Cao Xuân Huy và Hình Ảnh Tháng 3 Gãy Súng
Thép Súng Đem Đại Nghĩa để thắng Hung Tàn lấy Chí Nhân mà thay Cuồng Bạo SATURDAY, NOVEMBER 13, 2010 Cao Xuân Huy và Hình Ảnh Tháng 3 Gãy SúngĐọc Truyện Tháng Ba Gãy Súng on line
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.
Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.
Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá Lữ đoàn trưởng và trung tá Lữ đoàn phó bỏ Lữ đoàn gồm bốn Tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.
Làm thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả Lữ đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái “Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé”. Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Ðiều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung “lớn lỗi lớn, bé lỗi bé” đúng theo cái kiểu “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.
Tôi không nhớ câu này của ai: “Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi”.
Ðâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.
Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.
Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái “những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...”, trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.
Bút Ky'
Cao Xuân Huy
Kinh thua cac bạn
Nhà Văn CAO XUAN HUY
tác giả hồi ký THÁNG BA GÃY SÚNG đã giã từ chúng ta vào lúc 4:57 phút chiều thứ sáu 13 tháng 11-2010 (giớ Califoirnia)
sau mot thời gian bị bạo bệnh, tại tư gia thuộc thành phố Lake Forest, Orange County, California
Nhà Văn Cao Xuân Huy sinh năm 1947 tại
Bắc Ninh, Việt Nam.
Nguyên Trung Uý Đại Đội Phó ĐĐ 4 thuộc TĐ 4 TQLC,
bị CS Bắc Việt bắt tại mật trận Quảng Trị vào tháng 3-1975
và bị cầm tù 5 năm.
Ông vượt biển đến Cali năm 1983.
Tang lễ sẽ cử hành tại Peek Family (Bolasa- Little Saigon), nhưng hiện nay gia dình chưa có giờ quàn, thăm viếng và tiễn đưa.
Xin thanh thật chia bùôn cùng chị Cao Xuan Huy, tang quyền và xin cầu nguyện cho linh hồn bạn Cao Xuân Huy sớm siêu thoát.
Ghi Chú; Trong chuong trinh Huynh De Chi Binh/SBTN vào ngày thứ năm 19/11 vào lúc 2:00PM và thứ bảy 21/11 vào lúc 10PM,(gio Cali) chúng tôi sẽ chiếu lại cuộc phỏng vấn Cao Xuan Huy vào tháng 6-2007 về những ngày tháng 3 của TQLC Cao Xuan Huy tại mặt trận Quang Trịị cũng nhưng tâm tình cua ông về Tháng Ba Gãy Súng.
Huy Phuong SBTN
Thông báo về Tang Lễ của MX Cao Xuân Huy
Địa điểm: Peek Funeral Home
7801 Bolsa Ave. Westminster, CA 92683
Phòng số 2
Thời gian:
Thứ Ba 16 tháng 11 năm 2010
- Lễ Phủ Kỳ 6:00 PM
Thứ Tư 17 tháng 11 năm 2010
- Thăm viếng từ 12:00 noon đến 8:00 PM
Thứ Năm 18 tháng 11 năm 2010
- 9:00 AM Nghi thức Tôn Giáo
- 10:30 Di Quan
- Hỏa Táng (trước 11:00AM)
Trân trọng thông báo đến quý niên trưởng, quý chiến hữu, về thời gian và địa điểm của Tang Lễ.
Xin quý anh em thu xếp để có mặt đông đủ trong nghi thức Phủ Kỳ ngày thứ Ba.
Xin quý anh em giúp thông báo đến anh em không có e-mail.
Nguyễn Phục Hưng
Sổ tay thường dân Tưởng Năng Tiến: Cao Xuân Huy Từ Chuyện Tháng Ba Gẫy Súng
Nhà văn Cao Xuân Huy - ảnh: Việt Báo.
Tháng 3 năm 1975, lúc đang còn ở lứa tuổi đôi mươi, khi khổng khi không, ông Cao Xuân Huy - một cựu sĩ quan của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, thuộc Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà - giã từ vũ khí. Bỏ súng đạn, dù ở vị thế của một kẻ chiến bại, để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã triền miên tàn phá quê hương đất nước, không chừng, cũng là kỳ vọng hay ước mơ tiềm ẩn của trung úy Cao Xuân Huy (nói riêng) và của cả nước (nói chung).
Sau đó (theo như lệnh của những nguời thuộc phe thắng trận) ông Cao xuân Huy cầm cuốc, cuốc tới tấp, cuốc túi bụi, cuốc không ngừng, cuốc tưng bừng, và cuốc liên tục (rất nhiều năm) trên những thửa đất … vô phương canh tác – ở nhiều trại cải tạo khác nhau. Điều này, dường như, không nằm trong ‘’ dự kiến ‘’ của cả nước (nói chung) và ‘’học viên’’ Cao Xuân Huy (nói riêng).
Cây cuốc, một nông cụ rất hữu ích và phổ biến kể từ khi loài người bắt đầu đời sống định canh cho đến hết Thời Trung Cổ, nếu đuợc tận dụng và thiện dụng, trong điều kiện đất đai và thời tiết lý tưởng (may ra) mới có thể mang lại vừa đủ cơm áo cho chính bản thân người sử dụng. Còn dùng thứ cuốc do tập thể làm chủ, bằng hình thức lao động cưỡng bách, trong điều kiện làm việc khắc nghiệt, trên những nông truờng quốc doanh, theo những kế hoạch kinh tế cứng rắn và hoang tưởng, vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi… thì chỉ là một sự phí phạm nhân lực vô cùng tai hại và đáng tiếc - nếu nói một cách bao dung. Nói cách khác, chính xác hơn, đây là một phương cách trả thù hèn hạ đê tiện của những kẻ tiểu tâm.
Bởi vậy, sau khi rời trại cải tạo, ông Cao Xuân Huy đã không đến những vùng kinh tế mới để tiếp tục cuốc cầy – theo ý muốn của những người thuộc phe thắng trận. Ông đã bỏ nuớc mà đi.
Tháng 3 năm 1975, không phải chỉ có một mình trung úy Cao Xuân Huy bỏ súng. Sau đó, ông ta cũng không phải là kẻ duy nhất vươ?t biên. Ông chỉ là một trong hàng triệu triệu dân Việt - trong cơn quốc biến - hốt hoảng, ù té, bỏ chạy, hay đâm xầm ra biển, tứ tán, lênh đênh, phiêu bạt khắp bốn phương trời.
Giữa ông Cao Xuân Huy và phần lớn những người Việt tị nạn cộng sản khác chỉ có một chút dị biệt nho nhỏ. Sau khi bỏ súng, bỏ cuốc - thay vì cầm kìm, cầm búa hay một dụng cụ nhẹ nhàng nhưng thiết thực nào khác để kiếm sống nơi quê nguời đất khách - ông Cao Xuân Huy (chả may) lại vớ ngay cây bút, một vật dụng mà hiệu quả trong việc mưu sinh vô cùng giới hạn và vẫn thuờng gây vô số chuyện phiền lòng (cũng như tai nạn) cho khổ chủ!
Dù vậy ông Cao Xuân Huy vẫn viết hết lòng, và tro+? thành mo^.t nhà văn Việt Nam lưu vong nổi tiếng (được nhiều người yêu qúi) trong suốt hai thập niên qua – dù ông viết không nhiều. Là một độc giả của ông nên khi có dịp gặp gỡ, tôi đã lên tiếng phàn nàn:
- Cha nội này làm biếng chết mẹ, uống thì nhiều mà viết chẳng bao nhiêu.
- Thì mày cũng vậy!
Chúng tôi cùng cười ha hả, và cùng “tự hứa” sẽ bỏ rượu (trong tương lai gần) để cầm bút một cách đàng hoàng, nghiêm chỉnh và chăm chỉ hơn. Cái “tương lai gần” này, tiếc thay, vẫn cứ hơi xa quá đối với tình trạng sức khoẻ mong manh của Cao Xuân Huy trong thời gian qua.
Sáng nay, tôi cầm tờ Người Việt mà bỗng thấy run tay:
“Ông Cao Xuân Huy, tác giả cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng,’ qua đời chiều Thứ Sáu 12 tháng 11, 2010, sau một thời gian bạo bệnh, tại tư gia ở Lake Forest, California.”
“Tại hải ngoại, ông Cao Xuân Huy từng cộng tác với báo Người Việt trong nhiều năm, cũng như với tuần báo Việt Tide. Ông nhiều lần làm tổng thư ký tạp chí Văn Học và chủ biên tạp chí này.”
“Tuy hoạt động rất nhiều với văn chương, ông ít khi tự nhận mình là nhà văn. Trong bài tựa cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng,’ ông viết, ‘Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”
“Nhà thơ Du Tử Lê cũng viết rằng ông Cao Xuân Huy ‘là người luôn từ chối hai chữ ‘nhà văn’ một cách thẳng thắn, với đôi chút khinh bạc của một Thủy Quân Lục Chiến, binh chủng ông từng vào sinh, ra tử, suốt tuổi thanh xuân, cộng thêm 5 năm tù ‘cải tạo!’”
“Ông Cao Xuân Huy sinh năm 1947 tại Bắc Ninh, Việt Nam. Ông đi lính năm 1968, là cựu Trung Úy Đại Đội Phó ĐĐ 4 thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy quân lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm.” “Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ năm sau đó. Năm 1985, ông in cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng.’ Bốn tháng trước khi qua đời, ông Cao Xuân Huy ra mắt cuốn ‘Vài mẩu chuyện,” do tạp chí Văn Học xuất bản.
“Trong cáo phó, gia đình ông Cao Xuân Huy viết, ‘Mọi phúng điếu, nếu có, sẽ dành trọn để yểm trợ: Quỹ Thương binh Thủy Quân Lục Chiến VNCH, và Trại Trẻ em Cô nhi, Khiếm Thị Long Thành, Việt Nam.”
“Chương trình tang lễ ông Cao Xuân Huy được cho biết như sau:
- Nghi lễ nhập quan và phát tang: 12 giờ trưa Thứ Ba 16 tháng 11.
- Nghi lễ phủ kỳ: Từ 18 giờ đến 20 giờ Thứ Ba 16 tháng 11.
- Thăm viếng: Từ 12 giờ đến 20 giờ Thứ Tư 17 tháng 11.
- Nghi lễ hỏa táng: Từ 9 giờ đến 11 giờ Thứ Năm 18 tháng 11.
Địa điểm: Peek Family Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683, điện thoại (714) 893-3525.”
Tôi vốn ham chơi, và hay thích đàn đúm. Đ... mẹ, bạn bè – khi khổng khi không – nó bỏ đi (ngang hông và ngang xương) như vậy thì tôi còn biết uống với ai, và viết cho ai đọc nữa?
Tưởng Năng Tiến
Nhà văn Cao Xuân Huy - ảnh: Việt Báo.
Tháng 3 năm 1975, lúc đang còn ở lứa tuổi đôi mươi, khi khổng khi không, ông Cao Xuân Huy - một cựu sĩ quan của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, thuộc Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà - giã từ vũ khí. Bỏ súng đạn, dù ở vị thế của một kẻ chiến bại, để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã triền miên tàn phá quê hương đất nước, không chừng, cũng là kỳ vọng hay ước mơ tiềm ẩn của trung úy Cao Xuân Huy (nói riêng) và của cả nước (nói chung).
Sau đó (theo như lệnh của những nguời thuộc phe thắng trận) ông Cao xuân Huy cầm cuốc, cuốc tới tấp, cuốc túi bụi, cuốc không ngừng, cuốc tưng bừng, và cuốc liên tục (rất nhiều năm) trên những thửa đất … vô phương canh tác – ở nhiều trại cải tạo khác nhau. Điều này, dường như, không nằm trong ‘’ dự kiến ‘’ của cả nước (nói chung) và ‘’học viên’’ Cao Xuân Huy (nói riêng).
Cây cuốc, một nông cụ rất hữu ích và phổ biến kể từ khi loài người bắt đầu đời sống định canh cho đến hết Thời Trung Cổ, nếu đuợc tận dụng và thiện dụng, trong điều kiện đất đai và thời tiết lý tưởng (may ra) mới có thể mang lại vừa đủ cơm áo cho chính bản thân người sử dụng. Còn dùng thứ cuốc do tập thể làm chủ, bằng hình thức lao động cưỡng bách, trong điều kiện làm việc khắc nghiệt, trên những nông truờng quốc doanh, theo những kế hoạch kinh tế cứng rắn và hoang tưởng, vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi… thì chỉ là một sự phí phạm nhân lực vô cùng tai hại và đáng tiếc - nếu nói một cách bao dung. Nói cách khác, chính xác hơn, đây là một phương cách trả thù hèn hạ đê tiện của những kẻ tiểu tâm.
Bởi vậy, sau khi rời trại cải tạo, ông Cao Xuân Huy đã không đến những vùng kinh tế mới để tiếp tục cuốc cầy – theo ý muốn của những người thuộc phe thắng trận. Ông đã bỏ nuớc mà đi.
Tháng 3 năm 1975, không phải chỉ có một mình trung úy Cao Xuân Huy bỏ súng. Sau đó, ông ta cũng không phải là kẻ duy nhất vươ?t biên. Ông chỉ là một trong hàng triệu triệu dân Việt - trong cơn quốc biến - hốt hoảng, ù té, bỏ chạy, hay đâm xầm ra biển, tứ tán, lênh đênh, phiêu bạt khắp bốn phương trời.
Giữa ông Cao Xuân Huy và phần lớn những người Việt tị nạn cộng sản khác chỉ có một chút dị biệt nho nhỏ. Sau khi bỏ súng, bỏ cuốc - thay vì cầm kìm, cầm búa hay một dụng cụ nhẹ nhàng nhưng thiết thực nào khác để kiếm sống nơi quê nguời đất khách - ông Cao Xuân Huy (chả may) lại vớ ngay cây bút, một vật dụng mà hiệu quả trong việc mưu sinh vô cùng giới hạn và vẫn thuờng gây vô số chuyện phiền lòng (cũng như tai nạn) cho khổ chủ!
Dù vậy ông Cao Xuân Huy vẫn viết hết lòng, và tro+? thành mo^.t nhà văn Việt Nam lưu vong nổi tiếng (được nhiều người yêu qúi) trong suốt hai thập niên qua – dù ông viết không nhiều. Là một độc giả của ông nên khi có dịp gặp gỡ, tôi đã lên tiếng phàn nàn:
- Cha nội này làm biếng chết mẹ, uống thì nhiều mà viết chẳng bao nhiêu.
- Thì mày cũng vậy!
Chúng tôi cùng cười ha hả, và cùng “tự hứa” sẽ bỏ rượu (trong tương lai gần) để cầm bút một cách đàng hoàng, nghiêm chỉnh và chăm chỉ hơn. Cái “tương lai gần” này, tiếc thay, vẫn cứ hơi xa quá đối với tình trạng sức khoẻ mong manh của Cao Xuân Huy trong thời gian qua.
Sáng nay, tôi cầm tờ Người Việt mà bỗng thấy run tay:
“Ông Cao Xuân Huy, tác giả cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng,’ qua đời chiều Thứ Sáu 12 tháng 11, 2010, sau một thời gian bạo bệnh, tại tư gia ở Lake Forest, California.”
“Tại hải ngoại, ông Cao Xuân Huy từng cộng tác với báo Người Việt trong nhiều năm, cũng như với tuần báo Việt Tide. Ông nhiều lần làm tổng thư ký tạp chí Văn Học và chủ biên tạp chí này.”
“Tuy hoạt động rất nhiều với văn chương, ông ít khi tự nhận mình là nhà văn. Trong bài tựa cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng,’ ông viết, ‘Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”
“Nhà thơ Du Tử Lê cũng viết rằng ông Cao Xuân Huy ‘là người luôn từ chối hai chữ ‘nhà văn’ một cách thẳng thắn, với đôi chút khinh bạc của một Thủy Quân Lục Chiến, binh chủng ông từng vào sinh, ra tử, suốt tuổi thanh xuân, cộng thêm 5 năm tù ‘cải tạo!’”
“Ông Cao Xuân Huy sinh năm 1947 tại Bắc Ninh, Việt Nam. Ông đi lính năm 1968, là cựu Trung Úy Đại Đội Phó ĐĐ 4 thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy quân lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm.” “Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ năm sau đó. Năm 1985, ông in cuốn hồi ký ‘Tháng Ba Gãy Súng.’ Bốn tháng trước khi qua đời, ông Cao Xuân Huy ra mắt cuốn ‘Vài mẩu chuyện,” do tạp chí Văn Học xuất bản.
“Trong cáo phó, gia đình ông Cao Xuân Huy viết, ‘Mọi phúng điếu, nếu có, sẽ dành trọn để yểm trợ: Quỹ Thương binh Thủy Quân Lục Chiến VNCH, và Trại Trẻ em Cô nhi, Khiếm Thị Long Thành, Việt Nam.”
“Chương trình tang lễ ông Cao Xuân Huy được cho biết như sau:
- Nghi lễ nhập quan và phát tang: 12 giờ trưa Thứ Ba 16 tháng 11.
- Nghi lễ phủ kỳ: Từ 18 giờ đến 20 giờ Thứ Ba 16 tháng 11.
- Thăm viếng: Từ 12 giờ đến 20 giờ Thứ Tư 17 tháng 11.
- Nghi lễ hỏa táng: Từ 9 giờ đến 11 giờ Thứ Năm 18 tháng 11.
Địa điểm: Peek Family Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683, điện thoại (714) 893-3525.”
Tôi vốn ham chơi, và hay thích đàn đúm. Đ... mẹ, bạn bè – khi khổng khi không – nó bỏ đi (ngang hông và ngang xương) như vậy thì tôi còn biết uống với ai, và viết cho ai đọc nữa?
Tưởng Năng Tiến
T Vấn: Ông Gẫy Súng đã “ lên tàu ” (*)
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận, muôn trùng ta đi
(Huy Cận)
Như vậy là ông Gẫy Súng đã lên tàu về quê.
Lần này thì súng của ông bị bẻ gẫy chẳng bởi tại người, hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lão bịnh tử mà không một ai thóat ra khỏi được vòng cương tỏa của nó.
Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông (và của rất nhiều những chiến hữu của ông) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Một con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.
Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời, thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An (Huế).
Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị lọai khỏi vòng chiến một cách tức tửi.
Tôi hình dung ra chuyến tàu “suốt” vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của bãi biển Thuận An năm nào. Người bạn chiến đấu năm xưa đã trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ còn, người mất (trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm, kẻ còn tức người đã chết và người mất, tức những kẻ còn nặng nợ trần gian, chưa mãn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn còn nỗi vui khác lớn hơn.Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đã nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.
Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi ký “Tháng Ba gẫy sung”, ông đã làm tròn vai trò một chứng nhân lịch sử, làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đã từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm, của sự dũng cảm, của những khát vọng được sống một cuộc sống bình thường như một con người bình thường. Với những người đã từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy lòng thù hận giữa những người cùng một dòng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấysự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này, ý thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.
Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi (nhà văn Nguyễn Xuân Hòang), ông không phải là một nhà văn, nhưng đã viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”.
Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài. Lần chết thứ hai là khi không còn ai nhắc đến tên mình nữa.
Nếu quả đúng như vậy thì ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần.
Bao lâu người ta còn nhắc đến, còn bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc thì ngày ấy người ta còn phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.
Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đã được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của mình – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông. Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng, không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất, kiểu “Đụ mẹ, đánh giặc đã quá ông thầy!”
Khi tôi viết những dòng này, hẳn đôi mắt ông Gãy Súng đã nhắm lại (tôi tin như vậy, vì ông có quá nhiều lý do để thanh thản ra đi). Ông có mãn nguyện không? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ mãn nguyện. Những gì cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đã hòan thành xuất sắc.
Ông ra đi, những vẫn còn lại những trang viết, những “trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”. Vì chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã từng kêu lên: Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “ suốt “, vẫn còn có người khóc cụ thì phỏng có ích gì cho cụ không khi thân xác cụ đã chỉ còn là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn còn được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.
Còn ông Gẫy Súng của chúng tôi? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có còn ai nhớ đến ông không? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. Vì những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà còn cho một thế hệ tuổi trẻ (ở cả hai miền Nam Bắc) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đã làm hết sức mình để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đã quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông?
Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đã nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ!”.
Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm lòng bằng hữu, với hành trang trên vai là lòng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đình.
Ông Gẫy Súng của tôi ơi! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đình đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy.
Chúc người về cố quận thượng lộ bình an!
T.Vấn
Thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010
* Ông Cao Xuân Huy thở hơi cuối cùng vào lúc khỏang 4 giờ 53 chiều (giờ Cali) ngày thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010.Nhận được tin do một người anh em trong gia đình TQLC của CXH cho hay qua e-mail lúc 8 giờ tối (giờ Wichita, KS đi trước Cali 2 tiếng), tôi bỏ hết mọi công việc hàng ngày, vì không thể làm được gì khác, ngòai việc ngồi vào bàn viết. Và dù không muốn rườm lời, nhưng tôi nghĩ, để đưa tâm cảnh người đọc vào thế giới “ông Gẫy Súng”, tôi thêm phần phụ lục này vào cuối bài. Đó là bài phóng bút khi tôi vừa đọc được tin ông Cao Xuân Huy đang ở vào những ngày cuối cuộc đời (đã được giới thiệu trên trang Web cá nhân của tôi – T-Van.Net – ngày 3 tháng 11 năm 2010).
Cao Xuân Huy tháng Ba gẫy súng
Đêm không ngủ được.Đọc lại những hàng chữ cũ. Chuyện của nhiều năm trước như hiển hiện trước mặt. Tươi rói như mới vừa xẩy ra hôm qua. Rồi bỗng nhiên biến mất và tối đen như màn hình chiếc Ti Vi bị mất điện. Ông già trong hình ảnh cặp vợ chồng già ngồi lặng lẽ giữa buổi chiều thu vàng (của Ân tình tháng mười một), – thở dài thườn thượt khi nhìn thấy con gà trống nhảy lên lưng con gà mái miệng kêu cục cục,- vừa mới lên chuyến xe cuối cùng về hư vô hôm tuần trước. 86 tuổi mới chết thì cũng chẳng có gì tiếc nuối. Buổi tiễn đưa ông, tôi đứng trước quan tài, nhìn khuôn mặt người bạn già (vong niên) bình thản, bỗng thấy lòng mình cũng bình thản lạ lùng. Không gian tràn đầy tiếng hát của ông (thu âm từ những ngày ông còn là một ca nhạc sĩ tài tử), nghe ấm áp và an ủi. Một buổi lễ đưa tang không đượm chút u buồn. Một cảm giác nghỉ ngơi, nhẹ nhõm khiến mọi người trở nên thư giãn. Đây là hình ảnh lý tưởng của cái chết, của sự chia ly. Có ích gì đâu mà phải khóc lóc nỉ non níu chân người đi. Ai rồi cũng được một lần lên đường. Hãy tìm lại cái háo hức thời tuổi trẻ làm hành trang, đừng ôm đồm mang theo làm gì những kỷ niệm, chúng chỉ khiến người đi nặng xác nặng lòng.
Cũng cuối tuần trước, một chiều thu rất điển hình của thu – không gian im ắng, lá rơi xào xạc, cơn gió vừa đủ cho cảm tưởng cần một chiếc áo khóac nhẹ – những người bạn của chiều thu năm nào lại hẹn hò gặp nhau ở Oklahoma. Tuy không đủ mặt, nhưng có còn hơn không. Thay vì những tiếng đàn, tiếng hát của năm nào thì nay chỉ còn những câu chuyện, kể về... chiều thu năm ấy. Rồi ngậm ngùi nhìn nhau. Rồi chép miệng than van : thời gian như chim bay, như gió thổi. Thóang chốc đã 5 năm. Thóang chốc đã kẻ ra đi, người ở lại.
Và sáng nay, trong lúc nhấm nháp ngụm cà phê thơm phức đầu ngày, ngụm cà phê quen thuộc cho cảm giác mình vẫn còn sống, còn thở, chiếc màn hình cái laptop trước mặt chập chờn hàng chữ:
Nhà văn Cao Xuân Huy tác giả của tác phẩm Tháng 3 Gãy Súng, là một cây viết được nhiều người yêu mến và cũng là một ký giả từng cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ tại miền Nam California, ông cũng là một cựu sĩ quan thuộc Tiểu đoàn 4 Kình Ngư Thủy Quân Lục Chiến, sau một thời gian vật lộn với căn bệnh Ung thu Gan, hiện nay ông đang mấp mé những ngày cuối đời, thời gian chỉ tính bằng ngày hoặc ráng lắm thì bằng tuần mà thôi... (Calitoday -11/02/2010).
Ngụm cà phê trong miệng bỗng nhạt thếch. Thêm một con nhạn là đà... sắp rụng. Cao Xuân Huy hơn tôi độ 1 hay 2 tuổi. Tôi chẳng quen ông, và ông cũng không biết (không nhớ) tôi là ai. Ngày mới qua Mỹ, quyển sách đầu tiên tôi đọc là quyển Tháng Ba gẫy súng, tình cờ tìm thấy nơi thư viện thành phố. Sau đó, tôi đã nhiều lần đọc lại, mỗi lần đọc là mỗi lần muốn chửi thề như tác giả đã chửi thề trong sách.
Ông nhà văn Hòang Khởi Phong, tác gỉa “Ngày N, Giờ G”, người mà trước khi vui vẻ nhận tôi vào vai em, đã cùng tôi “chỏang nhau” ra trò nhân một bài viết của tôi ông lấy từ trang Talawas về đăng trên tờ Người Việt ở Nam Cali (hồi đó HKP còn là chủ bút của tờ báo). Ông bảo, Cao Xuân Huy là em kết nghĩa của ông, ông cũng sẽ coi tôi như Cao Xuân Huy, vì chúng tôi cùng độ tuổi, cùng tính tình ngang bướng (sic). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.
Một thời gian sau, bỗng một hôm tôi nhận được bức e-mail chuyển lại từ Talawas của Phạm thị Hòai. Tác giả là ông Cao Xuân Huy. Ông muốn tôi đồng ý cho ông đăng trên tạp Chí Văn Học (CXH là Tổng Thơ Ký), một bài viết của tôi vừa lên mạng Talawas, đề tài về thành phố New Orleans trong cơn bão Katrina. Tất nhiên là tôi hoan hỉ bằng lòng. Sau đó, CXH gởi cho tôi một gói to tướng những số báo Văn Học, mới cũng như cũ (thay cho nhuận bút, có lẽ! Nhưng có bao giờ tôi đòi hỏi nhuận bút đâu, nhất là với ông CXH, người dạy tôi chửi thề.). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.
Mới đây, ông Cao Xuân Huy có in một quyển sách, nhan đề “Vài mẩu chuyện”, ra mắt độc giả ở hội trường báo Việt Herald. Đến phần tác gỉa phát biểu, ông nói: “ Đây không phải là ra mắt sách. Thực ra, đây chỉ là giới thiệu cuốn sách vừa mới ra của tôi với anh em” Ông chỉ nói thế thôi rồi đi xuống. Buổi ra mắt sách, theo lời tường thuật của Việt Herald (nhờ vậy mà tôi được biết chuyện này), có sự tham dự của nhiều giới, trong đó có 2 vị cựu lính Thủy Quân Lục Chiến (cấp chỉ huy trong binh chủng của ông Cao Xuân Huy) là cụ Trường Can Đòan Trọng Cảo và cụ Phila Tô Văn Cấp. Hai vị này vốn là “bạn học” nhiều năm của tôi từ hồi chúng tôi còn dùi mài cầy cuốc ở Đại-Hộc-Máu (chữ của cụ Phila). Hai cụ, trong buổi ra mắt sách ấy, khen rằng ông Cao Xuân Huy dám nói những điều mà ít người dám nói. Liều mạng cỡ như cụ Phila mà còn phải khen cái “liều” của ông Cao Xuân Huy thì quả ông Cao Xuân Huy “ngon” thật. Không “ngon” sao được khi mà ngay lần đầu tiên cầm bút viết quyển “Tháng ba gẫy súng” ông đã lừng lững đi vào văn học sử... hải ngọai. Trong suốt 25 năm nay, nhiều người đọc thuộc nhiều giới từ trong nước đến ngòai nước, vẫn còn nhắc tới “Tháng Ba gẫy sung”. Có người bảo cái tên CXH bây giờ đã trở thành “Cao Xuân Huy Tháng Ba gẫy súng”. Cũng phải thôi, vì ông không viết nhiều, vì “Tháng Ba gẫy sung” có một số phận gắn liền với số phận cá nhân ông, số phận những người cùng lứa tuổi với ông (trong đó có tôi).
Giờ đây, ông Cao Xuân Huy đang nằm thoi thóp chờ chết. Có “quậy” cỡ nào thì cũng đến lúc này. Tháng 3 năm nào ông chờ tàu hải quân vào rước ở cửa biển Thuận An, nhưng không có tàu. Tháng 3 năm đó, ông gẫy súng. Mấy chục năm sau, ông lại chờ tàu nữa. Lần này, không phải tháng 3 mà là tháng 11 (tháng của những chuyến tàu suốt chạy liên lỉ ngày đêm phục vụ khách lữ hành đã mãn hợp đồng trần gian), nên có lẽ cái huông lỡ tàu không đến nỗi đeo đuổi ông. Bị ung thư gan thì chắc chắn sẽ có tàu lại đón, chỉ còn vấn đề sớm muộn thôi. Một khi đã được lên tàu thì gẫy súng hay không gẫy súng cũng chẳng còn gì để bàn cãi, phải không ông Cao Xuân Huy, người tôi chưa bao giờ quen, chỉ biết mà thôi!
Cái tin không vui về ông khiến tôi bần thần cả buổi. Không gian mùa thu vốn chỉ làm tâm hồn con người cảm hòai, nay trước cuộc sắp-sửa-chia-tay của ông Cao Xuân Huy với trần gian, mối cảm hòai ấy lại càng thêm đậm đặc. Tôi giở ra đọc lần nữa Tháng Ba gẫy súng. Lại chửi thề!
Cám ơn ông nhé, người đã dạy tôi chửi thề (nhờ thế mà đỡ phát điên). Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ!
Tạm biệt ông nhé, người không quen! Nhưng có lẽ sẽ quen khi tôi gặp lại ông ở đâu đó. Nơi một cõi trên hoặc cõi dưới. Khi ấy, gẫy súng còn chẳng bận tâm huống hồ cõi trên hay cõi dưới! Phải không ông Tháng Ba gẫy súng?
Xin ông thứ lỗi, lúc này đây, một góc hồn cải lương của tôi bỗng bật câu hát nho nhỏ... Thôi về đi! đường trần đâu có gì...
Hốt nhiên, ngồi trong nhà, mà tôi tưởng như mình đang đi giữa cơn mưa thu ngọt ngào.
T. Vấn
13 tháng 11 năm 2010
Nén hương lòng, với bao thương tiếc,
Biền biệt tiễn người chiến hữu xưa
Súng đạn không còn, ngòi bút sắt
Cái tâm kia sáng rực không thừa
Non nước đất trời luôn chuyễn hóa
Lời nguyền lính chiến chẵng phôi phai
Gươm mài bóng nguyệt mây che khuất
Nuốt hận mang theo xuống cữu đài.
Kính viếng vong hồn
Chiến hữu CAO XUÂN HUY
và thành kính Phân ưu cùng Cao xuân Huy Phu nhân
cùng Tang quyến. Nguyện cầu Hương linh Anh sớm về cõi
Vĩnh hằng .
Chính-Tâm NGUYỄN Hữu KÝ
Khóa 5/68 KBC-4100, Seattle, WA/state
Tên tuổi Cao Xuân Huy gắn liền với tác phẩm bất hủ "Tháng Ba Gãy Súng", những trang sách kể lại những oan nghiệt khi cấp lãnh đạo từ Sài Gòn quyết định rút quân bỏ Vùng I, tôi đọc những trang sách trong xúc động, Cao Xuân Huy ghi đậm nét những những chiến sĩ mũ xanh vẫn chiến đấu, dù trong tình thế tuyệt vọng, vô cùng bất lợi. Người lính vừa đánh giặc vừa cưu mang người dân, cô sinh viên văn khoa Huế bám theo đoàn quân mũ xanh để được che chỡ, rồi một thương tâm khác khi người lính không biết lội bám víu vào tác giả, cả hai chìm lĩm, nhờ cơn sóng lớn hất tung họ ra, nhờ vậy thiên nhiên cứu mạng một người, cũng như kết liễu một người. Những trang sách cho thấy những chiến binh quá gian khổ, người lính sống bên cạnh lửa đạn, bên cạnh tử thần, những địa danh đã đi vào chiến sử như Cửa Hiền, Cửa Việt, Đồn Mang Cá, Bãi biển Thuận An, Phá Tam Giang,... Đọc Cao Xuân Huy để hiểu anh hơn, những bạn đồng ngũ với anh đã xuất hiện trên Ti Vi cho biết mũ xanh Cao Xuân Huy sống với danh dự, sống với can trường, những tình thế nguy hiểm nhất khi địch quân vây hãm, anh đưa quân đi giải cứu cho đồng đội bị kẹt trong vòng hỏa lực của địch quân sát hại. Giờ đây Cao Xuân Huy đã ra đi, bao nhiêu chiến hữu xưa, bạn văn, bạn báo thương tiếc.
Cao Xuân Huy cùng hiền nội trong hạnh phúc
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng ghi nhận về sách "Tháng Ba Gãy Súng" như sau:
"Khi trang cuối của Tháng Ba Gãy Súng được gấp lại, người đọc hình như vẫn cảm thấy còn một điều gì đó chưa xong chưa hết. Cái dấu chấm hết của mệnh đề sau cùng vẫn còn là một lời hứa hẹn sẽ mở ra một trang sách khác. Dù sao những hình ảnh tàn nhẫn và khủng khiếp, những nỗi lo âu và hãi hùng vẫn còn đọng lại trong ta.
Vẫn còn đọng lại trong ta những địa danh, địa hình, địa điểm quen thuộc của một vùng đất quê hương khô cằn, cả thời tiết của đất trời mà da thịt ta vốn từng chịu đựng, và nhất là vẫn còn đọng lại trong ta hình ảnh những con người - trong đó có chúng ta - với số phận hẩm hiu cô quạnh bị bủa vây trong cơn cuồng nộ của những biến cố bạo tàn... "
Nhà văn T. Vấn viết về Cao Xuân Huy bằng lời trang trọng:
"Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông (và của rất nhiều những chiến hữu của ông) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Một con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.
Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời, thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An (Huế).
Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị loại khỏi vòng chiến một cách tức tửi."
Những chiến binh ưu tú mũ xanh
Lịch sử cần sự thật, sự thật có giá trị cao quý của nó. Cao Xuân Huy viết sự thật với "Tháng Ba Gãy Súng", những sự kiện không pha chế, những ý tưởng không hư cấu, anh cam kết một câu chuyện thật một trăm phần trăm:
"Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự. "
Tôi nhớ câu ngạn ngữ Pháp cho là: "Thường thường rất khó nói sự thật cho người khác nghe, càng khó khăn hơn khi phải tự thú với mình.", Cao Xuân Huy cho lời nói từ lương tâm, anh yêu nghiệp làm lính tác chiến không bỏ bạn bè, anh trân quý màu cờ sắc áo mũ xanh cọp biển:
"Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu."
Anh giải thích tên tựa sách, vì sao anh đặt tên cho đứa con tinh thần của anh. Hầu như giới văn chương và báo chí dúng tựa đề quyển sách này khi đề cập dến sự bức tử của Việt Nam Cộng Hòa như quân cờ bị người bạn đồng minh bỏ rơi:
"Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy. "
Bài viết ngắn này xin gửi đến tác giả của "Tháng Ba Gãy Súng", tôi ái mộ nét bút thành tâm, thẳng thắn của anh. Một câu thành ngữ của người Anh cho là: "Đừng viết những điều mà bạn không dám ký tên dưới đó.
Cao Xuân Huy của lòng tự trọng viết về một biến cố thật sự, anh không bẻ cong ngòi bút, anh ký tên chịu trách nhiệm những gì anh viết. Tôi xin dâng bài này đến hương inh của anh như lời tiển chân một nhà văn sống với nhũng lý tưởng cao quý của kẻ sĩ. Cầu chúc anh sớm an giấc ở cõi vĩnh hằng.
"Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành."
Đoạn văn trên xin chấm dứt lời tâm tình về nhà văn Cao Xuân Huy, xin anh Huy cho tôi dùng phong vị "nhà văn" đối với anh với sự ái mộ và trân quý nhất.
Xin chào vĩnh biệt anh!
Trần Việt Hải
Mũ Xanh Cao Xuân Huy
Tại lễ hỏa táng MX Cao Xuân Huy sáng nay có sự hiện diện khá đông của anh em 2 hội TQLC Bắc, Nam California và 1 đại diện Liên hội TQLC Úc châu, trong số này có 2 niên trưởng Phạm Văn Chung, Đoàn Trọng Cảo và đặc biệt là có bà quả phụ Lê Nguyên Khang.
Sau nghi thức Phật giáo do Thượng Tọa Quảng Phú (trụ trì chùa Văn thù, Riverside, California) chủ lễ với phần trợ niệm của ban Hộ niệm, chị Đỗ Thị Minh, tức bà quả phụ CXH cùng 2 cháu Chúc Dung và Xuân Dung đã có lời cuối cùng cảm tạ tất cả mọi thân hữu , quan khách đã thương mến đến tiễn đưa anh.
Sau mẹ, cháu Xuân Dung (thứ nữ của CXH) xin phát biểu bằng tiếng Anh vì cháu ngại nếu nói tiếng Việt sẽ không bày tỏ được trọn vẹn ý nghĩ tự đáy lòng của cháu.
Xuân Dung nói (đại ý) " Cháu biết rằng bố cháu được nhiều người thương yêu nhưng đến hôm nay mới thực sự biết rõ là bố cháu được mọi người yên mến đến mức nào. Ở ngoài xã hội, nếu mọi người biết bố cháu dưới nhiều vai trò, người lính, người cầm bút, thì với cháu, bố cháu thuần túy là một người bố yêu quý, một người kể chuyện tuyệt vời đã từng thủ thỉ kể cháu nghe biết bao nhiêu chuyện từ ngày còn thơ ấu cho đến mãi về sau này. Vì vậy, cháu rất hãnh diện có một người bố như thế.
Một người bạn TQLC của CXH đã nói với cháu Xuân Dung rằng đồng đội của bố cháu, người trên, bạn bè , kẻ dưới ai ai cũng hãnh diện được là chiến hữu của bố cháu vì bố cháu là một con người yêu đất nước , yêu đơn vị , khí khái và trung trực trong mọi hoàn cảnh, bất chấp mọi hậu quả.
1 MX đại diện gia đình CXH, xin phép thay mặt anh em MX cảm ơn bà quả phụ Lê Nguyên Khang, dù lớn tuổi , sức khỏe không dồi dào vẫn cố gắng đến tiễn đưa CXH, như bà vẫn cố gắng tham dự mọi sinh hoạt của anh em mỗi khi có dịp. Điều này thể hiện mối thâm tình bền chặt giữa gia đình cố Tr/Tướng Lê Nguyên Khang và binh chủng.
Đúng 10 g 30 là lễ di quan dưới sự hướng dẫn của TT Quảng Phú và tiếng niệm kinh cầ siêu.
Đi đầu là bát nhang và di ảnh CXH , tiếp theo là vợ con, thân quyến và ngay sau đó là linh cữu người quá cố với 6 MX hộ tống 2 bên. Toàn thể CQN/TQLC trong quân phục đi 2 hàng ngay sau quan tài và còn lại là hàng trăm thân hữu, quan khách.
Tới trước phòng thiêu, đoàn linh cữu dừng lại để tiến hành gnhi thức thu kỳ
Toán TQLC quân phục do NT Phạm Văn Chung và Tô Văn Cấp dẫn đầu dàn 2 hàng ngang
Nghiêm!
bên phải, quay!
Lễ thu kỳ bắt đầu
Chào tay , chào!
Toán thu kỳ gấp cờ trong tiếng kèn truy điệu
Trưởng toán trao cho Nt Cao Bằng Phạm Văn Chung,
Niên trưởng Cao Bằng đại diện Tư lệnh, và thay mặt toàn thể anh em TQLC , trao lá cờ phủ linh cữu cho bà quả phụ Cao Xuân Huy
Đúng 11 g sáng, linh cữu MX Cao Xuân Huy từ từ được đưa vào lò thiêu. Toàn thể anh em MX nghiêm trang chào tay tiễn đưa đồng đội đi vào cõi vĩnh hằng
http://tsnkt.blogspot.com/2010/11/toi-khong-phai-la-mot-nha-van-ma-toi.html
===========================================
No comments:
Post a Comment