng Haig điều hành.

Ngày 11 tháng February - Ðể tìm kiếm tông tích tai nạn của hai chiếc UH-1H, cùng yểm trợ cho nỗ lực chính trên tuyến xuyên lộ số 9 tiến xa hơn về hướng Tây nhắm vào Tchépone. BTL/HQ quyết định tung thêm các đơn vị bảo vệ sườn Bắc và Nam vào trận địa - Khoảng 14 giờ 30 H: T/Ð 39 BÐQ được trực thăng vận tới Landing Zone North, BÐ BÐQ Bắc, khoảng 2 cây số Tây Bản-Na để tăng cường cho TÐ/21 BÐQ đã trấn đóng BÐ BÐQ Nam từ ngày 8 tháng 2 án ngữ mặt cực Bắc của vùng hành quân. Và cùng lúc đó, TÐ3/1/BB được trực thăng vận tới CCHL Delta thuộc vùng Nam đường xuyên lộ số-9 – Tới đây, cần nói qua về kế hoạch phối trí và phân nhiệm của các TÐ BÐQ vì có một vài chi tiết đáng ghi nhận, Thiếu Tá Quách Thưởng [lúc đó là Ðại Úy, TÐP TÐ 21/BÐQ] cho biết đúng ra TÐ 37/BÐQ được chỉ định phụ trách căn cứ BÐQ Bắc, còn TÐ/39 BÐQ đóng tại Phú Lộc cùng với BCH LÐ/1/BÐQ; Nhưng các trực thăng Hoa Kỳ đã thả lộn địa điểm nên TÐ 39 BÐQ đã có mặt trên đất Lào. Trung Tá Vũ Ðình Khang, TÐT TÐ 39/BÐQ nói rằng theo thông lệ luân chuyển trong mỗi cuộc hành quân, 3 TÐ thay phiên nhau, 1 làm trừ bị và bảo vệ BCH/LÐ còn 2 TÐ kia hành quân. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, tới phiên TÐ/39/BÐQ làm trừ bị, nhưng lại được bốc sang Lào. Ðại Tá Nguyễn văn Hiệp, LÐT LÐ 1/BÐQ giải thích: đúng ra theo lệnh hành quân, TÐ/39/BÐQ có nhiệm vụ trấn giữ Phú Lộc, còn 2 TÐ bạn hoạt động bên Lào. Nhưng vào ngày 10 tháng 2, các trực thăng Hoa Kỳ đã đổ quân lộn tại địa điểm chuẩn bị trong vùng lân cận Phú Lộc. Trong biến cố nầy có phải do thiên định mà LÐ51TC phải hy sinh 8 nhân viên phi hành cho sự lầm lẩn nầy? Khi bốc quân sang Lào, TÐ/39 BÐQ ở vào vị trí thích hợp nhất nên đã được chỉ định hoán đổi vị trí với TÐ/37 BÐQ.

Ðiều đáng lưu ý là mặc dầu có sự thay đổi bất ngờ vào giờ chót, các đơn vị BÐQ vẫn hăng hái chu-toàn nhiệm vụ, đúng “Kỹ luật là sức mạnh của quân đội”. Về phương diện hành quân, đây không phải là một mối quan tâm lớn, vì mỗi vị trí được chỉ định đều có một TÐ BÐQ trấn giữ, điều đáng ca ngợi là các đơn vị trưởng BÐQ đã rất uyển chuyển đưa ra những quyết định thay đổi nhanh chóng phù hợp với tình thế cũng như tuyệt đối thi hành thượng lệnh, không khiếu nại hay than phiền; Ðây là một điểm son về tinh thần kỷ luật cao độ rất đáng kính phục của các chiến sĩ BÐQ. Tuy nhiên, việc trực thăng Hoa Kỳ thả lộn địa điểm, cùng với biến cố các trực thăng LÐ51TC bay lạc ngay khi cuộc hành quân mới khai diễn chứng tỏ QLVNCH đã thất thế từ đầu vì phải chiến đấu tại một địa bàn hết sức xa lạ. Mất yếu tố “địa-lợi” và “thiên-thời” vì hằng ngày sương mù bao phủ suốt cả buổi sáng, lực lượng tham chiến đã phải trả giá rất đắt trong suốt cuộc hành quân, nhưng bất công thay không ai chịu hiểu được Biệt-Ðộng Quân là binh chủng biệt kích, cơ-động xuất sắc nhứt trong QLVNCH.

Theo tôi nghĩ: người ta chỉ luôn nghĩ đến hai Sư Ðoàn Dù và TQLC mà quên nhắc nhở đến BÐQ và Ðại đội Hắc Báo [Black Panther] của Sư Ðoàn-1. Nhưng đối với hai vị tư lệnh chiến trường Mỹ thì lại khác: Tướng Westmoreland, khi ông phải bảo vệ cho 6000 TQLC Mỹ trấn đóng tại Khe Sanh, Westmoreland đặt hết tin tưởng vào chỉ cần 1 tiểu đoàn BÐQ là đủ bảo đảm sự yên tâm cho Mỹ trấn giữ căn cứ.
Còn như Tướng Abrams thì lại khác, ông chỉ cần 1 Ðại đội Hắc-Báo [Black-Panther] của SÐ/1 là đủ: Vì trách nhiệm nặng nề của ông là làm cách nào có được sự cấp cứu kịp thời, chỉ đoàn viên phi hành thuộc sư đoàn 101 không kỵ mà thôi, nhưng sự thật khi TT Thiệu ra lệnh rút quân lập tức ngay sau khi dẫm chân trên phần đất Tchepone. [Hay tin xấu, Tướng Alexander Haig bay qua Quân đoàn 24 gặp Tướng Sutherland ra lệnh “Washington would like to see ARVN stay in Laos through April” - buộc QLVNCH phải ở lại đến cuối tháng April, hầu hoàn thành cho bằng được giai đoạn 3 của cuộc hành quân là khai thác thành quả chiến trận, lúc đó Ðại đội Hắc Báo ở lại một mình bên Lào biến thành lực-lượng phản ứng nhanh [rapid deployment force] cũng như cấp cứu đoàn viên phi hành Mỹ (xem đoạn cuối)].

Cũng ngày hôm nay, tại vùng trách nhiệm của LÐ/1/BÐQ, địch gia tăng áp lực rất nặng; Quanh vùng Phú Lộc, TÐ/37 luôn luôn chạm những toán tiền phong thuộc Quân đoàn 70B của Bắc Việt, ngoài ra, cũng bị pháo liên miên. Trên phần đất Lào, các TÐ/39 và 21/BÐQ là các đơn vị bị địch quân tấn công thăm dò nhiều nhất và cũng là tuyến lửa của mũi dùi quân Bắc Việt tiến qua từ vùng hoả tuyến Bắc DMZ, sau khi đoán chắc rằng quân lực VNCH không Bắc-tiến.

Ngày 12 tháng February

- Hồi 11 giờ trưa, TÐ/37 đụng địch cấp tiểu đoàn tại địa điểm XD 670466, khoảng 3 cs Bắc Tây Bắc Phú Lộc, được trực thăng võ trang Cobra yểm trợ, BÐQ hạ 13 địch, bắt sống 1, thu 10 AK. Bên ta 4 chết, 6 bị thương và 2 trực thăng võ trang loại Cobra (AH-1G) bị phòng không 12.7 ly bắn hạ khiến 2 phi hành đoàn bị tử thương và 2 bị thương, cái thất thế nhứt cho Cobra là khi tác xạ phải làm vòng chờ để đâm đấu xuống xạ kích, ngoài ra bao vùng tác xạ bị hạn định về không gian phía trước, khác hẳn với gunship 213 Song Chùy, tầm xạ trường bao vùng rộng lớn hơn kể cả bắn tập hậu, lính BV chỉ biết tìm nơi trú ẩn khi nghe tiếng mưa đạn của gunship Việt Nam, người xạ thủ vô cùng lợi hại nầy với đôi mắt như con Cú ráo-đảo chiến trường, điển hình là Trung Sĩ Nguyển Văn Ðức người xạ thủ thần tượng của tôi. Quân bắc Việt cũng không phải là mình đồng gan sắt, dù họ có uống thuốc liều khi lâm trận, nhưng khi nghe tiếng bò rống của Minigun thì liền tức khắc tìm chỗ núp mới mong sống-còn, vì không biết tử thần từ đâu đến mà chỉ nghe tiếng cánh quạt điên cuồng chém gió với âm thanh rùng-rợn nổ ròn rả ma quái đùng đùng lướt tới. Vì con chim lửa đầu đàn bị nổi khùng đưa ra thế chiến thuật mới gọi là “Thuật-Ðộn-Rừng-Ngụy-Âm” địch thủ không biết lưỡi hái tử thần từ đâu đến. Có phải nhờ vậy mà đoàn viên LÐ51TC không còn bị tử trận cho đến khi cuộc hành quân chấm dứt!? Chờ xem kết-quả ở đoạn kết!

- Hồi 6 giờ 25 chiều, TÐ/21 BÐQ chạm khoảng 1 Trung Ðội VC tiền-sát thuộc Trung Ðoàn 88, SÐ/308 BV tại 4 cs Ðông Bắc Landing Zone South (tọa độ XD 585520), bắn hạ 11 tên địch.

- Ðến 10 giờ đêm cùng ngày, dưới sự yểm trợ đắc lực của gunship AC-130, TÐ/21/BÐQ bị địch pháo kích khoảng 40 đạn súng cối 82, và 120 ly khiến 6 bị thương, liền tức khắc EC-130B can thiệp nên chúng không dám bắn trả vì tuyến đạn lửa dễ bị phát hiện trong đêm tối sẽ bị EC-130B dập tắt ngay bằng hỏa lực đại bác đủ loại
Ngày 13 tháng February

- Hồi 1:50 sáng, tại địa điểm XD 575503 khoảng 3 cây số Tây Tây Nam Landing Zone North, TÐ/39 BÐQ chận đánh một đơn vị Việt cộng, bắn hạ 43 tên, thu 2 đại bác phòng không 37 ly, 2 thượng liên 12.7 ly và một số lượng lớn súng cá nhân và đạn dược.
Phía BÐQ chỉ có 1 chết và 10 bị thương nhờ gunship vận tải cơ bao vùng [nên nhớ rằng theo điều lệ ROE, giai đoạn-2 vận tải cơ EC-130B, chịu trách nhiệm về sườn phía Bắc, còn B-52 Arc Light chịu trách nhiệm về phía sườn Nam, nên Trung đoàn của Ðại tá Nguyễn Khoa Ðiềm cứ bị B-52 đuổi đít hầu như mỗi ngày. Còn không quân chiến thuật (Skyspot) thì chịu trách nhiệm trục nổ lực chính trên đường tiến-sát xuyên trục lộ-9 – Nên TÐ Phó TÐ/8 Dù và một số anh em Thiết-kỵ và Dù mới bị thương vì không chịu đi đúng theo lộ-đồ chiến trận bày bản trong phòng lạnh tại Pentagon do Tướng Haig là người chủ đạo và điều hành.
ROE [Rule Of Engagement] còn là con dao hai lưỡi, nếu bên VNCH mạnh hơn thì EC-130B sẽ bắn lầm vào để cân bằng lực lượng. Ðiều nầy khó hiểu, chỉ có thể những chiến sĩ BÐQ mới là nhân chứng sự bắn chính xác của EC-130B kể cả ban đêm có thể yễm trợ quân bạn cách vài chục thước (Tôi biết sẽ có một số bạn không tin về độ chính xác nầy)

- Trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 giờ sáng, TÐ/21 BÐQ đụng độ lẻ tẻ với chừng 1 Trung Ðội tiền sát Bắc Việt, bắn hạ 15 tên.

- Trong khoảng thời gian từ 7 giờ 10 giờ sáng, TÐ/21 chạm địch quân số không rõ, kết quả:
- BÐQ, 1 chết, 7 bị thương;
- Quân Bắc Việt 4 chết.
BÐQ tịch-thu 300 thùng đạn đại bác chiến xa 100, và 76ly của hậu cần phụ thuộc Trung đoàn 202 Chiến-Xa.

Ngày 15 tháng February

- Hồi 1 giờ 30 chiều, tại địa điểm phía Nam Landing Zone North (tọa độ XD 595515), TÐ/39 BÐQ bị pháo kích khiến 5 bị thương

- Hồi 10: 45 tối, cũng tại vùng Nam Landing Zone North (tọa độ XD 590514) một thành phần của TÐ/39 BÐQ chạm địch, giết 5 VC, BÐQ 2 bị thương.

Ngày 16 tháng February

- Hồi 10 giờ tối, tại phía Bắc Landing Zone South (tọa độ XD 583503) một thành phần của TÐ/ 21 BÐQ chạm địch không rõ quân số, bắn hạ 6 VC, tịch thu 50 trái sáng, BÐQ 6 bị thương; Cho đến thời điểm này, QLVNCH đã chiếm Bản Ðông (Aluối) được gần 1 tuần lễ nhưng không dễ-dàng tiến thêm tới gần mục tiêu 604 Tchépone.


Trận đánh tại Căn Cứ Biệt Ðộng Quân Bắc (Landing Zone North)
-Sáng ngày 17 tháng February – Tin tình báo cho biết lực lượng tăng viện cấp Sư Ðoàn của Cộng quân từ vùng Phi Quân Sự đã bắt đầu xâm nhập phía Bắc vùng hành quân. Rạng sáng ngày 18 tháng February, địch gia tăng áp lực vào các đơn vị BÐQ. Các TÐ/21 và 39 BÐQ bị tấn công thăm dò và pháo kích liên tiếp. Tuy nhiên, được pháo binh và phi cơ yểm trợ rất hiệu quả, các TÐ BÐQ vẫn giữ vững vị trí; mải đến 8: 30 sáng cùng ngày, BCH/LÐ1/BÐQ tại Phú Lộc cũng bị pháo kích 8 đạn súng cối 120 ly rất chính xác, khiến 2 chết, 4 bị thương; Tin tình báo do cung từ của tù binh xác nhận Sư Ðoàn 308 Cộng quân với ba Trung Ðoàn 64, 88 và 102nd đã tham chiến và hiện tập trung quân tại vùng trách nhiệm của BÐQ. Khi trời sáng rõ, một trực thăng tải thương loại Huey thuộc Ðại-đội 237, Tiểu Ðoàn 16, Lữ Ðoàn 44 Tải-Thương của Hoa Kỳ [có tên là DMZ Dust Off. DMZ là tên tắt của De-Military-Zone tức là vùng Phi Quân Sự. Dust Off là tên lóng để gọi chung các trực thăng tải thương Hoa Kỳ] nhận được lệnh tải thương khẩn cấp cho TÐ/39 BÐQ. Nên nhớ đại đa số những trực thăng tham chiến tại Hạ Lào không phải của Không Quân mà thuộc các Sư Ðoàn Bộ Binh Không Kỵ 101 Hoa Kỳ nên được tổ chức thành các Tiểu Ðoàn hoặc Ðại Ðội theo hệ thống Lục Quân.

Chiếc trực thăng tản thương cất cánh tại Khe Sanh, hai phi công là Trung Úy Joseph Gordon Brown và Darrel Monteith, với hai Trung Sĩ y tá tên Fujii và Simpco cùng cơ khí viên Costello; Trên đường bay, phi hành đoàn đã được thông báo là bãi đáp rất "nóng" (hot) vì bị phòng không và súng cối địch vây chặt. Khi còn cách Căn Cứ LZ Ranger North chừng 3 cây số, phòng không địch đã bắn lên như mưa, Toán trực thăng võ trang Cobra hộ tống vội nhào xuống bắn hỏa tiễn và minigun để tiêu diệt các ổ phòng không nhưng không mấy hiệu quả vì những ổ súng này được ngụy trang rất kỹ càng, khéo léo và chôn sâu trong các công sự, hầm hố, dưới gốc bụi Tre, nơi vách núi đá khá vững chắc; Sau một hồi bắn phá, hai chiếc Cobra đã hết đạn, vả lại nhiên liệu cũng gần cạn nên phải quay về Khe Sanh tái tiếp tế. Phi công Brown nhận thấy phòng không địch vẫn còn quá mạnh, không thể vào bãi đáp nên đã quyết định hủy bỏ công tác. Nhưng chỉ một lát sau, anh đổi ý, hay có lệnh mới, anh bay vòng trở lại, mặc dầu trực thăng võ trang hộ tống đã bay về Khe Sanh để tái trang bị hỏa lực. Gần tới Bãi Ðáp Ranger North, chiếc trực thăng tản thương bay thật thấp để cố tránh màng lưới phòng không, nhưng những lằn đạn lửa AK và 12.7 ly vẫn chằng chịt đuổi theo. Từ trên trực thăng, anh Trung Sĩ, y-tá Fujii người Hawai trông thấy rõ các binh sĩ BÐQ trong giao thông hào đang chiến đấu dưới làn mưa đạn súng cối, hỏa tiển 122ly và pháo 152ly của Cộng quân. Trực thăng tản thương quyết tâm nhào vội xuống bãi đáp; Toán tản thương của BÐQ đẩy vội các thương binh lên trực thăng, nhưng khi vừa rời mặt đất, một quả súng cối 120 ly nổ ngay bên cạnh máy bay khiến phi công trưởng Brown chết ngay tại chỗ, còn phi công phụ Monteith bị thương nặng, hai anh Fujii và Simpco đều bị trúng mảnh đạn súng cối ở lưng, chỉ có anh Costello là vô sự. Chiếc trực thăng cách mặt đất vài thước rơi xuống đất, tất cả những người sống sót, kể cả các thương binh BÐQ vội rời trực thăng chạy vào giao thông hào cách trực thăng chừng 10 thước; Sau đó, một trực thăng Huey cấp cứu khác liều lĩnh đáp xuống và cứu được phi hành đoàn Hoa Kỳ, ngoại trừ anh Trung Sĩ y-tá Fujii bị kẹt lại vì đang núp dưới bunker chạy ra không kịp; Từ lúc đó, các phi công Hoa Kỳ được lệnh tránh xa khu vực này vì hỏa lực phòng không quá dữ dội. Trong khi đó, Cộng quân cũng pháo kích vào Ranger LZ South

Sáng ngày 19 tháng February, áp lực tại căn cứ BÐQ Nam tương đối giảm, tuy không bị tấn công nhưng cường độ pháo kích vẫn dữ dội và liên tục. Ngoài ra, phòng không địch và súng cối 120ly vẫn khóa kín bãi đáp khiến TÐ/21 BÐQ không thể cựa quậy, đồng thời làm cho mọi hoạt động của vị trí này bị ngưng trệ. Khi đã cô lập và phá được thế liên hoàn giữa hai tiểu đoàn BÐQ, Cộng quân tập trung toàn bộ lực lượng Trung Ðoàn 102nd, SÐ 308 tấn công TÐ/39 BÐQ đóng xa hơn về phía Bắc. Tuy bị vây hãm và tấn công dữ dội, các binh sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Khang vẫn bình tĩnh chiến đấu, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người của Cộng quân. Các trực thăng thuộc TÐ/158 Trực Thăng (158 CAB - Combat Assault Battalion) Hoa Kỳ do Trung Tá Peachy chỉ huy bay liên tục để tản thương, tiếp tế và yểm trợ hỏa lực cho tiền đồn bị tấn công này; Các pháo đội thuộc TÐ 44 PB đặt tại Phú Lộc về hướng Ðông và FSB Ðồi-30 về hướng Nam cũng tác xạ tối đa vào các vị trí quân Bắc Việt. Ðể tránh hỏa lực dữ dội của phi pháo, địch quân đã liều lĩnh áp dụng tối đa chiến thuật "bám sát" [hugging] Nhiều khi chúng nằm sát lớp hàng rào phòng thủ khiến nhiều trực thăng tiếp tế bị trúng đạn địch vì lầm tưởng là binh sĩ BÐQ, vì đôi bên quá gần nhau nên phi cơ thả bom yểm trợ cũng rất khó khăn chỉ trừ có EC-130B có thể yểm trợ quân bạn 20 thước kể cả ban đêm nhờ hệ thống điển tử hồng ngoại tuyến nên đã cứu được hai tiểu đoàn BÐQ đang bị vây hãm. Trong học viện Quân sự Hoa-kỳ đánh giá cao về sự đa dụng của chiếc vận tải cơ bán phản lực EC-130B nầy.

Trận đánh tại căn cứ Ranger North kéo dài suốt ngày 19 tháng February. TÐ39 BÐQ báo cáo địch tấn công mạnh nhất vào sườn phía Ðông bằng súng không giật trực xạ sơn pháo 85 ly và súng cối 120ly đặt rất gần căn cứ nên bắn rất chính xác. Nhưng sau nhiều đợt tấn công tiền pháo hậu xung của địch, TÐ39 BÐQ vẫn giữ vững vị trí dưới các công sự để cho gunship EC-130B không tập- Cung từ của tù binh xác nhận đơn vị Cộng quân tấn công là Trung Ðoàn 102nd, được trang bị toàn vũ khí và quân trang mới. Trung Ðoàn này có nhiệm vụ thanh toán căn cứ Ranger North bằng mọi giá để dọn đường cho lực lượng tăng viện của chúng có thể tiến sâu hơn vào vùng hành quân. Tuy bị bao vây và tấn công liên tục nhưng dưới sự chỉ huy bình tĩnh và gan dạ của Thiếu tá TÐT Vũ Ðình Khang, các chiến sĩ TÐ39 BÐQ vẫn bình tĩnh chiến đấu, đánh bật những đợt tấn công biển người. Cộng quân tuy bị thiệt hại nặng nhưng vẫn bám sát trận địa và liên tiếp mở nhiều đợt tấn công vì chúng được bổ xung quân số và tăng viện rất nhanh chóng tại Trung tâm huấn luyện nơi đây và các hầm hố chôn dấu vũ khí đã có ước tính trước. Nhưng đến chiều Cộng quân đành phải rút lui để chỉnh đốn hang-ngũ vì bị chết quá nhiều, xác và vũ khí đủ loại của Cộng quân bỏ lại ngổn ngang trên các sườn đồi, dọc theo dòng suối.

Trận đánh ngày 19 tháng February là một chiến thắng lớn của TÐ/39 BÐQ nhưng những chiến sĩ quả cảm nầy cũng đã bị yếu sức vì nhiều binh sĩ bị chết và bị thương không được di tản đã nhiều ngày, lại không được tăng viện hay giải tỏa áp lực; Nguy hiểm hơn nữa, đạn dược cũng gần cạn vì không được tiếp tế, đến đêm, quân BV sau khi bổ sung lực lượng lại tiếp tục tấn công. Cũng vào lúc đó, các căn cứ Ranger South và Phú Lộc bị pháo kích dữ-dội, và đánh cầm chân nên không thể tăng viện hay yểm trợ hữu hiệu cho TÐ/39 bạn đang bị áp lực nặng nề. Trên bốn sườn đồi bao quanh căn cứ Ranger North như lòng chảo bị bao vây, địch quân đồng loạt tấn công biển người vào các tuyến phòng thủ của BÐQ. Tại hầm chỉ huy, Thiếu Tá Vũ Ðình Khang, vị TÐT can trường vẫn bình tĩnh điều động đơn vị phòng thủ và phản công. Ông dùng anh y tá người Mỹ Fujii như một chuyên viên truyền tin bất đắc dĩ để đảm trách việc liên lạc với các phi cơ Hoa Kỳ. Trung sĩ Fujii hoạt động rất đắc lực chuyển lời yêu cầu của Thiếu tá Khang lên các trực thăng võ trang Cobra và các phản lực cơ của Không Hải Quân chiến thuật Hoa Kỳ những tọa độ mục tiêu chính xác để xin oanh tạc. Nhiều lúc, quân BV vì quá đông nên môt số đã lọt được vào phòng tuyến của BÐQ, chiếm được một khúc giao thông hào, các chiến sĩ Mũ Nâu can trường đã phải cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn để đẩy lui chúng.

Ðến đây, tạm thời mở một dấu ngoặc để nói thêm về anh Trung sĩ y tá Fujii, lúc đó, các phóng viên báo chí, truyền thanh và truyền hình đa số thuộc loại phản chiến của Hoa Kỳ luôn tìm đủ mọi dịp loan tin giật gân nhằm mục đích triệt hạ uy tín QLVNCH. Vì đạo luật Cooper-Church Amendment 1970 ngăn cấm không cho quân bộ chiến Hoa Kỳ có mặt trên phần đất Lào và Cambodia nên gặp dịp anh y tá Fujii bị bắn rơi, chạy không kịp nên bắt buộc phải chiến đấu bên cạnh TÐ39 BÐQ, họ liền nắm lấy cơ hội. Họ ca tụng Fujii như một vị anh hùng trong trận đánh tại căn cứ Ranger North, BÐQ Bắc, coi như một mình anh y tá này đã cứu nguyên một Tiểu Ðoàn 39/BÐQ tinh nhuệ. Có người lại còn "phong" cho anh ta chức vị "cố vấn" bất đắc dĩ của TÐ39 BÐQ! Ðây là một sự thổi phồng lố bịch và quá đáng! Chúng ta hãy tưởng tượng trong lúc dầu sôi lửa bỏng, mạng sống như chỉ mành treo chuông, một anh y tá chuyên cầm kim chích bị kẹt lại dưới đất vì không chạy kịp, dù là sĩ quan Mỹ tốt nghiệp vỏ bị West-Point đi nữa đã "cố vấn" được những gì cho một một TÐT BÐQ dạn dầy kinh nghiệm chiến trường như Thiếu tá Khang? Ðồng ý là anh Fujii đã trợ giúp TÐ39 BÐQ rất đắc lực trong lãnh vực liên lạc truyền tin, nhưng các chiến sĩ BÐQ còn đóng góp đắc lực hơn nhiều trên phương diện thực sự kinh nghiệm chiến đấu. Thật ra, vai trò của anh y tá này đơn thuần chỉ là một âm thoại viên, nhận những quyết định, dữ kiện cùng lời yêu cầu oanh tạc yểm trợ từ Thiếu tá TÐT-Khang rồi chuyển lại cho các phi công Hoa Kỳ vì lý do anh nói tiếng Anh dĩ nhiên thành thạo và dễ hiểu hơn, rất có thể việc "liên lạc" thông thường này được người Mỹ coi là vai trò quan trọng của cố vấn chăng? Cũng anh Fujii này, sau đó có dịp nhẩy lên được một trực thăng rời khỏi Ranger North, nhưng không may trực thăng này cũng bị trúng đạn, nhưng đáp được xuống LZ Ranger South nên lại bị kẹt tại đây. Chuyện chỉ có vậy, thế mà báo chí Hoa Kỳ lại có dịp thổi phồng, nói là anh y-tá này tình nguyện ở lại với TÐ21 BÐQ để giúp đơn vị này phòng thủ căn cứ! Trở lại trận đánh tại LZ Ranger North; Tuy bị Cộng quân bao vây chặt chẽ và tấn công suốt đêm nhưng TÐ/39 BÐQ dù đã bị thiệt hại khá nặng và đạn dược cũng gần cạn nhưng vẫn còn giữ vững vị trí chiến đấu. Thiếu Tá Khang luôn đôn đốc các chiến sĩ của mình đề phòng cẩn mật và tiết kiệm đạn dược vì ông biết trong hoàn cảnh nguy-nan này, trực thăng tiếp tế hay tải thương không còn cách nào đáp xuống được nữa, về trận đánh tại căn cứ BÐQ Bắc trong đêm 19 tháng February này, chính anh "cố vấn" Fujii đã kể lại cho các phóng viên Hoa Kỳ nghe như sau:

"Trận đánh vô cùng khốc liệt, cả ngọn đồi như bốc lửa vì hỏa lực bom đạn đôi bên, tuy có một vài sĩ quan BÐQ hoảng hốt khi thấy được lực lượng BV quá đông và có chiến xa yễm trợ nên gỡ bỏ cấp bực phù hiệu và thiêu hủy thẻ quân nhân, nhưng bù lại vị TÐT vẫn bình tĩnh và gan dạ chỉ huy cuộc phòng thủ và phản công, có lúc địch quân đông như kiến tràn vào, tôi đã phải dùng súng M-16 bắn hết băng đạn này đến băng đạn khác vào những đợt xung phong biển người, NVA chết như rạ nhưng vẫn liều lĩnh xông vào. Có lúc toán tiền phong cảm tử của địch đã lọt được vào trong vị trí phòng thủ, nhưng bị các chiến sĩ BÐQ can trường dùng lưỡi lê và lựu đạn cận chiến đánh bật ra trong vòng 10 phút. Sáng hôm sau, chúng tôi bắn hết đạn, tôi thấy các chiến sĩ Mũ Nâu phải đi lật từng xác đồng bạn cũng như xác địch để kiếm thêm đạn dược và vũ khí còn xử dụng được. Những người còn chiến đấu được thiết lập một tuyến phòng thủ quanh hầm chỉ huy để sẵn sàng tử chiến, nhưng phải thành thật, suốt đêm đó nếu không có EC-130B gunship bao vùng thì thật khó mà không bị địch tràn ngập lên cứ-điểm LZ".
Sáng ngày 20 tháng February, ngay từ lúc hừng đông, khi lớp sương mù chưa tan hết trên rừng núi Hạ Lào, từng đợt phi cơ đủ loại đã ào tới trợ chiến. Bắt đầu từ lúc 9: 30 sáng cho tới 2: 30 chiều, tổng cộng có 32 phi vụ oanh tạc yểm trợ cho hai căn cứ BÐQ Ranger South và North đang bị vây hãm khiến hàng trăm Cộng quân bị tan xác. Mặc dầu bị thiệt hại rất nặng vì hỏa lực phi pháo, Cộng quân vẫn không rời bỏ trận địa và được yểm trợ đắc lực bằng một rừng phòng không đủ loại tạo thành màng lưới lửa dầy đặc khiến trực thăng tiếp tế và tản thương không thể nào vượt qua nổi; Nhiều phi công trực thăng Hoa Kỳ cố lao qua bức tường lửa phòng không nhưng chỉ có hai trực thăng may mắn đáp xuống được trong khoảnh khắc. Khi cất cánh, cả hai phi cơ này đều bị trúng đạn phòng không, một chiếc phải đáp khẩn cấp xuống căn cứ LZ Ranger South, chiếc kia may mắn bay được tới FSB Ðồi-30 xa hơn về phía Nam. Trận chiến quả là đẫm máu, vô cùng khốc-liệt, đến trưa , các máy bay quan sát FAC Bronco OV-10 báo cáo quân BV lại pháo kích dữ dội và có chừng 400 đến 500 tên đang vây kín vị trí của TÐ/39 BÐQ. Những trận mưa pháo liên tiếp của địch khiến ngọn đồi nhỏ như vỡ tan thành từng mảnh vụn cho đến con kiến cũng không sống nổi. Những lớp bụi đất đá Hạ Lào màu vàng nhạt liên tục tung lên sau mỗi đợt pháo kích, che phủ cả các chiến sĩ Mũ Nâu anh dũng vẫn bình tỉnh ghìm súng chờ địch dưới giao thông hào qua lớp khói mù-mịch, không còn phung phí đạn như trước đó nữa. Không được tăng viện, không được tiếp tế, không được tản thương, số tổn thất mỗi lúc một cao và đạn dược đã hết sau nhiều ngày tử chiến, số mạng của các chiến dĩ TÐ/39 BÐQ như chỉ mành treo chuông. Mọi yểm trợ sinh tử cứu nguy chỉ còn trông mong vào các phi cơ Hoa Kỳ và pháo binh từ các vị trí bạn bắn tới yểm trợ, nhưng rất tiếc trực thăng của LÐ51TC không được lệnh yểm trợ cho BÐQ mà chỉ có Dù, Thiết kỵ và Sư đoàn-1 mà thôi.

Bổng dưng tôi nghe trong nón bay:”Song Chùy I, đây Kingstar 5 gọi…nghe không trả lời…? Nghe tiếng Kingstar, Tôi hiểu ra ngay là của Phi-Đội 233 đã phải đổi công tác, dồn tất cả nổ lực để tản thương cho Tiểu-Đoàn 39 BĐQ vi phi cong Hoa Ky ...


TÐ/39/BÐQ & Liên Ðoàn/51/Tác Chiến (tiếp theo)
Ðang bao vùng cho TÐ/6 Dù ở phụ cận phía tây Ðồi-31, bổng dưng tôi có lệnh phải yểm trợ cho BÐQ vì Không lực Mỹ đang dồn hết phi xuất để lo cấp cứu đoàn viên phi hành của họ bị nạn. Liền sau đo tôi nghe trong nón bay:”Song Chùy I, đây Kingstar 5 gọi…nghe không trả lời…? Nghe tiếng Kingstar, Tôi hiểu ra ngay là của Phi-Đội 233 đã phải đổi công tác, dồn tất cả nổ lực để tản thương cho Tiểu-Đoàn 39 BĐQ vi phi công Hoa Ky từ chối dành tất cả phi vụ chỉ có cấp cứu cho phi hành đoàn Mỹ mà thôi. Tôi tự nhủ lòng là phải dành tất cả hỏa lực để yểm trợ cho Phi đội mới thành lập nầy; Sự thật, tôi chỉ cắt cử cho Phi đội tân lập nầy chuyên trách bay yểm trợ cho Sư-đoàn-1 mà thôi, vì thế đất ở phía Nam đường 9 tương đối ít núi cao, khắp nơi toàn là đồi trọc, cao hơn mặt biển chưa đầy 700 thước, địa hình tương đối dễ đáp hơn vùng gió chướng xoắy cuộn thuộc phía bắc đường-9

   
        Nghe tiếng gọi run-run yếu đuối… như trông cậy vào…Tôi bùi ngùi trong giây lát…chiến tranh đã nuốt chửng biết bao thế hệ trẻ…Những cánh Chim non đang ngỡ ngàng lặn hụp trong khung trời mới lạ, phải gồng mình bay qua biển lửa với đủ loại phòng không dầy-đặt. Tôi dõng dạc trả lời như đem lại một sự bảo đảm nào đó cho họ “niềm tin vào cấp lãnh đạo”

“Kingstar 5…cho biết vị trí ở đâu”

“Song-Chùy I…Kingstar 5 đang ở chỗ hẹn như ấn định”

“Làm vòng chờ…4 phút nữa Song-Chùy sẽ hướng dẫn vào tọa độ tản thương”
2 chiếc Trực-thăng Võ trang, tạm thời rời vùng hành quân, bay sà thấp trên ngọn cây, về hướng Đông Nam để đón Kingstar 5 đang bay vòng tròn trên vòm trời Nhà-tù Lao-bảo (tên hồi còn thực dân Pháp cai trị). Trung úy Lưu vừa được tôi xác-định hành quân trong tuần qua, một sĩ quan BÐQ đã tình nguyện qua Không Quân, ngoài tay-lái gan-lì, với chiêu-thức phong cách bay rất khôn ngoan và rất liều mạng. Cả tuần nay, tôi đã bay vị thế wingman để Lưu làm lead. Tuy là TPC Gun mới ra nghề nhưng đường bay lã lướt của Lưu không khác gì những top gun như Tiến, Châu, Thục, Niên ... Người chỉ huy giỏi có nghĩa là do sự may mắn có được nhiều phi hành đoàn giỏi, gan dạ và dũng cảm. Tôi được có may mắn là con chim đầu đàn của một Phi đoàn đã được thượng cấp tín nhiệm biệt phái tham gia không những trong nước mà còn đãm nhiệm các trọng trách như bay yễm trợ cho Dù từ Ðồn điền Chup Cambodia đến nam Lào. Vùng hỏa-tuyến là vùng chịu trách nhiệm nặng nhứt về chiến đấu cũng như thời tiết khắc-nghiệt, núi non hiểm trở, gió lọng từng cơn, điều khiển con tàu không dể dàng khi phải đáp trên các cao điểm đầy gió chướng.

Nghe nói bay tản thương và tiếp-tế đạn nhỏ cho BÐQ, Lưu có vẻ kích động hăn-say nhớ về màu cờ sắc áo hào-hùng của đơn vị củ. Anh đang hăn-tiết bay xạc lướt trên ngọn cây về hướng nam Lao Bảo.

Vì bay cao nên Kingstar 5 không thấy chúng tôi bay xà ở dưới thấp

“Song Chùy đã thấy Kingstar…hãy giảm cao độ bay xuống thẳng đến hướng 2 giờ của Kingstar 5 sẽ gặp chúng tôi đến đón” Hai chiếc Võ trang bay đội hình sẳn sàng tấn kích, còn chiếc Kingstar 5 bay cách đằng sau 2 phút. Lúc nầy hơn bao giờ hết, tôi phải làm lead để vào một vùng vô cùng nguy hiểm; Nơi này đã có một rừng phòng không mà sự thiệt hại của Mỹ trong mấy ngày qua không thể tưởng tượng nổi, quá nhiều trực thăng bị bắn hạ như lá vàng rơi tại LZ North và South Ranger. Tiểu đoàn 39 bi tràn-ngập bởi Trung đoàn 102nd BV, được trang bị vũ khí tối tân nhứt vùng thuộc Quân đoàn 70B, Duy có 1 đại đội của TÐ-39 bị thất lạc và đang chạy về hướng Ðồi-30. Họ phải mở đường máu xuyên qua tuyến lửa của Trung đoàn/88 bằng những phát đạn AK-47 và B-40 chiếm được của địch để ngụy-âm cũng như chống trả tự-vệ khi cần phải nổ súng. Tôi có thể đoán được vị trí của đại đội nầy: từ nơi bị tràn ngập là tọa độ: XD 575 503 đến Ðồi-30, bây giờ họ chỉ cách Ðồi-30 vào khoảng 4 cây số. Tại sao họ phải theo đường thông thủy, để phải lên cao dần? Cần nước! Nhưng mà là trục đường tiến-sát gần nhứt, và chỉ có phương hướng ngắn nhanh về hướng nầy mà thôi, Họ đang lấy Phương hướng 165 và thế đất cao dần nhưng đã thoát qua khỏi vòng vây của địch từ đây cho đến Ðồi-30.

Ðội hình phải thay đổi, trãi rộng tầm quan sát khi cần yễm trợ xạ kích bao che lẩn nhau. Tôi ra lệnh Lưu đi trail, cách nhau 10 giây, và Kingstar-5 cách 45 giây theo sau. Tăng thêm sức máy vượt qua chiếc lead, tôi bay sát ngọn cây ở cách sườn đồi trọc hơn 800 thước để tránh xa tầm đạn hửu hiệu của AK-47 từ trên đồi bắn xuống. Bất ngờ, chúng tôi khám phá được các tụ-điểm Pháo tầm xa của Lính BV qua những hầm miệng ếch, đất vùng nầy có khác màu vàng xậm như nghệ, còn tươi rói vì mới đào!? Các xạ thủ của mình thật vô cùng kinh nghiệm trong chiến đấu, họ không phung phí đạn dược vô lối, âm thanh chi còn là tiếng máy phản lực qua cánh quạt đều đều chém gió, tuyệt đối không một viên đạn nào bay ra khỏi nòng; Sự thật chúng tôi đang bay trên vùng rừng già nguyên thủy, dầy-đặc cây cao trên 40 thước, không có dấu vết sanh hoạt gì của loài người nơi đây

     Thình lình, tôi nghe tiếng bò-rống của 4 cây minigun đồng loạt nổ dòn tan, quả thật khi tôi nhin ngang trên tầm cánh quạt, nhận ra vô-số hầm miệng ếch với đất màu đỏ gạch còn tươi rói, có cả súng đại pháo lồ lộ không ngụy trang. Tất cả minigun đều tưới xuống dàn pháo, có lẻ pháo 130, hay 152ly. Nơi đây đứng về mặt địa hình, các khẩu nầy có thể bao vùng đến tận Ðồi 31, 30, Phú Lộc, LZ North, South luôn cả A-Luối và Hồng Hà-2 nữa.

“Khi sắp đến bãi đáp…Song-Chùy sẽ cho biết trước vài phút để lên cao độ, nhìn bao quanh bải đáp…Song Chùy sẽ Prep trước mặt, dọc theo hướng đáp cận tiến của Kingstar 5…O.Kay?”

Trên cao, cách đây khoảng 3 cây số, OV-10 đang hướng dẫn F.4 Phantom oanh tạc các ổ trọng pháo của CSBV đang bắn rền vào 2 Căn-cứ Hỏa-lực 30, 31. Tôi thừa hiểu các khẩu pháo đã được kéo vào sâu trong hầm núi dấu kín, có thể OV-10 chỉ oanh kích được những khẩu pháo giả (Phony Gun) CSBV cố ý phơi bày ở những nơi dễ nhận dạng. Sáng hôm nay lợi dụng sương mù, Không-quân Chiến-thuật không thể can thiệp, nên chúng tha hồ bắt nạt anh em Dù và BĐQ; Vào khoảng 11 giờ sáng nay, khi sương mù đang tan, chúng tôi đã bay ngang qua chúng, mà chả có anh Vẹm nào chịu nhìn lên, nên chúng tôi mới phát hiện ra được các hầm dấu Pháo. Chúng đã đào sâu vào ngách núi, ngoài ra vị trí đặt Súng rất an-toàn, không sợ 16 khẩu Pháo 175 ly (Long-Tom) 18 khẩu 155 ly và 8 khẩu, 8 inch Howizers của Mỹ đang giàn ra nơi biên giới Lào-Việt. Nói cách khác là chúng rất ranh mảnh, đặt Súng ở phía Tây-Bắc của các sườn núi dựng đứng, như bức tường lá chắn nên tạc đạn không bao giờ tới được, mà sườn núi ở hướng Đông bao lãnh hứng hết, mỗi khi Mỹ pháo kích vào [xem hình giải mật trang 90 “The New Legion” Volume-1: Ðội khuân vác các tạc đạn 152 ly xuyên phá lên than leo núi do phóng viên Ðông Âu chụp]

Tôi đưa ra một hoạt cảnh dễ hiểu: Vào một buổi sáng đẹp trời, lúc khoảng 9 hoặc 10 giờ sáng, ánh sáng mặt trời rực-rở đang chói chan ánh vàng toã xuống những dãy núi chạy dài từ Bắc xuống Nam. Nếu chúng ta ở trên cao nhìn xuống, tất cả sườn Ðông của dãy núi đều nhuộm vàng ánh nắng, đó là vùng mà 42 khẩu pháo của Mỹ chỉ có thể chạm nổ, còn phía Tây của dãy núi đều nằm êm ái trong bóng mát, có nghĩa là nơi an toàn cho các lực lượng CSBV ẩn náo. Coi như Pháo-binh của Mỹ bị chúng hóa giải! Là nhờ Trung-úy phản chiến John F Kerry cho “Tam-trùng Ẩn” để biết phiên dịch bằng tiếng Việt, khi 42 khẩu của Hoa-kỳ từ bên biên giới bắn sang. Ẩn được không biết bao nhiêu huy chương về các dịch vụ điệp viên trong lòng địch, Tướng Giáp và Mai Chí Thọ rất hài lòng tin-tức khá chính xác từ Ẩn cho, mà tôi có cảm tưởng như Tướng Giáp đang ngồi chần-dần nơi phòng hành quân của Tướng Alexander.Haig, tại Pentagon.


   “Kingstar 5 hãy lên cao độ một tí để thấy bải đáp…bải đáp ở hướng 12 giờ của Kingstar…Song-Chùy chuẩn bị vào trục Prep ở phía dưới, trước mặt đường cận tiến của Kingstar 5…an-toàn lắm…làm cận tiến đáp đi!” Tôi nói thế để yên lòng Kingstar 5, nhưng linh-tính nơi đây rất ‘hot’ vừa nghĩ đến đây thì Xạ Thủ Đức đã chơi 4,000 viên một phút
“Chúng nó ở trên sườn núi đồi trọc đang bắn xuống…đông lắm…!” Trung-sỉ Ðức vừa hét to vừa bóp cò súng.

Tôi ra lệnh “Song-Chùy 2 bắn Hỏa tiển chống biển người vào sườn núi…trên cao hơn mình một chút…O.K, Tôi tác xạ trước để đánh dấu mục tiêu”

Hai cụm khói màu đỏ cam vừa phụt ra trước mũi Phi cơ, liền sau đó tôi quẹo gắt qua phải lấy cao độ, trong khi Xạ-thủ Đức đứng sỏng lưng ghì chặt khẩu Mini-Gun quạt qua trái, qua phải, lên, xuống cốt ý rải cho đều để không bỏ sót chỗ nào bằng một vận tốc 2,000 viên phút.

Vì 1 Ðại-đội TÐ/39 BÐQ thất lạc đang di chuyển suốt cả đêm về Ðồi-30, vừa đụng trận, vừa phải khiêng thương binh, nên bải đáp rất khó, cũng như địch luôn bám sát. Những khi cần phải gây ra tiếng động như chặt cây dọn bải đáp thì không còn cách nào khác, phải chịu lộ vị trí; Để phải lãnh đủ hàng trăm trái đạn; vì nên nhớ rằng, nơi đây là kho chứa đạn lớn nhất, nhì ở vùng nầy; CSBV có lệnh phun phí đạn hơn là để đối phương vào phá hủy...


Có lẽ Kingstar 5 đã thấy tấm vải màu đỏ cam đang hiện ra trên đám rừng Chồi vừa mới chặt; Quả thật bải đáp quá nhỏ, mà lại ở trên một sườn đồi thoi-thỏi nghiêng về một bên, như giam mình giữa lùm cây cao vút. Tôi bay sạt trên đầu Kingstar 5, nhìn rõ bải đáp như bàn chông khổng lồ mà lại quá hẹp nơi chồ đáp. Tôi bắt đầu lo…lẩm bẩm trong miệng, mong đừng có việc gì xãy ra! Dưới đây có lẻ là đại-đội-1/TÐ/39 vừa đụng độ ác liệt với Trung đoàn 102nd ngày hôm qua, đang thất lạc, nhờ mở đường máu xuyên qua trung đoàn 88 BV một cách êm ái. Nơi đây chúng tôi bay vào từ Ðồi-30, nên không gây ra tiếng động ồn ào, nhờ núp sau ngọn đồi và gió từ ngoài biển thổi vào che đuổi khuất âm vang của động cơ. Nhưng trái lại, phi cơ Hoa Kỳ trước khi đến đây thì ôi thôi không biết bao nhiêu hỏa lực dập xuống, nhưng quân BV không dại gì mà không chạy sâu vào trong đường hầm trú ẩn. Ðoàn trực thăng đi đến đâu, thì phi-cơ chiến thuật, rồi 42 khẩu pháo điên cuồn dập xuống yểm trợ, dỉ nhiên Linh BV đã chui vào hầm ngồi nghĩ mệt đợi trực thăng bay đến là nhào ra tấn công tới tấp ngay. Lúc nầy Gunship-Cobra yễm trợ thì quá chậm chạp vì phải làm vòng phi đạo để lấy trục nhào xuống xạ kích; ở dưới hầm 60 độ quân CSBV có đủ thì giờ để chống đở và yểm trợ hoả lực liên hoàn cho nhau bằng tam-giác kế<.br />
     “Quang Trung…! Quang Trung…! Đã chuẩn bị con cái sẳn-sàng chưa? Càng nhanh càng tốt…để còn, có thì giờ bay tác xạ yểm trợ tiếp cận cho Quang-Trung mau đến bến 30”

       Tôi đang hồi hộp, không biết Phi công mới ra trường chưa được kinh nghiệm nhiều, ứng xử ra sao đây…nếu bị trường hợp khẩn cấp; Nhưng dầu sao các Phi công trẻ-trung nầy cũng đã được huấn luyện phối hợp hành quân với Đại-đội Không-kỵ Black-Cat của Mỹ ở Phi-trường Non-Nước, Đà-Nẵng, và hiện đang bay “team-HTC” với nhau. Nhìn xuống không an tâm, một buổi sáng dài thê-thảm dầy-đặc sương mù, bây giờ thì gió rừng núi khuấy động từng cơn bốc lên và đè xuống theo những luồng gió cuồn-cuộn của đồi núi chậm chùn, làm sao Kingstar 5 ‘Hover’ được thăng bằng đây? Kingstar 5, đứng ‘hover’ quá lâu sao không chịu đáp? Có trở ngại gì chăng! Nhưng tôi tuyệt đối giữ yên lặng để Phi công được bình tỉnh tự định liệu lấy,

À…Tôi hiểu! Kingstar 5 không muốn chạm đất, vì cây cối còn lổm chổm quá nhiều, bãi đáp trong điều kiện hoàn thành quá vội vã, Tôi bay vòng trở lại, và phát hiện các anh em đại-đội-1 BÐQ đang cố đẩy thương binh lên trực-thăng và dường như có vài Poncho mang xác chết được đem lên sàn tàu. Bất chợt, mấy anh Vẹm vừa chết hụt hồi nảy ở trên đồi trọc, đã chạy xuống tới chân đồi và đang hiên ngang đứng thẳng lưng bắn nã tới bải đáp; Cũng may nhờ tiết kiệm hỏa lực, nên chúng tôi quay lại quần thảo chúng một trận. Lúc nầy tôi mới cảm nhận Song-Chùy 2 bắn tuyệt đẹp, sau 4 quả rockets màu đỏ hồng thoát ra từ sau đuôi gun-2 làm câm ngay tiếng A.K của chúng; Thôi như vậy đủ rồi, mỗi chiếc còn lại 10 hỏa tiễn chống Tăng và gần 10.000 viên 7,ly62. Tôi cần giữ lại một tí hỏa-lực để yểm trợ cho đến khi Kingstar 5 về tới điểm hẹn Lao-Bảo

    Bỗng dưng tôi sợ tái mặt đến bấn cả người, vì Kingstar 5 đang chém vào ngọn cây bên trái, làm lá tung-bay tua-tủa trên trần cánh quạt. Trong không khí yên lặng nầy, Tôi chỉ đợi Kingstar 5 báo cáo tình trạng ra sao…! Không dám gây ra tiếng động ảnh hưởng đến sự bình tỉnh của phi công, rồi khoảng thời gian dài nặng nề trôi qua … bổng:

“Song-Chùy…Kingstar 5 đã chém cây…tàu rung giựt rất mạnh…nhưng tôi rán cất cánh…Song-Chùy…rán theo dõi tôi….crak ... crack.!”  rồi tiếng hú rít lên trong nón bay tựa hồ như phi công đang nghiến răng cạp mạnh vào micro

Khi nghe báo cáo của Kingstar 5, thì tôi đã lở Salvo tất cả Rockets vào sườn đồi đã có sự hiện diện của địch, làm như vậy để con tàu nhẹ bớt, khi phải xuống để cứu tất cả đoàn-viên. Tôi phản ứng nhanh như vậy có trật nguyên tắc tác chiến hay không!? Nhưng dù sao mạng sống của Phi hành đoàn vẫn là ưu tiên một đối với tôi
     Hai chiếc Võ trang kè sát nách hai bên để trấn an, cầu mong sự bình tỉnh của Kingstar-5 cố đem con tàu về nơi nào an toàn và gần nhất, dù có phải bị đáp ép buộc như tôi đã làm hôm trước cũng không sao. Tôi giải tỏa hỏa-lực để nhẹ bớt trọng lượng, cũng vì lý do tôi muốn cứu mạng sống của Phi hành đoàn cấp bách không thể chần chờ được, vì tôi quyết tâm bằng mọi giá không thể để thiệt hại thêm nửa “Đây có phải là một phản ứng thiếu khôn ngoan” Cố nén lại, tự kiểm điểm, để tìm sự bình tỉnh nói qua vô tuyến bằng một giọng đều-đều nhẹ-nhàng:

   “Kingstar…5, Chúng tôi bay ở đằng sau anh…cho đến khi nào anh đáp xuống…bình tỉnh rán giữ tốc lực không quá 70 knots, dĩ nhiên con tàu đang rung theo điệu Ngựa nhảy nhỗm nhưng chu kỳ độ rung rất đều nhịp…! Tuy high-frequency nhưng không sao…đừng vượt quá 70 knots…O.Kay!”

   Giờ nầy, tôi để Kingstar 5 muốn bay như thế nào cũng được miễn sao an-toàn về đến Khe-Sanh là xong. Nhưng cũng may, anh không bay cao lắm để làm mồi cho các loại phòng không, nhất là phòng không di động trên Thiết vận xa PT.76, khi phải bay ngang qua thung-lủng về hướng Đông của sườn núi, tuy rằng sườn núi bị lổm chổm những đám cháy do 42 khẩu Đại Pháo của Hoa-Kỳ bên biên-giới Lào-Việt bắn sang, nhưng chắc chắn quân BV rất tinh ranh nên không bao giờ di chuyển hay đóng quân phía sườn Đông. Còn như phía sườn Tây, thì quân BV đông nhiều như Đỉa; Chứng cớ nơi bải đáp hồi nãy thì rõ: Những sườn đồi trọc bên phía Tây của thung-lũng thường có dấu song-song của những dây xích Thiết vận xa PT.76. Chúng leo lên chiếm lĩnh ưu thế ở điểm cao ngoài sự việc yểm trợ bảo-vệ cho các cứ điểm Pháo-đội mà còn là ổ phòng không di động rất lợi hại. Chúng đã bắn nổ tan nát 2 chiếc Hueys của LÐ/51/TC khi bắt đầu cuộc hành quân và còn bắn hạ Trực-thăng Võ trang của tôi vào ngày hôm kia nữa. Thế nên tôi có liên-lạc với Bộ-chỉ-huy Tiền-phương cứ tiếp tục nhờ Pháo đội của Mỹ ở Biên giới, thỉnh-thoảng bắn khuấy rối vào những tọa độ trước mặt mà chúng tôi sẽ bay qua. Theo sự đề nghị của Tôi, những cột khói lớn dựng đứng, thỉnh-thoảng vẫn rót vào phía trước mặt

    Chúng tôi an-tâm vì biết Pháo đội Mỹ đang bắn yểm trợ các tạc đạn Long-tom 175 ly và 8 inch Howitzers, Ba chiếc Trực-thăng dìu nhau bay thấp trên sườn Đông xuôi về đường-9, xa xa hiện lên những loan-lổ lổm chổm với nhiều đám khói an-tâm. Tự nhiên trong tâm chúng tôi, mọi người đều cùng có một cảm giác thích-thú dễ chịu với mùi khét cháy rừng trước mặt, nhưng lại an-toàn bảo vệ chúng tôi
Cuối cùng, Ba chiếc đã về đến Khe-Sanh vào một buổi chiều oi-ả, bao trùm bởi Cát bụi đỏ ngầu, giữa tiếng ầm-vang của các Pháo đội Hoa-kỳ chuyên yểm trợ cho quân bạn. Nhưng chúng tôi được lệnh phải load rockets và đạn dược gấp để tiếp nối công tác hành quân tấn kích còn đang dở-dang mà Tiểu-đoàn-6/Lữ đoàn3/Dù đang tiến về hướng Ðông Nam Ðồi-31, với hy vọng bắt tay được với anh em Tiểu đoàn 3/Dù đang trấn giữ hậu cứ Ðồi-31, vì áp lực của nhiều Trung-đoàn BV, tách từ các Sư-đoàn 308, 320 đang giã trận địa Pháo vùi dập cuồng sát như không bao giờ ngưng nghỉ.

Ðúng vào lúc, một toán trực thăng từ Khe Sanh bay đến để tiếp tế khẩn cấp cho TÐ/39 BÐQ bằng mọi giá, các trực thăng võ trang Cobra hộ tống thay phiên nhau nã hỏa tiễn và đại liên như mưa lên đầu địch cho tới khi hết đạn, trong khi các trực thăng tiếp tế lượn vòng trên cao để chờ cơ hội, nhưng vẫn không thể nào đáp xuống được. Dưới đất, ngọn đồi nhỏ đôi bên giành giựt đã mấy ngày đêm hầu như trơ trụi, tan nát vì bom đạn. Mặc dù trực thăng võ trang oanh kích dữ dội, Cộng quân chấp nhận thiệt hại, tràn tới gần vị trí phòng thủ cuối cùng là hầm chỉ huy của Thiếu tá TÐT Khang; Chung quanh đó, các chiến sĩ BÐQ cận chiến với địch quân, giành nhau từng khúc giao thông hào hay hố cá nhân giữa hàng trăm xác chết; Thiếu tá Khang nhận thấy tình thế đã không còn cách cứu vãn và vị trí sắp bị địch tràn ngập nhưng ông vẫn muốn ở lại chiến đấu vì không đành lòng bỏ lại các chiến hữu bị thương. Có ai đi chiến đấu tại hạ Lào mới chứng kiến được lương tâm và sự thương yêu đồng đội của cấp chỉ huy; Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, trước số lượng địch quân quá đông và các chiến sĩ BÐQ đã bắn hết đạn, Thiếu tá Khang rất đau lòng nhưng đành phải cho lệnh rời bỏ căn cứ; làm sao ai hiểu được lòng dạ của cấp chỉ huy đau đớn như xé nát tim cang. Trong lúc anh Fujii chuyển lời của Thiếu tá Khang thông báo cho các phi cơ Hoa Kỳ biết Căn Cứ BÐQ Bắc không còn cố thủ được nữa, các chiến sĩ BÐQ lại đi thu lượm vũ khí và đạn dược của mình cũng như địch để tổ chức một cuộc rút lui có trật tự dưới sự chỉ huy của vị TÐT can trường.
     Vào giây phút nguy kịch đó, một trực thăng Huey lao-xuống bãi đáp, xô vội ra mấy thùng đạn nhỏ; Anh y tá Fujii cố chạy ra trực thăng dù đạn AK của Công quân bắn theo dữ dội khiến bụi đất tung tóe khắp nơi; Anh y tá không may mắn nầy phóng được lên trực thăng, nhưng khi vừa bay lên, trực thăng bị bốc cháy vì trúng đạn phòng không. May mắn, hai phi công Lloyd và Nelson đáp khẩn cấp được xuống căn cứ Ranger South cách đây chừng 4 cây số, sau lưng đại-đội-1 mà chúng tôi vừa tải thương vào khoảng 3 cây số và cũng gần đến Ðồi-30...
    Như vừa rồi tôi có liên lạc trên tần-số 42.5/FM/RPC-10 với trung tá Thạch chiến đoàn-2 Dù tại Ðồi-30, rằng khoảng trưa, chiều nay Quang-Trung sẻ đến Ðồi-30, nên tiếp đón cẩn thận vì Quang Trung có trang bị vũ khí BV để vượt vòng vây. Trên phóng đồ hành quân, tôi có thể đoan chắc rằng: hai trung đoàn 102d và 88 đang yễm trợ lẩn nhau rút về tây/nam để bổ xung quân số vì bị thiệt hại quá nặng, chỉ có trung đoàn 88 thì kiệt quệ hơn ¼ quân tác chiến vì bị trọng thương, còn trung đoàn 102d thì số chết quá phân nửa, phần lớn bị EC-130B gunship truy kích cách quân bạn chưa đầy 50 thước (có lẽ nhiều chiến hửu không tin tôi, nhưng đây là sự chính xác của điện tử qua hồng ngoại tuyến kể cả tác xạ về đêm) ngay đến Trung Tâm Huấn luyện tại đây để bổ sung quân số cũng chém vè sơ-sát vào cánh rừng già vì bị Tiểu Ðoàn-1 Dù đánh đuổi ra khỏi căn trại, và đang chờ lịnh bổ sung quân cho các đơn vị bị te-tua như trung đoàn 102d
    Dù rằng địa thế Đồi-30 rất thuận lợi cho việc phòng thũ, nó nằm trên cao độ 2210 bộ, cách mặt biễn, như chiếc chòi canh thẳng đứng từ 3 hướng, duy chĩ có hướng đông bắc mới là đường tiến sát duy nhứt cho quân BV tiến công, và Quang Trung cũng tiến vào hướng trục đó. Và chỉ duy nhứt một hướng để tấn kích, đó cũng là lý do biết bao cuộc tấn kích của BV đều bị đẫy lui, quân BV chết không biết bao nhiêu mà kể, do sự chiến đấu kiêu hùng thủ thành của TĐ/2 Dù và một thành phần thất lạc của TĐ/39 BĐQ nầy trấn giữ. Phải thành thật mà nói cũng nhờ sự phối hợp ngoạn mục giữa Trung-tá Thạch Chiến Đoàn Trưởng Dù và Spectra AC-130B, nên quân Bắc Việt khó mà lấy thịt đè người. Vì thế từ 4 giờ 30 sáng rạng ngày 28/1/1971 cho đến 9:00 sáng, quân Bắc Việt ngưng hẳn hoàn toàn không có tiếng súng để tái phối trí cho một cuộc tập-trung tấn công dứt điểm.
Đây cũng là một cơ hội bằng vàng nếu không bị ràng buộc bởi điều giao ước ROE là dùng B-52 hủy diệt hoàn toàn lực lượng Quân Đoàn 70B nầy. Bấy nhiêu đó cũng thể hiện cho chúng ta biết rõ trò chơi chiến tranh của trục Ma/Quỷ đễ tiêu hủy chiến cụ tại thùng rác lộ-thiên nầy mà thôi!

Ðến chiều ngày 20 tháng February, từ trên phi cơ nhìn xuống, các công sự và sườn đồi quanh căn cứ LZ Ranger North phủ ngập xác Cộng quân, ngay đến côn trùng cũng không thể sống nổi. Tiểu Ðoàn 39 BÐQ kiệt lực, hết đạn vì những trận cường tập liên tiếp hết ngày này sang ngày khác của Cộng quân vối quân số đông hơn gấp 10 lần; Cuối cùng, các chiến sĩ Mũ Nâu phải mở một con đường máu xuyên qua vòng vây của quân BV bằng tiếng súng đạn ngụy-âm qua AK và B-40 tịch thu được của quân bắc Việt.

Dưới quyền điều động của Thiếu tá Khang, các sĩ quan và binh sĩ còn mạnh khỏe đi đầu, thương binh được dìu-theo sau thật cảm động cho tình đồng đội; Bộ Tư Lệnh Hành Quân tại Khe Sanh và LÐ/1BÐQ tại Phú Lộc mất liên lạc vô tuyến với TÐ/39 BÐQ lúc 5 giờ 10 chiều ngày 20 tháng February, không dùng vô tuyến sợ bại-lộ âm thanh. Mãi tới khuya ra đến nơi khá an-toàn mới nhận được tin thành phần còn lại của TÐ/39 BÐQ, gồm gần 200 quân nhân trong số đó có 107 người còn khả năng chiến đấu và 92 người bị thương, cá nhân tôi phải nhìn nhận và thú thật, quân bạn đã di chuyển đến được căn cứ Ranger South cùng với vũ khí nhờ vào hỏa lực tiếp cận trên không của vận tải cơ gunship EC-130B. Theo các tài liệu báo cáo của Hoa Kỳ, trong tổng số trên 400 quân nhân, thiệt hại của TÐ/39 BÐQ được ghi nhận là 178 người chết hay mất tích, 148 bị thương. Thiệt hại về phía Cộng quân gồm 639 chết và gần 500 vũ khí bị phá hủy hay tịch thâu. Sau khi TÐ/39 BÐQ rút đi, dưới hỏa lực khủng khiếp của phi pháo dội thẳng vào vị trí, Căn Cứ Ranger North trở thành một bãi tha ma lớn chôn vùi hàng trăm quân BV, thật rất tội nghiệp cho thân phận "sinh Bắc tử Nam".

Trên đỉnh đồi, gần hầm chỉ huy của Thiếu Tá Khang, cảnh tượng còn hãi hùng hơn. Từng đống xác quân BV tan nát không còn nhận ra hình thù vì bom đạn của phi cơ Hoa Kỳ và pháo binh VNCH cày nát. Mùi thuốc súng, mùi bom đạn, mùi thịt người chết cháy khét lẹt vì bom napal... khiến bầu không khí trở nên rùng rợn, nghẹt thở. Tuy máy bay chỉ đếm được 639 xác quân BV, nhưng còn hàng trăm xác khác bị vùi sâu trong hầm hố, công sự, vách núi hay tan nát cùng đất đá Hạ Lào không thể đếm được. Quả thật nơi đây mới đúng nghĩa “Ðịa ngục trần gian”

Trên đường di tản đến căn căn cứ Ranger South, binh sĩ TÐ/39 BÐQ phải đạp qua hàng trăm xác địch nằm ngổn ngang quanh căn cứ và lội qua những con "suối máu" tanh rình tràn ngập khắp chân đồi. Thiếu tá Khang cũng cho biết khi rời bỏ căn cứ, chính mắt ông đã nhìn thấy hàng đống xác quân BV chết thành từng chùm ba, bốn chục tên. Về hỏa lực phòng không của quân BV tại vùng căn cứ Ranger North, trong một dịp đụng độ ác liệt mới đây, Thiếu Tá Khang cho biết ông không rõ chi tiết về các ổ phòng không của Cộng quân bố trí dọc theo đường bay tới căn cứ như đã từng chu đáo sắp xếp trước. Thế nên, các trực thăng đã bị bắn lên dữ dội từ xa, trên hành-lang vào đáp; và chính chúng là thủ-phạm bắn tan xác hai trực thăng Huey của LÐ 51TC. Riêng quanh vị trí Ranger North, trên lưng chừng đối địch đặt rất nhiều súng cối 82 và 120ly đã điều chỉnh sẵn nên pháo kích rất chính xác, dưới tầm mắt từ trên đồi nhìn xuống, gây thiệt hại nặng cho những trực thăng vừa đáp xuống. Về việc yểm trợ của phi cơ Hoa Kỳ, nhất là trực thăng Cobra, Thiếu Tá Khang nói dường như các phi cơ chỉ bắn phá với mục đích yểm trợ ưu tiên cho trực thăng đáp xuống để bốc anh y tá Fujii ra. Ðúng như vậy, 42 khẩu đại bác của Mỹ tại Khe Sanh, dồn vào hình móng ngựa, hay chữ U, chỉ chừa một cửa ngỏ hành-lang cho trực thăng ra vào với sự yểm trợ cường tập của Cobra. Còn phần yểm trợ cho TÐ/39 BÐQ phòng thủ căn cứ chỉ là thứ yếu, hay coi như không đáng quan tâm. Ðây là những gì tôi hằng chứng kiến trên khắp mặt trận đụng độ giữa quân bạn và quân BV, riêng phi công trực thăng tản thương Hoa Kỳ Joel Dozhier (DMZ Dust Off) kể lại về phi vụ của anh như sau:
"Chiều tối hôm đó, toán tản thương chúng tôi được lệnh phải chuẩn bị gấp 5 trực thăng để tản thương chừng 100 người tại căn cứ Ranger North cho TÐ39 BÐQ. (Vì ban đêm quân BV không dám bắn lên sợ lộ mục tiêu sẽ bị EC-130B cường tập ngay vào tuyến đạn lửa) Thuyết trình viên cho biết có rất nhiều vị trí phòng không địch trong vùng nên Bộ Tư Lệnh Hành Quân đã dự trù một hàng rào đạn pháo binh hình móng ngựa để bảo vệ các trực thăng bay bên trong hàng rào tuyến lửa. Lúc đó, chúng tôi đã bay tản thương suốt ngày nên ai nấy đều mệt mỏi, do đó có phi công đề nghị hãy hoãn phi vụ đến sáng mai. Bộ Tư Lệnh trả lời rằng tình hình rất nghiêm trọng, rất có thể sẽ chẳng còn ngày mai cho căn cứ BÐQ Bắc! Vì vậy, toán trực thăng phải lên đường gấp, nhứt là ban đêm quân BV rất sợ phải nếm mùi đạn từ trên vận tải cơ EC-130B bắn xuống; Chúng tôi đã thiết lập đội hình và kế hoạch lần lượt bay vào bên trong hàng rào hỏa lực. Khi tất cả đã vào trong hình móng ngựa tưởng tượng, lúc đó pháo binh sẽ chuyển xạ tiến lần về căn cứ Ranger North. Nhưng khi sắp sửa thi hành, không may một trực thăng trong toán là Dust Off 30 bị tai nạn trong lúc đổ xăng nên chúng tôi lại phải dành một chiếc khác trong toán để đưa những phi công bị thương về Quảng Trị. Vì chỉ còn lại có 3 chiếc, Bộ Tư Lệnh phải kiếm thêm một chiếc nữa để thay thế, khi trực thăng này tới thì đã quá trễ. Chúng tôi hay tin căn cứ Ranger-North đã di tản nên công tác được hủy bỏ".
Sau đây là lời tường thuật của một số nhân chứng Hoa Kỳ và Việt Nam có mặt tại căn cứ BÐQ Bắc khi vị trí này bị thất thủ. Trung Tá Robert F. Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TÐ/2, Lữ Ðoàn 17 Không Kỵ Hoa Kỳ là người có mặt trên không phận căn cứ BÐQ Bắc trong lúc trận đánh diễn ra ác liệt nhất, đã mô tả: "Quân số địch đông hơn TÐ/39 BÐQ ít nhất 8 lần, trong 3 ngày liền, hỏa lực phòng không địch cực kỳ dữ dội khiến trực thăng của chúng tôi không thể nào đáp xuống để tiếp tế hay tản thương; Khi đã bắn hết đạn, các chiến sĩ BÐQ phải lật từng xác địch quân để tìm kiếm vũ khí và đạn dược của chúng để tiếp tục chiến đấu. Lúc phải rời bỏ vị trí, TÐ/39 BÐQ đánh xuyên qua lực lượng bao vây của cả một Trung Ðoàn địch, dùng chính vũ khí của Cộng quân để đánh lại chúng khi mở đường máu”.
Ðại Úy Không quân William Cathay, một phi công phản lực cơ Phantom F-4 thuộc Phi Ðoàn Khu Trục 40, nói: "Căn cứ BÐQ Bắc trông giống như một bãi chiến trường hồi đệ nhị thế chiến. Chúng tôi đã thả bom napalm thật gần, chỉ cách quân bạn chừng 100 thước. Chúng tôi còn trông thấy rất rõ ràng địch quân đang ẩn nấp dưới giao thông hào".

Trong tác phẩm "Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30" của Ðại Úy Pháo Binh Trương Duy Hy, Pháo Ðội Trưởng Pháo Ðội C/44 Pháo Binh, có kể lại việc Hạ Sĩ Phan văn Ðăng thuộc Ðại Ðội-1, TÐ39 BÐQ, khoảng trên 20 tuổi, người Huế, đã thuật lại những giờ phút oai hùng nhất của TÐ/39 BÐQ như sau: "Sau ngày toàn thắng 19 tháng February, TÐ/39 BÐQ chiến thắng lớn, tịch thu trên 500 vũ khí đủ loại, phá nát các kho chứa hàng ven đường mòn Hồ Chí Minh, giết trọn một Tiểu Ðoàn Cộng quân, xác nằm la liệt trên trận địa. Sau đó, chúng phản công mãnh liệt, đại đội của anh bắn đến viên đạn cuối cùng mới rút đi theo lệnh của Thiếu tá Khang, TÐT". Anh Ðăng còn cho biết quân BV đã thí mạng khủng khiếp chưa từng thấy so với mấy chục trận đụng độ ác liệt anh từng tham dự trong chiến trường quốc nội, Ðại Ðội của anh đã phải cận chiến vô cùng dữ dội với địch quân để giữ vững vị trí; Sau cùng, Ðại Ðội của anh phải phân tán mỏng để khỏi bị biển người của Cộng quân tiêu diệt. Nhìn chung nếu so sánh thiệt hại về nhân mạng cũng như vũ khí, TÐ/39 BÐQ đã thắng lớn với tỉ số nhân mạng 1 đổi 10. Nhưng về mặt chiến thuật, việc căn cứ Ranger North bị thất thủ được coi như một bước lùi quan trọng trong kế hoạch tấn công của cuộc hành quân Lam Sơn 719. Chẳng những TÐ/39 BÐQ đã không còn khả năng tác chiến, mà màng lưới phòng thủ mặt Bắc của QLVNCH cũng đã bị thủng một lỗ lớn khiến Cộng quân dễ dàng theo đó tràn sâu xuống vùng hành quân Nam gần đường số 9.

Hậu quả và nhận xét Nhìn chung, các TÐ BÐQ tại sườn Bắc bị thiệt hại khá nặng vì các trận cường tập biển người liên tiếp của quân BV, nhưng số thương vong của địch còn cao hơn nhiều. Nếu chỉ kể về nhân mạng hay về mặt chiến thuật, quân BV đã bị thảm bại. Nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, thiệt hại về nhân mạng tuy đáng kể, nhưng không quan trọng bằng việc "cắt đứt đường tiếp vận của địch tại Lào" để giết địch về lâu về dài, không nhất thiết gây thiệt hại nhân mạng ngay tại chỗ. Do đó, tuy các TÐ BÐQ đã giết được nhiều địch quân, nhưng lại phải di tản nên bỏ trống những vị trí quan trọng, thật ra lực lượng hành quân đã bị yếu thế về phương diện chiến lược vì những lý do sau đây:
- QLVNCH đang từ thế tấn công trở thành phòng thủ, trong khi ngược lại, quân BV từ thế bị động trở thành chủ động. Với khả năng tăng viện từ vùng Phi Quân Sự, qua địa hình tương đối trôi chảy vì ít chướng ngại vật, trên đường tiến quân qua cánh đồi trọc với có tranh trải dài qua đến tận vùng hành quân bên Lào; quân số quân BV ngày càng gia tăng tại chiến trường trong khi QLVNCH ở thế cột chưn phòng thủ thụ động trên các Căn Cứ Hoả Lực, nên lực lượng bị chia cắt không yểm trợ được lẫn nhau, ban sáng thì sương mù dầy đặt không được yễm trợ hoả lực khi cần thiết. Quan niệm liên hoàn "hỗ tương yểm trợ" của các CCHL (FSB) bị phá vỡ vì căn cứ nào cũng bị Tướng Giáp biết trước nên tổ chức công sự, hầm-hố rất kiên-cố bao vây cô lập nên phải tự chống trả, quân ta như Cá nằm trên thớt vì sự phản bội của phản tình báo CIA Mỹ. Mỗi vị trí QLVNCH bị biển người quân BV có chiến xa và trọng pháo bao vây nên trở thành những ốc đảo, khiến địch tự do thao túng, lựa chọn mục tiêu để dứt điểm đưa quân bạn vào thế bị-động như bó đũa bị bẻ từng chiếc một. Ðây là cái bẫy do người bạn lớn của chúng ta đặt ra để hủy diệt quân lực VNCH vào đúng ngày 18 tháng Giêng 1971 do HÐAN, Pentagon quyết định.

- Về mặt tinh thần, tin hai TÐ BÐQ phòng thủ sườn Bắc phải di tản khiến các binh sĩ Dù tại các Ðồi 30 và 31 là lớp khiên-chắn phòng thủ kế-tiếp thứ hai phần nào hoang mang giao động. Kể từ nay, hai Ðồi nầy bỗng nhiên trở thành các vị trí tiền đồn, vừa phải nhận lãnh trách nhiệm ngăn chặn địch quân do BÐQ để lại, vừa phải tự bảo vệ, coi như "lưỡng diện thọ địch" Ngoài ra, lại còn phải đảm đương trách nhiệm yểm trợ và bảo vệ cho nỗ lực chính trên đường số 9 tiến chiếm Tchepone. Riêng đối với các chiến sĩ BÐQ, sau các trận đánh để đời tại mặt trận Bắc đường số 9, toàn bộ lực lượng LÐ/1 BÐQ được rút về căn cứ Phú Lộc nên không còn trực tiếp tham dự cuộc hành quân trong phần đất Lào từ đó; nhưng xét rằng LÐ1 BÐQ nầy phải được nghỉ xả hơi sau các trận đánh rất đẫm máu
- Với tin 2 TÐ BÐQ bị thiệt hại và di tản, các phóng viên ngoại quốc lại càng thổi phồng những tin tức bất lợi cho QLVNCH. Hình ảnh vài quân nhân BÐQ ngồi trên càng trực thăng hay những chuyến trực thăng tải thương đầy xác chết và những người lính bị thương hoặc những khuôn mặt bơ phờ hốc hác sau nhiều ngày tử chiến không được tiếp tế hay tăng viện đã là những đề tài nóng hổi để báo chí Hoa Kỳ có chủ mưu triệt để khai thác... Những hình ảnh này được các hãng thông tấn ngoại quốc loan truyền đi khắp thế giới khiến dư luận quốc tế cũng như quốc nội lầm tưởng rằng QLVNCH đang bị sa lầy và tìm đủ mọi cách để chạy trốn khỏi Hạ Lào. Bàn về dư luận không thuận lợi này, anh y tá Fujii, người đã trực tiếp sát cánh chiến đấu cùng TÐ/39 BÐQ trong lúc chiến trường nóng bỏng nhất đã phát biểu: “Tôi cho rằng các chiến sĩ BÐQ/QLVNCH là những binh sĩ chuyên nghiệp và tài giỏi nhất mà tôi đã rất hân hạnh được cộng tác; Nếu có dịp, tôi sẽ không ngần ngại lại cùng chiến đấu với các BÐQ” Trung tá Molinelli, chỉ huy trưởng đơn vị trực thăng trực tiếp yểm trợ cánh quân BÐQ cũng bầy tỏ cảm tưởng tương tự: "Ðúng, một số BÐQ đã bám vào càng trực thăng để được di tản mau chóng khỏi trận địa; Nhưng một số lớn khác đã không hốt hoảng như vậy".
- Một thiệt hại gián tiếp khác của QLVNCH vì hậu quả của các trận đánh tại các căn cứ BÐQ và cái chết của Trung Tướng Ðổ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Ðoàn III và là người hùng trong trận đánh vượt biên sang Cam Bốt vào năm 1970. Việc các căn cứ BÐQ thất thủ là thất bại quan trọng đầu tiên cho lực lượng VNCH trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Do đó, theo các tài liệu Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng tướng Lãm đã không có những quyết định đúng lúc, đúng mức và đúng chỗ khiến cuộc hành quân bị trì trệ và lực lượng hành quâm lâm vào tình thế bất lợi. Vì vậy, Tổng Thống Thiêu đã mời Tướng Trí từ BTL/QÐ III về Sài Gòn để thảo luận. Nguồn tin Hoa Kỳ cũng nói rằng, vào ngày 23 tháng 2, Tổng Thống Thiệu đã trao chức vụ Tư Lệnh cuộc hành quân Lam Sơn 719 cho Tướng Trí. Nhưng trên đường đi nhận nhiệm vụ mới được trao phó, chẳng may ông bị tử nạn trực thăng tại Tây Ninh, vì thế Tướng Lãm vẫn còn giữ chức Tư Lệnh Hành Quân. Cái chết của Tướng Trí đưa ra chiều nghi vấn … Một thế lực ghê gớm nầy sợ Tướng Trí sẽ tiếp diễn cái trò hủy diệt mau chóng các kho tàn trên đường Mòn Hồ như đã thành công trong năm vừa qua “Tốc chiến tốc thắng ở Cục R”. Cuộc chiến Việt Nam, bất cứ ai dù Mỹ hay Việt mà đụng đến đường Xa lộ Harriman [Ðường Mòn HCM] đều bị thảm hại, như John Paul Vann, dựa vào thân-thế từ Tổng thống Nixon, ưu tiên dùng B-52 tiêu diệt 3 Sư-đoàn BV và Trung đoàn 203 Chiến xa, không đễ cho Hà Nội chiếm Kontum làm thủ phủ của MTGPMN để ăn nói tại bàn hội nghị Paris 1973. Thật nghịch-lý chỉ có ÐPQ và NQ chiến đấu giữ vững thị xã Kontum!?!? Còn như Tướng Westmorland không hiểu trách nhiệm qua Việt Nam chỉ để huấn luyện tác chiến mà thôi; nhung khi ông nổi hùng-khí đòi đưa quân vào chiếm giữ đường xa-lộ mà Liên Xô chịu trách nhiệm thiết kế ống dẩn dầu huyết mạch, song song với xa-lộ Harriman, thì bị kêu về Mỹ ngay. Nếu Tướng Westmoreland mở cuộc hành quân Lam Sơn 689 thì cuộc hành quân Lam Sơn 719 nầy sẽ không bao giờ xảy ra (Cuộc hành quân xảy ra năm một ngàn chín trăm 68 trên đường 9 Nam Lào)

      Gunship PÐ-213 và 2 ÐÐ Trinh Sát Dù
Vào những ngày đầu, ngay dưới chân núi phía nam Căn-cứ Hỏa-lực, Đồi 31, trên đường lộ 92, Thiết-đoàn 11, Lữ-đoàn-1 Kỵ-binh của Ðại-tá Nguyển-Trọng-Luật, đã tao ngộ chiến với một thành phần Thiết-vận-xa PT 76 của CSBV; Thiết-đoàn đã anh-dũng tiêu-diệt 6 Chiến-xa T-54 và 16 PT-76. (Trong 16 chiếc PT-76 nối đuôi ở phía sau, có nhiều chiếc còn nguyên vẹn vì xạ-thủ và tài xế vừa thoát chết, chém-vè rút vào rừng già cùng với Trung-đoàn tùng thiết bởi sợ phi cơ truy kích; Trực thăng vỏ trang PÐ213 phải áp dụng “văn kiện điều hành” [Standard Operational Procedure] nên không có rượt theo truy kích mà luôn luôn giữ trên đầu quân bạn. Một trong các PT-76 còn nguyên vẹn được Tư-lệnh chiến trường, Tướng Lãm gởi về Saigon tặng Tổng thống; nhưng mầu nhiệm thay! trong khi Thiết-đoàn-11 không bị một sự thiệt hại nào, để khỏi mất lòng tin của đọc giả, người viết xin mời đ-g vào bất cứ thư-viện nào tìm SÁCH lời tựa: “A Better-War”, MỤC: Lam Son 719, TRANG: 259, HÀNG: 26: “Early in the operation the 1st Squadron, 11th Armored Cavalry had encountered NVA armored elements in a fight at Fire Base 31 and performed brilliantly, destroying six enemy T-54 tanks and sixteen PT-76 without any friendly losses in the first major tank-to-tank engagement of the war”

Dĩ nhiên Trực-thăng võ-trang của Phi-đoàn 213 cũng đã góp phần không nhỏ trong cuộc chiến thắng nầy với loại Rockets diệt Chiến-xa, 38 trái cho hai bầu hai bên (hình thù ngắn gọn, nằm ẩn ngay trong lòng bó Rocket, Phi Công không thấy được đầu đạn warhead lú ra) và Mini-guns đã là một khắc-tinh khống chế các xạ thủ BV không thể ló đầu ra khỏi chiến xa để chống trả; Có phải sơ-khởi 6 khẩu đại liên 6 nòng như các pháo-tháp di động linh hoạt bao vùng trên không, tạo điều kiện hửu hiệu là không một chiến xa nào phía bên ta bị thiệt hại vì hỏa lực chống trả của địch? 6 pháo tháp di động trên không nầy đã áp-dụng kỹ thuật điêu luyện trong nhịp bắn từng hồi 2000 tăng giảm đến 4000 viên phút trên cao độ 75 thước để duy trì hệ thống điện tử “control-box” không bị “overcharge” tắt nghẽn. Cuộc tao ngộ chiến ‘Chiến-xa đối đầu với Chiến-xa’ được xem là Quân-lực VNCH toàn thắng! Dỉ nhiên kết quả công đầu được thành đạt là nhờ công lớn do Lữ-đoàn/1/Dù của Ðại-tá Lưởng đã chia ra 2 đường tiến sát bén nhọn, chận đánh 2 Trung đoàn của Sư-đoàn Thép 320 và 304 của CSBV. Tịch-thu vô số xe-thồ, thuốc men thực phẩm cùng thiêu hủy kho xăng hậu cần và căn cứ huấn-luyện bổ xung tân binh tại chiến trường, làm chao-đảo tinh thần của 2 trung đoàn chủ lực CSBV nầy.

Chúng tôi đang lấy trung tâm điểm là một Trang trại của CSBV, có lẻ là Công-binh-xưởng, hay Trung Tam Huan Luyen với nốc-mái lợp bằng Tre-Nứa đập dập; Ðễ chờ đợi tăng cường thêm hỏa lực, Trung-úy Trần Lê Tiến, Lead-gun đang trên đường bay đến căn cứ Aluối với 76 trái hoả tiển chống Tăng. Dĩ nhiên không phãi đễ truy kích tàng quân của trung đoàn Thép 320 đang bị đơn vị Dù gây thiệt hại nặng mà để phối hợp hỏa lực cho một đơn vị Dù thuộc Lữ-đoàn-1 đang tiến chiếm mực tiêu: một đơn vị chiến xa thuộc trung đoàn 202 CSBV đang phục kích trên đường 92, bắc Aluối. Chúng tôi không được quyền đi xa nguyên tắc “yễm trợ hỏa-lực tiếp cận cho quân Dù” và luôn luôn trên đầu quân bạn; Thế nên vùng chờ của chúng tôi là trên đầu Thiết đoàn-11, lực-lượng Dù, và Chi đoàn thiết vận xa của Thiết đoàn-17. Cho nên hợp-đoàn 4 chiếc trực thăng vỏ trang phối hợp hỏa lực nầy không đi xa nguyên tắc là truy kích tàng quân của trung đoàn 304; Ðiều dể hiểu chúng đang di chuyển xa về phía Nam của cứ-điểm Aluối và nhập vào sư-đoàn 324B để tạo thành sức mạnh đồng thời cũng bảo vệ căn cứ kho tàng 611.

Hợp đoàn gunships của Tiến vừa đến Aluối, tôi cắt đặt chiếc 2 của Tiến nhập vào left-echelon-3 do tôi lead, còn riêng sát thủ Tiến đi sau chúng tôi 45 giây với cao độ 300 thước trên mặt đất, vừa đủ một pass 25 giây nhào xuống phun từng đợt 4 trái, chia đều bao phủ ổ phục kích. Ðiểm phục kích nhầm vào khúc quẹo qua trái trên trục đường thẳng, lấy trục trên đầu quân bạn về hướng bắc; Chúng tôi đang vào đội hình tác chiến: Tôi cẩn thận nhắc lại các anh em đoàn viên xem lại Chicken-plate, check lại dây nịt an toàn sau lưng, kéo kiếng che mắt từ helmet xuống, và kéo cổ áo nomex lên cao để không bị phỏng vì các dây cháy từ đuôi hỏa tiễn phun ra khi tác xạ. Tất cả bật qua VHF 118.5, intercom, trong vị thế sẵn-sàng chiến đấu.

Tôi dùng chiến thuật “độn rừng ngụy âm” bay sát trên ngọn cây, mỗi chiếc cách nhau 5 giây an-toàn khoảng cách, riêng theo sau gun Tiến lên cao độ cách 45 giây. Hợp đoàn 3 chiến gunship rà sát trên ngọn cây, ôm sát bên phải con đường thẳng nhập vào khúc quẹo trái trước mặt. Các xạ thủ đang đứng xổng lưng nhoày người ra ngoài với đôi mắt Cú-Vọ soi bói như tìm kiếm bảo vật; Còn 30 giây đến mục tiêu, tôi ra lệnh bắn … 6 khẩu đồng loạt tác xạ, 6 xạ thủ chồm hẳn ra ngoài dí đầu súng 6 nòng quay tích về trước mũi … một bầu lửa đỏ trước mũi phun ra 4000 viên xuống rừng Tre-gai, bụi rậm, bên cạnh lưng sườn đồi nhất là dưới gốc các rậm Tre nơi nghi ngờ điểm phục kích. Các anh rải đều các điểm nghi ngờ có sự hoạt động của con người. Tôi nhớ lại lời nói của Nả Phá Luân “Les sous officiers font l’armeé” [Các Hạ sỉ quan nầy là kẻ quyết định chiến trường] 6 anh không những gan dạ đứng xỏng lưng chiến đấu mà còn kinh nghiệm tác xạ, nên những cây minigun nổ đều với nhịp điệu khi nương khi mạnh; Khi chúng tôi trên đầu quân CSBV 50 thước; Thật điều quái lạ không nghe một tiếng súng nào bắn trả? Khác hẳn mọi khi có tiếng lóc cóc, hoặc nổ như bắp rang của AK-47 mỗi lúc mỗi gần hơn.

Nhưng chả lẽ chúng chết hết!? Không phải vậy đâu đừng ham! Vì tiếng mưa bảo của đạn đạo từ 6 cây minigun quá ghê gớm nên họ đành tạm thời núp trước rồi tính sau; Ðơn vị tùng thiết quân CSBV thuộc Sư Ðoàn Thép 320 nầy có kinh nghiệm, vì họ thừa hiểu muốn chường mặt ra để đối chọi với chúng tôi thì đã bị gục ngã vài giây dưới cơn mưa đạn tàn sát trước mũi trực thăng và không có dịp mở mắt nhìn thấy sát-thủ vừa bay lướt qua trên đó.. Dựa vào thế thượng phong nầy, Chiếc Lead của tôi quẹo gắt qua phải lấy chút cao độ quan sát và làm C&C cho đội hình xạ kích, Tôi quẹo gắt qua phải lead 6 minigun bao vùng trên điểm phục kích bắn xối xả vào luôn chiến xa T-54 và PT-76 nằm chàng ràng trên trục lộ vì quân BV vẩn còn ở trong đó. Cho đến lúc nầy trên cao độ 75 thước vòng tròn chúng tôi vãn cảm thấy không một tiếng súng nào bắn lên.

Hai chiến đầu tiên bắt đầu phun ra hỏa-tiễn chống biển người, ba cụm khói màu đỏ-hồng đang để lại sau đuôi 2 chiếc đầu; Trên cao 300 thước, Tiến bắt đầu phụt ra mỗi lần 4 trái, và rãi đều trên các chiếc T-54 nắm chình-ình cách hai bên vệ đường không xa lắm. Chỉ 25 giây sau qua một pass duy nhứt, 38 trái đã rơi vào đúng mục tiêu. Lúc nầy Tiến lấy cao độ 75 thước làm trail cho Lưu ở chiếc 2, trong khi chiếc 3 của Lộc lên cao độ 300 thước để lấy trục xạ kích. Khi gun Lộc phóng xuống từng đợt 4 trái vào y chang mục tiêu của Tiến đã dộng vào đó… Lộc đang nối đuôi làm số 3 của lead Lưu; Tôi tách ra lên cao độ để tác xạ, nãy giờ tôi đã quan sát và thấy rỏ ràng địch quân đả phóng ra khỏi xe mong chém-vè về cánh rừng trước mặt, nhưng đã bị các xạ thủ theo dõi tiêu diệt một số lớn vì làm sao tránh khỏi căp mắt Cú chỉ ở trên tầm quan sát 75 thước! Luôn luôn cũng trên cao độ 75 thước, cũng thay phiên 3 chiếc cover liên tục bằng lưới đạn 7ly62, giữ khoảng cách đều nhau trên một chu vi hình tròn yễm trợ liên hoàn. Và cứ như thế 6 khẩu minigun tiếp tục khạt ra từng hồi 2 đế 4 ngàn viên để duy trì hệ thống control box không bị overcharge cũng như đè-nén (neutralization) không cho địch thủ bắn trả.

Hồi nảy giờ, tôi đã quan sát thật kỹ trên trận chiến, điều đặc biệt là các dấu xe xích song song màu vàng nghệ còn tươi rói, chằng-chịt ấn dấu trên lưng chừng đồi thoi thỏi và mất dạng trong đám rừng hình chữ nhựt không có dấu vết thoát ra, mà theo con mắt kinh nghiệm chiến trường, chúng (PT-76) đang dàn hàng ngang trên mé rừng ngó xuống con lộ. Tôi căn dặn Lưu, khi tác xạ nhớ dập theo mục tiêu của tôi mà bồi thêm vì tôi chỉ còn có 8 quả hiếm hoi để chống Tăng.

Chiến Thuật “Kạ-Càng Lướt trên cây”

   
Theo thống-kê Việt/Mỹ: KQVN chết 10, Mỹ chết 215; KQVN mất tích 4, Mỹ 38 đó là hậu quả sau 42 ngày của cuộc hành quân Lam-Sơn 719 vì nhờ “chân-lý đây rồi!” ... “Chiến thuật kạ-càng lướt thoáng trên ngọn”, Thường thường trên cao độ 50 thước với âm thanh gầm thét như luôn luôn có 6 con rồng phun lửa mới áp đảo kẻ địch phải chui rút, dưới đó, vi bi theo đuổi bởi 32 con mắt diều-hâu ráo-đảo tìm kiếm địch thủ quanh quẩn đâu đây, vừa ló dạng bóng đen nào thoát ra khỏi chiến xa để đào thoát cũng bị dí 3 đầu mũi 6 nòng phun xuống một trận mưa đạn buộc phải ngã quỵ tại chỗ, không có mống nào chạy thoát lưởi hái tử thần. Ðặc biệt, cánh rừng chồi da beo hình chữ nhựt ngó xuống trục lộ đã bị các nòng súng chia nhau quạt khắp mọi nơi khi chưa có mục tiêu khả nghi nào xuất hiện. Dưới cách đó gần lộ lố nhố vài hầm cá nhân B-40, đất vàng nghệ còn tươi rói, đã bị minigun giả nát tự bấy lâu rồi, cảnh vật nơi chiến địa cùng đoàn xe im-lìm bất động như khung hình chết của bãi tha-ma, trên đó ngun ngút toả ra dật-dờ vài đám khói còn lại trên xác các chiến xa trúng rockets. Nơi đây lính BV đã bỏ chạy ngay sau khi chiếc thứ 2 của Lộc dộng xuống thêm 38 rockets chống Tăng. Bây giờ còn lại cạnh bìa rừng hình chữ nhựt ngó xuống con lộ, đang bị tôi nghi-ngờ là vài chiếc PT-76 đang chỉa nòng 76ly xuống con lộ, kềm theo vài khẩu đại liên 14,5 ly, nhưng có lẻ không còn ai sống sót. Tôi cũng hiểu ra rằng với lỏm nhỏ rừng chồi nầy đã bị các minigun phun xuống cày nát, tất cả đã chém-vè theo bộ binh tùng thiết vào đám rừng già sau lưng. Chúng chạy ra khỏi bìa rừng khi tôi nhìn lại sau đuôi, phát hiện nhưng tằm đạn đạo minigun chiếc 2 chĩa về hướng 1 giờ, nhưng chưa đủ xạ trường sát hại, cũng như Trung sĩ Ðức bắn vói ra sau hướng 5 giờ nhưng cũng trớt-quớt, vô tích sự vì đạn đạo không thể tới được. Thế là nhóm nầy đã thoát nạn để lại một số PT-76 không còn người điều khiển; Cái toán quân BV nầy khá thông minh nên đào thoát kịp; Tôi đang nghe trong tần số Guard, tiếng người Việt ngồi backseater (người “tháp tùng tử” ngồi sau có thể là quan-sát viên KQVN, Pháo binh diện địa, pháo binh Dù, TQLC, hoặc sĩ quan Phòng-3) trên FAC Bronco OV-10 cho biết 10 phút nữa phi cơ chiến thuật sẽ đến dập thêm vào đoàn convoy chiến xa nầy. Vừa làm một pass rãi dài 8 hỏa tiễn vào bìa rừng ngó xuống con lộ, nhưng tôi đoán quân BV đã bỏ của chạy lấy người, chỉ còn lại vài chiếc PT-76 không người lái với xác người nằm yên trong đó, rồi đây quân Dù sẽ váo khai thác chiến trường và sẽ tìm ra chúng.

Chiếc của Lưu cũng làm một pass y chang như tôi. Chúng tôi từ giả bãi chiến trường trong không khí yên lặng, dù rằng để lại vài đám cháy với lớp khói mờ-mịch tỏa ra nơi đó, tuyệt đối không thấy có sự chống trả; Chiếc Tiến và Lộc tiếp tục bao vùng cho Tiểu đoàn-1 Dù và Tiểu đoàn-8 ở hướng bắc, cạnh đó. Thình lình tôi nhìn rõ một chiếc A-6 Intruder, nhờ hai đầu cánh chém gió xẹt ra hai lằn trắng, rồi một loạt bom snack-eye chạm nổ dữ dội, chiếc thứ hai nhào xuống cũng salvo như chiếc trước, nhìn ra sau, khói bom che lấp đoàn convoy. Tôi mở tần số la làng, cự FAC “Anh nói 10 phút gì mà nó dội xuống sớm quá vậy … xém chút nữa chúng tôi ôm lãnh đủ”; người backseater trả lời: “Thằng pilot nó đã thấy các anh nhờ vòng tròn cánh quạt sơn màu trắng, nên nó mới cho thả … mà nó lu-bu cũng chẳng nói gì đến tôi …thôi thông cảm đi bạn! Chúng tôi nhìn xuống thấy bốn chiếc dĩa trắng quay tích như làm ảo-thuật trên nền thãm xanh rêu, rồi khi các anh lấy hướng về Aluối nó mới nhào xuống thả … thôi thông cảm nghe bạn”
Tôi và Lưu về lại Khe Sanh để tái vỏ trang và châm đầy xăng nhớt.

Nếu giả thuyết ở nơi đây không phải là vùng cao nguyên rừng núi mà là vùng đồng bằng như vùng Trà-Kiệu trên sông Thu-bồn chẳng hạn, thì đây là một dịp may để tiêu diệt trọn gói khi mà tàn quân bị 3 mủi dùi tấn kích (3 mặt giáp công) chỉ còn con đường thoát thân duy nhứt là vượt qua sông Thu-bồn: Phía Tây tấn kích bằng Chi-đoàn/17, phía Nam bằng Tiểu-Đoàn/1 Dù, và phía Ðông nguyên một Thiết-đoàn/11. Ðối với Top-Gun, chúng tôi biết phải làm những gì khi Cá đang nằm trên thớt, trong khi trên cao độ 75 thước, 8 xạ-thủ đang đứng xổng lưng ghì tay súng trong tầm mắt cú vọ mà rãi đều trận mưa đạn xuống địch quân trên một vùng lau sậy trống trải, hoặc toan lội qua sông Thu-Bồn! Ðiều dễ hiểu chúng tôi là những tiên phuông trong lằn tên mũi đạn nên hiểu được thế trận đồ, vì thế cho nên chúng tôi không phiền-trách những ai có may mắn được ngồi trên bàn giấy khi nhận xét về thế trận đồ. Khi Lữ đoàn 1 Ðặc nhiệm gởi chiến lợi phảm bằng một thiết vận xa PT-76, trong đó có chở thêm những bánh xe-thồ, xe thùng, và vài cái chảo to đường kính hơn thước, thì Bộ TTM cho rằng làm gì trong rừng mà có bánh-xe Cyclô để du lịch, còn khi nhìn thấy cái chảo to tổ bố nặng trĩu thì nhóm văn phòng nầy chỉ há họng và trố mắt khi nhìn thấy cơm cháy còn dính nơi đáy chảo…không hiểu gì cả? Vì thế sự thiếu hiểu biết nầy không làm chúng tôi phiền muộn, khi có ai muốn soi mói châm chọc, ngay đến Tướng Abrams mà báo chí Tây phương cho là người hùng trong trận chiến cũng có nhận thức vô cùng lầm lẩn đến nổi khi đọc dòng chữ dưới đây làm tôi vô cùng đau xót. Dưới đây, tôi xin đưa ra một dẩn chứng mà không dám dịch ra tiếng Việt sợ sai lạc: Cũng trong sách “A Better War”, mục “Easter Offensive”, trang 332, hàng 25 [During the battles a new weapon system, the tank-killing TOW missile, was flown in from the United States. Initially, noted Abrams, “I gave twenty to the Marines and the 1st Division because they were the only troops I knew of that had stood and fought. I don’t want these things in the hands of the enemy. And on the Airborne, I told General Kroesen [that] when General Truong will give me his personal assurance that they will not be abandoned on the battlefield, then I’ll
Consider it”

Nằm trên chiếc ghế-bố Quân đội, tôi co-ro trong chiếc Mền không đủ ấm giữa rừng núi Khe Sanh, thế-giới nơi đây, tôi như bị giam hảm thu hẹp dưới 4 góc mùng xám xịt đen tối, không lối thoát, rồi trăn-trở, trằn-trọc không sao ngũ được. Bây giờ tôi phải làm sao đây!? Khi mà chiến tranh đi đôi với tang tóc! Tôi cầu mong làm sao đừng có xãy ra thảm cảnh đó nữa, hoang mang lo-lắng cho Liên đoàn của mình! Và nhất là các Phi-đội 233 và 219 … cứ miên man suy nghĩa mà không làm sao chợp mắt được, tự nhủ lòng là từ nay trở đi, phải dấn thân bay tiên phuông trong lửa đạn, là con Chim đầu đàn phải cất cánh sớm hơn, mà lại về đáp cũng trể nhất. Tôi sẽ giao cho Đại-úy Kỳ hay Trung-úy Tiến, phụ tá hành quân thỉnh-thoảng đi họp thế; tôi dành hết thời gian cho cuộc hành quân nầy bằng cách cầm lấy chiếc Trực-thăng Võ trang mà hướng dẫn, đưa đón các cánh Chim non đang lặn hụp dưới bầu trời mới lạ, xuất phát từ biên-giới lúc đi cũng như lúc về, lấy điểm hẹn từ Trại tù Lao Bảo làm nơi điểm xuất phát. Chỉ có tôi là người duy nhất hiểu rõ được địa hình nơi đây từ ngọn núi, con sông đến đồi cao khe-suối, những đám rừng nguyên thủy chưa có dấu chân người, ngọn núi Vôi Cô-Rốc vàng óng-ánh dưới ánh bình-minh. Nhưng hôm nay bay trở lại, mọi cảnh vật khai-quang trống-trải rất nhiều, nhất là trên trục đường Mòn 559 mà tôi đã bay ngang qua đây không biết bao nhiêu lần, giờ thì quá trống-trải, đường đất Đỏ Cao-nguyên đâm chồi, chi-chít thêm ra, màu xanh trùng điệp của cánh rừng già giờ đây đã có quá nhiều loang-lỗ, rải-rác những nhà to với mái đan bằng Tre-Nứa đập dập, có lẽ là những nhà Kho hay Công-binh xưởng chăng? Chỗ Thiếu-úy Huệ đáp xuống thả Toán Thám sát STRATA (1964) vào buổi chiều choạng-vạng, cánh quạt chém vào cây, tôi phải đặt càng bánh xe lên đầu trục cánh quạt của hắn mà đem hết Phi hành đoàn về, nơi đây, bây giờ là Hậu-cần 611, cũng đã phát hoang trống-trải và có cả ống dẩn dầu băng ngang qua thì phải? Cuộc hành quân mới phát khởi được 3 ngày (N+3) mà 2 phi hành đoàn đã bị Thiết-xa PT 76, cùng phòng không 37ly bắn nổ-tung trên không phận nầy, dưới đây, ngay bây giờ là ổ Kiến Lửa! Xe vận tải ngang nhiên di chuyển mà chẳng hề sợ-sệt phi-cơ phát hiện nhờ cái Dù điều lệ ROE của trục Ma Quỷ: Ðoàn xe chạy ban đêm bật đèn mờ và ban ngày ngũ cho đúng luật ROE, còn như ban ngày khi qua các con suối cạn mà nghe tiếng phi cơ thì tài xế cứ việc tắt máy nối đuôi chờ thì không phi công Mỹ nào dám oanh tạc cả (điều nầy chỉ có quan sát viên người Việt backseater là nhân chứng sống).

Tôi bóp đầu nặng óc tìm ra chân lý cũng như tìm ra định-luật về chiến thuật để bảo vệ cho con em mình không còn bị thảm hại … đang miên-man tìm ra chân-lý. Tối bổng nhớ lại ngày xưa khi thành lập phi đoàn trực thăng đầu tiên, người anh cả thiên tài Nguyễn Huy Ánh đã giản giãi danh hiệu “Thần-Chùy” sau khi đặt tên cho PÐ/211; Ðã xưa lắm rồi, khi con người tìm ra vũ khí để chiến đấu với kẻ thù; Người hiệp-sĩ khi xử dụng chiếc Chùy-thung phải có sức mạnh phi thường, tuy đường chùy vun-vút có chậm hơn các vũ khí như gươm, kiếm, mả tấu, thanh long đao, chĩa ba, thước bảng, roi xích... nhưng tất cả vũ khí trên khi đụng phải Thần-Chùy đều rơi rụng tung-tóe vào mọị phương hướng vô định!!!

Tôi lại bóp trán mĩm cười … vổ mạnh lại lên trán trong nỗi mừng vô hạn … Chân lý đây rồi! Chân lý đây rồi!!! Chiến-thuật “Ngụy-Âm Ðộn Rừng” Trong đôi tay tôi đang có thủ-thuật “Song-Chùy” làm ra chiến thuật áp đảo đối phương. Trực thăng vỏ trang của KQVN là loại bay chậm nhứt thua cả Cobra của Mỹ chớ đừng nói chi đến các phi cơ chiến thuật tìm kích, nhưng tôi lại đã phát hiện ra một chiến thuật tân-kỳ và vô cùng mầu nhiệm: Có chiến hửu nào đã tham dự chiến trận tại rừng già chiến khu D, Ðồng Xoài, và rừng cao-su Bình Giả thì có thể hình dung ngay khi bạn đứng giữa rừng già mà chỉ nghe tiếng bành bạch của cánh quạt chém gió từ xa trên ngọn cây bay đến; Bạn làm sao xác định được trực thăng từ phương hướng nào bay đến? Và khi nghe tiếng gầm thét áp-đảo của Minigun như con khủng long phun lửa xuống, thì tự động bạn phải tìm chổ nào an-toàn gần nhứt để trú ấn. Nếu là chiến xa thì phải chui xuống pháo tháp mà trú ẩn để sống còn theo phản xạ tự nhiên của con người. Kết quả nầy đã chứng minh hùng hồn qua sự ghi chép trong quân-sử Mỹ-Việt (US Army Center of Military History 1980; Lam Sơn 719 General Nguyễn Duy Hinh; và Military History Institute of Vietnam) dưới đây là sự so sánh giữa Sư-Ðoàn 101 Không-Kỵ và Liên Ðoàn 51 Tác Chiến theo như tài liệu SOG/MACV, kết quả sau 45 ngày chiến đấu quyết liệt: Sư-Ðoàn 101 Không Kỵ: Chết: 215, Mất tích: 38, Bị thương: 114

Liên Ðoàn 51 Tác Chiến: Chết: 10, Mất Tích: 4, Bị thương: 11 – (có phải nhờ “Chiến Thuật
“độn rừng ngụy âm”

Liên Ðoàn 51 Tác Chiến và HQ/Lam Sơn 719

Ngày 22/2/1971- Cả đêm rồi tôi không thể chợp mắt được cho dù đã quen dần tiếng ầm vang của 42 khẩu trọng pháo Mỹ bắn yểm trợ, khuấy rối, mà chỉ mong đợi cho mau sáng để gởi PHÐ H-34 vào cứu Giang, On, và Sơn. Nhưng ác nghiệt thay trời hôm nay sương mù giăng đặc sệt như cháo đậu (Pea-Soup) Ðã 10 giờ sáng mà trời vẫn còn mù mịt. Ngay khi trời vừa thoang thoảng thấy được là tôi phải đem gunship bao vùng cho Ðại đội Trinh-sát Dù đang cần mở đường tiếp cứu Ðồi-31. Trước khi cất cánh tôi có liên lạc với sĩ quan điều không tiền tuyến Ðại- úy Không Quân Nghĩa và Trung úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù liên lạc với PHÐ hướng dẫn họ vào hướng nào cho ít nguy hiểm.

Tại BCH Tiền Phương Dù, khi tôi vừa cất cánh thì một tiểu đội tác chiến điện tử Dù đang chờ nơi bãi đáp bên cạnh một chồng máy Sensor dùng để phát giác đặc công địch. Những máy nầy đã giúp cho Trại LLÐB Mỹ thoát khỏi bị bao vây, ngay sau khi Ðại úy Nguyễn Minh Vui và Thiếu úy Châu Lương Cang liều mạng đáp xuống Trại Pleime với lối bay chiếc lá cuốn theo cơn lốc, khi cất cánh dùng chiêu-thức “Khủng Long áp-đảo”, làm cho địch ngơ-ngác không biết phi cơ từ đâu đến lướt thoáng trên ngọn cây, dù vậy một binh sĩ mũ nồi xanh cũng bị trúng đạn ngay đầu, chết liền tại cabin, máu tràn lênh láng trên sàn nhôm.

Bầu trời bắt đầu trong sang, tôi nghe tiếng Thiếu Úy Bữu đang đáp xuống LZ Tiền- Phương Dù. 10 phút sau tất cà pháo Long Tom 175, 155 ly và 8 inch của Mỹ tiền oanh kích trước mũi, dọn mỡ một hành lang dọc trên đường bay. Nhưng quân BV rất tinh ranh khi nghe loạt pháo đầu là chúng chạy vào hầm ngồi nghĩ, cho đến khi ngừng pháo kích thì chúng lại chui ra giao chiến. Tôi cắt đặt hai chiếc Gunship air cover cho hai chiếc H-34 của Bữu và Yên, dù sao Gunship mình tuy có ít hỏa lực nhưng cấp cứu anh em trong Liên - Ðoàn vẫn bảo đảm hơn Mỹ. Tôi rất tin tưởng Thiếu úy Phạm Vương Thục, một Top Gun rất anh dũng dám sống chết vì anh em luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho đồng đội, tôi không tin vào Army Aviation Mỹ vì khi có chiếc nào của Mỹ rơi thì họ bỏ bay đi tìm cứu đồng đội của họ mà quên anh em mình, như tôi là nhân chứng cho nhiều hoàn cảnh như vậy.

Tôi nghĩ Ðại-úy Nghĩa và Trung úy Chính Sĩ quan Không Trợ Dù sẽ chỉ dẫn đường bay nước đáp cho Bữu qua cố- vấn của Thiếu- úy Giang. Vì phòng không di- động trên PT-76 rất lợi hại hơn các phòng không cố- định, 12,7, 14,5 và 37 ly nằm rải rác mọi nơi, nhiều nhứt nơi hướng đông bắc, không nên đáp vào hướng ấy mà nên đáp từ hướng tây nam xuống LZ, dù sao cũng có TÐ /6 Dù mới vừa trực thăng vận, tuy bị nhiều thiệt hại cho quân TÐ-6 Dù, nhưng Top gun Trần Lê Tiến, Hoàng Ngọc Châu … đã oanh liệt thay phiên nhau gây thiệt hại nặng nề cho hai trung đoàn cơ-động 27, và 24B của Quân Đoàn 70B.

Giang đã trình bày cho Bữu biết, hắn đã dùng chiến thuật đáp như chiếc lá cuốn trong cơn lốc, nhưng kẹt nỗi quân bắc Việt cứ khi nghe tiếng trực thăng thì họ giội trận địa pháo tới tấp xuống, vì họ đã có tiền điều chỉnh rất chính xác. Phi-công dù tài giỏi thế nào nhưng khi gần tới đất chừng 15, 20 thước thì sẽ bị mảnh đạn văng bắn vào bộ phận cánh quạt đuôi, mất điều khiển phương hướng rồi rơi xuống quây theo counter clockwise, tại chỗ “undershoot”. Như trường hợp của Giang.

TPC Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với TPC Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng, Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ,co phi Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay Bửu bay Cạ-càng bánh xe lướt thoang thoáng trên ngọn cây theo chiến thuật biệt- kích razed-mode lướt từ hướng Ðông-Tây đi vào, nhưng làm sao đừng gây ra tiếng động. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 TPC Buu còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh cua My noi Khe Sanh bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến LZ, Bửu đổi hướng lấy Ðông Nam, roi Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây,TPC Bữu đã thấy chiếc Gunship của TPC Thục bay vòng lại, cùng với tiếng Thục la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng đông nam". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn Ðồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích đào xới của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng mảnh đạn cối 120ly, khắc-tinh chống trực thăng, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, cơ-phi Em la lên khẩn cấp trong máy:

- "Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy".

Cùng lúc Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc số 2 "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống; May mắn là đạn trúng vào bình xăng sau đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên trực thăng không bắt cháy như chiếc của Thiếu-úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ Bửu nhanh nhen nhảy ra khỏi trực thăng. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước, để lại một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ điện tử Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Phi hành đoàn phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè Ðại uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tất cả dân-bay lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc cóc trên đầu. Lên đến nơi phi hành đoàn thở nhẹ-re như bò kéo xe. Dân- bay mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi phải ghi vào sỗ nhựt ký đơn-vị và nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

PHÐ vừa ngồi nghỉ mệt, họ cũng vừa nhìn xuống LZ, nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc quân bắc Việt tiếp tục giã trận địa pháo đã điều chỉnh tác xạ, một quả đạn súng cối 120ly rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy thành một cột trụ khói đen mù mịt cả một góc trời. Dân bay nhìn con tàu sụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã nhân cách hóa, gần gũi với phi-đoàn lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, PHÐ men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn của Giang, On, Sơn anh em mừng rỡ thăm hỏi rối rít, PHÐ được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, Đại Úy Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan điều không tiền tuyến, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại úy Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần, PHÐ ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "Thiên Thần" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như Trương Phi tân thời! Quả các Thiên thần ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ngầu thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, dân bay dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù; Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ Ðồi 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ này với ý định đánh bật căn cứ ra khỏi sinh lộ của chúng với Trung Đoàn 24B và Trung Đoàn cơ động 27 thuộc Quân Đoàn 70 B và một đơn vị chiến xa yễm trợ thuộc Trung Đoàn 202.

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...