Trận Pleime Năm 1974 (kỳ 1)
Qua hai chiến dịch trường kỳ và đẫm máu của những năm 1965 và 1974, địa danh Pleime đã trở thành huyền thoại. Tôi không có mặt trong trận Pleime năm 1965. Nhưng năm 1974 thì chính tôi, Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng là người đã cầm vận mệnh Pleime trong suốt 33 ngày đêm sinh tử.
Vương Mộng Long huấn luyện đơn vị
Giờ đây tôi sẽ kể lại toàn bộ diễn tiến chiến dịch này để lớp trẻ hậu sinh biết ngày ấy những chiến binh của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến đấu như thế nào, và vì sao tên Pleime đã có thêm một lần được ghi vào chiến sử.
oOo
Pleime lên tiếng gọi…
Vào một đêm cuối tháng 11 năm 1965 nơi Vũ Ðình Trường Lê Lợi của Trường Võ Bị Quốc-Gia Việt-Nam trên Ðà-Lạt, lần đầu tôi nghe biết cái tên “Pleime”.
Hôm đó chúng tôi đang tập quỳ gối gắn lon thiếu úy hiện dịch để chuẩn bị lên đường ra chiến trường.
Bỗng từ xa, bên kia núi, có tiếng âm vang của bom đạn dội về. Thiếu tá Nguyễn Bá Thịnh, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn Sinh Viên Sĩ quan lớn tiếng giải thích:
— Pleime đang đánh lớn. Tiếng ì ầm vừa rồi là tiếng B-52 đang “trải thảm” trên thung lũng Ia Drang đó!
Dù sau này đã dạn dày chinh chiến, đã biết rằng nếu đứng trên đồi 1515 Ðà-Lạt, dù có đôi tai thiên lý nhĩ, chúng tôi cũng không thể nào nghe được tiếng bom nổ trong thung lũng Ia Drang, Pleiku; nhưng từ đó, địa danh “Pleime” đã ghim sâu trong tâm trí tôi.
Cuối năm 1966 tôi từ Vùng 1 Chiến Thuật thuyên chuyển vào Pleiku.
Sau đó tôi gắn bó với Cao Nguyên mưa bùn, nắng bụi gần mười năm trời, tôi đã thành một trong những Thổ Ðịa của vùng này.
Cao Nguyên Trung Phần là nơi có nhiều sắc dân thiểu số sinh sống. Mỗi sắc dân gọi nơi cư trú của họ với âm khác nhau; vì vậy làng của người Lào là “Bản”, làng của người Rhadé là “Buôn”; làng của người Jharai lại là “Plei” hay “Trà”.
Tên Pleime mà người ta thường gọi, chính thực là một danh từ ghép với hai chữ “Plei” và “Mé” theo tiếng Thượng Jharai. Vì vậy, “Pleime” hay “Plei Me” cũng chỉ là một. Pleime nằm cách Pleiku hơn 30 cây số về hướng Tây Nam.
Nhân một chuyến quá giang tàu bay chở thư của Mỹ, tôi đặt chân tới Trại Pleime lần đầu khi căn cứ này vừa được di chuyển từ chân núi Chư Hô về Ðồi 403 trên Tỉnh lộ 6C. Trại Pleime mới có hình lục giác với hệ thống tường đất cao hai thước bao quanh chỉ huy sở. Còn Trại Pleime cũ thời 1965 có hình tam giác; trại đó đã bị phá đi rồi.
Từ Noel năm 1973 tôi đã được lệnh vào Pleime thay thế Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân, vậy mà cứ nhùng nhằng mãi, hai tháng sau tôi mới chính thức nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dưới sự chứng kiến của Trung Tá Chính, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.
Tôi trở thành người chỉ huy chính thức thứ bảy, và cũng là tiểu đoàn trưởng sau cùng của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng.
Tôi đã biết, theo lịch trình “Việt-Nam Hóa” thì -- cuối năm 1970 những chiến binh Dân Sự Chiến Ðấu của trại Pleime đã được cải tuyển thành quân nhân chính quy trực thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Vậy mà hơn ba năm qua, với sáu lần thay đổi tiểu đoàn trưởng mà đơn vị này vẫn chưa thoát ra khỏi cái cốt CIDG của nó (Civilian Irregular Defense Group = Phòng Vệ Dân Sự = Dân Sự Chiến Ðấu).
Chỉ nhìn vào hình thức thôi, nó chẳng có vẻ gì là một đơn vị chính quy, chứ đừng nói tới đó là một đơn vị trực thuộc lực lượng nòng cốt của Vùng 2.
Không biết quân trang quân dụng của tiểu đoàn này đã bị thất thoát đi đâu mà đội ngũ Biệt Ðộng Quân trước mắt tôi và Trung Tá Chính lại ăn mặc như một đoàn người ô hợp. Trừ ra những sĩ quan có quần áo rằn ri, các quân nhân khác thì mang đủ thứ trang phục của Bộ Binh, Cảnh Sát Dã Chiến, Thủy Quân Lục Chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, áo bốn túi lẫn với áo hai túi, có người còn mặc cả đồ kaki vàng, chân mang dép Nhựt!
Ngay sau ngày ký biên bản bàn giao, tôi bắt Thiếu Úy Nghị, sĩ quan tiếp liệu của đơn vị làm một phúc trình xin ứng trước quân trang bổ sung vì lý do hành quân.
Ông Nghị là người rất giỏi ngoại giao, ông ta quen nhiều vị có quyền uy trong Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 5 dưới Qui Nhơn, nên chỉ một tuần lễ sau, bộ mã của tiểu đoàn tôi đã đổi khác ngay.
Khi kiểm tra quân số bàn giao hiện diện, tôi mới té ngửa: Theo giấy tờ thì ngày đó quân số thực hiện của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là trên 400 người, nhưng tới khi điểm danh đếm số thì lòi ra 92 quân nhân chỉ có tên mà không có mặt!
Phải một tuần lễ sau tôi mới truy cứu ra, trong số 92 ông lính vắng mặt thì một nửa là lính kiểng, nửa kia là lính ma, có người đào ngũ đã nửa năm nhưng chưa ngưng lương, chưa có báo thị tầm nã; có người biệt phái tới tận Sài-Gòn để làm thợ mộc mà vẫn hưởng hàng tháng bốn nghìn đồng phụ cấp hành quân.
Từ ngày mới ra trường, nhận chức trung đội trưởng cho tới khi chỉ huy tiểu đoàn, tôi chưa từng đem một người lính nào về làm công việc trong nhà tôi.
Tôi quan niệm rằng, đem lính về làm việc nhà là một hành động ăn cắp công quỹ, lạm dụng chức quyền.
Tôi từ chối thẳng thừng mọi yêu cầu của thượng cấp khi các vị này muốn tôi cung ứng cho họ một vài người giúp việc trong nhà dù chỉ là trong thời gian một hay hai ngày thôi.
Tôi nhất định không ký chứng nhận hành quân cho những anh lính kiểng, nên chỉ một kỳ lãnh lương đi qua, không nhận được 4000 đồng phụ trội, những người này tự động quay về trình diện.
Những anh lính kiểng nào không về trình diện đều nhận được giấy báo cáo vắng mặt bất hợp pháp; sau đó họ sẽ bị báo cáo đào ngũ. Ông quan to nào còn lưu giữ những anh lính này sẽ đương nhiên can tội “tán trợ đào binh”.
Một tháng sau khi tôi vào Pleime thì những vị quan nào đang giữ người của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân để giúp việc trong nhà đều phải ngậm đắng nuốt cay mà trả lại lính cho tôi.
Thế rồi, những anh “Biệt Dạng Quân” dần dần lộ diện, theo nhau trở về rừng, tiếp tục kiếp sống ngang tàng của Cọp, coi cái chết tựa lông hồng.
Tôi đã không tiếc công sức, không nản lòng để chấn chỉnh đơn vị này. Cuối cùng tôi đã thành công; chưa tới hai tháng sau, tất cả đã vào khuôn, vào phép.
Sau này, từ một đơn vị vô danh tiểu tốt, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã ngoi lên, nhanh chóng trở thành một tiểu đoàn lừng danh của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Cũng phải kể đến sự đóng góp công khó của các bạn trẻ, sĩ quan và hạ sĩ quan đầy nhiệt huyết của tiểu đoàn đã tiếp tay tôi xây dựng đơn vị mỗi ngày mỗi tiến bộ hơn. Nếu không có họ, tôi cũng đành thúc thủ.
Mỗi khi nhắc tới Pleime 1974, thì trong lòng tôi lại dấy lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào, cùng những hình ảnh thân yêu theo nhau hiện về trong trí nhớ: Phạm Ðại Việt, Nguyễn Công Minh, Phạm Văn Thủy, Nguyễn Văn Trâm, Trần Văn Phước, Nguyễn Hữu Phước, Huỳnh Kim Hoàng, Lý Ngọc Châu, Trần Dân Chủ, Trương Trọng Tài, Lê Ðình Khay, Phan Quốc Thiều, Lưu Ðức Hoàn, Phạm Hoa, Nguyễn Văn Năng, Nông Văn Út… vân vân.
Ðóng đồn tức là chấp nhận đối đầu với địch quân bất cứ lúc nào. Xung quanh đồn là rừng, xung quanh ta là địch. Tốt nhất là lúc nào ta cũng phải ở trong tư thế sẵn sàng.
Với kinh nghiệm của một người cầm quân đã nhiều năm, tôi biết chắc chắn rằng:
“Tay nghề của người lính tiên phong mà không chuyên, thì sự thất bại của một đơn vị tác chiến coi như cầm chắc mỗi khi đối đầu với địch.”
Nói ra thì nhiều người sẽ không tin, nhưng thực tế, tôi đã chứng kiến cái cảnh xảy ra thường xuyên là, những tân binh mới ra trận lần đầu, nghe súng nổ, thường nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên trời, nhắm mắt bóp cò, đạn nối đuôi nhau, chẳng biết bay về đâu. Có người khi đối diện địch quân thì đứng chết trân không phản ứng được gì cả. Có người thấy địch thì quýnh quáng quá, bắn cả vào chân của mình.
Muốn nâng cao tay nghề của những người lính dưới quyền mình thì người chỉ huy phải thường xuyên rèn luyện quân sự cho đàn em.
Những quân nhân dưới quyền tôi hầu như đã quen với cái thông lệ tự huấn luyện sau khi hành quân, nên không có ai than van hay phiền muộn vì chuyện này.
Ngay khi nắm quyền chỉ huy Pleime, tôi liền cấp tốc lập chương trình huấn luyện tại chỗ cho các đại đội.
Trong kho của tiểu đoàn, đạn thặng dư không có giấy tờ kiểm kê do Mỹ để lại còn cả đống. Số đạn tồn kho này đã cũ, nên thay vì đem ra thiêu hủy thì tôi lại sử dụng cho công tác huấn luyện.
Tôi đã đích thân dẫn từng trung đội ra bãi tập, rồi đứng giảng giải cho từng người lính biết cách “bóp cò” khẩu súng của anh ta làm sao vừa nhanh, vừa hiệu quả khi chạm trận; tôi bắt họ mở mắt cho to, nhìn về phía địch, rồi cầm tay họ, chỉ cho họ kỹ thuật ghìm súng để cho viên đạn bay cao tối đa là từ ngang cỡ đầu gối một người đứng thẳng.
Bằng cách đặt hai khẩu đại liên 30 trên giàn cao quá đầu người, quay nòng về hướng núi bóp cò; rồi cho quân lính luân phiên nhau tập bò, tập chạy, tập đi, tập nằm trước họng súng bắn ngược chiều. Ngày nào cũng nghe tiếng đạn thật bắn ngược như đang đánh nhau, thét rồi lính hết nhát, hết sợ.
(còn tiếp)
--
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 2)
Kỳ trước: Hơn ba năm và sau sáu lần thay thế tiểu đoàn trưởng, đơn vị vẫn chưa thoát khỏi cái cốt của một đơn vị Dân Sự Chiến Đấu. Chính vị Tiểu Đoàn Trưởng Vương Mộng Long đã thay da đổi thịt nó trở thành một Tiểu đoàn lừng lẫy nhất của QLVNCH.
Vương Mộng Long huấn luyện đơn vị
Chính vì có những buổi thực tập dã ngoại thường xuyên này mà những đơn vị dưới quyền tôi hiếm có cảnh “nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên trời, siết ngón tay trỏ, đạn vút lên mây” khi trực diện với địch quân.
Người ta nói “văn ôn võ luyện” cũng đúng!
Công tác chấn chỉnh và cải tổ đơn vị của tôi chưa hoàn tất thì Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đã ra tay trước.
Giữa tháng Tư năm 1974, một trận đánh đẫm máu và ác liệt đã xảy ra ở Căn Cứ Hỏa Lực 711 khiến đài BBC mô tả trong một bài tường thuật: “Ðây là trận đánh mà tổn thất của đôi bên được coi là cao nhất kể từ sau Hiệp Ðịnh Paris”.
Thế rồi chiến tranh tiếp tục leo thang, Hiệp Định Paris không còn hiệu lực, Việt Cộng công khai tấn công lấn chiếm, mở rộng vùng kiểm soát. Tháng 5 năm 1974 chúng ngang nhiên đánh chiếm Dak Pek và Mang Buk giữa ban ngày, mặc dù hai địa danh này hiện diện rành rành trên bản đồ đình chiến là của Việt-Nam Cộng-Hòa, vậy mà Ủy-Hội Quốc-Tế cũng chỉ trơ mắt ngó mà thôi. Hiển nhiên mục tiêu sắp tới của Cộng Quân chắc chắn sẽ là Pleime!
o O o
Từ ngày tiếp nhận Căn Cứ Pleime, tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để tổ chức nội vi căn cứ này thành một cứ điểm phòng thủ vững chắc.
Trên mặt đất của trại Pleime đúng là một “Trận Ðồ” chằng chịt hàng rào kẽm gai và giao thông hào. Hai cái cổng Bắc và Nam lại là nơi rào kỹ nhất. Từ dốc vườn rau, vào tới trung tâm hành quân xa không tới hai trăm thước, vậy mà muốn đi qua đoạn đường này cũng mất cả chục phút loanh quanh trong hàng rào gai dích dắc.
Trại Pleime có sáu cạnh, sáu góc, mỗi góc có một pháo đài kiên cố xây bằng xi măng cốt sắt. Tôi đặt tên cho các pháo đài theo thứ tự một tới sáu, theo chiều quay của kim đồng hồ. Hướng Ðông là các pháo đài 1, 2, 3, hướng Tây là các pháo đài 4, 5, 6.
Sau khi tôi dựng thêm hai lô cốt phụ nơi cổng Bắc và cổng Nam thì vòng đai trong của trại này có tám pháo đài kiên cố.
Bình thường các quân nhân trong đồn chỉ cần nói họ đang ở gần pháo đài số mấy, người nghe sẽ biết vị trí hiện tại của anh ta ngay.
Các đại đội cũng được phân chia khu vực trách nhiệm cố định, họ sẽ quen với cảnh vật hàng ngày trước mắt họ, nếu có gì khác lạ, họ sẽ nhận ra ngay.
Tôi tiên đoán mặt Tây sẽ là hướng tấn công chính của địch, do đó tôi cho dựng một cái hầm chỉ huy ngay giữa sân cờ. Từ đây, tôi có thể theo giao thông hào mà di chuyển tới các pháo đài 1 (Ðông Bắc), Pháo đài 6 (Tây Bắc), Pháo đài 5 (Tây), và Pháo đài 4 (Tây Nam).
Ông tiểu đoàn phó giữ Pháo đài số 2, còn Pháo đài số 3 nằm ngay sát trung đội pháo binh nên Trung Úy Nguyễn Như, Trung Đội Trưởng pháo binh biên phòng, sẽ kiêm nhiệm chỉ huy cứ điểm này. Trong hầm chỉ huy dã chiến có ban Truyền Tin của Trung Úy Nguyễn Công Minh và Binh Nhì Y Don Nier, người mang máy nội bộ của tiểu đoàn trưởng.
Tôi và Thiếu Úy Trần Văn Phước, sĩ quan Ban 2 ở chung một hầm, cách hầm chỉ huy vài mét về hướng hàng rào.
Vây quanh căn hầm của tôi là ba cụm tam tam của ba toán viễn thám, mỗi toán trang bị hai thùng lựu đạn M26 và một đại liên M60.
Những ngày tình hình căng thẳng nhứt thì mặt đất chứa đầy mìn Claymore phòng khi bị địch tràn ngập.
Suốt thời gian xảy ra chiến dịch Pleime 1974, tôi đã phải đích thân chỉ huy, điều khiển các điểm tác chiến, từng lô cốt, từng pháo đài, từng khẩu đội, vì nếu xảy ra một hoạt động không ăn khớp có thể sẽ đưa tới thảm họa.
Chỉ cần mở được một cửa khẩu, Ðặc-Công Việt-Cộng có thể đánh thẳng vào trung thâm. Nếu Việt-Cộng vào được trung thâm, triển khai được giai đoạn “Hoa nở trong lòng địch” là ta mất đồn! (Trung thâm: Danh từ của Ðặc-Công Việt-Cộng dùng để chỉ nơi đặt chỉ huy sở hay vị trí đầu não của ta) - (Hoa nở trong lòng địch: Từ trong đánh ra theo nhiều hướng. Ðây là giai đoạn cuối cùng trong một trận đánh Ðặc-Công của Việt-Cộng).
Tôi làm việc bằng điện thoại, khẩu lệnh, thủ lệnh và máy truyền tin nội bộ. Vì thế mà nhiều khi, liên đoàn muốn ra lệnh cho tôi, họ phải gọi qua trung tâm hành quân của trại, từ đây sĩ quan Ban 3 của tôi sẽ chuyển lại cho tôi.
Trung tâm hành quân tiểu đoàn vì có cái anten cao do Mỹ để lại nên trở thành nơi độc nhứt có thể liên lạc vô tuyến với Căn Cứ 711 và đài tiếp vận Hàm Rồng.
Trung tâm hành quân là một lô cốt kiên cố, xây bằng xi măng, cốt sắt, thêm hai tầng nóc lợp bằng bao cát và vỉ sắt tổ ong chống đạn nổ chậm. Ngồi trong hầm, đôi khi không nghe được tiếng đạn cối nổ ở ngoài sân cờ.
Sát cạnh trung tâm hành quân là một hầm lộ thiên hình tròn xây bằng bao cát, trong vòng tròn là mũi tên lửa chỉ điểm mục tiêu.
Mũi tên lửa này được đốt bằng dầu Diesel thắp sáng suốt đêm, nó có thể quay 360 độ một cách dễ dàng, đầu nhọn của nó luôn luôn quay về hướng địch.
Nếu không có nhu cầu tác xạ, thì trước khi rời vùng, để giải tỏa bom đạn, máy bay Hỏa Long hay Gunship cứ việc phóng hỏa tiễn hay bắn phá cách xa Pleime 3 cây số theo hướng mũi tên.
Tiểu Đội Lao Công Chiến Trường đã hoàn thành những công trình này dưới sự chỉ huy của Thiếu Úy Huỳnh Kim Hoàng đại đội trưởng đại đội chỉ huy.
Tiểu Đoàn 82 có một tiểu đội Lao Công Chiến Trường. Họ là những cựu quân nhân can tội khác nhau nên bị đày ra tiền tuyến làm những công việc hiểm nguy và cực nhọc.
Tôi đặc biệt lưu ý tới những người này, bố trí cho họ vào từng vị trí thích hợp với khả năng của mỗi người. Dưới bàn tay tôi, những tội nhân đó đã trở về với vị trí chuyên môn của họ, họ trở thành xạ thủ đại liên, xạ thủ cối 81 ly, trinh sát viên, tiểu đội trưởng, toán trưởng toán thám sát, hoặc chuyên viên sửa chữa vũ khí.
Ðể tất cả binh sĩ chú tâm vào công tác tổ chức phòng thủ, tôi ra lệnh cho tất cả thân nhân gia đình binh sĩ phải rời Pleime theo chuyến tiếp tế thường kỳ ngay sau ngày phát lương cuối tháng 6 năm 1974. Ở Pleiku tôi vừa tiếp nhận doanh trại của Ðại Đội 2 Quân Y Biệt Ðộng Quân, doanh trại này rất đầy đủ tiện nghi, nên những anh em có gia đình không phải lo lắng chuyện nơi ăn chốn ở của vợ con họ.
Tôi là dân Tình Báo Tác Chiến, nên ngày nào tôi cũng duyệt các bản tin A2 mà Ban Truyền Tin của đơn vị trình lên.
Tôi lấy làm lạ là -- ngày nào cũng vậy, cứ mình vừa gửi công điện báo cáo vị trí đêm của các cánh quân về Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân / Quân Khu 2, thì chỉ hai giờ sau bản tin A2 đã thông báo rằng Việt-Cộng vừa gửi cho nhau toàn bộ vị trí đóng quân của quân bạn, chính xác tới độ y như nguyên văn!
Tôi nghĩ rằng ở bộ chỉ huy có nội tuyến, hoặc là đặc lệnh truyền tin của bộ chỉ huy đã bị tiết lộ nên mới có tình trạng này.
Ðể phòng thân, tôi nghĩ ra một bản mã riêng, rồi photocopy ra hai bản, ban truyền tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân giữ một bản, bản kia tôi đem về trao tận tay cho Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2.
Mỗi đêm tiểu đoàn tôi gửi về Pleiku bản tin đóng quân dưới bộ mã mới. Vì thế, từ ấy, chỉ có một mình tiểu đoàn tôi là không bị địch phát giác vị trí đêm và các vị trí dã ngoại.
Gần nửa thế kỷ sau ngày đó, chú Họa Mi 82 tức Trung Úy Nguyễn Công Minh, trưởng ban truyền tin của đơn vị tôi vẫn chưa quên chuyện cái đặc lệnh truyền tin ngoại lệ này.
Và 40 năm sau chiến tranh, nhân một lần trò chuyện bằng điện thoại, cựu Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất đã hỏi tôi:
– Ngày đó Long có nghi thằng đại đội trưởng đại đội truyền tin của mình là Việt-Cộng không?
Tôi nói,
– Ðúng là chuyện trời sập! Thuở ấy ai mà dám nghi cho nó! Nó là dân gốc Lực Lượng Ðặc Biệt! Nó lại là đồ đệ ruột của Trường An! Trường An tin tưởng nó còn hơn ai hết. Sau này có lệnh của trung ương bắt các sĩ quan không tác chiến phải ra đơn vị hành quân, ít ra là sáu tháng, Trường An đưa nó đi tiểu đoàn nào vậy?
“Trường An” là biệt danh của Ðại tá (sau là Chuẩn tướng) Phạm Duy Tất. Ông Tất cười hì hì,
– Thì anh ta vẫn còn ở bộ chỉ huy chứ có đi đâu đâu! Ngày Pleiku di tản không rõ anh ta núp chỗ nào? Mãi về sau mới nghe đồn rằng anh ta là nội tuyến!
Tôi chợt nhớ ra, có một hôm anh đại úy này gặp tôi trong sân bộ chỉ huy, anh ta năn nỉ tôi ghi tên cho anh ta giữ chức đại đội trưởng một đại đội của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, nhưng chỉ trên giấy tờ thôi, còn bản thân thì anh ta vẫn làm việc ở Pleiku. Chỉ khi nào có thanh tra của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Trung Ương hay Bộ Tổng Tham Mưu thì anh ta sẽ có mặt ở đơn vị.
Tôi không đồng ý giúp anh ta diễn cái trò ma mãnh này nhằm hợp thức hóa tình trạng chỉ huy tác chiến của anh ta; tôi khuyên anh ta hãy đi tìm người khác mà nhờ vả.
Thật là hú hồn! Nếu ngày đó anh ta không đòi hỏi được ở Pleiku mà vui vẻ tình nguyện vào chỉ huy đại đội thì có khi tôi đã mất đồn vào tay anh ta rồi!
Ai mà ngờ? Cả năm trước ngày Pleiku di tản, người cung cấp những đặc lệnh truyền tin và mật mã hàng tháng của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân / Quân Khu 2 cho địch lại là ông đại úy đại đội trưởng Ðại đội Truyền Tin Biệt Ðộng Quân / Quân Khu 2!
Vào những năm sau Hòa Ðàm Paris, Việt-Cộng đã đẩy mạnh công tác xâm nhập từ chiến lược tới chiến thuật.
Ở cấp trung ương, đã có những gián điệp cấp cao của địch nằm trong Tổng Thống Phủ, trong Bộ Tổng Tham Mưu.
Vì thế, ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân / Quân Khu 2 Pleiku có một tên nội tuyến cấp đại úy, thì cũng không phải là chuyện lạ.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân nằm dưới quyền giám sát hành quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 22 đồn trú trong Căn Cứ Bình Tây 3 ở Hàm Rồng. Căn cứ Bình Tây 3 vốn dĩ là Camp Enari cũ, nơi từng là bản doanh của Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ.
Hầu như cứ cách hai, hoặc ba ngày, Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh lại ghé Pleime thăm đơn vị tôi. Ông tướng này đã chịu khó bỏ ra hàng giờ để tỉ mỉ quan sát công việc thiết trí công sự phòng thủ, và điều quân trinh sát của tôi trong thời gian chuẩn bị cho một trận chiến chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Ông lấy làm lạ là:
Tại sao giao thông hào của tôi lại đào sâu gần hai thước, cao quá một đầu, một với của người thường?
– Tại sao dưới giao thông hào tôi lại cho moi rất nhiều hàm ếch?
– Tại sao mặt đất lại rào thép gai chằng chịt khiến cho việc di chuyển từ lô cốt này, tới lô cốt kia cứ phải đi dích dắc tới chóng mặt?
Tôi đã phải từ tốn giải thích với ông Tướng rằng:
“Thưa Chuẩn tướng, sở dĩ --
● Giao thông hào phải đào sâu là để sự di chuyển được an toàn khi giao tranh.
● Hào sâu thì người ngồi trong hào khi bị pháo kích nghe tiếng nổ của đạn sẽ thấy nhỏ hơn, sẽ bớt sợ hãi hơn.
● Hàm ếch giúp cho lính an toàn vì có che chở. Nếu rủi có quả đạn delay (nổ chậm) rơi trúng hầm thì chỉ chết một người, không chết chùm như trường hợp tác chiến lộ thiên.
● Còn hệ thống kẽm gai chằng chịt là để chống Ðặc Công, lệnh của tôi là ban đêm nếu có tiếng súng nổ thì ai ở yên vị trí đó, người nào đi trên mặt đất sẽ bị bắn chết.
Thói thường thì Ðặc Công Việt cộng sau khi xâm nhập sẽ chạy vòng vòng khắp nơi, ném bộc phá vào các lô cốt và nhà cửa. Gặp thứ hàng rào chóng mặt của tôi thì Ðặc Công chỉ có nước khóc ròng, làm sao mà chạy vòng vòng để ném bộc phá được nữa!”
Tướng Tư Lệnh nghe xong thì thấm ý, gật gù.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được tăng cường thêm một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh để đảm trách nhiệm vụ phòng thủ vùng. Tiểu đoàn bộ binh này do Ðại Úy Nguyễn Hữu Chấn chỉ huy, Ðại Úy Chấn xuất thân khóa 21 Võ Bị, là khóa đàn em của tôi.
Tôi và Chấn cùng xuất thân từ Ðại Ðội B Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Tôi là một trong những đàn anh Khóa 20 đã huấn luyện chú Chấn, vì thế anh em tôi rất thân thiết, thương yêu nhau.
Tôi giao cho chú Chấn giữ an ninh vùng Bắc Pleime, còn tôi chịu trách nhiệm vùng Tây và Nam của căn cứ này.
Người chỉ huy trực tiếp của tôi và chú Chấn là Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, Trung Đoàn Trưởng Trung Ðoàn 42 Bộ Binh, Ðại Tá Thông xuất thân từ Khóa 16 Võ Bị.
Mỗi lần vào thăm Pleime bằng đường bộ, niên trưởng Thông đều than phiền,
– Chu choa! Ði qua cái hàng rào “Bát Quái Trận Ðồ” của Long anh cứ chóng mặt muốn té!
Thấy thế tôi không khỏi bật cười,
– Ngày nào tôi cũng đi ra, đi vào cái trận đồ này mà vẫn còn bị chóng mặt, huống hồ gì niên trưởng là người lâu lâu mới tới thăm Pleime một lần.
o O o
Tri kỷ tri bỉ
(biết ta, biết địch)
Thế rồi, vào một ngày cuối tháng 6 năm 1974, toàn bộ Trung Ðoàn 42 Bộ Binh đột nhiên rút khỏi vùng Bắc Pleime, thay thế là Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân và Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân trú đóng tại Căn Cứ Hỏa Lực 711.
Thời gian này nếu tính cả hai khẩu 155 ly đặt trong chi khu Phú Nhơn, thì khả năng yểm trợ của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân chỉ mạnh bằng một nửa, so với hỏa lực cơ hữu của một trung đoàn bộ binh.
Ðây cũng là thời gian tôi bận rộn suốt ngày. Cả tháng trời tôi không dám bỏ đồn về Pleiku thăm hậu cứ lần nào.
Về phần an ninh khu vực trách nhiệm, lúc nào tôi cũng phải cảnh giác đề phòng một cuộc tấn công với quy mô lớn của đối phương có thể xảy ra bất thình lình.
Ðối diện với Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi là cả một sư đoàn bộ binh, một sư đoàn vận tải, một trung đoàn pháo, và một tiểu đoàn xe tank/tăng của địch.
Lực lượng hùng hậu và đáng sợ này của Cộng Quân ngang nhiên trú đóng trong vùng núi Chư Prong và thung lũng Ia Drang, chỉ cách Pleime hơn mười cây số đường chim bay.
Tôi ước tính, chỉ cần chưa tới hai giờ đồng hồ vận chuyển bộ, Cộng Quân đã có thể cắt đứt Tỉnh Lộ 6C và bắt đầu vây hãm Pleime rồi.
Nếu so sánh tương quan lực lượng khi phải giao tranh thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ phải đương cự với một địch thủ có quân số đông hơn mình cả chục lần về nhân lực, chưa kể tới cơ giới và pháo binh.
Nhiều đêm, với điếu thuốc Lucky trên môi, một mình ngồi hàng giờ trên nóc lô cốt, tôi tự hỏi:
“Nếu địch tấn công Pleime thì mình sẽ đối phó cách nào đây?”
Sau nhiều đêm vắt óc suy nghĩ và cân nhắc, tôi mới tìm ra giải đáp:
“Muốn sống còn, tôi phải tránh bị đánh úp bất ngờ, thì phải biết:
◙ Khi nào địch bắt đầu triển khai chiến dịch để xin thượng cấp dự trù quân tăng viện.
◙ Phải cố gắng giữ đồn và trì hoãn chiến để chờ viện binh”.
(xem tiếp kỳ tới)
---
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 3)
Kỳ trước: Sau khi tiếp nhận căn cứ Pleime, công việc cấp thiết của Thiếu Tá Vương Mộng Long là huấn luyện và tổ chức phòng thủ để lúc nào cũng sẵn sàng chống trả sự tấn công của Việt cộng.
Nhiều kỳ – kỳ 3
Muốn không bị đánh úp thì phải biết động tĩnh của địch.
Muốn biết động tĩnh của địch thì phải tận dụng viễn thám và trinh sát.
Chuyện này đối với tôi không phải là điều khó giải quyết vì chỉ huy viễn thám và trinh sát vốn là nghề của tôi. Tôi có sáu toán viễn thám rất tinh nhuệ, trong đó hai toán là do tôi đem theo từ Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 ngày tôi đáo nhậm đơn vị này.
Vấn đề kế tiếp là: làm sao trì hoãn chiến?
Muốn trì hoãn chiến cần thực hiện hai điều:
Một là, nếu ở trong đồn thì phải phòng thủ thật chắc.
Hai là, nếu phải đánh nhau dã ngoại thì phải cố sức bám địch, cầm chân địch bằng mọi giá.
Trong đồn thì tôi không lo, vì với mạng lưới kẽm gai chằng chịt và hệ thống giao thông hào đặc biệt mà tôi mới thiết trí có thể giúp cho người lính vững tâm hơn khi chiến đấu.
Nhưng nếu phải đánh nhau dã ngoại thì điều quan trọng nhất lại là tình hình địch.
Phải biết địch cỡ nào thì ta đánh, địch cỡ nào thì ta phải tránh.
Cho dù thời tiết đã sang mùa mưa, mưa tầm tã hết ngày này qua ngày khác, sáu toán viễn thám vẫn phải liên tục thay nhau xâm nhập vào Ia Drang để canh chừng mọi chỉ dấu mới của Sư Ðoàn 320A Việt cộng.
Làm trái độn cho viễn thám là một lực lượng tiếp cứu nằm cách Pleime 6 cây số về hướng Tây Bắc. Nơi đây là vị trí trú quân của một đại đội ưu tiên nghênh cản. Nhiệm vụ của đại đội nghênh cản là cố gắng đánh cầm chân quân địch nếu trận chiến xảy ra.
Các đại đội trực thuộc tiểu đoàn phải thay phiên nhau giữ vai trò nghênh cản. Ðại đội này sẽ không đem theo nồi niêu, trên lưng mỗi người chỉ có ba ngày cơm vắt cùng hai cấp số đạn. Sau phiên trực kéo dài ba ngày, ba đêm thì có người thay.
Ðầu tháng 7 tôi được bổ sung một sĩ quan tiểu đoàn phó là Ðại úy Nguyễn Hữu Tài khóa 10 Thủ Ðức. Ðại Úy Tài là một đệ tử của Ðại Tá Tất hồi ông Tất còn ở trong Vùng 4.
Tuần sau, để cho Ðại Úy Tài quen với địa thế vùng rừng núi, tôi cho ông ta điều khiển một cuộc đổi quân của hai đại đội nghênh cản.
Theo đúng chương trình thì đại úy tiểu đoàn phó sẽ dẫn đơn vị thượng phiên tới vùng 6 cây số Tây Bắc Pleime, kiểm soát hệ thống phòng ngự của đơn vị, chấm các tọa độ pháo binh dự phòng trên các đường nghi ngờ địch sẽ xâm nhập. Ngày hôm sau ông ta sẽ theo đơn vị hạ phiên trở về trại, giao nộp phóng đồ hỏa yểm dự trù cho tôi.
Nhưng vừa ra khỏi cổng, Ðại Úy Tài đã cùng vài người lính tùy tùng, leo lên tiền đồn Bắc nằm chờ hai đơn vị dưới quyền tự làm công tác hoán chuyển nhiệm vụ. Hôm sau đại đội hạ phiên về tới căn cứ cả giờ rồi, thầy trò đại úy tiểu đoàn phó mới lò dò xuống đồi.
Tôi đã nghiêm khắc nhắc nhở Ðại Úy Tài rằng, từ nay về sau không được làm việc tắc trách như vậy nữa. Ông Tài đã tỏ ra hối lỗi, và hứa sẽ không tái phạm.
Nào ngờ, vài hôm sau, tôi lệnh cho Ðại Úy Tài cùng Ðại đội 1/82 đi thám sát vùng 5 cây số Tây Nam Pleime thì ông ta lại phạm lỗi lần nữa.
Chiều ngày ra quân, Ðại Úy Tài báo cáo với tôi rằng đơn vị của ông ta đã lục soát xong khu vực trách nhiệm.
Tới đêm, Thiếu Úy Lê Ðình Khay, đại đội trưởng 1/82 lại cho tôi biết anh ta cùng với hai trung đội sẽ ngủ qua đêm trên mục tiêu, còn ông Ðại úy tiểu đoàn phó thì vừa ra khỏi trại đã cùng một trung đội chui vào đóng quân trong khu rừng thưa cuối phi đạo Pleime!
Từ đó, tôi không dám cho ông Tài chỉ huy các cánh quân hoạt động dã ngoại nữa.
Vì biết rõ khả năng và tính nết của người phụ tá của mình rồi, nên tôi chỉ giao cho ông Tài những công việc lặt vặt như mai táng, tải thương và rào giậu.
Tôi phải đích thân điều hành những công việc liên quan tới tác chiến, phòng thủ và yểm trợ.
Tôi có một Chuẩn úy pháo binh tiền sát viên rất trẻ, chú này tên là Khánh. Hình như chú Khánh là dân Chợ Lớn, danh hiệu của chú ấy là Sầm Mi. Có lần tôi thắc mắc với Khánh:
– Có phải Sầm Mi là cô sẩm mà chú đang thương yêu chăng? (xẩm=sẩm= cô gái Trung Hoa)
Trả lời câu hỏi của tôi, chú Khánh chỉ đỏ mặt nhoẻn miệng cười.
Giữa sân bộ chỉ huy có cái chòi cao bằng tre, với mái rơm. Hàng ngày Sầm Mi ngồi thu mình trên chòi từ mờ sáng tới chiều tối. Bất cứ tiếng “depart” pháo cối nào của địch vừa dội tới, trung tâm hành quân của tôi đã có ngay hai yếu tố được Sầm Mi báo cáo thật gọn gàng:
— “Hướng X ly giác, tầm xa Y mét…”
Cho đến một hôm, địch bắn tới tấp hàng trăm trái, với đủ loại đạn và từ chục hướng khác nhau, Sầm Mi phải tụt xuống đất chui vào hầm hàm ếch dưới giao thông hào.
Từ ngày đó, tôi cho Sầm Mi cùng với người lính nấu cơm của chú ấy vào làm việc với Ban 3 tiểu đoàn nơi hầm trú của trung tâm hành quân.
Yểm trợ gần cho Pleime hoàn toàn phụ thuộc vào hai khẩu 105 ly cơ hữu.
Yểm trợ xa chỉ có hai trung đội 155 ly đặt ngoài Chi khu Phú Nhơn và Căn cứ 711.
Bốn khẩu pháo binh này bắn mút tầm cũng còn cách Trại Pleime gần 5 cây số.
Khi pháo binh bắn mút tầm thì rất dễ gây ra tai nạn tản đạn. Do đó, tôi lưu ý Chuẩn Úy Khánh và Trung Úy Chủ mỗi khi chạm trận cần đánh những mục tiêu hướng Ðông và Tây, ta phải gọi Căn Cứ 711, nếu cần đánh những mục tiêu hướng Bắc và Nam, thì phải nhờ Chi khu Phú Nhơn.
Cứ theo đó, trên tường của trung tâm hành quân đã có một bảng ghi đầy đủ tên từng hỏa tập, kèm với danh hiệu truyền tin của đơn vị yểm trợ.
Từ giữa tháng Bảy, hầu như ngày nào địch cũng bắn vào trại Pleime từ 10 tới 15 viên trái phá mỗi loại. Có lẽ chúng đang điều chỉnh để lấy yếu tố tác xạ tiên liệu, khi cần sẽ bắn tập trung. Như thế là hai bên đều trong thời kỳ chuẩn bị, kỳ này “chưa biết mèo nào cắn mỉu nào!”
Trong số gần hai chục quả 130 ly đại bác nòng dài của Việt-Cộng nhắm vào Pleime thì chỉ có một viên rơi trong rào, số còn lại đều bay qua đầu, xuống suối.
Trái 130 ly nổ chậm (delay) rơi sát vị trí hai khẩu 105 ly, đào một hố sâu cỡ đầu người với đường kính chừng sáu thước. Chỉ cần hai viên 130 ly rơi đúng mục tiêu thì toàn bộ trung đội pháo binh biên phòng này sẽ bị tiêu diệt!
Từ khi lập trại, vị trí hai khẩu 105 ly chỉ trực xạ cận phòng được nửa vòng tròn từ Ðông, tới Nam qua Tây. Còn các hướng Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc đều nằm trong tử giác, không trực xạ được.
Trường hợp bị địch tấn công từ hướng chính Bắc, Ðông Bắc, và Tây Bắc thì hướng bắn của hai khẩu súng này bị nhà cửa, pháo đài và thành lũy che khuất, đành thúc thủ.
Rút kinh nghiệm mà tôi đã tận mắt chứng kiến ngày Căn Cứ Biên Phòng Lệ Minh bị tràn ngập. Hôm đó tôi bay trên trời, tôi thấy cái cổng trại mở toang, pháo địch nổ rền, toàn doanh trại bao trùm một màn bụi khói.
Khói súng chưa tan, cộng quân đã ào ào chạy vào cổng, chia nhau chiếm giữ các lô cốt, theo sau là lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam xanh, đỏ, sao vàng.
Từ trên trực thăng nhìn xuống, thấy cảnh xảy ra cứ như đang xem phim!
Tôi nghĩ, nếu tấn công Pleime, chắc Việt Cộng cũng áp dụng chiến thuật tiền pháo, hậu xung như thế.
Muốn chống lại chiến thuật này việc ưu tiên phải làm là đóng chặt cổng ngoài, rồi cố gắng cầm chân địch từ xa bằng những hàng rào kẽm gai concertina cách nhau vài chục thước. Sau đó dùng hỏa lực đốn ngã toán quân xung phong đầu tiên của địch. Vũ khí chống biển người hữu hiệu nhứt là những viên đạn pháo binh bắn tên sắt.
Tôi ra lệnh cho Trung Úy Như tách ra một khẩu 105 ly đem lên cổng Bắc.
Chuyện tách rời hai khẩu 105 ly là điều hoàn toàn sái nguyên tắc; nhưng trong tình huống này thì sự tồn vong của Pleime là ưu tiên hàng đầu, Trung Úy Như đã vui vẻ thi hành lệnh mà không tỏ vẻ muộn phiền gì.
Trong ụ súng cổng Bắc, tôi chuẩn bị gần hai chục đạn Beehive chống biển người, mỗi viên Beehive khi ra khỏi nòng súng sẽ phóng đi 8,000 mũi tên sắt. Chỉ cần hai trái Beehive bắn đúng lúc địch xung phong, chúng sẽ chết như rạ!
Ngày phát lương tháng Bảy, trời nắng ráo, Trung tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn phó theo trực thăng chở phát hướng viên xuống thăm Pleime.
Anh Thanh báo cho tôi biết, từ hôm đó, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân được quân đoàn chỉ định thay thế Thiếu Tá Hoàng Ðình Mẫn để chỉ huy Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân ít ra cũng trong thời gian của chiến dịch này, vì so với ông Mẫn thì ông Lân thông thuộc địa thế Pleime hơn ông Mẫn.
Anh Thanh không quên mang tặng tôi một két bia cổ cao. Rồi năm anh em, Hoàng Kim Thanh, Vương Mộng Long, Nguyễn Hữu Tài, Nguyễn Công Minh, và Trần Văn Phước quây quần quanh chiếc bàn tròn.
Kịp khi năm chai bia mới mở nắp, ba con khô mực nướng vừa xong thì bất ngờ:
— “Oành! Oành! Oành!”
Ba viên không giựt 57 ly theo nhau xé gió bay tới, nổ tung giữa sân cờ!
Tôi quơ vội chiếc PRC 25 nhảy xuống giao thông hào.
Tay bóp ống liên hợp, tôi la lớn:
– 821! Ra chận đường lấy cho được khẩu 57 ly!
Thay vì ra lệnh cho pháo binh phản pháo, tôi lại gọi toán viễn thám 821 của Hạ sĩ Mom Sol.
Toán của Mom Sol đã ra đi từ mờ sáng, ém trong rừng, cách Pleime hơn ba cây số.
Mom Sol sẽ kéo ra con đường mòn chặn đánh khi địch rút lui.
Chưa tới mười phút sau, có ba tràng M16 bắn ngược chiều, rồi tiếng Mom Sol reo vui:
— Trình Thái Sơn! Em lấy được khẩu 57 ly rồi!
Tôi đã đoán chắc thế nào địch cũng xâm nhập bằng đường rừng, pháo tới tấp hết số đạn mang theo, rồi chạy thục mạng theo con đường mòn dẫn về Tây. Quân ta cứ chặn đường chúng rút là có ăn ngay.
Trong quá khứ, đã có hai lần địch áp dụng ngón đòn đánh trộm rồi chạy.
Với một khẩu đội chừng ba hay bốn tên, vác theo cái nòng 57 ly cùng vài viên đạn, chúng xâm nhập bằng đường rừng. Khi tới vạt đất trống, cách hàng rào trại vài trăm mét thì chúng chui ra, vội vàng nạp đạn, bóp cò. Chưa đầy vài phút, sau khi hết đạn, chúng liền phóng ra con đường xe be cũ chạy một mạch về hướng Tây.
Tới khi người trong đồn phát giác ra vị trí đặt súng, lấy xong yếu tố tác xạ để phản pháo thì chúng đã cách xa Pleime cả cây số rồi!
Ði đêm lâu ngày thế nào cũng gặp ma! Bọn bắn trộm ăn quen, rồi cũng có ngày chết mất mạng, mất súng.
Hôm ấy đúng như tôi dự liệu, tính từ lúc trái đạn đầu tiên phát nổ, chưa tới hai mươi phút sau Hạ sĩ Mom Sol đã bước vào cổng Nam Pleime với khẩu 57 ly chiến lợi phẩm trên vai.
Ba chai bia cổ cao được trao tận tay ba anh viễn thám, còn khẩu 57 ly được bay theo Trung tá Hoàng Kim Thanh về Pleiku.
Ngày 22 tháng 7 có chiếc trực thăng bay vào Pleime bốc tôi về trình diện Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu 2 để nhận một chỉ thị đặc biệt.
Tôi được Quân Cảnh đưa lên lầu thì đã có ba vị chỉ huy chờ sẵn, đó là Trung Tướng Toàn, Chuẩn Tướng Niệm và Trung Tá Tiếu.
Cuộc gặp mặt chỉ kéo dài chừng mười phút.
Tướng Toàn xua tay cho tôi miễn trình diện, rồi chỉ cho tôi ngồi xuống cái ghế dựa đặt trước mặt ông, hai bên tôi là Tướng Niệm và Trung Tá Tiếu.
Ông Tướng vào đề ngay:
– Chắc chắn vài ngày nữa tụi nó sẽ đánh lấy cho được Pleime. Ta ra giá cho mi cố giữ đồn được ba ngày là ta cho mi lên trung tá. Sau đó cứ làm theo kế hoạch mà ông Tiếu sẽ bàn với mi. Nghe rõ chưa?
Tôi băn khoăn chưa biết kế hoạch của thượng cấp đề ra như thế nào thì Tư Lệnh đã tiếp:
– Chuyện này đứa khác làm không được, nhưng ta tin chắc mi sẽ làm được! Thôi mi nói chuyện với ông Tiếu, ta mắc bận phải đi!
Dứt lời, Tướng Toàn khoát tay ra dấu cho Tướng Niệm, hai người sánh vai đứng lên.
Tới cửa, tôi thấy Tướng Niệm quay đầu lại, chỉ tay về hướng tôi, rồi nói nhỏ với Tướng Toàn:
– Từ ngày đi lính tới giờ, tôi thấy đây là sĩ quan mà tôi cho là ưu tú nhất. Hy vọng ngày nào đó tôi sẽ có người sĩ quan này!
Ông Toàn quay mặt lại, hơi lớn tiếng, chắc là cố ý cho tôi nghe,
– Ðù mạ! Phải cố gắng lên chứ! Quân đội gì mà cứ đánh là thua, cứ đánh là chạy, làm sao mà ăn nói với Mỹ, mà chìa tay ra xin người ta chi viện trợ cho được?
Trong phòng còn lại tôi và Trung Tá Tiếu. Ông Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn II cho tôi biết chi tiết kế hoạch của Quân Ðoàn là:
Nếu Sư Ðoàn 320 A Việt cộng động binh thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân phải tận lực giữ đồn không bị tràn ngập trong vòng ba ngày. Sau đó tôi được quyền chui ra khỏi rào, leo lên chỏm núi nào đó, tiếp tục báo cáo với đài tiếp vận Hàm Rồng rằng quân trú phòng đang đánh nhau giành giật với địch quân từng phần đất của Pleime. Cứ thế, cho tới một tuần lễ sau thì hô hoán lên rằng Pleime đã mất. Rồi tôi được quyền chọn một trong hai hướng thoát thân, muốn về trình diện Quận Phú Nhơn hay Quận Thuần Mẫn là tùy ý tôi.
Tôi nghĩ rằng, chưa đánh nhau mà Tướng Tư Lệnh Vùng đã hứa chỉ cần tôi giữ Pleime được ba ngày thôi, sau đó thì có quyền bỏ đồn, rút chạy mà không sợ bị mất lon thì chắc chắn trận này sẽ lớn lắm.
Tướng Nguyễn Văn Toàn là một người thô lỗ, cộc cằn, mở miệng ra là văng tục, chửi thề, nhưng cũng rất thẳng thắn. Chuyện gì ông ta cũng nói huỵch toẹt, không che đậy.
Sở dĩ Tướng Toàn đòi hỏi tôi nếu không giữ được Pleime mà vẫn phải “đánh trận giả” chỉ vì sợ quốc tế nhìn vào, thấy Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa yếu đuối quá, không đủ sức cản chân Cộng Quân, cứ đánh nhau là thua, lại thua nhanh quá, không xứng đáng nhận thêm viện trợ nữa.
Như vậy, chiến công của chúng tôi, nếu có được, sẽ trở thành món hàng quý giá của lòng tin, để chính quyền ta trả giá với đồng minh Hoa-Kỳ xin quân viện.
Tôi thấy mình vừa khoác lên vai một trách nhiệm rất nặng nề. Trận này thắng hay bại có ảnh hưởng rất quan trọng tới ngân sách của quốc gia, tức là liên quan tới sự tồn vong của đất nước.
Tôi tự hứa với lòng mình rằng sẽ cố gắng hoàn thành cái sứ mạng cam go này.
Qua những lần tiếp xúc với các giới chức có thẩm quyền mà tôi thấy được, đất nước chúng ta đang bước vào thời kỳ khan hiếm xăng dầu và đạn dược do ngân sách bị cắt giảm. Vì lý do đó, ở cấp tiểu đoàn, xăng nhớt chỉ được cấp phát cho hai xe Jeep và một xe GMC mười bánh. Tôi cũng nghe nói, chỉ một giờ bay của trực thăng đã làm hao tốn tới 200 đô la viện trợ! Mỗi khẩu pháo chỉ được quyền bắn tối đa là bốn viên mỗi ngày. Nếu ở mặt trận này mà pháo binh bắn lố hơn cấp số bốn viên một ngày thì để bù đắp lại, khẩu súng ở mặt trận khác sẽ bị khóa nòng, không sử dụng.
Bài Ca Chiến Thắng (VNCH)
https://youtu.be/u1Z2xmr4XWY
|
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 4)
Kỳ trước: Những cuộc tấn công bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung đã diễn ra khốc liệt vào căn cứ Pleime, một áp lực mà Tư Lịnh Vùng hứa là chỉ cần giữ được ba ngày thôi coi như cấp chỉ huy mặt trận là Thiếu Tá Vương Mộng Long đã hoàn tất nhiệm vụ và có quyền rút bỏ vị trí.
Vương Mộng Long huấn luyện đơn vị
Nhiều kỳ – kỳ 4
Cái thời vàng son, khi Ðồng Minh còn hiện diện, xăng nhớt như nước, bom đạn như mưa đã qua rồi!
Cái thời nằm xoài trên bãi, miệng rít xì gà chờ B 52 trải thảm rồi bay vào vùng lượm súng đã qua rồi! Bây giờ là lúc đánh nhau với cung cách “thắt lưng buộc bụng”.
Bây giờ cũng là lúc, muốn sinh tồn, người cầm quân phải vận dụng đầu óc nhiều hơn, dùng mưu trí nhiều hơn. Chỉ ơ hờ một chút là mất mạng, hay biến thành tù binh.
Nhận lệnh xong, rời quân đoàn, tôi phải bay thẳng một lèo về Pleime, không được ghé bất cứ nơi nào.
Ngày 23 tháng 7 tôi chuẩn bị 6 toán, mỗi toán 3 người, dưới quyền Thượng sĩ Năng, đào hai đường hào dùng để rút quân:
Một đường xuất phát từ kho đạn pháo binh,
Đường thứ nhì bắt đầu từ bể nước dự trữ.
Hai đường hào này gặp nhau nơi cổng Nam.
Trường hợp bị tràn ngập chúng tôi có thể vừa đánh vừa lui theo hai đoạn đường giao thông hào này.
Ngày 24 tháng 7 tôi dẫn theo Thiếu Úy Trần Văn Phước cùng một toán viễn thám leo lên đỉnh Chư Gô để cất giấu hai chục khẩu phần lương khô, hai thùng nước uống và một máy truyền tin PRC 25 với bốn cục điện trì, dự trù nếu phải di tản còn có một điểm tiếp liệu.
Trưa hôm đó Hạ sĩ Nguyễn Ba và Binh nhì Lê Văn Bích đang nóng lòng trông đợi tôi về ăn cơm. Thấy tôi bước vào cổng trại, đầu tóc, mặt mũi đẫm mồ hôi, chú Ba vội chạy tới vừa giơ tay gỡ cái dây ba chạc khỏi vai tôi, vừa nói,
– Ông thầy đi đâu mà không cho tụi tôi biết, tụi tôi lo quá!
Binh nhì Bích cũng đon đả:
— Thiếu tá ăn cơm nhé?
Hạ sĩ Ba vừa châm cho tôi một điếu Lucky vừa bùi ngùi,
– Sáng mai em phải vào vùng thay cho toán của thằng Yang rồi, không biết em có còn sống để về gặp ông thầy hay không?
Kể từ cuối năm 1972, dưới quyền tôi, chú Ba đã là lính nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) của Phòng 2. Tới khi tôi vào Pleime thì chú Ba tình nguyện đem toán đi theo tôi.
Trong lúc tôi ngồi ăn cơm, chú Ba và chú Bích cứ lăng xăng xung quanh, chờ tôi sai vặt. Nhìn bộ dạng của hai thằng em, tôi nghiệm ra rằng nhất cử, nhất động của mình đều có ảnh hưởng tâm lý tới mọi người dưới quyền. Bao lâu nay, tôi đã là niềm tin, là chỗ dựa của họ. Tôi chỉ đi vắng có vài giờ mà thuộc cấp đã lo lắng như vậy, nếu như tôi không có mặt, chắc họ sẽ còn lo lắng gấp nhiều lần hơn.
o O o
Pleime bão lửa ngợp trời…
Ngày 25 tháng 7 chúng tôi được lệnh chuẩn bị mở đường Tỉnh Lộ 6C để nhận tiếp tế thường kỳ.
Trong đêm 26 tháng 7 tôi cho hai Ðại Đội 2/82 và 3/82 di chuyển tới vị trí tập kết, thiết lập vị trí phòng ngự để đối phó với một trận bôn tập có thể xảy ra.
Ðại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt là cánh quân xa nhứt, chỉ cách ranh giới của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân chừng hơn một cây số. Kế đó là Ðại đội 2/82 của Trung Úy Nguyễn Hữu Anh chốt chặn cách Pleime bốn cây số về hướng chính Bắc.
Ðại Đội 4/82 giữ nhiệm vụ nghênh cản vùng Tây Bắc nên hiện thời trong đồn còn lại Ðại đội chỉ huy cùng với Ðại đội 1/82 trừ (-) vì thiếu hai trung đội đóng tiền đồn cố định trên Chư Hô và trên cao điểm 509.
Sáng 27 tháng 7 năm 1974, Căn Cứ Pleime hoàn toàn yên tĩnh, nhưng toán viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Ba và Ðại đội 4/82 của Thiếu úy Phạm Văn Thủy đều báo cơ giới địch bắt đầu chuyển quân bằng xe từ Chư Prong nhắm về hướng Ðông.
Ðại Đội Nghênh Cản 4/82 của Thiếu Úy Thủy không dám ra mặt đương cự với đoàn xe chở quân của địch chỉ vì hỏa lực rất mạnh của bốn khẩu 12.7 ly đặt trên hai chiếc xe be đi đầu khạc đạn như mưa trên từng thước đất dọc đường đi.
Ðịch đã dùng hỏa lực, thay vì nhân lực để mở đường. Ðại Đội 4/82 chỉ còn nước nằm bẹp sát đất tránh đạn, rồi rút xuống suối ẩn núp chờ địch đi qua.
Tới khi thấy bộ binh địch từng đoàn chạy bộ theo con đường xe be tiến lên thì Ðại Đội 4/82 đồng loạt nổ súng.
Quân của Ðại Đội 4/82 đã chặn đánh địch trên hai vị trí định sẵn trong khoảng thời gian chừng một giờ thì phải rút, vì sợ viện binh địch bao vây, sẽ mất đường về.
Còn toán viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Ba sau khi bắn cháy được một xe chở đạn của địch thì bị lộ, bèn cắm đầu chạy. Tối hôm đó toán này mới về tới cổng Nam của trại.
Ðúng 9 giờ sáng ngày 27 tháng 7 địch mở màn một cơn mưa pháo dọc hai bên Tỉnh Lộ 6C từ chân núi lửa Chư Mréa tới cổng trại Pleime.
Pháo binh Việt-Cộng bắn như trống chầu. Ước tính trong thời gian chừng nửa giờ đồng hồ, địch đã bắn phủ vùng 10 cây số của tỉnh lộ với hàng ngàn viên đạn đủ loại gồm:
– Đại bác 130 ly,
– Đại bác 105 ly,
– Đại bác 122 nòng dài,
– Cối 120 ly,
– Cối 82 ly.
Tỉnh Lộ 6C chỉ còn là một con rồng bụi đỏ khổng lồ uốn khúc, vừa dài, vừa cao ngút tới mây.
Sau khi tận dụng pháo binh, bộ binh địch bắt đầu reo hò xung phong chiếm lĩnh mặt Tỉnh Lộ 6C vùng hướng Bắc ngã ba làng Plei Xome.
Ðiều đáng ngạc nhiên là trận đánh đã diễn ra trước khi đoàn quân xa tiếp tế cho Pleime và Căn Cứ 711 vào vùng.
Trên hệ thống vô tuyến của liên đoàn, tôi nghe Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân báo cáo rằng: Hai đại đội dưới quyền ông đang bị một lực lượng rất đông của Việt-Cộng chặn đánh. Cánh quân cực Nam của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân đã bị mất liên lạc, đại đội đi tiên phong này do Thiếu Tá Trần Văn Ngọc, Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 81 chỉ huy. Quân của ông Ngọc nằm cách tiền quân của tiểu đoàn tôi chừng hơn một cây số.
Hai đại đội của Tiểu Ðoàn 82 đều thủ trong bìa rừng hướng Ðông của tỉnh lộ, dưới hố cá nhân và giao thông hào, nên không bị pháo binh địch gây tổn hại.
Ði mở đường, tôi không cho quân trải dài theo lộ như nhiều đơn vị khác.
Vì với nhiều năm kinh nghiệm, tôi thấy quân đội ta khi giữ đường, thường có thói quen cứ cách nhau vài chục thước lại cho một anh lính đứng gác; người đi trên xe nhìn thấy lính gác đường thì cảm thấy yên tâm. Nhưng chỉ cần một trung đội Việt-Cộng tập trung hỏa lực, vừa bắn vừa tiến, những người lính đứng đơn độc sẽ bị tiêu diệt ngay.
Cứ như thế, một đại đội Việt-Cộng có thể đánh tan một tiểu đoàn khai lộ của ta không khó khăn.
Khi hành quân khai lộ, tôi chỉ bố quân một bên đường, phía đường bên kia được hai khinh binh đi rà soát liên tục. Một người đi trong rừng, một người đi ngoài trống, nếu phát hiện địch thì hai khinh binh này nổ súng báo động rồi thoát chạy ngay.
Sáng nay pháo binh địch bất ngờ tới tấp nổ trùm mặt lộ, khiến cho bốn anh lính rà đường của hai Ðại Đội 2/82 và 3/82 phải chạy bán sống, bán chết về trại.
Giờ phút đó, trên đỉnh đồi 407, cách Pleime 4 cây số, tôi đang ngồi với Trung úy Nguyễn Hữu Anh đại đội trưởng 2/82.
Vừa nghe tiếng “Ùm!” từ đằng xa, tôi vội đứng dậy, gọi cho Trung úy Chủ báo cho quân trú phòng trong trại đóng chặt cổng rào.
Trong lúc lộn xộn, chân tôi đạp nhằm cẳng một anh lính truyền tin của Ðại Đội 2/82, anh này vừa xoa chân vừa chu chéo, “Ui cha ui! Thiếu tá đạp gãy chân em rồi!”
Nhìn bộ dạng anh lính, tôi phải phì cười:
– Không xuống hố, cứ nằm đó mà la đi! Việt-Cộng nó pháo đứt đầu bây giờ!
Nghe tôi hù, thằng em sợ quá vội ôm chiếc ba lô có cái máy PRC 25 nhảy xuống hố.
Về phần trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thì trận đánh đã diễn ra hoàn toàn như tôi đã dự đoán. Vì bị Ðại Đội 4/82 cầm chân nên cánh quân bộ binh này của Việt-Cộng đã tới mục tiêu rất trễ.
Ðịch đang ngơ ngác trên mặt lộ trống trơn thì quân ta bắt đầu nổ súng. Hầu như toàn bộ đơn vị tiền phong Việt-Cộng hiện diện trên mặt đường đều bị tiêu diệt.
Tuy vậy, trong lúc giao tranh, Ðại Đội 3/82 cũng đã có một người chết và ba bị thương. Thấy địch càng lúc càng đông, Thiếu Úy Việt đành cho quân bám đất và xin tôi cứu viện.
Cùng lúc đó, từ Căn Cứ Hỏa Lực 711, Ðại Tá Từ Vấn, Liên Đoàn Trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ra lệnh cho tôi phải bằng mọi giá tiến lên cứu Thiếu Tá Ngọc.
Tuy Ðại Đội 3/82 đang ở cách Thiếu Tá Ngọc một đoạn đường hơn một cây số, nhưng tôi không thể cho lệnh Ðại Đội 3/82 bỏ hầm hố để tiếp tay cho quân bạn, vì nếu địch chiếm được khu hầm hào đó thì Ðại Đội 3/82 không còn đường lui, mà quân từ hướng Nam tiến lên cũng bị chặn đứng.
Tôi chỉ còn cách ra lệnh cho phần còn lại của Ðại Đội 1/82 ra trám chỗ cho Ðại Đội 2/82 giữ lưng cho tôi và Ðại Đội 2/82 tiến lên.
Như thế là tôi đã đem gần hết quân trú phòng ra trận, trong đồn chỉ còn đại đội chỉ huy công vụ cùng với trung đội pháo binh và hai khẩu đội súng cối 106 ly, 81 ly.
Khi tôi và Ðại Đội 2/82 bắt tay được Ðại Đội 3/82 cũng là lúc quân tăng viện của địch từ vạt rừng hướng Tây ào ào tiến sang. Chúng dàn thành đội hình hàng ngang, xung phong từng đợt, mỗi đợt cách nhau chừng mười phút.
Bốn tháng trước, tôi đã biết cách đánh này là thói quen của Trung Ðoàn 48/320A. Chiến binh của E 48/320A có nhiều người thuộc sắc tộc Tày, Nùng rất gan dạ.
Ðơn vị này có sở trường là khi tấn công thì họ cứ miệng thét “Xung phong! Xung Phong!” từng đợt ào lên mục tiêu, bắn giết rồi vượt qua luôn, hết đợt này tới đợt khác, không ngừng lại kiểm soát trận địa hay thu nhặt chiến lợi phẩm.
Kỳ này chúng tôi có lợi thế là ẩn trong rừng hướng Ðông của Tỉnh lộ. Ðịch phải xung phong qua hai vạt rừng đã khai quang và một mặt lộ trống trải rồi mới tới tuyến phòng ngự của Biệt Ðộng Quân. Vì vậy địch tiến lên đợt nào, chết hết đợt ấy.
Cũng may mắn là vào lúc hai khẩu M60 của Ðại Ðội 3/82 vừa bắn hết đạn thì tiếng súng của địch cũng lơi đi. Hình như địch rút về hướng Bắc, khu ranh giới của hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân.
Sau khi Miền Nam thất thủ, tôi đã có dịp gặp mặt người chỉ huy Trung Ðoàn 48/320A này, và biết thêm rằng ông ta cũng là người bị tôi phục kích giết hụt hồi tháng 6 năm 1974 nơi ngã ba làng Plei Xome. Ông ta thổ lộ rằng trận Pleime 1974 đơn vị dưới quyền ông đã bị thiệt hại rất nặng, phải rút về Ia Drang tái bổ sung và trang bị.
Ðịch rút đi, tôi dẫn quân tiến lên còn cách ngã ba làng Plei Xome chưa đầy nửa cây số thì tạm ngừng để hỏi Ðại Tá Từ Vấn cánh quân hướng Nam của Tiểu Ðoàn 81 nằm chỗ nào, Ðại Tá Vấn trả lời không biết.
Tôi lại vừa đánh vừa tiến. Bên kia ngã ba là vùng trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân.
Lại có tiếng xe chuyển quân của địch từ hướng Tây. Sau đó, quân tăng viện của Việt-Cộng ào ào tiến ra đường theo con lộ mà chúng đã phát quang từ hơn một năm về trước. Ngay lập tức cánh quân này đã bị chúng tôi đánh tan.
Khi tôi tiến tới vị trí cách làng Plei Xome chừng hai trăm mét thì chạm một bức tường hỏa lực phòng không của địch.
Có ít nhất ba khẩu đại liên 12.7 ly bắn liên tục để cản đoàn quân của tôi. Tôi phải cho quân dạt xuống triền Ðông của con lộ để tránh đạn.
Ðại Đội 3/82 có thêm bốn người chết và năm, sáu người khác bị thương. Toán viễn thám Mom Sol cận vệ của tôi có một người bị thương, một cái máy PRC 25 bị bắn bể.
Trên tần số liên đoàn, Ðại Tá Vấn liên tục gọi Thiếu Tá Lân nhưng không có tiếng trả lời. Trong lúc đó trên trời có một trinh sát cơ O2 đang bao vùng.
Tôi nói với Ðại Tá Vấn:
– Mụ “Ðầm già” bay trên kia có phải của Hai Lẻ Chín không? Nếu niên trưởng không dùng thì giao nó cho tôi!
– Ừ! Lấy đi!
(Ðầm già = Tên xưa của quan sát cơ. Hai Lẻ Chín = Ðại tá Vấn)
Tôi vào tần số không lục:
– Bắc Ðẩu đây Thái Sơn!
Người trên tàu đáp lại:
– Bắc Ðẩu nghe! Một phi tuần A 37 sẵn sàng! Thái Sơn cần chỗ nào tôi thỏa mãn ngay!
– Okay! Bắc Ðẩu có thấy trên tọa độ ZA… có ba bốn khẩu 12.7 ly không? Tôi ở chỗ khói vàng. Mục tiêu cách tôi 200 mét hướng 4800 ly giác! Yêu cầu cứ đánh giùm tôi từ đó kéo dài về hướng Tây!
– Tôi thấy lâu rồi! Chỉ chờ bộ binh yêu cầu là tụi này ra tay ngay!
Tôi cho lệnh đánh dấu ba trái khói vàng, rồi ngồi chờ.
Chỉ ít phút sau, hai phi xuất A 37 đã theo nhau thét gào, nhào lộn trên ngã ba làng Plei Xome.
Tiếng bom vừa dứt, thì tôi ngỡ tai mình nghe lầm:
– Thái Sơn! Ðây là Hai Lẻ Chín! Tôi ra lệnh cho Thái Sơn! Bất cứ giá nào cũng phải lên cứu cho được thằng Lê Lai!
(Lê Lai là Thiếu tá Lân).
Tôi nói:
– Tôi không biết các cánh quân của thằng chín nút (81) nằm chỗ nào, tôi không thể liên lạc được với họ thì làm sao mà cứu họ?
Nghe tôi nói vậy, thì Ðại Tá Vấn lớn tiếng dọa:
– Lệnh là lệnh! Nếu anh không lên, tôi truy tố anh ra tòa!
Tôi nghĩ người chỉ huy trực tiếp của tôi đang bấn loạn tinh thần nên nói năng chẳng còn cân nhắc. Ông Vấn gọi ông Lân như gọi đò cả tiếng đồng hồ rồi mà chẳng có ai đáp máy. Có khi giờ này toàn bộ Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân đã bị địch đánh tan rồi.
Tôi trì hoãn:
– Ðể tôi chiếm cái ngã ba rồi tính tiếp.
Lúc đó, trên máy của thằng Y Don Nier, Trung Úy Trần Dân Chủ từ trung tâm hành quân của tiểu đoàn báo cáo rằng, pháo địch bắt đầu nổ trên nóc trại Pleime. Ông Chủ cũng cho tôi biết tin Ðại Đội 4/82 của Thiếu Úy Thủy đã về tới căn cứ và chỉ có năm quân nhân bị thương nhẹ.
Tôi thấy tình hình sắp nguy khốn, vì nếu địch mở một mũi tiến công mới, nhắm ngay cổng trại thì tôi hết đường về. Tôi sẽ bị lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Nếu tôi không về kịp thì chắc chắn sẽ mất đồn.
Tôi cũng chợt nhớ ra, nhiệm vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn giao cho tôi là giữ đồn Pleime, không phải là bỏ đồn đem quân đi cứu người khác. Nếu tôi bị cầm chân ở đây mà để mất đồn thì tôi là người gánh trách nhiệm chứ không phải Ðại Tá Vấn.
Tôi nói với Ðại Tá Từ Vấn,
– Chúng nó bắt đầu đánh vào Pleime! Báo cho Hai Lẻ Chín biết giờ này tôi rút quân!
Không chờ phản ứng của ông liên đoàn trưởng, tôi ra lệnh cho quân mình dừng lại, bố trí theo bờ suối hướng Ðông của Tỉnh lộ, chuẩn bị đội hình.
Ngay lúc đó có tiếng Thiếu Úy Mạch Thiệu Hùng, Sĩ quan Tùy Viên của Ðại Tá Tất,
— Trường An ra lệnh cho Thái Sơn quay về giữ đồn!
Thì ra Ðại Tá Tất đang bay trên trời. Ông Tất có tần số nội bộ của tôi. Chắc ông Tất đã hay biết toàn bộ diễn tiến xảy ra dưới đất, nên đã trực tiếp can thiệp.
Chạm địch, tôi ít khi cầm máy liên đoàn, tôi thường có mặt trên tần số nội bộ không giây phút nào rời. Vì thế, mỗi khi bay giám sát trận địa, Ðại Tá Phạm Duy Tất và Tướng Nguyễn Văn Toàn đều vào tần số này, vừa tiện theo dõi tình hình, vừa dễ ra lệnh trực tiếp cho tôi.
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 5)
Kỳ trước: Đang giằng co với lệnh buộc đi cứu binh của Đại Tá Từ Vấn, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 BĐQ, và tình hình cấp bách, địch đang tấn công vào trại Pleime, Thiếu Tá Long quyết định dẫn quân về giữ đồn, vì đó là trách nhiệm chính của ông.
Nhiều kỳ – kỳ 5
Trước khi ra quân, tôi đã dự trù một hỏa tập rào cản dài một cây số hướng Tây, Tỉnh lộ tên là “Sầm Mi 1” để đề phòng viện quân địch ào lên. Tôi khẩn cấp gọi Sầm Mi,
– Sầm Mi! Ðây Thái Sơn! Gọi chú Như ưu tiên cho anh hai chục tràng hỗn tạp trên Sầm Mi 1! Mau lên!”
Sau đó, tôi để lại Ðại Ðội 2/82 đánh trì hoãn cho tôi và Ðại Ðội 3/82 băng rừng rút lui. Cuộc rút quân này gấp rút tới nỗi tôi phải cho lệnh ưu tiên di tản thương binh, bỏ lại tất cả những đồng đội tử trận, vứt bỏ tất cả vũ khí nặng và chiến lợi phẩm.
Tôi đã yêu cầu hỏa tập Sầm Mi 1 bắn hơi trễ, nên khi tôi về tới cổng trại cũng là lúc địch reo hò xung phong tràn ngập tiền đồn Bắc, sáu khinh binh đóng chốt trên đồi không biết sống chết ra sao.
Ðại Đội 3/82 vừa bố trí thành một vòng cánh cung dưới chân tiền đồn đã sớm trở thành mục tiêu cho hai khẩu 12.7 ly của địch từ trên đồi bắn xuống. Tôi và Ðại Ðội 3/82 vội tụt xuống trấn thủ con dốc trước cổng Bắc. Toán gác cổng đã mở hé hai cánh cửa cho anh em theo nhau luồn vào trại.
Xuống tới bờ dốc là có vị trí ẩn núp, tôi khẩn cấp cho lệnh khẩu 105 ly của Trung Úy Như bắn ngay mười tràng hỗn tạp trên tiền đồn Bắc, hai khẩu 12.7 ly của địch mới chịu im.
Lúc này Ðại Ðội 2/82 của Trung Úy Anh bị địch cô lập trên đoạn đường một cây số Bắc Pleime.
Trời đã xế chiều, tôi nói với Trung Úy Anh rằng tôi sẽ cho quân bạn bắn tối đa về hướng Bắc nhưng bắn lên trời, còn quân của Ðại Ðội 2/82 thì cứ vừa chạy về hướng trại, vừa liên tục tác xạ, tới sát rào Bắc sẽ có quân bạn tiếp đón.
Súng nổ liên hồi trong khoảng thời gian nửa tiếng đồng hồ. Thiếu úy Trần Văn Phước là người chỉ huy lực lượng trấn thủ cổng Bắc báo cho tôi hay Ðại Ðội 2/82 còn được 22 quân nhân vừa nhập trại. Trung úy Nguyễn Hữu Anh và Chuẩn úy Lê Văn Phước còn tụt lại đằng sau, họ đang tìm cách đi bọc về hướng suối rồi tiến về cổng Nam.
[Có tác giả khi viết về trận Pleime 1974 đã ghi là Ðại Ðội 2/81 chỉ còn 22 người chạy về trại. Ðiều này sai, đây là Ðại Ðội 2/82 không phải Ðại Ðội 2/81. Vì ngày 28 tháng 7 Ðại Ðội 2/81 mới được không vận vào Pleime.]
Tôi ngồi bên máy truyền tin trực chờ tiếng nói của Trung Úy Anh và Chuẩn Úy Phước suốt đêm nhưng không thấy động tĩnh. Ba ngày sau hai vị sĩ quan này cùng năm người lính lội bộ tới Chi Khu Phú Nhơn trình diện, cái máy truyền tin của họ đã bị chìm khi qua suối Lé (Ia Glaé).
Lúc này, kể cả một tiểu đội canh gác cố định trên Pháo Đài 2 thì quân số của Ðại Ðội 2/82 chỉ còn trên dưới 30 người, lại không có sĩ quan, nên tôi giao số quân nhân này tăng cường cho Ðại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt.
Thế là tiền đồn Pleime bị cô lập kể từ tối 27 tháng 7 năm 1974.
Ðêm 27 tháng 7 có hai chiếc máy bay võ trang Hỏa Long bay trên vùng Bắc Pleime, nhưng máy bay chỉ thả hỏa châu, mà không bắn, vì họ sợ bắn lầm quân bạn còn thất lạc trong rừng. Vô tình, hỏa châu của ta lại soi đường cho địch xung phong!
Dưới ánh sáng hỏa châu, Việt-Cộng xông lên ngời ngời! Ba lần biển người ào xuống cái dốc cổng Bắc, cùng những tiếng thét: “Xung phong! Xung phong!” đều tắc nghẽn ngay sau khi khẩu 105 ly cổng Bắc phóng ra liên tiếp hai trái Beehive.
Suốt đêm đó khẩu 105 ly của Trung Úy Như phải làm việc liên tục, bắn từng đợt trên ngã ba tiền đồn Bắc với những trái đạn nổ cao để ngăn địch.
Hôm sau, đọc bản tin tổng kết tình hình 24 giờ qua của liên đoàn, tôi được biết, trưa 27 tháng 7 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân đã bị Việt-Cộng chặt đầu, Thiếu Tá Trần Văn Ngọc đã bị Việt-Cộng bắt sống. Không ngờ chỉ trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ giao chiến mà một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân đã bị Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đánh tan.
Mặt khác, một tin A 2 ghi nhận rằng đơn vị địch chận đánh Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân là Trung Ðoàn 64 của Sư Ðoàn 320A, còn đơn vị Cộng-Sản giữ nhiệm vụ tấn công Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là Trung Ðoàn 48/320A.
Tin A 2 còn cho biết ngay sau khi đánh tan Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân thì E 64/320A sẽ thay thế E 48/320A liên tục tấn công Pleime cho tới khi chiếm được căn cứ biên phòng này. Tiểu Ðoàn D20 Trinh Sát của Sư Ðoàn 320A và một tiểu đoàn phòng không sẽ giữ nhiệm vụ chặn viện binh Việt-Nam Cộng-Hòa trên đoạn đường từ núi Chư Mréa tới ngã ba làng Plei Xome.
Trung Ðoàn 48 của Sư Ðoàn 320A vì bị tổn thất khá nặng nên bị chuyển sang vùng Ðông Pleime, giữ nhiệm vụ săn bắt những quân nhân thoát chạy từ Pleime ra Quốc Lộ 14, đồng thời chặn đánh bất cứ đơn vị nào xuất phát từ quận lỵ Phú Nhơn tiến vào tiếp cứu cho Pleime.
Mờ sáng 28 tháng 7 địch mở màn trận mưa pháo chưa từng thấy trên nóc trại. Hàng ngàn quả đạn đã rơi khắp nơi, trong rào, ngoài rào, trên sân bay, dưới suối. Hầu như địch bắn mà không cần biết đạn sẽ rơi xuống chỗ nào!
Khoảng tám giờ sáng từ hướng Bắc và Tây có hai chiếc loa phát đi lời kêu gọi Biệt Ðộng Quân mau buông súng đầu hàng.
Hai cái loa cứ oang oang lặp đi, lặp lại bốn tiếng, “Hàng sống! Chống chết!”
Tiếng loa trộn lẫn tiếng súng của hai phe đang bắn nhau làm cho người nghe ù cả tai.
Rồi từ đỉnh đồi hướng Bắc, một đoàn quân chính quy Bắc Việt, vừa bắn vừa hô “Xung phong” lao xuống con dốc dẫn vào vườn rau. Ði sau đoàn quân này là một tên cán binh rất cao lớn vai vác lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thật to.
Cách đánh ồ ạt vũ bão này là sở trường đặc biệt chỉ thấy ở Trung Ðoàn 64 Sư Ðoàn 320A.
Lúc này tôi ngồi trong ụ súng 105 ly cổng Bắc.
Tôi hét:
– Beehive!
Anh xạ thủ người Thượng nhanh tay giựt cò.
– “Ðoàng!”
Ðạn ra khỏi nòng, tiếp đó là một tiếng “Í! Ách!’ có lẽ là tiếng đầu đạn kích hỏa để phun hàng ngàn mũi tên sắt bay xa.
– “Ðoàng!”
Viên thứ hai tiếp liền theo viên thứ nhất. Khói từ nòng súng còn khét lẹt, tôi và anh lính Thượng đã vội tụt xuống giao thông hào.
Khẩu đội 105 ly cổng Bắc có bốn người, nhưng trong ụ súng lúc nào cũng có mặt một người thôi. Ðó là một anh hạ sĩ người Thượng nhanh như cheo. Mới thấy anh ta giựt cò,
— “Ðoàng!”
họng súng vừa phà khói trắng, thoắt cái, anh ta đã biến mất dưới giao thông hào.
Thấy anh chàng này ẩn hiện nhanh như con chuột nhắt, tôi bèn đặt tên cho hắn ta là “Con chuột Cổng Bắc” Muốn ra lệnh bắn, tôi chỉ cần hô “Con chuột!” thế là có một viên đạn chống biển người bay đi.
Phụ lực với “Con chuột Cổng Bắc” lúc nào cũng có hai khẩu đại liên 30 trong lô cốt cổng Bắc và Pháo đài số 1 siết cò liên tục, chỉ một hướng cố định, đường đạn bắn giao nhau. Ðịch chết đè lên nhau, chết trước khi kịp quay đầu chạy.
Từ hố cá nhân bên ụ súng đại bác 105 ly cổng Bắc, tôi nhìn thấy địch nằm chết như xếp cá sát nhau, chân chúng nằm trên dốc, đầu chúng hướng về phía cuối dốc, như đang theo nhau trôi xuống vườn rau trước cổng trại.
Tới trưa 28 tháng 7 tôi được lệnh ngừng mọi hoạt động pháo binh để dành không gian cho một đoàn trực thăng chuyển vận viện binh.
Lúc đó giao tranh còn đang diễn ra từng đợt nơi cổng Bắc. Tôi phải giao quyền chỉ huy tuyến phòng thủ Bắc cho Thiếu úy Phạm Ðại Việt rồi theo giao thông hào để ra phi trường đón những người đồng đội đến tăng cường cho mình.
Phòng không địch đan lưới trên không, nhưng không thể ngăn những chiếc trực thăng của Phi Đoàn 229 bay sát đất, thả Ðại Đội 2 của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân xuống phi đạo Pleime.
Ði theo đoàn quân này có Thiếu tá Trương Hoàng Phi Trưởng Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 và hai quân nhân của Tiểu Ðoàn 82 là Trung sĩ Nguyễn Phượng Hoàng và Thiếu úy Lý Ngọc Châu.
Hai thầy trò chú Châu nghe nói Pleime đánh lớn nên nóng lòng, theo chân đoàn quân cứu viện để vào chiến đấu sát cánh với ông tiểu đoàn trưởng.
Đắt hàng nhờ đại dịchTừ đầu năm 1966 Binh nhì Nguyễn Phượng Hoàng đã theo tôi vào, ra trăm trận, cho tới đầu năm 1974 chú Hoàng đã là trung sĩ, tôi mới sắp xếp được một vị trí bán tác chiến để chú Hoàng làm việc ở hậu cứ tiểu đoàn coi như đền bù công lao cho một người trải qua gần mười năm làm người lính đi đầu.
Còn Thiếu Úy Lý Ngọc Châu là người đã có sự vụ lệnh theo học khóa Tâm Lý Chiến ở trường Chiến-Tranh Chính-Trị Ðà-Lạt. Thiếu Úy Châu đang chờ phương tiện đi học, nếu đem chú ấy vào đây thì chắc chắn sẽ bị loại khỏi lớp. Ðó là chưa kể tới yếu tố tâm lý, dị đoan -- xưa nay những quân nhân đã có tên đi phép, hoặc thuyên chuyển, hay thụ huấn mà cứ chần chờ ở đơn vị cũ thường bị chết bất đắc kỳ tử.
Ngay lúc chú Châu và chú Hoàng vừa đạp chân xuống đất, tôi đã xì nẹt:
– Hai thằng này lên tàu về Pleiku mau!
Hai người đàn em nghe tôi quát tháo thì sợ quá, vội vàng nhảy lên trực thăng ngay.
Những quân nhân tăng phái của Ðại Đội 2/81 nhanh chóng bố trí hai bên phi đạo với vị thế sẵn sàng chiến đấu.
Hợp đoàn chuyển quân cất cánh, trên sân bay còn lại một mình Thiếu Tá Trương Hoàng Phi đầu đội bê rê, lưng đeo súng Colt, chân đi đôi giầy Sault bóng loáng, đứng bên cái giường bố bằng nhôm mới toanh của quân đội Mỹ.
Thiếu Tá Phi ra trận mà không đem ba lô, nón sắt, lương khô, poncho, mền võng, mà chỉ vác theo cái giường bố nylon gọng nhôm, như người đi nghỉ mát ở bờ biển Vũng Tàu.
Ông Phi chạy tới trình diện tôi và cho tôi hay rằng, Ðại tá chỉ huy trưởng muốn ông ta xuống Pleime để phụ tá cho tôi theo dõi tình hình địch rồi báo cáo về cho Bộ Chỉ Huy ở Pleiku.
Tôi không giấu nổi sự ngạc nhiên: Tôi có một Ðại Úy thâm niên là tiểu đoàn phó, có một Thiếu Úy tốt nghiệp trường Quân Báo Cây Mai làm sĩ quan Ban 2, cá nhân tôi là một sĩ quan gạo cội của ngành Tình Báo thì một ông Thiếu Tá trưởng phòng 2 của Bộ Chỉ Huy có mặt ở Pleime này sẽ giúp ích gì cho tôi?
Không cần suy nghĩ tìm hiểu vì lý do gì ông Phi bị gửi vào đây, tôi nói với ông:
– Tôi cho phép anh theo chuyến bay kế tiếp trở về Pleiku ngay. Nếu Trường An có hỏi tại sao, thì anh cứ nói rằng tôi ra lệnh cho anh làm như vậy.
Thiếu tá Phi trợn tròn hai mắt nhìn tôi:
– Ủa! Thiếu tá cho phép tôi về Pleiku ư? Nếu tôi về thì có bị Ðại tá quở phạt không?
Tôi hất hàm đáp gọn:
– Ði đi! Tôi cho anh đi đó! Ðừng sợ!
Sau đó tôi lo phân phối nhiệm vụ bố quân cho số người vừa đạp đất của Ðại Đội 2/81 nên quên khuấy chuyện ở hay đi của Thiếu tá Phi. Tới tối thì chú Phước báo cho tôi hay ông Phi đã leo lên chiếc trực thăng đầu tiên của đợt đổ quân thứ nhì. Ông Phi nhờ chú Phước gửi lời cám ơn của ông ấy tới tôi.
Ông Phi ra đi quá vội vàng, bỏ quên cái giường bố Mỹ gọng nhôm trên sân bay. Sau này tôi không biết ông Phi thuyên chuyển đi đơn vị nào, và làm công việc gì.
Khi việc vận chuyển đại đội tăng viện chấm dứt, hợp đoàn trực thăng đã khuất dạng, thì Thiếu Úy Việt báo cho tôi biết địch vừa ngưng bắn nơi cổng Bắc.
Tôi chợt nghĩ ra, mặt Tây đang bỏ trống, nếu địch bỏ cổng Bắc, đánh vào cổng Nam thì bãi đáp sẽ bị đặt trong tình trạng nguy ngập, muốn gọi Ðại Đội 4/82 ra ứng chiến cũng mất mười phút, chi bằng đem hết 18 anh viễn thám ra chận địch là nhanh nhứt.
Hai toán của Mom Sol và Yang đang đi theo tôi, nên bị chỉ định ưu tiên làm công tác ngăn địch. Năm phút sau bốn toán còn lại đã có mặt trên phi đạo.
Tôi đã biết địch chuyển quân theo hướng Bắc Nam, nên cho lệnh ba khẩu đại liên 30 từ các pháo đài hướng Tây cứ liên tục tác xạ ngăn địch.
Ðại Đội 2 của Tiểu Ðoàn 81 vào tới trong vòng rào thì giao tranh mới bắt đầu nơi cuối phi trường, hướng Tây.
Sáu toán viễn thám bắn nhau với địch chỉ chừng mười phút thì địch rút chạy, bỏ lại năm sáu cái xác cán binh trên đường lui.
Ðại Đội 2/81 Biệt Ðộng Quân có quân số gần bảy chục người, do Trung Úy Nguyễn Văn Song chỉ huy.
Trước khi thuyên chuyển ra Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân rồi sang Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân thì Trung Úy Nguyễn Văn Song đã làm việc chung với tôi một thời gian ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, do đó lệnh tôi truyền ra, chú Song thi hành không khó khăn gì.
Tôi giao cho Ðại Đội 2/81 trấn giữ đoạn giao thông hào hướng chính Tây, kéo dài từ sân cờ tới cổng Nam. Căn lều của Trung Úy Song chỉ cách lều chỉ huy của tôi chừng mười mét. Vị trí này là cố định không thay đổi suốt thời gian Pleime bị vây hãm.
Khu vực trách nhiệm của Ðại Ðội 2/81 hoàn toàn trống trải, không có các ngõ ngách giao thông hào và dây kẽm gai dích dắc, nên dù mới tới đây, binh sĩ của đại đội này sẽ không sợ bị lạc đường.
Trong lúc Ðại Đội 2/81 lo đào công sự phòng thủ thì Binh Nhứt Yang khệ nệ ôm về cho tôi năm chiếc ba lô mới tịch thu được của Việt-Cộng.
Giấy tờ lưu trên tài liệu tịch thu cho ta biết đơn vị đánh nhau với chúng tôi sáng 28 tháng 7 là Tiểu Ðoàn K9 trực thuộc Trung Ðoàn E 64 của Sư Ðoàn 320A.
Năm 1972, khi xâm nhập lãnh thổ Cao Nguyên Vùng 2 của Việt-Nam Cộng-Hòa thì Sư Ðoàn F 320A Cộng-Sản có ba trung đoàn bộ chiến là:
ᐅ E 48,
ᐅ E 52 và
ᐅ E 64.
→ Trung Ðoàn E 48 có ba tiểu đoàn đánh số K1, K2, K3;
→ Trung Ðoàn E 52 có ba tiểu đoàn đánh số K4, K5, K6;
→ Trung Ðoàn 64 có ba tiểu đoàn đánh số K7, K8, K9.
Sau đó, Trung Ðoàn E 52 đã di chuyển về Bình-Ðịnh, bổ sung cho Sư Ðoàn F3 Sao Vàng của Quân Khu 5.
Từ ấy Sư Ðoàn F 320A chỉ còn hai trung đoàn bộ chiến là:
— E 64 và
— E 48.
Có lẽ Ban Trận Liệt của Phòng 2 Quân Khu 2 đã đọc sai tin tức khai thác tài liệu do Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân gửi về, nên có sự ngộ nhận, cho rằng Trung Ðoàn E 9 của Cộng-Sản đã hiện diện trong chiến dịch này, nhưng thực ra, đơn vị Việt-Cộng mang tên Trung Ðoàn E 9 trực thuộc Sư Ðoàn F 968 chỉ có mặt ở Tây Nguyên (cao nguyên) sau Tết Dương Lịch 1975.
Tôi còn tìm thấy trong ba lô của một cán binh tên là Bế Văn Tập có lá thư của bố anh ta tên là Bế Văn Thu gửi đi từ Cao-Bằng. Những người dân tộc Tày mang họ Bế không nhiều. Ở Hội-An, gia đình tôi có quen một người của Tỉnh Ðoàn Bảo An Quảng-Nam là Thượng sĩ Bế Văn Thương cũng quê quán Cao-Bằng.
Sau chiến dịch, tôi có gửi thư về Hội-An báo cho bác Bế Văn Thương biết tên người ghi trên thư gửi đi từ Cao-Bằng để bác xem có phải là bà con không, thì bác Thương cho tôi hay ông Bế Văn Thu là anh ruột của bác.
Như thế thì anh cán binh Việt-Cộng tên Bế Văn Tập tử trận ở Pleime ngày 28 tháng 7 năm 1974 là cháu gọi Thượng sĩ Việt-Nam Cộng-Hòa tên Bế Văn Thương là chú!
Suốt đêm 28 tháng 7 tôi phải đích thân dẫn theo một toán cận vệ đi tuần tra liên tục qua các pháo đài và tuyến phòng thủ.
Gần sáng, tôi đang ngồi dật dờ nửa thức, nửa ngủ thì nghe “Con chuột” nổ “Ðùng! Ðùng!” hai phát, rồi nghe trong máy, tiếng Trung Úy Minh hỏi:
— Cái gì đó?
Có tiếng Thiếu Úy Việt trả lời:
— Tui cho “Con chuột” đuổi mấy thằng Vi Xi (Việt-Cộng) đang lần mò vào thu lượm xác đồng bọn.
Tôi có thói quen bật lên câu hỏi, “Cái gì đó?” mỗi khi nghe có tiếng động lạ.
Vì thế, cứ có chuyện khác thường thì nhân viên trực truyền tin lại phát đi câu hỏi này. Lập tức, có người trả lời ngay.
Trời sáng rõ, tôi theo giao thông hào tới Pháo đài Bắc quan sát thì không còn thấy cái xác nào của địch nữa.
Tới trưa 29 tháng 7 có một chiếc trực thăng bay sát mặt đất, ngừng giữa trại, hai người nhảy xuống nóc cái bể chứa nước dự trữ, chiếc trực thăng vội bay đi.
Chiếc phi cơ bay đi rồi, địch mới phát giác, chúng bắn đùng đùng vài tràng 12.7 ly lên trời một hồi để thị uy.
Hai người vừa đạp đất là Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2 và Thiếu Úy Mạch Thiệu Hùng, sĩ quan tùy viên của ông.
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 6)
Kỳ trước: Sáng 28 Tháng 7 những trận tiền pháo hậu xung ngất trời nhưng Pleime vẫn trơ trơ mà địch thì chết như rạ, phải ngưng để kéo xác. Trưa 29 Tháng 7 Đại Tá Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Khu 2 đạp chân xuống trại thăm thuộc cấp của mình giữa tiếng phòng không của địch nổ vang.
Nhiều kỳ – kỳ 6
Tôi chạy ra sân kéo Ðại Tá Tất vào hầm chỉ huy nằm trong trung tâm trại. Tôi tóm tắt cho người chỉ huy biết tình hình mấy ngày qua.
Lúc đó trong hầm hành quân còn có mặt ông Trung Úy Trần Dân Chủ, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn.
Ông Chủ xuất thân Khóa 22 Thủ Ðức, tuy đeo lon trung úy nhưng thực ra còn là cấp thiếu úy. Ông ta bị gián đoạn công vụ một thời gian vì bị Cộng quân bắt giam từ tháng 5 năm 1969 tới cuối năm 1973 mới được trao đổi tù binh.
Khi bị địch bắt ông Chủ mới mang cấp bậc thiếu úy vừa tròn một năm.
Tôi đề nghị Ðại Tá Tất cố gắng hợp thức hóa cái lon trung úy cho ông Chủ để sau trận này, tôi có thể chạy lon đại úy cho ông ta. Ðại Tá Tất hứa sau khi trở về Pleiku ông sẽ thỏa mãn lời yêu cầu của tôi.
Thiếu Úy Mạch Thiệu Hùng ghé tai tôi nói nhỏ:
– Kỳ này chắc chắn ông thầy sẽ thêm một mai bạc! Nhớ đãi tụi em một chầu nhe! Hai tháng trước có vài thằng Ðặc Công mò về Căn Cứ 333, hai bên bắn nhau đì đẹt. Chỉ có mấy thằng Việt-Cộng chết mà Trường An đã đề nghị cho ông tiểu đoàn trưởng lên trung tá rồi đó!
Thiếu úy Mạch Thiệu Hùng và Thiếu úy Trần Văn Phước đều xuất thân từ Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2.
Hai sĩ quan này chập chững vào chiến trận dưới bàn tay dìu dắt của Thái Sơn Vương Mộng Long. Vì thế mà gặp nhau bất cứ ở đâu họ đều gọi tôi là “Ông thầy” thay vì gọi tôi với cấp bực.
Tôi nghĩ rằng, một chiến binh, khi nhận nhiệm vụ ít người hy vọng được thăng chức lên cấp, mà chỉ mong hoàn thành trách nhiệm là mừng rồi.
Ngay cả tới cái mạng của mình mà không biết có giữ được không thì mong gì tới những thứ phù du khác.
Cứ nhìn vào chuyện xảy ra gần đây thôi. Tôi và Thiếu tá Nguyễn Ngọc Di Trưởng Phòng An-Ninh Quân-Ðội Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 cùng ra đơn vị một ngày. Ông Di lên Dak Pek, tôi vào Pleime. Nay Dak Pek đã thất thủ, Thiếu Tá Di chết rồi, còn tôi thì đang bị vây.
Tôi nói với chú Hùng:
– Cứ chờ đi! Không biết anh có được lên lon hay lại theo chân ông Di cũng chưa biết chừng!
Ðại tá Tất tỏ ý muốn tôi dẫn ông đi quan sát một vòng quanh trại, nhưng tôi thấy điều này có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng của ông nên tôi không cho ông thực hiện chuyện này.
Ông Tất nói cấp trên đã lên kế hoạch tiếp cứu Pleime rồi, ông khuyên tôi gắng kiên tâm “Tử thủ”.
Tôi không rõ Tướng Nguyễn Văn Toàn có cho ông Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 biết rằng tôi được phép rút chạy sau ba ngày cố thủ và một tuần “đánh trận giả” hay không, nên tôi chỉ trả lời ông Tất rằng tôi sẽ cố gắng.
Một giờ sau, tôi hướng dẫn chiếc trực thăng núp theo triền Bắc núi Chư Gô đáp ngay cổng Nam Pleime bốc hai thầy trò ông Ðại Tá, có sáu thương binh được đi theo. Chiếc phi cơ mở hết tốc độ bay thẳng hướng Tây, bay một mạch, tít mù xa, rồi mới quẹo về hướng Phú Nhơn.
o O o
Công đồn đả viện…
Hầu như ba ngày đầu tôi chỉ bận rộn với chuyện gom góp quân thất lạc và chống đỡ những đợt tấn công từ hướng Bắc.
Ðêm 31 tháng 7 địch đẩy hai khẩu 75 ly không giựt lên đỉnh dốc nhắm bắn vào trại. Sau bốn năm trái 75 ly thì cái câu lạc bộ tan hoang, vách ván, mái tôn bay tung tóe.
Tôi chưa gọi được điện thoại cho khẩu 105 ly cổng Bắc thì anh lính Thượng đã giựt cò bắn đi hai quả Beehive. Chắc xạ thủ của hai khẩu đội 75 ly chết hết rồi, nên không còn trái 75 ly nào bay vào nữa.
Suốt đêm 31 tháng 7 cho tới sáng 1 tháng 8 phi cơ Hỏa Long liên tục thả hỏa châu và bắn cận phòng vùng một cây số Bắc Pleime.
Tôi cũng được thông báo hai Box 1×1 km đánh bom tập trung trong vùng hướng Tây làng Plei Xome đã được một đoàn oanh tạc cơ A 37 thực hiện trong đêm qua. Những Box bom 1×1 km này có thể coi như những Box B52 Mini do Không Quân Việt-Nam mới sáng chế ra. Nếu địch tập trung đông trên một diện tích hẹp mà bị một Box này thì thiệt hại không phải là nhỏ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1974 Trung Tá Hoàng Kim Thanh thông báo cho tôi biết rằng, Trung Ðoàn 41 của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đang gửi Tiểu Ðoàn 3/41 vào khu vực Bắc của núi lửa.
Tôi có ba người anh vợ đều là sĩ quan, hai ông anh đầu chết rồi, ông anh thứ ba thì đang phục vụ trong Tiểu Ðoàn 3/41, nên tôi xin tần số của tiểu đoàn này để hỏi tin tức.
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 3/41 là Thiếu tá Phan Ðình Thành, Khóa 22 Ðà Lạt.
Tôi nói với Thành:
– Trong đơn vị của Thành có ông anh vợ của tôi. Tên anh ấy là Ðinh Văn Thọ, cấp bậc chuẩn úy. Thành cho tôi gửi lời thăm anh ấy, nhắn với anh ấy rằng tôi vẫn bình yên.
Tôi vừa dứt lời thì Thành đã nhanh nhảu,
– Ủa! Chuẩn Úy Thọ là anh vợ của niên trưởng hả? Trung đội của ông ấy đi đầu, nhưng mất liên lạc hai ngày rồi!
Sau này ông Chuẩn Úy Ðinh Văn Thọ tức là ông anh thứ ba của vợ tôi về nhà kể lại:
Trung đội của ông ấy tổng cộng có 11 người, Chuẩn Úy Ðinh Văn Thọ là trung đội phó, trung đội trưởng là một chuẩn úy ra trường Thủ Ðức trước ông một khóa. Dưới quyền hai vị chuẩn úy là một ông trung sĩ và tám ông lính. Họ được lệnh mở đường tiến vào Pleime, nhưng mới rời bộ chỉ huy tiểu đoàn chưa được hai trăm mét thì đụng đầu một đơn vị địch rất đông. Trung đội này chạy lạc vào một làng Thượng đã bỏ hoang. Họ rủ nhau chui vào khu vườn cây um tùm để ẩn núp. Mấy ngày sau toán này lợi dụng đêm tối lần mò ra Quốc Lộ 14 tới quận lỵ Phú Nhơn trình diện.
Sau chiến tranh, ông chuẩn Úy anh vợ tôi cũng bị tù cải tạo, nhưng thời gian ở tù của ông ấy chưa tới ba năm. Ông không đủ điều kiện đi Mỹ định cư theo diện H.O. nên đành về quê Ban Mê Thuột, trồng tiêu, nuôi gà.
Nay ở tuổi gần thất thập, ông vẫn chưa quên cái lần ông ra trận đem quân vào Pleime cứu thằng em rể.
Có thể nói, thời gian từ 27 tháng 7 năm 1974 tới 10 tháng 8 năm 1974 là giai đoạn “Công đồn đả viện” của địch.
Tôi không biết các cánh quân của Trung Ðoàn 41 đi được bao xa, nhưng đoạn đường từ ngã ba làng Plei Xome tới vùng Bắc Pleime thì hoàn toàn do địch kiểm soát.
Tôi nghe nói, sau khi Trung Ðoàn 41 Bộ Binh thất bại phải rút ra ngoài, thì tiếp đó một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân đã được gửi vào vùng, nhưng đơn vị này mới qua khỏi Căn Cứ 711 đã bị chặn lại.
Tôi còn biết thêm một chuyện đau lòng, đó là cái chết của ba anh viễn thám của Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2.
Toán này nhận lệnh vào thám sát lấy tin tức vùng núi lửa Chư Mréa. Khi trở về họ đã bị ngộ nhận vì họ mặc quân phục Việt-Cộng trang bị AK 47. Họ bị quân bạn bắn chết ngay ngoài vòng rào vào ngày thu quân.
Trước khi vào Pleime, tôi là “Anh Hai” của họ. Giữa năm 1971 tôi đã bay tới 12 căn cứ Biên Phòng của Quân Khu 2 tuyển dụng họ về Pleiku, đích thân huấn luyện cho họ thành những viễn thám viên lành nghề.
Tôi đã từng bốc thả họ nhiều lần để do thám các mật khu, khai thác những mục tiêu B52 vừa oanh kích, hoặc thi hành những cuộc phục kích bắt tù binh trên Ðường Mòn Hồ Chí Minh; đáng ghi nhớ nhất là lần nhảy xuống đánh mìn phá hủy cây cầu ngầm N 24 bắc qua sông Sé San.
Ðầu năm 1974 tôi còn nhảy toán theo họ xuống vùng địch để thu thập tin tức yểm trợ cho cuộc hành quân tái chiếm căn cứ Lệ-Minh.
Lần này họ vào vùng với mục đích thám sát lộ trình dự trù cho các đơn vị sẽ vào cứu “Anh Hai” của họ, và họ đã chết một cách oan uổng.
Ðêm đó, trong một căn hầm giữa sân trại Pleime, hai cựu trưởng toán viễn thám của Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 là Binh 1 Yang và Hạ sĩ Nguyễn Ba đã thấy “Anh Hai” rơi nước mắt.
Tiền đồn Chư Hô bị bao vây tới ngày thứ năm thì hết lương thực. Tôi không còn quân để tiếp viện và tiếp tế cho tiền đồn này, nên cho lệnh trung đội trên Chư Hô nửa đêm tụt xuống đồi, rút về cổng Nam.
Ðêm 2 tháng 8 tôi cũng cho lệnh trung đội đóng trên Cao điểm 509 rút lui. Chỉ một ngày sau hai cao điểm này đã trở thành nơi đặt súng 12.7 ly và 57 ly của Cộng-Quân.
Coi như tôi không còn cánh quân nào hoạt động xa, ngoại trừ những toán tuần tra sát vòng rào Nam và Tây. Hai hướng Ðông và Bắc bị bỏ ngỏ, chỉ kiểm soát bằng hỏa lực đại liên và cối 60 ly.
Tính từ ngày đầu bị cô lập tới 10 tháng 8 đã có hơn một chục lần xung phong của địch bị đẩy lui, hàng trăm cán binh Bắc-Việt đã bị giết.
Hàng ngày, cứ chờ cho trời vừa tối, chúng tôi mới lục tục leo lên mặt đất thay quần áo và kiếm đồ ăn. Trời tối thì tiền sát viên của địch nằm trên đỉnh 509 không còn nhìn thấy doanh trại của chúng tôi nữa.
Một hôm tôi chưa thay xong bộ quần áo ướt thì được Trung sĩ Hoàn, Hạ sĩ quan Ban 3 thông báo:
– Trình Thái Sơn, có Hai Lẻ Chín muốn gặp!
Trong trung tâm hành quân có tiếng Ðại Tá Từ Vấn oang oang qua loa khuếch âm:
– Thái Sơn có mặt chưa? Ðây là Hai Lẻ Chín! Trả lời!
– Thái Sơn nghe!
– Này! Tình hình hôm nay ra sao? Có còn chịu nổi không thì cho anh biết đi!
– Ðêm qua tụi nó xung phong hai ba đợt nhưng bị tụi tôi đánh văng ra ngoài! Xác tụi nó vắt đầy trên dây kẽm gai! Bangalore đã đục thủng 6 lớp rào, nhưng Hai Lẻ Chín cứ yên tâm, tôi sẽ đập bể đầu chúng nó!
(Bangalore: Ống kim loại chứa thuốc nổ dùng để phá hàng rào.)
Giọng nói của ông liên đoàn trưởng tỏ ra vô cùng lo lắng:
– Trời đất! Có sao không? Tụi nó đánh thủng sáu lớp rào rồi à! Vậy chứ Pleime có tổng cộng là bao nhiêu lớp rào?
Tôi chột dạ á khẩu! Tần số mà tôi và ông Từ Vấn đang nói chuyện là của máy PRC 25.
Thời gian này không tần số nào là không bị địch nghe lóm. Ông Vấn hỏi tôi tổng cộng có bao nhiêu lớp rào, nếu tôi trả lời ông ta, thì có khác nào tôi đã trực tiếp báo cáo cho Tư Lệnh Sư Đoàn 320A rằng còn bao nhiêu lớp rào nữa thì cán binh của Ðại Tá Kim Tuấn (Việt Cộng) có thể ném bộc phá vào hầm chỉ huy của tôi?
Tôi vội đánh trống lảng:
– Mưa liên miên, lạnh quá, nếu có thể được thì Hai Lẻ Chín thả cho tụi tôi vài bao thuốc lá nhé!
– Ừ! Mấy hôm nay trời lạnh thật đấy! Ðể mai anh bay vào thả cho chú vài bao!
May quá! Ông liên đoàn trưởng quên câu hỏi Pleime có tổng cộng bao nhiêu lớp rào rồi! Chỉ có hai người biết Pleime có bao nhiêu lớp rào, đó là tôi và Ðại Tá Phạm Duy Tất.
Ngày Căn Cứ 711 thất thủ, địch đã lấy được sơ đồ phòng thủ Trại Pleime, trên đó có bản vẽ sáu lớp hàng rào và bãi mìn chống người do Công-Binh Hoa-Kỳ thiết trí.
Tôi giấu nhẹm chuyện này, không báo cáo với quân đoàn.
Hai ngày sau khi tái chiếm Căn Cứ 711, tôi đã khẩn cấp xin Ðại Tá Tất cho hai GMC (xe nhà binh) chở kẽm gai cọc sắt vào Pleime.
Ðằng đẵng cả tháng trường, chúng tôi cấp tốc âm thầm thiết trí một hệ thống phòng thủ thứ nhì cho Trại Pleime, dựng thêm sáu lớp rào kẽm gai mới, gài thêm mìn bẫy, giống y hệt sơ đồ hệ thống phòng thủ cũ.
Ðại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt được tôi giao phó đảm trách công việc này.
Thiếu Úy Việt là người chỉ huy xây dựng sáu lớp rào mới, nhưng chú Việt không biết có bao nhiêu lớp rào cũ; các quân nhân khác lại càng mù tịt về chuyện này.
Như thế là, từ tháng 6 năm 1974, quanh đồn Plei-Me, có hai hệ thống hàng rào phòng thủ; hệ thống mới nằm bên ngoài và cách hệ thống cũ một khoảng đất trống rộng hai mươi mét gài đầy mìn và lựu đạn. Nếu địch tấn công đồn này, với tin tức khai thác từ sơ đồ phòng thủ cũ, chúng sẽ bị hố nặng.
Khi hoàn tất việc rào giậu, tôi báo riêng cho Ðại Tá Tất biết, và đề nghị ông kín tiếng. Biết đâu sau này địch quân sẽ đánh Pleime, chúng sẽ bị mình đánh lừa.
Quả nhiên địch đã mắc bẫy! Chúng tiến vào đồn theo đường phá của Bangalore, tới khu đất trống thì tưởng trước mặt mình, sau những bụi lau sậy là nhà cửa, lô cốt, nên nhắm mắt xung phong, đâu ngờ lại gặp sáu lớp kẽm gai nữa của hệ thống phòng thủ cũ, chúng đang ngỡ ngàng thì từng tràng đạn đại liên đã nổ giòn, khiến chúng chết đè lên nhau.
Hôm sau trời mưa. Trên trời cao là chiếc C&C của Ðại Tá Từ Vấn. Vừa nghe tiếng “Bạch! Bạch! Bạch!” trên mây, phòng không 37 ly và 12.7 ly của địch đã bắt đầu đua nhau nhả đạn.
Có tiếng ông phi công người Thượng (hay người Miên) rè rè trong máy:
– Thái Sơn chuẩn bị nhận tiếp tế! Bạn cho biết vô hướng nào an toàn nhứt?
– Vòng xa ra biên giới, vào từ hướng Tây, ra hướng Ðông! Nhớ bay sát đất!
– Okay!
Mấy phút sau, bất thình lình hai chiếc trực thăng nổ “Bình! Bình! Bình!…” ngừng lại chừng năm hay sáu giây đồng hồ trên không, hai anh cơ phi vội vã đạp xuống mấy thùng đồ tiếp tế.
Sau đó như con cá heo lật mình, hai chiếc tàu nghiêng cánh nép sát chân Chư Gô vun vút thoát về hướng Ðông.
Khẩu 81 ly của trại vội vàng phóng đi hai quả đạn nhằm khóa họng hai khẩu 12.7 ly của địch trên tiền đồn Chư Hô. Hai khẩu phòng không này đang bắn với theo đuôi hai cái trực thăng.
Tôi gửi lời cám ơn các phi công:
– Lạc Long đây Thái Sơn! Cám ơn bạn đã liều mình vào tiếp tế!
Ðáp lại, tôi nghe, cùng với tiếng động cơ “È! È! È!” là tiếng của ông phi công:
– Ố là la! Cám ơn gì nữa! Bị bắn què chân rồi nè!
Ðại Tá Vấn còn bay trên trời, nhưng tôi không nghe ông nói gì thêm thì chắc là đoàn trực thăng đã an toàn rời vùng rồi.
Tôi vui vô cùng vì thấy chuyến tiếp tế đã hoàn tất.
Một bao đồ tiếp tế đánh sập hầm của Thiếu Úy Phạm Văn Thủy. Một bao khác rơi giữa sân cờ. Nhiều bao và thùng giấy rơi trên lô cốt, vắt trên hàng rào.
Vài người lính nhào ra giành giựt nhau những đồ vật vừa được thả xuống khiến cho Trung Úy Song và Thiếu úy Phước phải rút súng bắn chỉ thiên để chặn đứng tình trạng “hôi của” đang diễn ra. Ở đâu có sự đói kém, thì ở đó xuất hiện những đồ vô loại.
Hai tên vô loại bị điệu tới trước mặt tôi, tôi định sút cho mỗi đứa một cú đá, nhưng kịp ngừng. Tôi ôn tồn:
– Về chỗ đi! Ít nhiều gì thì anh em cũng phải chờ chia nhau. Chia nhau một cách đồng đều! Nghe rõ chưa?
Chúng tôi moi tung những bao tải vừa thả xuống, chỉ có những thùng đạn M16, M 60, điện trì, gạo sấy, cá khô, và mìn Claymore; tuyệt nhiên không có hai thứ cần thiết là rượu cồn, bông băng và cũng chẳng tìm thấy bao thuốc lá nào cả. Hình như hai thùng lớn đựng đồ nhẹ đã bay ra khỏi rào rơi trên bờ suối Lé.
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 7)
Kỳ trước:Những ngày sau đó, căn cứ Pleime bị siết chặt vây hãm, những đơn vị bạn cứu viện bị chận đánh từ xa. Thiếu lương thực, những chốt tiền đồn đành rút bỏ. Hai chiếc trực thăng của Đại Tá Từ Vấn bay vào tiếp tế cho trại nhưng hai món quà thuốc lá và rượu thì bị lọt ra ngoài vòng đai hàng rào căn cứ.
Nhiều kỳ – kỳ 7
Ðêm ấy gió theo hướng Ðông Tây. Những người trấn thủ mặt Ðông của trại, đều ngửi thấy mùi thuốc lá thơm bay trong gió! Thùng thuốc lá tiếp tế của Ðại Tá Từ Vấn đã rơi ngay giữa đội hình của Trung Ðoàn 48 Sư Ðoàn 320A Cộng Sản Bắc-Việt!
Trong những ngày sau tôi không được thông báo tin tức gì liên quan đến các hoạt động của quân bạn, nhưng trên máy thu thanh thì đài BBC loan báo nhiều đơn vị tác chiến Việt-Nam Cộng-Hòa đang được điều động từ Ban Mê Thuột lên Pleiku để tăng viện cho quân trú phòng ở Pleime.
Tin tức này làm cho tinh thần tôi thêm phấn chấn, vì thấy Tướng Nguyễn Văn Toàn tiếp tục tung thêm quân vào trận địa thì tôi chỉ cần cố gắng gồng mình chịu đựng ít lâu nữa, sứ mạng của Tướng Toàn sẽ hoàn thành, đem chiến thắng đặt trên bàn hội nghị xin thêm viện trợ.
Từ Căn Cứ Hỏa Lực 711 qua tần số của máy truyền tin PRC 74 có một phóng viên chiến trường của nhật báo Trắng Ðen xin gặp tôi để phỏng vấn.
Hôm đó anh phóng viên đã được tận tai nghe người chỉ huy Pleime kể lại chi tiết diễn tiến trong gần hai tuần lễ ác chiến giữa một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng và hai trung đoàn thiện chiến bậc nhất của quân đội Bắc Việt.
Anh ký giả này nài nỉ tôi cho phép anh ta đáp xuống Pleime, ở lại đây cho hết thời gian chiến dịch, hầu có tin tức sốt dẻo hằng ngày gửi về Sài-Gòn.
Tôi cũng rất ngưỡng mộ sự can đảm của anh ký giả, đồng thời đáp lại sự đam mê của người bạn mới quen ấy, tôi vui vẻ nhận lời cho anh vào cùng Biệt Ðộng Quân chung lưng đội pháo, núp đạn, lặn ngụp trong giao thông hào ít lâu cho biết.
Tiếc thay anh bạn nhà báo này chờ cả tuần lễ mà không ai cấp phương tiện cho anh ta vào trại. Cũng thời gian này, mặt trận Thường Ðức bắt đầu bùng nổ. Anh phóng viên báo Trắng Ðen được lệnh bay ra Ðà-Nẵng lấy tin. Ít lâu sau tôi nghe tin anh bạn này đã tử thương. Trực thăng chở anh trên đường vào trại Thường-Ðức đã bị Cộng Quân bắn hạ.
Ngày xưa, trên các mục phân ưu đăng trên báo chí hằng ngày, người ta thường đọc được những tin chia buồn, tiếc thương các quân nhân đền nợ nước.
Lần đầu người ta đọc được lời phân ưu của một Thiếu Tá Biệt Ðộng Quân và toàn thể quân nhân các cấp dưới quyền ông gửi lời thương tiếc một ký giả Nhật Báo Trắng Ðen vừa bỏ mình trên chiến địa.
Chợt một hôm, liên đoàn báo cho tôi hay rằng, trong ngày hôm đó sẽ có một cánh quân của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tiến vào bắt tay với Pleime.
Hôm đó trời nắng và không có trận pháo kích rạng đông như thường nhật của địch quân.
Tôi leo lên chòi canh, đảo mắt quan sát một vòng quanh trại. Hầu như không một thước đất nào không có dấu đạn, đạn cối của ta chen lẫn đạn pháo cối của địch quân. Xác Cộng Quân còn nằm phơi đầy trong rừng lau sậy ngoài rào. Trong gió, vang vang tiếng “Quang quác!…” của loài quạ đen đang gọi bạn.
Xa xa về hướng Ðông Bắc có nhiều cụm khói trắng ngùn ngụt bốc lên, rõ ràng một đơn vị di chuyển bộ đang có mặt trong vùng. Tôi nghĩ đoàn quân đang đi tới là Trung Ðoàn 53 Bộ Binh; có lẽ họ đang đốt lửa để nấu cơm, hay hong khô quần áo.
Họ còn cách tôi chừng ba hay bốn cây số đường chim bay.
Trong máy PRC 25 của tôi bỗng có tiếng quân bạn gọi:
– “Thái Sơn, đây Thanh Dương! Nghe được trả lời?”
Tôi đã được thông báo “Thanh Dương” là danh xưng truyền tin của Thiếu tá Nguyễn Dương Lâm, người chỉ huy hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh đang tiến vào.
Tôi vội trả lời,
– Thái Sơn nghe Thanh Dương!
Thiếu tá Lâm nói:
– Báo cho Cùi 20 hay, kỳ này anh dẫn theo một thằng em Cùi 21 tiếp tay cho chú. Ba anh em mình chung lưng thì không thằng Vi Xi (Việt Cộng) nào địch nổi. Chú Nhẫn 21 cũng là dân Ðại đội B, Thái Sơn có nhớ ra hắn ta không?
Dứt lời anh Lâm cười khà khà vui vẻ. (Cùi=danh từ dùng để gọi những sĩ quan xuất thân trường Võ Bị từ khóa 16 trở về sau).
Tôi cũng cười theo anh:
– Nhớ chứ! Anh ra trường thì chú Nhẫn nhập trường. Anh và chú Nhẫn ở Trung Đội 5, còn tôi ở Trung Đội 6.
Tiếp đó là tiếng Thiếu Tá Cao Mạnh Nhẫn, người chỉ huy Tiểu Đoàn 3/53 đi chung với bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Lâm,
– Thái Sơn ơi! Hồi đó các ông khóa 20 “quần” tụi tôi mệt muốn chết luôn!
Tôi vui vẻ đáp:
– Ðừng than van nữa! Các hung thần khóa 19 cũng quay tụi này như quay dế! Có thế anh em mình mới nên người!
Chúng tôi, ba người đang có mặt trong trận Pleime này cùng xuất thân từ Ðại Ðội B Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị, với ba khóa kế tiếp nhau, Nguyễn Dương Lâm khóa 19, Vương Mộng Long khóa 20 và Cao Mạnh Nhẫn khóa 21.
Chú Nhẫn la oang oang:
– Tôi còn cách niên trưởng chừng ba “click” nữa. Tình hình yên tĩnh như đi nghỉ mát! Hai ngày nay tui tìm hoài mà chẳng thấy thằng Vi Xi nào cả! (Click = Cây số)
Thấy một ông đàn anh và một ông đàn em chuyện trò thực vô tư, hồn nhiên, tôi cũng cảm thấy vững tâm, hy vọng họ sớm bắt tay với đơn vị mình.
Nhìn vào những cụm khói trắng bao phủ một vùng phía xa xa, tôi đoán chắc hai tiểu đoàn của quân bạn đang dừng quân trên vùng bình nguyên Bắc suối Lé. Ðịa thế ở đây là đồng tranh, xen kẽ cỏ lau cùng những cụm tre gai thấp, cách nhau vài chục mét.
Ðất của vùng này rất mềm, có thể dùng tay không mà moi, chỉ một lúc sau đã có cái hố cá nhân. Có điều mạch nước cũng nhiều, hố vừa moi xong, vài phút sau đã đầy nước, đất xung quanh hố sụp xuống, thế là cái hố trở thành một vũng nước.
Nếu phải đánh nhau trong vùng này, cách tốt nhất là ào xuống suối, bám bờ suối mà chiến đấu.
Tôi nghĩ, đoàn quân tăng viện đi lồ lộ thênh thang như thế đã hai ngày mà chưa xảy ra biến cố gì thì có thể địch đã rút lui rồi. Tôi cũng đang cầu mong địch đừng đánh nữa.
Nhưng hôm nay sao tình hình yên ắng quá! Mà tình hình càng yên tĩnh lại càng đáng sợ.
Tôi biết chắc chắn rằng từ mùa Hè năm 1972, ở xứ Cao Nguyên này Sư Ðoàn 320A Việt Cộng là một địch thủ mà bất cứ ai cũng không thể coi thường.
Kỳ này mục đích của Sư Ðoàn 320A là xóa sổ trại Pleime. Pleime còn đứng vững, chưa chắc gì chúng đã chịu bỏ dở mục tiêu nửa chừng.
Tôi nghĩ, nếu bị địch tập kích từ hướng Tây thì hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 chỉ có một con đường thoát hiểm là chạy thẳng về hướng Ðông Nam, chỉ có vùng đó là không có địch.
Tôi định góp ý với hai vị sĩ quan đồng môn, khuyên họ nên cẩn thận đề phòng, nhưng e ngại sẽ đụng chạm tới tự ái của họ.
Tôi nhỏ nhẹ:
– Hai vị nhớ cẩn thận! Nếu có chuyện gì thì gắng giữ hướng hai ngàn bốn trăm ly giác!
Lợi dụng buổi trời trong, tôi dùng ống nhòm để quan sát những vạt rừng phía ngoài xa. Có một chiếc quan sát cơ đang bay vòng vòng trên vùng cách Pleime chừng năm cây số. Có lẽ cái máy bay thám thính này đang yểm trợ cho cánh quân của niên trưởng Nguyễn Dương Lâm.
Ðột nhiên tai tôi nghe
– “Ùm! Ùm! Ùm!…”
Tiếng pháo địch “depart” liên tiếp rộ lên từ biên giới Việt-Miên.
Trong đồn Pleime kẻng báo động khua vang, mọi người chui vào hàm ếch.
Tôi vẫn còn trên chòi canh. Tôi đã thấy những đụn khói đen cuồn cuộn bốc lên trong rừng khói trắng! Những trái đạn đại bác 122 ly nòng dài bay nhanh hơn những viên cối bắn cầu vồng. Khói đen đang bốc lên là do những viên 122 ly vừa chạm đất.
Ðoàn quân bạn đang trên đường tiếp viện cho tôi bắt đầu nếm mùi mưa trái phá!
Trong thời gian dài chừng nửa giờ, ước lượng hàng ngàn quả đạn 122 ly, 105 ly, 120 ly, và 82 ly đã rơi trên ngọn đồi lá thấp chỉ có tre gai và cỏ tranh.
Khi hai đợt pháo tập trung đánh trên khoảng rừng có diện tích chưa đầy hai cây số vuông vừa ngừng, thì tôi bắt đầu nghe vọng lại tiếng súng tay nổ rền.
Cùng lúc đó hàng chục khẩu phòng không nhả đạn nhắm vào chiếc thám sát cơ.
Không rõ chiếc máy bay có bị trúng đạn hay không, mà sau đó tôi không còn thấy bóng dáng nó nữa.
Trong máy PRC 25 tôi nghe Cao Mạnh Nhẫn hoảng hốt:
– Thái Sơn ơi! Nguy quá! Biết làm sao đây?
Tôi gào lên:
– Hai ngàn bốn trăm ly giác! Chạy mau! Hai ngàn bốn trăm ly giác!
Trong ống nghe, tôi thấy Nhẫn lặp lại, y chang, chắc là chú ấy đang ra lệnh cho đơn vị dưới quyền:
– “Hướng hai ngàn tư! Chạy mau!”
Sư Ðoàn 320A Việt Cộng đang thực hành chiến thuật “Bôn tập tập kích” sở trường của họ! Cánh quân đang trên đường tiếp cứu Pleime chưa phải là địch thủ ngang cơ của Sư Ðoàn Cộng-Sản này!
Lúc này Căn Cứ 711 đang bị pháo kích, các pháo thủ mắc bận phản pháo. Pháo binh ngoài Phú Nhơn ở quá xa, với không tới khu vực giao tranh, nên muốn giúp quân bạn, tôi chỉ còn cách dùng khẩu 105 cơ hữu của mình bắn một tuyến dài dọc theo Tỉnh lộ để ngăn địch.
Chờ một hồi lâu, tôi không nghe thêm tiếng nói nào của người đàn em khóa 21 là Cao Mạnh Nhẫn. Tôi cũng không nghe được tiếng nói nào của người niên trưởng khóa 19 là Nguyễn Dương Lâm.
Cho tới ngày chiến dịch tàn, tôi mới biết niên trưởng Nguyễn Dương Lâm đã chết và bị bỏ xác tại chiến trường.
Trong khi đó, cấp chỉ huy của anh Lâm thì đóng quân ở ngoài ngã ba Mỹ Thạch, trên Quốc Lộ 14, cách xa nơi anh Lâm tử trận một đoạn đường dài gần hai mươi cây số!
Chiều hôm đó Pleime lại bị pháo, trận pháo kích dài khoảng một giờ. Không ai ngồi đếm có bao nhiêu trái đạn đã rơi trên đầu chúng tôi, thôi thì cứ báo cáo là hàng trăm trái.
Không lâu sau là trận mưa truyền đơn, kêu gọi Biệt Ðộng Quân buông súng đầu hàng.
Tiếp đó, hướng Tây, nơi những liều Bangalore đã mở ra con đường dẫn tới khu đất trống giữa hai lớp rào cũ và mới hứng chịu đợt xung phong thứ mười hai! Lần này có vài cán binh Việt-Cộng mang theo những tấm ván để làm thang.
Chỉ sau mười phút, đợt xung phong đã bị bẻ gãy vì thang ván của địch không đủ dài, địch rơi xuống đất, dưới đất là bãi mìn của Công Binh.
Có những cán binh Cộng Sản vừa bị bắn ngã, thân mình đè trên một quả mìn, quả mìn nổ, thân xác anh ta liền banh ra thành nhiều mảnh.
Ðứng trên nóc Pháo đài số 5, tôi thấy thấp thoáng bóng người chạy qua, chạy lại trong đám lau sậy nơi khoảng đất trống giữa hai hệ thống hàng rào cũ và mới.
Lúc khẩu đại liên tạm ngừng để thay dây đạn mới, tôi nghe tiếng bọn Việt-Cộng gọi nhau:
– “Ðồng chí Quang! Ðừng lên nữa! Còn rào!”
Cùng tiếng kêu la:
– “Chết tôi! Á! A! A! Mẹ ơi!”
lẫn trong tiếng mìn và lựu đạn gài vừa phát nổ
– “Ùm! Ùm! Ùm! Oành! Oành!Oành!”
Dưới chân pháo đài, đang lúc hứng chí, hai anh xạ thủ phóng lựu M79 của Ðại đội 2/81 vừa bóp cò vừa la oang oang
– “Biệt Ðộng Quân! Sát!” –
– “Biệt Ðộng Quân! Sát!”
Khẩu đại liên 30 trong Pháo đài số 5 lại tiếp tục nổ giòn. Mãi tới khi Trung Úy Song và Thiếu Úy Phước phải gào lên:
– “Thôi bắn! Thôi bắn!” thì tiếng súng mới im.
Hôm đó về phần “đả viện” thì địch đã thành công, nhưng về mặt “công đồn” thì chúng đã thảm bại.
Những ngày sau địch gia tăng pháo kích ban ngày, ban đêm liên tục dùng Bangalore phá rào. Có ít nhất là bốn cửa khẩu có chiều ngang cỡ hai thước đã bị bộc phá của địch mở xuyên qua sáu lớp hàng rào ngoài. Cho tới nay thì sáu lớp rào trong vẫn chưa bị suy suyển.
Vì ngày nào cũng thấy cảnh vật xung quanh, nên vừa phát giác những cụm đất đỏ mới xuất hiện trên mặt đất sát vườn rau, lính gác cổng Bắc biết ngay đó là đường hầm do Ðặc-Công Việt-Cộng vừa tạo thành, nên lập tức nổ súng báo động ngay.
Chỉ vài chục phút sau thì đường hầm này đã bị lấp kín và bị gài vài trái lựu đạn M26.
Cao Nguyên đang giữa mùa mưa, hôm trước trời trong, mây cao, chỉ qua một đêm trời đã âm u xám xịt, với những trận mưa giông, mưa nguồn.
Trong mưa tháng Tám, hàng ngày, trên tiền đồn biên phòng Pleime còn thêm những cơn mưa đạn cối 120 ly, 105 ly, 82 ly.
Ðặc biệt trong chiến dịch này, địch đã sử dụng truyền đơn như một loại vũ khí.
Những quả đạn cối 82 ly nổ cao bung ra từng chùm truyền đơn nhìn như những lọn pháo bông đêm hoa đăng.
Buổi sáng là loạt truyền đơn đầu in những dòng chữ êm ái, bao dung, tình người thắm thiết:
“Hỡi các chiến binh Ngụy Sài-Gòn! Các anh mau mau bỏ súng quay về với nhân dân! Nhân dân đang dang tay chờ đón các anh! Hỡi những người con lạc đường! Hãy quay về với Tổ Quốc về với đồng bào!”
Buổi chiều sau đợt pháo kích hàng trăm viên 122 ly, 120 ly, 105 ly, 82 ly, thì truyền đơn lại mang dòng chữ đọc lên nghe mà ớn:
“Hàng sống! Chống chết! Tất cả Ngụy quân đồn trú phải buông súng đầu hàng ngay! Nếu không, các anh sẽ bị tiêu diệt!”
“Hãy kéo cờ trắng! Mở cổng đồn! Ngồi lại tập trung trước sân cờ chờ Quân Giải Phóng vào tiếp thu! Hàng sống! Chống chết!”
“Tất cả các chiến sĩ đầu hàng sẽ được đối xử tử tế và phong danh hiệu anh hùng! Hãy quay súng bắn chết tên chỉ huy rồi mở cổng trại đầu hàng ngay!”
Mỗi lần pháo truyền đơn, có ít nhất bốn khẩu 82 ly nhả đạn từ hai vị trí chính Bắc và chính Tây. Truyền đơn đã phủ đầy mặt đất từ trung tâm trại, ra tới hàng rào ngoài. Truyền đơn rải khắp nơi, trắng xóa!
Tôi biết có vài người lén cất kín trong túi mấy tờ truyền đơn của địch, nhưng tôi cứ lơ đi như không thấy!
Hầu như đêm nào tôi cũng chỉ chợp mắt được vài chục phút. Ði đâu tôi cũng phải dẫn theo Thiếu Úy Phước và một toán cận vệ.
Tôi không sợ trong đồn có nội tuyến, nhưng tôi sợ những tờ truyền đơn làm tinh thần người lính hoang mang. Cái đói và cái sợ có thể làm cho con người ta mất lòng tin mà làm bậy.
Một buổi tối Thiếu Úy Phước thì thầm:
— Thái Sơn ơi! Có ông Thượng sĩ người Thượng vừa dẫn hai thằng lính chui rào trốn đi rồi!
Ông Thượng sĩ Y Ban Nier và hai anh lính người Kinh của Ðại Đội 1/82 đã theo đường giao thông hào nơi cổng Bắc, chui ra khỏi rào tìm đường ra Quận Phú-Nhơn.
Ba ngày sau toán tuần tra cổng Bắc phát giác xác ông Thượng sĩ Ban và hai anh lính đã bị Việt-Cộng bắn chết ở đâu đó rồi bị kéo về phơi trên con dốc dẫn vào vườn rau để đe dọa những người còn tử thủ trong căn cứ.
Có thể trên đường trốn chạy, toán ba người lính đào ngũ này đã bị Việt-Cộng phát giác rồi bắn chết.
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 8)
Kỳ trước: Hai tiểu đoàn của Trung đoàn 53 Bộ binh tiếp viện cho Pleime đã bị đánh tả tơi. Đả viện thành công, nhưng công đồn thì chưa! Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân dưới tay Thiếu Tá Vương Mộng Long vẫn trụ được và địch bắt đầu tung truyền đơn chiêu dụ đầu hàng lẫn hăm dọa.
Pleime đang trong cơn tuyệt vọng…
Nhiều kỳ – kỳ 8
Mưa kéo dài nhiều ngày, giao thông hào thành những con suối, nước thoát về hai hướng Bắc và Nam, vô tình những đường thoát nước trở thành những con đường hầm trơn bóng chui qua lớp rào kẽm gai. Nơi sâu nhứt có thể cao hơn một đầu, một với của người đứng thẳng. Người từ trong chui ra được thì chắc chắn Việt-Cộng cũng có thể theo đường này mà vào được.
Tôi vội bắt ông Thiếu Úy Hoàng cho người đánh rối từng chùm thép gai rồi thả trên đường hầm, sau đó gài thêm lựu đạn và bẫy sáng để chống Ðặc Công.
Sợ chuyện này làm tinh thần anh em bị dao động, tôi phải ra lệnh cho Trung Úy Minh và ban truyền tin kín miệng.
Ngay sau đó lại xảy ra chuyện toán tuần tra cổng Nam do Binh nhì tên là Thêm dẫn đầu đã ra đi mà không trở về. Có lẽ ba người này đã nhân cơ hội được ra khỏi rào mà chạy trốn luôn.
Thế là từ hôm đó, tôi phải cho viễn thám thay phiên đảm nhiệm công tác tuần tra, thay vì người của các đại đội.
o O o
Giá trị của một người lính…
Từ khi Pleime bị cô lập với thế giới bên ngoài, cứ đúng lúc rạng đông thì kẻng báo động lại khua vang báo cho mọi người biết đã đến giờ chui vào hàm ếch.
Tin A 2 truyền đi cho tôi biết, các đơn vị pháo của Việt Cộng được lệnh pháo hợp đồng vào trại mỗi ngày hai lần, lần đầu diễn ra lúc 6 giờ sáng, giờ Hà-Nội, buổi chiều sẽ đánh hợp đồng vào lúc 6 giờ chiều. Giờ Hà-Nội đi sớm hơn giờ Sài-Gòn một tiếng.
Sáng 16 tháng 8 cũng như mọi ngày, cũng đúng 6 giờ sáng Hà-Nội, nhưng lại là 5 giờ sáng giờ Sài-Gòn, trận pháo rạng đông mở màn. Ðặc biệt là hàng trăm trái cối 120 ly địch sử dụng sáng hôm đó toàn là loại “delay” nổ chậm.
Mỗi lúc địch bắn đạn “delay” tôi đều leo lên lô cốt xem mặt hướng Tây có động tĩnh gì không? Tôi đứng chân trong chân ngoài ở tầng cao nhứt của pháo đài.
Ðất đá bung lên từ chỗ đạn cối chui xuống văng cao hàng chục mét; đất đỏ rơi tung tóe trên nóc nhà, trên sân cờ.
Tôi có hai kho đạn đại bác 105 ly và bốn kho đạn dự trữ đủ loại. Một vài viên cối 120 ly nổ chậm rơi trúng kho đạn số 2, ngoài bờ đất sát bên Câu Lạc Bộ, thế là kho đạn này phát nổ!
Ðạn nhỏ cháy thì kêu “Lép! Bép! Lép! Bép!…”
Ðạn 106 ly thì nổ “Ùng! Ùng!…” rồi bay tít lên cao, lúc rớt xuống gây tiếng gió rít “Xèo! Xèo! Vèo! Vèo!…” rợn tóc gáy.
Sợ mảnh đạn cắt đứt đầu, tôi chui vào hầm truyền tin của Trung Úy Nguyễn Công Minh.
Chuông điện thoại của Ðại Đội 3/82 reo khẩn cấp. Thiếu Úy Nguyễn Văn Hổ, đại Đội phó 3/82 sụt sịt vài giây rồi khóc òa lên:
– Thái Sơn ơi! Anh Việt chết rồi!
Tôi nghe tiếng chú Hổ mà bỗng thấy ù cả hai tai:
– Cái gì? Ai chết? Nói lại đi!
– Dạ, Thiếu Úy Việt bị pháo trúng hầm, anh ấy chết cùng với người lính mang máy PRC 25!
Tôi lội xuống giao thông hào, giao thông hào ngập nước tới thắt lưng. Nước mưa đỏ ngòm và quánh lại như bùn. Ðất sạt lở ở những đoạn giao thông hào trúng đạn nổ chậm đã thành những hố sâu như những cái giếng.
Cái hầm chứa hai thầy trò Thiếu Úy Phạm Ðại Việt và anh Binh 1 Vy Văn Trai, hiệu thính viên máy PRC 25 đã bị một viên 120 ly đánh sập.
Hai thầy trò Việt và Trai nằm chết bên nhau. Hai Biệt Ðộng Quân này chết không dấu vết, họ bị chết tức do sức pháo nổ.
Mắt chú Việt và mắt chú Trai còn mở trừng trừng, tôi vuốt mắt cho chú Việt, rồi vuốt mắt cho chú Trai.
Bốn tháng trước Thiếu Úy Phạm Ðại Việt là đại đội phó của Thiếu Úy Phiến. Ngày Căn Cứ 711 bị địch tràn ngập, Thiếu Úy Phiến chết trên đường rút lui, người mang máy truyền tin của chú Phiến là Binh Nhì Y Don Nier rất buồn và có vẻ mất tinh thần.
Sau khi tôi đề cử Thiếu Úy Phạm Ðại Việt giữ chức đại đội trưởng Ðại Đội 3/82 thì tôi mang Binh nhì Y Don Nier lên bộ chỉ huy tiểu đoàn để mang máy PRC 25 cho tôi.
Binh Nhất Vy Văn Trai được Thiếu Úy Việt cho giữ chức hiệu thính viên đại đội.
Vy Văn Trai còn một người em họ là Vy Văn Trung ở cùng đơn vị. Hai anh em nhà họ Vy là người Nùng, mới tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trong đợt bổ sung quân số cuối tháng Tư 1974 vừa rồi.
Những chiến binh người Nùng, người Thái lúc nào cũng là những cái gương can đảm và thiện chiến bậc nhứt của tiểu đoàn này.
Phạm Ðại Việt và Vy Văn Trai là người thứ 23 và 24 chết còn thấy xác, được đồng đội bọc trong poncho và chôn trong khu đất trống sau nhà bếp của tiểu đoàn.
Như thế là, chỉ trong vòng bốn tháng, Ðại Đội 3/82 đã có hai sĩ quan đại đội trưởng tử trận.
Nhớ lại, sau trận đánh giành giựt Căn Cứ 711 hồi tháng Tư, tôi đã đề nghị thăng cấp trung úy tại mặt trận cho Thiếu Úy Phạm Ðại Việt, nhưng Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 đã không chấp thuận.
Kỳ này không cần chữ ký với lời xác nhận công lao của thượng cấp, người sĩ quan đại đội trưởng giỏi nhất của tôi trong trận này đã đương nhiên được lên trung úy, nhưng là “Cố Trung Úy.”
Ai mà không biết? Với người chỉ huy ngồi trên tàu bay, hay trong hầm trú kiên cố ngoài Pleiku thì “Tử thủ!” dễ òm! Dễ như ta vừa mở miệng tợp cạn một ly rượu cay.
Nhưng ở tiền đồn Pleime thời gian này thì “Tử thủ!” có nghĩa là bất cứ giây phút nào mình cũng sẵn sàng nhắm mắt để đồng ngũ quấn cho mình một chiếc poncho rồi đem thân xác mình chôn trong mảnh đất sau nhà bếp.
Cơ hội được “Tổ Quốc Ghi Ơn” dành cho tất cả mọi người, bất kể đó là Thiếu Tá hiện dịch Vương Mộng Long, Chuẩn Úy trừ bị Phan Quốc Thiều hay Binh Nhì Vy Văn Trung.
Hành trang mang theo của người nằm xuống vỏn vẹn một tấm thẻ bài ghi họ tên, số quân và loại máu. Rồi thời gian đi qua, chỉ có người thân, kẻ thuộc và bạn bè còn nhớ tới mình thôi.
Gần mười năm lăn lộn trên chiến trường, máu tôi đã nhiều lần đổ xuống đất quê hương, thuộc cấp của tôi giờ này có nhiều người còn chôn xác ở Dak Tô, Chư Pa, Sé San, Yaly, Chư Prong.
Anh em chúng tôi chiến đấu và sẵn sàng chết vì dân, vì nước, chúng tôi không chiến đấu vì mong được tiến chức, thăng quan.
Chúng tôi không đến nỗi ngây thơ mà tin vào những câu hứa hẹn suông hay những lời “khích tướng” của thượng cấp.
Chúng tôi quan niệm rằng:
“Giá trị của một người lính không thể căn cứ vào những gì mà họ được cấp trên ban phát cho, mà giá trị đích thực của mỗi chiến binh chính là những gì mà anh ta đã cống hiến cho tổ quốc.”
Bởi vậy, “Đừng đem lon lá luận anh hùng!”
o O o
Sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò!
Có thể nói, thời gian kế tiếp sau khi hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh bị đánh lui thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bước vào giai đoạn “So găng tay đôi” với các trung đoàn chủ lực của Sư Ðoàn 320A Cộng Sản Bắc-Việt.
Nhìn vào, ai cũng thấy màn so găng này chẳng cân xứng chút nào!
Chúng tôi ví như một võ sĩ hạng nhẹ quyết tử với những đối thủ loại siêu nặng.
Giống như một chú tí hon bị những thằng khổng lồ luân phiên tấn công.
Cũng một chiến trường mang tên Pleime, mà chín năm trước đây, liên quân Việt Mỹ phải vất vả lắm mới chiến thắng.
Ngày đó, quân Mỹ Việt được yểm trợ bởi hàng trăm chiến đấu cơ của Hạm Ðội 7, hàng trăm trực thăng võ trang, hàng chục pháo đài bay B52, hàng trăm chiến xa, chưa kể hàng chục nghìn quả đạn pháo đủ loại bắn T.O.T bất cứ chỗ nào. (T.O.T = Time On Target = Bắn từ nhiều vị trí để đạn rơi cùng giờ trên một mục tiêu định trước.)
Gìờ đây, cũng ở Pleime, tôi đang đối diện với một lực lượng địch mạnh hơn nhiều so với những đơn vị địch tham chiến chín năm trước.
Ðịch đông hơn tôi cả chục lần, lại có đủ loại pháo binh nặng, nhẹ, cùng với chiến xa và phòng không tối tân.
Trong khi đó, tôi chỉ có hai khẩu 105 ly sắp hết đạn, bốn khẩu 155 ly của quân bạn ở tít mù xa, yểm trợ hết tầm mà vẫn còn cách Pleime gần năm cây số!
Không yểm lại quá giới hạn. Ngày nào tôi cũng gửi đơn xin không quân, nhưng chẳng thấy chiếc máy bay nào bén mảng trên vùng.
Chỉ tới đêm mới nghe “Ì ầm! Ì ầm!” vọng về do tiếng bom nổ trên những box 1x1km đâu đó trong vùng Tây Bắc Pleime.
Tôi biết tường tận vị trí nào địch có thể tập trung, khu vực nào địch sẽ dàn quân, nên tôi đã gửi đi nhiều đơn xin oanh tạc chiến lược ô vuông 1x1km. Nhưng những đơn này đều bị bác bỏ.
Muốn đánh những phi tuần chiến lược, thì yêu cầu của các đơn vị cấp lữ đoàn trở lên mới được cứu xét, còn đơn xin của các cấp thấp như liên đoàn hay tiểu đoàn không có giá trị.
Tôi đã dùng tới gần một ngàn viên cối 60 ly để đánh rào cản quanh trại Pleime này kể từ ngày đầu bị cô lập.
Trong hầm chứa đạn cối 60 ly của Mỹ trước đây là những thùng gỗ chất cao nghều nghệu, nay chỉ còn vài chục thùng. Hai khẩu súng cối 60 ly đã gãy kim hỏa.
Tôi đang dùng hai khẩu còn lại để sống còn. Nếu địch tấn công thì cứ yếu tố 45 độ cao, tầm xa 150 mét thuốc bồi không (0), góc quay một vòng một trái, bắn cầm chừng.
Hai khẩu súng 106 ly và 81 ly sắp hết đạn nên được đặt trong tình trạng cố định ưu tiên nhắm vào hai cao điểm 509 và Chư Hô, sẵn sàng đánh trả mỗi khi 75 ly và 12.7 ly của địch ló mòi.
Trường hợp bất đắc dĩ tôi mới sử dụng cối 81 ly để hỗ trợ cho các cuộc phản công.
Trên máy truyền tin, không còn ai hỏi thăm chúng tôi nữa, có lẽ cấp chỉ huy của chúng tôi đã mệt mỏi lắm rồi?
Tôi nghĩ rằng, mọi nỗ lực tiếp cứu cho tôi đã bị đình chỉ. Giờ này tôi chỉ trông vào chính sức mình, kéo dài được ngày nào hay ngày ấy. Chúng tôi bước vào giai đoạn chiến đấu trong tuyệt vọng.
Mưa hoài, nên nước uống lúc nào cũng dư thừa, chưa kể tới cái hầm chứa nước mà tôi đã cho xây giữa sân, có thể cung cấp nước cho toàn đơn vị trong thời gian ba, bốn tháng. Chúng tôi không bị khát, nhưng bắt đầu bị đói.
Kho gạo cháy rồi, để tiết kiệm, chúng tôi bắt đầu ăn cháo với rau tàu bay luộc. Ðêm nào cũng có tiếng bẫy sập. Các anh Biệt Ðộng Quân đang thèm thịt, nên có vẻ rất niềm nở hân hoan đón chào các chú chuột đồng bụng cũng xẹp lép vì chẳng có gì để ăn.
Giao thông hào ngập nước, nhưng muốn sống, những người lính biên phòng đành ngâm mình trong giao thông hào để tránh pháo.
Tôi thấy da chân, da đùi, da bụng của tôi như đang rữa ra, như lớp bánh tráng mỏng bị thấm nước.
Ban ngày mắc bận đánh nhau, trầm mình trong nước, nên quên đi cảm giác khó chịu; ban đêm sau khi thay cái quần lót, mới thấy ngứa ngáy tới điên khùng luôn!
Ðêm đêm, khi những đợt pháo kích của địch tạm ngưng, tôi thường vào trong bộ chỉ huy tiểu đoàn ghé thăm thương binh. Khu vực xung quanh trung tâm hành quân và bệnh xá không có giao thông hào nên không bị ngập nước.
Mặc dù những người bị thương nhẹ đã tự nguyện ra trú ẩn trong các pháo đài, trong hầm vẫn còn cả chục thương binh nặng nằm ngồi la liệt trên sàn đất.
Thuộc cấp của tôi, người gãy tay, người thủng bụng, người đui mắt, đang chờ tôi vào thăm.
Kho gạo và kho thuốc bị cháy, hết thuốc, hết rượu cồn tẩy trùng. Nhiều vết thương đã có dòi. Trung sĩ Chiến Quân Y phải lấy nước đun sôi để nguội thay rượu cồn rửa vết thương cho đồng đội.
Tôi tiếp tay Y tá Chiến rửa vết thương cho một anh lính bị thương mù hai mắt.
Tôi nghe anh thương binh mù thút thít:
– Cám ơn Thái Sơn!
Những dòng nước mắt pha với máu tuôn xuống má anh ta, làm ướt mu bàn tay tôi…
Người lính tiếp tục khóc:
– Xin lỗi Thái Sơn, em bị thương rồi! Em không còn thấy đường để bắn! Em không làm được gì có thể giúp sức cho Thái Sơn giữ đồn nữa rồi. Thái Sơn đừng trách em nhé!
Tôi không ngờ trong hoàn cảnh ấy tai tôi lại được nghe câu nói đó từ miệng một phế binh. Tôi dịu giọng an ủi người em:
– Em gắng chịu đau! Rồi sẽ có trực thăng tải thương cho em! Em yên tâm! Mình sẽ giữ được đồn mà! Việt-Cộng không làm gì được mình đâu! Thái Sơn còn sống thì Pleime sẽ không thể mất! Nếu như anh em mình không giữ được Pleime thì chúng mình sẽ chết theo Pleime!
Thời gian mà Tướng Tư lệnh Quân Ðoàn II quy định cho tôi đứng vững đã vượt quá, tôi có thể bỏ đồn nếu thấy không thể kéo dài sự chịu đựng, nhưng tôi không thể làm vậy.
Tôi đã không nghe lệnh Tướng Toàn, vì làm như thế, chỉ những quân nhân lành lặn hy vọng sống sót. Tôi còn phải nghĩ tới những thương binh. Từ Pleime ra tới Phú Nhơn đường xa gần hai chục cây số, lại bị địch chốt giữ. Nếu phải rút chạy, trên đường đi, chắc chắn sẽ phải đánh nhau.
Trong tình thế đó, làm sao tôi có thể mang vác theo mình gần hai chục đứa em đui mù, què quặt? Chẳng lẽ đành lòng bỏ chúng nó mà chạy lấy thân? Ðể rồi, nếu thoát chết kỳ này cũng mãi mang trong lòng một vết thương.
Chi bằng anh em ta cứ liều thân, sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò!
Tôi nghĩ trời đã an bài sẵn là số mệnh của tôi, sống hay chết đều tùy theo vận mệnh của cái tiền đồn mang tên Pleime này!
Hôm sau trời mưa như bão, trong hầm chỉ huy, nước lên tới bụng, tôi lấy một cuộn băng mới tinh, đưa vào máy cassette, ghi lại những lời trăn trối của 5 thày trò có mặt lúc đó. Cuộn băng ghi lại những lời sau:
1) Tôi, Thiếu tá hiện dịch Vương Mộng Long Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
2) Tôi, Trung Úy trừ bị Nguyễn Công Minh sĩ quan Truyền Tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
3) Tôi, Thiếu Úy trừ bị Trần Văn Phước trưởng Ban 2 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
4) Tôi, Trung Sĩ Nguyễn Chi trưởng toán Viễn Thám 823 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
5) Tôi, Binh Nhì Y Don Nier hiệu thính viên của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
Cuộn băng ghi âm này tồn tại cho tới ngày Việt-Cộng tràn ngập thành phố Ban Mê Thuột thì gia đình tôi mới thiêu hủy nó đi.
(xem tiếp kỳ tới)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 9)
Kỳ trước: Lương thực và đạn dược cạn kiệt, nhưng những người lính vẫn tiếp tục chiến đấu, không phải vì muốn thăng quan tiến chức, không phải vì vinh quang, mà chỉ vì những chiến sĩ còn lại muốn sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò. Người lính bị thương mù cả đôi mắt cũng đã khóc với Thái Sơn vì không còn thấy đường để bắn.
Nhiều kỳ – kỳ 9
Màn đọ sức sau cùng…
Trong lúc tôi đang lo thiếu cơm gạo, thiếu thuốc men thì tin tức A 2 lại cho biết một đơn vị phiên hiệu là Trung Ðoàn E 26 (?) của Việt-Cộng đã được điều động vào vùng.
Tôi nhớ nằm lòng tên các đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên của Cộng-Sản hiện diện trong lãnh thổ Cao Nguyên Vùng 2, kể cả sở trường, sở đoản của chúng.
Thời gian này ở Cao Nguyên, Mặt Trận B3 vừa nâng cấp cho Trung Ðoàn 470 Vận Tải thành Sư Ðoàn 470 Vận Tải, đồng thời thành lập thêm hai trung đoàn mới mang tên E 20 và E 26. Thực tế, cho tới ngày hết chiến tranh, hai trung đoàn mang tên E 20 và E 26 vẫn chưa thành hình.
Theo tôi thì đơn vị địch được đưa vào trận phải là Trung Ðoàn E 25 trực thuộc Mặt Trận B3.
Trung Ðoàn E 25 của Mặt Trận B3 này được thành lập cuối năm 1972 với cán bộ khung là Ðoàn 25 Xâm Nhập.
Ðịa bàn hoạt động của E 25 là vùng Nam Pleime trong khu vực Tiều Teo lãnh thổ của quận lỵ Buôn Hô tỉnh Dắk Lắk Việt-Nam Cộng-Hòa. Chính trung đoàn Cộng-Sản này đã đánh chiếm Căn Cứ An Tân (Tiêu Atar) và đồn Ðịa Phương Quân Ea Súp thời gian trước đây.
Các Trung Ðoàn E 64 và E 48 của Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đã bị tổn thất quá nặng sau nhiều ngày quần thảo với “Thằng Hai Nâu” (Việt Cộng gọi Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là Thằng Hai Nâu).
Lúc này, cả Thằng Hai Nâu và những trung đoàn trực thuộc Sư Ðoàn 320A đều ở vào tình trạng của các võ sĩ đã ngất ngư, chỉ muốn nằm xuống sàn đài mà nghỉ, mà thở.
Nhưng ai cũng biết, trên võ đài thì kẻ đứng vững sau cùng mới là người chiến thắng.
Vì thế mà, Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản phải cầu viện tới E 25 của Mặt Trận B3.
Ngày xảy ra cuộc chạm trán lần đầu với E 25, tôi xin được hai phi tuần yểm trợ tiếp cận.
Trước khi A 37 vào vùng, tôi sử dụng tối đa hỏa lực cối 60 và 81 ly bao trùm triền đồi hướng Tây. Kế đó, tôi tập trung toàn bộ vũ khí bắn thẳng tưới đạn theo hai hướng Tây Bắc và Tây Nam đan nhau như rẻ quạt trong một thời gian suốt hai giờ đồng hồ.
Tới trưa hôm đó mới thấy bóng dáng chiếc Thám Thính Cơ O2 trên vùng trời Ðông Bắc.
Tôi nghe trong máy không lục:
– Thái Sơn đây Bắc Ðẩu! Cho mục tiêu đi!
– Hướng bốn ngàn tám trăm ly giác! Ðánh theo chiều Bắc Nam cách hàng rào hai trăm mét!
– Okay!
Chiếc trinh sát cơ chúc xuống,
– “Bục! Bùng!”
Một trái khói trắng được đánh dấu trong khu rừng hướng Tây.
Khói lên, hai cánh chim sắt sà xuống,
– “Ùm! Ùm! Ùm!”
Bom nổ!
Sức bom làm đất đá văng lên cao, phủ kín một vùng rừng cây xanh đàng xa.
Bất ngờ, ngay sau đó, mắt tôi hoa lên, vì thấy trên không bỗng choáng ngợp, chớp nhóa như hoa đăng thăng thiên do đạn phòng không của địch.
Ðạn 37 ly và 100 ly:
– “Bùng! Bùng!Bục! Bục!”
Giòn giã đua nhau nở kín một góc trời!
Hai cánh chim sắt A 37 và cánh diều O2 biến nhanh về hướng Bắc.
Tôi vừa được yểm trợ một phi tuần, còn phi tuần thứ nhì thì bị đình chỉ.
Trận chiến dằng dai chừng hai giờ sau thì địch rút chạy. May mắn là quân ta không có ai bị thương. Ðịch chết phơi thây trên hàng rào nhiều lắm, nhưng tôi không màng tới chuyện thu nhặt chiến lợi phẩm. Mạng người là quý, bắt anh em chui vào hàng rào đầy mìn và lựu đạn thu gom mấy cây súng gãy để làm gì?
Hai ngày sau E 25 lại dẫn thân vào con đường tự vẫn bằng cách theo vết cũ của E 64/320A, cứ lừng lững hàng ngang chạy lên đồi bằng con dốc Bangalore đã mở sẵn cách đây gần nửa tháng.
Kỳ này vũ khí công phá pháo đài và nhà cửa loại B40, B41 được địch sử dụng tối đa, mục tiêu của chúng là chiếm cho được hai Pháo đài số 4 hướng Tây Nam và số 5 hướng chính Tây.
Súng vừa nổ thì hai khẩu 105 ly đã bắn liên tục, chặn địch quân từ hướng Bắc và hướng Tây.
Với quyết tâm đánh cho địch một trận phải tởn tới già, nên từ sáng sớm, tôi đã cho Thiếu Úy Phạm Văn Thủy đem quân bố trí ngoài rào, nơi cuối phi đạo hướng Tây Nam của trại.
Ðợi khi địch chạy theo nhau ào lên Pháo Đài số 4 thì quân ta nổ súng.
Ðây có lẽ là trận đánh đẹp nhất đời chinh chiến của chàng thư sinh Phạm Văn Thủy.
Mũi dùi hướng Nam của E 25 bị cầm chân suốt hai giờ đồng hồ trong một khu vực có thế đất lòng chảo, muốn tiến không được, muốn lui cũng không xong!
Thời gian này Pháo đài số 5 hứng chịu không biết bao nhiêu là đạn B40, B41 của địch.
Hình như khẩu đại liên 30 trên Pháo đài số 5 đã không còn hoạt động, nên tôi không nghe tiếng súng liên thanh tràng dài, chỉ thấy tiếng M-16 của súng cá nhân từng đợt phát ra từ đây.
Những tiếng “Xèo! Xèo! Oành! Oành!” rộ lên từng đợt như những cơn gió giật trong trận bão.
Ðạn cứ vèo vèo, theo nhau bay vòng cầu xuống sân cờ. Dây treo lá quốc kỳ bị đứt, lá cờ chao qua chao lại trong bụi mù.
Hầm trú của tôi bị B40 bắn bay một góc, khẩu đại liên M60 của chú Yang bị gãy càng.
Trong lúc tình hình lộn xộn, tôi sợ địch dùng Bangalore mở khẩu chiếm Pháo đài số 5 thì chúng có thể tràn vào sân cờ.
Tôi leo lên hố cá nhân, rồi dùng hết sức mình ném liên tiếp năm, sáu trái lựu đạn cay ra hàng rào, hy vọng khói cay sẽ gây khó dễ cho bọn điên rồ đang ào lên.
Ðồng thời tôi kêu toán viễn thám của chú Nguyễn Chi đem một khẩu M-60 theo giao thông hào lên tiếp cứu cho Pháo đài số 5.
Quả nhiên khói cay đã khiến cho quân xung phong của địch bị dội ngược. Ngoài rào im tiếng súng!
Chờ một hồi, không thấy B40, B41 bay vào nữa, tôi đi một vòng kiểm soát trận địa thì thấy khẩu đại liên 30 trên nóc Pháo đài 5 ngã chỏng gọng, anh xạ thủ bị gãy tay trái, anh phụ xạ thủ bị một mảnh B40 ghim vào trán, mặt đầy máu me. Hai chú lính này tay ôm lựu đạn ngồi dưới giao thông hào. Trong pháo đài có bốn anh lính vẫn còn bình tĩnh trấn giữ hai lỗ châu mai.
Trận xung phong này địch nhắm ngay tuyến phòng thủ ngoài cùng của Ðại Đội 2/81. May mắn là không có ai chết.
Trong số gần chục người bị thương của Ðại Đội 2/81 có ông đại đội trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Song.
Khói súng vừa tan, chú Song đã bò tới hầm trú của tôi cười hì hì:
– Chút xíu nữa là em bỏ mạng sa trường rồi ông thầy ơi!
Thấy cái đầu chú Song quấn ba bốn lớp băng trắng mà máu đỏ còn chảy ròng ròng, tôi ái ngại:
– Sao không nằm nghỉ mà bò sang đây làm gì?
– Thì em sang thăm coi ông thầy có bình an không. Em thấy hầm của ông thầy trúng năm sáu trái B40, em lo quá!
Lúc đó lá quốc kỳ chỉ còn treo trên một đoạn dây dài chừng hai mét, quay quay trong gió. Tôi định gọi Hạ sĩ Ba thay sợi dây mới cho lá cờ thì Trung Úy Song đề nghị:
– Mình hạ cái cột cờ xuống đi Thái Sơn! Lá cờ cao quá, trở thành mục tiêu cho tụi nó pháo. Hầm của tui và của Thái Sơn nằm sát trụ cờ, dễ chết quá!
Tôi cười trấn an chú Song:
– Mình sống chết là vì lá cờ này, không thể hạ nó xuống được! Lá cờ còn bay chứng tỏ chúng ta còn hiện diện, còn chiến đấu. Với lại, tụi Việt-Cộng dư biết, xưa nay xung quanh sân cờ là khu trống trải không có công sự phòng thủ nào. Chỗ này hóa ra là nơi an toàn nhất!
Sau khi nghe tôi giải thích, anh sĩ quan đàn em của tôi bèn gọi Thiếu Úy Phước giúp sức hạ cái cột cờ xuống, thay sợi dây mới, rồi hè nhau dựng cờ lên.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ lại tiếp tục phần phật bay trong gió một cách ngạo nghễ và đầy thách thức.
Lúc này quân của Thiếu Úy Phạm Văn Thủy cũng vừa trở về tuyến phòng thủ nơi cổng Nam. Thấy mặt ông đại đội trưởng 4/82 đỏ gay tôi thắc mắc:
– Làm gì mà nước mắt nước mũi tèm lem vậy?
– Úi cha! Tụi nó đánh tui bằng hơi cay Thái Sơn ơi!
Tôi bật cười:
– Lựu đạn cay của mình đó!
Nghe tôi nói, chú Thủy mới ngẩn người:
– Hèn chi tui thấy tụi nó cắm đầu chạy, rồi tui mới thấy mắt mũi cay cay!
Mỗi ngày, cứ cách ba tiếng đồng hồ, tôi lại gửi một toán quân bí mật tuần tra mặt Tây Pleime. Từ Pháo đài 4 nơi góc trại hướng Tây Nam tới Pháo đài 6 ở góc trại Tây Bắc, tôi đánh dấu bốn hỏa tập: T1, T2, T3, T4 dự trù cho súng cối 60 ly.
Toán tuần tra chỉ cần báo cáo địch đang ở vị trí nào, vài phút sau tôi đã có mười trái cối cho hỏa tập đó ngay.
Một hôm toán tuần tra của Binh 1 Yang báo cáo:
- Tango 4! Ðông lắm! (Tango 4 = Target 4 = Mục tiêu T4)
Hỏa tập T4 nằm về hướng Pháo đài 6, trách nhiệm của Thiếu Úy Hổ.
Tôi điện thoại cho chú Hổ:
- T4 mười quả!
Khẩu 60 ly của Ðại Đội 3/82 chưa phóng đi được quả đạn nào thì tôi đã nghe tiếng B 40 nổ
— “Oành! Oành! Oành!…”
Pháo đài số 6 là nơi yếu nhất của Pleime. Pháo đài này nằm về hướng Tây của cổng chính, ngay góc của trại, sát vườn rau. Bên kia vườn rau là bìa rừng có những tảng đá lớn. Từ bìa rừng, địch có thể núp sau tường đá, bắn ta mà không sợ đạn bắn thẳng của ta.
Thời gian Thiếu úy Việt còn sống, Việt đã chuẩn bị sẵn ba người chuyên viên M79 bắn vòng cầu để chế ngự khu rừng này. Không rõ Thiếu úy Hổ có khả năng đó hay không?
Tôi lủi xuống giao thông hào rồi “rẽ nước” phóng về Pháo đài số 6, theo sát sau lưng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Phước và toán viễn thám của Mom Sol.
Tôi chui vào pháo đài đúng lúc cái chòi gác có mái tôn trên nóc lô cốt bị B 40 đánh sập.
Khẩu đại liên 30 bắn đã đỏ nòng, mà B40 vẫn còn bay “Xèo! Xèo! Xèo! Oành! Oành! Oành!” bên vách xi măng.
Ông Chuẩn úy (tôi không nhớ là ông Bảo hay ông Thiều) luồn tay ra khỏi lỗ châu mai thảy liên tiếp hai trái lựu đạn khói cay. Mùa này gió thổi liên tục từ Ðông sang Tây, các pháo đài ở hướng Tây đều thủ sẵn một thùng lựu đạn loại này.
Dưới giao thông hào, tôi thấy ba ông lính đang ôm M79 núp trong hàm ếch. Tôi hét lên:
– Không bắn mà ngồi đây chờ chết sao?
Ba ông xạ thủ nghe tiếng tôi quát mới hết run, chui ra khỏi hầm, leo lên hố cá nhân.
— “Binh! Binh! Binh!…”
Ba viên M79 bắn lên trời, hai viên rơi trên đầu địch, nổ “Ùm! Ùm!” bên kia suối, còn viên thứ ba thì rơi ngay trên đầu… quân ta, nổ một tiếng “Oành!” bụi đất mù mịt!
Hai ông lính Thượng bắn giỏi hơn ông lính Kinh; góc bắn của hai ông Thượng chếch về hướng Bắc, còn ông lính Kinh thì bắn thẳng lên trời, đạn rơi ngay đỉnh pháo đài!
Chú Phước vung tay bợp tai ông lính người Kinh hai cái rồi xì nẹt:
– Ð. M. Cái đồ chết nhát!
Ông xạ thủ người Kinh sợ quá quay súng về hướng Bắc bóp cò, bắn đại một viên.
Thấy thế Thiếu Úy Phước cũng phải phì cười. Phước chụp tay ông lính Kinh giơ lên cỡ 60 độ cao rồi nói:
– Ông nội ơi! Ông bắn cao cỡ này là được rồi! Ông nội ơi!
Ðợt tấn công bằng B40 chợt ngừng. Tình hình yên trong khoảng thời gian cỡ nửa giờ thì trong hầm, qua lỗ châu mai, tôi thấy những vật tròn tròn như những trái túc cầu màu trắng di động lẫn trong đám cỏ lau. Tới khi đại liên đốn gãy những thân lau sậy thì lòi ra vài cái xác te tua vì trúng quá nhiều đạn. Hóa ra bọn này đang đội những cái túi nylon phòng hơi ngạt để tiến lên.
Kỳ này chúng tôi không nghe những tiếng hô “Xung phong!” chỉ vì tất cả bọn cán binh này đều bịt kín đầu bằng bao nhựa, mũi thì nhét bông gòn tẩm thuốc giải độc, không nói năng, la hét được.
Những cái đầu bịt bao nylon tiếp tục bị bắn hạ. Ðịch lại chết đè lên nhau trên vạt đất đầy cỏ tranh và lau sậy. Ngoài rào là một vòng cung đạn cối 60 ly tiếp tục nổ đều đều.
Thấy những cán binh Việt-Cộng đầu trùm bao nylon, tôi nhớ lại ngày Căn cứ 711 bị địch tấn công bằng hơi ngạt hóa học cách nay bốn tháng, tôi vội vàng ra lệnh cho toàn thể anh em chuẩn bị mặt nạ sẵn sàng, khi nào thấy thủ pháo địch bốc khói màu vàng thì lập tức đội mặt nạ ngay.
Khổ một điều là nếu đứng dưới mưa, mang mặt nạ thì chẳng khác chi một người mù, nước mưa làm cho hai mắt kính của mặt nạ nhòe nhoẹt, không thấy cảnh vật trước mặt, làm sao mà bắn nhau?
Cũng may suốt thời gian bị vây hãm, tôi không thấy hai thứ vũ khí mà tôi e ngại nhất là hỏa tiễn AT3 và thủ pháo chứa hơi hóa học giết người màu vàng.
Chừng một giờ sau kẻng báo động khua vang, quân trú phòng lại rời hố cá nhân, ào xuống giao thông hào, chui vào hàm ếch vì đạn 120 ly, 105 ly, 82 ly của địch bắt đầu rơi. Trận pháo này là dấu hiệu chấm dứt đợt xung phong.
Gần một tháng trời cứ trèo lên, nhảy xuống theo nhịp đạn pháo cối nổ, chúng tôi có cảm tưởng như mình còn khéo hơn những ông lính đảm nhận công tác diễn tập trong các quân trường.
Thời gian này hình như Trung Ðoàn 64/320A được điều động về hướng ngã ba làng Plei Xome, vùng Nam Căn Cứ 711 để ngăn chặn quân tăng viện. Tôi cũng không nghe thêm tin tức gì của Trung Ðoàn 48/320A; không biết đơn vị này còn chốt giữ vùng Ðông Pleime hay đã di chuyển đi nơi khác rồi.
Tình hình tạm yên vài ngày, cho tới một buổi trưa, Trung Tá Hoàng Kim Thanh gọi tôi vào đầu máy:
– Báo cho chú biết có đại ca Anh Ðào dẫn Con Ó 45 và mấy chục con cua sắt vào tiếp viện cho chú đó!
(Con Ó 45 =Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh)
Tôi buột miệng:
– Thằng nào láo xược dám dùng danh hiệu “Anh Ðào” vậy?
Sở dĩ tôi phản ứng một cách lỗ mãng và phẫn nộ như vậy chỉ vì cái tên “Anh Ðào” chính là ám danh đàm thoại của Cố Thiếu tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, nay ai đó ở Sư Ðoàn 23 mà lấy tên “Anh Ðào” làm danh hiệu thì quả là quá vô lễ, hỗn hào.
Ðầu dây bên kia, người xưng là “Anh Ðào” đã nghe tiếng tôi, nên ông ta vội phân bua:
– Chắc chú em biết danh hiệu “Anh Ðào” là của ai rồi. Tôi cũng là một thuộc cấp của Anh Ðào, tôi lấy ám danh đàm thoại là “Anh Ðào” cũng là để tưởng nhớ người chỉ huy đáng kính của chúng ta mà thôi! Chú em đừng hiểu lầm!
Tôi bỏ ra khỏi hầm hành quân, không thèm nói thêm câu nào nữa với ông đại tá bộ binh, người chỉ huy đoàn quân đang vào tiếp viện cho tôi.
Sau này, anh Thanh có cho tôi biết ông “Anh Ðào” Phùng Văn Quang, Ðại tá Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45 Bộ Binh còn giận tôi lắm.
Mặt trận hướng Bắc có vẻ bùng nổ trở lại, súng nổ suốt ngày. Pháo binh từ Phú Nhơn dành ưu tiên cho các cánh quân bộ binh đang chạm địch, nên yêu cầu đánh chặn thường nhật của tôi bị từ chối.
Chiều 29 tháng 8 một tiếng nổ “Ùm!” âm vang rừng núi. Trên bờ Tây của con suối cắt ngang đường xe be dưới chân tiền đồn Bắc có bốn quả mìn chống chiến xa.
(còn tiếp)
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 10)
Kỳ trước: Các trung đoàn của Sư Đoàn 320A Việt cộng đang dồn toàn lực để san bằng căn cứ Pleime. Các đợt tiền pháo hậu xung tới tấp của địch không làm hao mòn ý chí chiến đấu của người lính TĐ 82 BĐQ, những tay súng đã chấp nhận cái chết.
Trung Đoàn 45 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh VNCH đang trên đường cứu viện.
Nhiều kỳ – kỳ 10
Ðể đánh lừa địch, tôi cho đặt một quả mìn chống chiến xa dưới một cục đá mỏng, trên cục đá là một lưỡi xẻng rỉ sét. Máy rà mìn sẽ reo lên khi rà sát mặt đất có lưỡi xẻng và quả mìn. Ðịch thấy cái lưỡi xẻng nhưng không ngờ dưới đó có một cục đá đè trên quả mìn! Chúng sẽ ơ hờ bỏ qua, rồi tiếp tục đi tới, lại thấy một mảnh kim loại đè trên cục đá, chúng không nghĩ dưới cục đá còn có quả mìn…
Tôi leo lên chòi canh, mắt tôi nhìn không chớp: Một cột khói đen kịt cuồn cuộn dâng lên, cùng lúc những tiếng “Bùng! Bùng! Lách! Cách!…” do đạn cháy nổ trong chiếc xe tank mới cán mìn!
Tôi đứng lặng người lo lắng:
“Vậy là K-16 Tank/xe Tăng tham chiến! Chắc phen này mình tiêu tùng rồi!”
K16 Tank là tiểu đoàn xe tank T54 trực thuộc Trung Ðoàn E 40 Pháo của Mặt Trận B3.
Trung Ðoàn E 40 Pháo là đơn vị yểm trợ hỏa lực trực tiếp của địch trong các chiến dịch lớn trên toàn lãnh thổ Vùng 2. Thời gian này Trung Ðoàn E 40 Pháo đang trú quân trong thung lũng Ia Drang. Nếu Tiểu Ðoàn K-16 Tank này nhập trận thì chúng tôi nguy to.
Tôi có hai Box 1×1 kilomet dự trù sẵn sàng cho pháo binh chiến lược 175 ly đánh bất cứ lúc nào.
Hỏa tập thứ nhất nằm cách chân tiền đồn Bắc, hai cây số, phủ trùm cả cái cống mà chiếc tank địch bị vướng mìn hồi chiều.
Hỏa tập thứ nhì nằm trên con đường xe be hướng Tây. Nay là lúc tôi dùng tới hai hỏa tập dự trù này.
Lần đầu được nghe đại bác 175 ly yểm trợ, tôi có cảm tưởng như thời kỳ tháng 8 năm 1972, đứng trong giao thông hào ở trại Ðức Cơ chứng kiến pháo đài bay B 52 của Mỹ đánh những Box 1×3 kilomet cách rào trại chỉ hơn ba cây số.
Hai bên cổng Bắc đã có mười mấy cây M72 hờm sẵn; nòng súng đã được kéo thành ống phóng, bấm nút là đạn bay đi.
Khẩu 105 ly cổng Bắc không dùng để bắn những mũi tên sắt nữa, mà thay vào là những viên đạn chống tank với đầu nổ sơn đen.
Tôi có một khẩu súng SKZ 57 ly chống chiến xa, nhưng từ ngày đầu chiến dịch, khẩu súng này đã gãy nòng vì bị pháo kích.
Khuya 29 tháng 8 tôi ra mật lệnh cho một toán viễn thám sẵn sàng ở cổng Nam Pleime. Nếu chiến xa Việt-Cộng đè sập hết hàng rào, vào càn quét trên căn cứ thì toán sẽ mở toang cổng sau, quân ta sẽ vừa đánh vừa lui ra hướng sân bay.
Riêng tôi, chú Minh và chú Phước sẽ cố thủ trong lô cốt chứa thương binh.
Minh và Phước đã hứa sẽ cùng tôi chết bên nhau trên đất Pleime, sẽ không chạy, sẽ không đầu hàng.
Tôi lo lắng từng giờ, chờ những chiếc tank T-54 xuất hiện nơi cổng Bắc.
Ðịa thế của Trại Pleime đóng một vai trò rất quan trọng trong công việc phòng thủ.
Doanh trại của đơn vị trú phòng nằm gọn lỏn trong vị thế lõm của cái lòng chảo giữa ngọn đồi có cao độ 403 mét. Các pháo đài chỉ cao hơn mặt đất chừng hai gang tay, thấp hơn chiều cao của cỏ tranh, do đó Việt-Cộng không phân biệt được đâu là pháo đài, đâu là tường đất để dùng đại bác mà trực xạ.
Hai mặt Nam và Ðông của Trại Pleime chưa hứng chịu lần tấn công nào, có lẽ do địa thế không thuận lợi. Mặt Ðông thì đất dốc đứng, không thể xung phong nhanh được, còn mặt Nam lại quá trống trải, bộ binh và tank/xe tăng rất dễ bị bắn hạ trước khi áp sát hàng rào phòng thủ.
Nếu tank (xe tăng) địch mà tiến vào từ hướng Nam thì họ sẽ chết chắc! Sân bay Pleime chứa hàng trăm quả mìn, bộ binh dò đường vừa ló dạng đã chết bởi đạn Beehive của Trung Úy Như. Tôi còn cầu trời xui khiến cho chúng đưa tank/tăng vào hướng Nam để tôi tiễn đưa chúng về trình diện Diêm Vương.
Ðêm xuống, trong máy truyền tin của tôi có tiếng người Miền Bắc chỉ vỏn vẹn một câu chứa đầy sự đe dọa:
— “Thằng cứng đầu! Tao sẽ san bằng cái đồn của mày!”
Tôi đã nhận ra giọng nói quen của người phía bên kia, nên từ tốn trả lời:
– Tôi nghĩ rằng, người cầm quân tất nhiên phải cân nhắc thiệt, hơn. Chắc anh đã biết, muốn giết bốn trăm người dưới quyền tôi thì ít ra anh cũng phải chết một hai nghìn người!
Lùa hai nghìn người vào chỗ chết để đánh đổi một cái đồn bé tí teo có phải là hành động khôn ngoan không?
Chúng ta có ân oán với nhau, nhưng không thể vì thế mà coi rẻ hàng nghìn sinh mạng của những người dưới quyền mình.
Chờ khoảng năm phút sau không thấy người kia nói gì thêm, tôi bèn cúp máy.
Bốn tháng trước tôi và người này đã chửi nhau một lần vào ngày 14 tháng Tư năm 1974. Ngày đó ở Căn Cứ 711, Trung Ðoàn 64/320A của ông ta bị tôi đánh tan hoang, còn tôi cũng bị cháy 12 chiếc chiến xa. Tới tối thì ông ta vào máy kêu gọi tôi đầu hàng.
Tôi lớn tiếng réo tổ tiên, ông nội, bà ngoại ông ta ra mà chửi.
Rồi tôi thách thức ông ta có giỏi thì cứ xông lên, lên bao nhiêu người tôi sẽ giết chết bấy nhiêu!
Thế là ông ta dốc toàn lực thành phần còn lại của sư đoàn dưới tay ông để đánh tôi.
Ðêm 14 rạng 15 tháng 4 ông ta nướng hết Tiểu Ðoàn D20 Trinh Sát; sáng hôm sau ông ta điều động toàn bộ Trung Ðoàn 48/320A vào trận.
Tới khi Trung Ðoàn 48/320A Việt cộng dùng tới thủ pháo chứa hơi độc hóa học thì tôi bị thua. Căn cứ 711 bị tràn ngập.
Quân của ông ta đã ôm vật tôi xuống đất định bắt sống thì bị Thiếu Úy Trần Văn Phước bắn loạn cào cào, mấy tên bu quanh tôi đều trúng đạn.
Sau đó Trung Úy Nguyễn Công Minh kịp thời tiếp cứu, rồi ba thầy trò tôi chạy bán mạng, thoát chết.
Sau trận đó Ðại Tá Tất khuyên tôi nếu phải đánh nhau với ông ta lần nữa thì chịu khó nói năng dịu dàng hơn, đừng chọc giận ông ta nữa, ông ta mạnh hơn mình nhiều, tránh voi chẳng xấu mặt nào!
Ông ta là Ðại Tá Kim Tuấn, Tư Lệnh Sư Ðoàn 320A Việt cộng.
Mấy năm sau, khi đang bị giam giữ trong trại tù cải tạo Nam-Hà A ở ngoài Bắc, tôi nghe tin Thiếu Tướng Kim Tuấn Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 của Việt Cộng đã tử trận trên chiến trường Campuchia.
Chạm trán lần này tôi đã có kinh nghiệm, nên theo cách Ðại Tá Tất mách nước, tôi dùng giọng điệu ôn hòa để đáp lại lời hăm dọa của ông ta.
Không biết qua lần đối thoại vừa qua, thái độ của tôi có ảnh hưởng gì tới quyết định rút quân của Ðại Tá Kim Tuấn hay không?
Cũng có thể vì quả mìn chống chiến xa của tôi đã làm sập cái cống bắc ngang con suối khiến cho chiếc T54 mở đường cắm đầu xuống nước, nên những chiếc tăng/tank khác không tiến được.
Mặt khác, không loại trừ lý do mà Ðại Tá Kim Tuấn Việt cộng ngừng tiến công Pleime chỉ vì ông ta e sợ bị sập bẫy của Tướng Nguyễn Văn Toàn.
Ông Toàn đang có trong tay một Thiết Đoàn Kỵ Binh và một Trung Đoàn Bộ Chiến chưa sứt mẻ, dư sức chặn đường lui, và tiêu diệt gọn cái Tiểu Ðoàn K16 tăng/Tank của Bắc quân nếu họ bị lún càng vào một trận đánh xáp lá cà với những người tử thủ Pleime.
Hai ngày kế tiếp chúng tôi không thấy pháo cối, và không còn đợt xung phong nào nữa.
Ðêm 31 tháng 8 tôi cho hai toán trinh sát đi vòng quanh rào trại do thám tình hình, một toán xuất phát từ cổng Nam kiểm soát hướng Tây rồi về cổng Bắc. Một toán đi từ cổng Bắc vòng về hướng Ðông rồi vào cổng Nam.
Hai toán thám thính vòng đai về báo cáo rằng địch đã rút đi rồi!
Toán trinh sát hướng Ðông báo cáo rằng nơi bờ đất dốc đứng cách hàng rào ngoài chừng hai trăm thước là hàng trăm hầm hàm ếch của địch. Có lẽ đây là nơi trú ẩn của Trung Ðoàn 48/320A?
Trong thời gian một tháng qua, tôi chỉ dùng pháo 106 ly và 81 ly đánh sát hàng rào hướng Tây, chưa từng có viên đạn cối hạng nặng nào rơi sát rào Ðông. Ðạn cối 60 ly của tôi không có đầu nổ xuyên phá (delay), nên những lần đánh cận phòng hướng Ðông của tôi chẳng khác gì bắn “gãi ngứa” cho địch quân trên mục tiêu này.
Tối 1 tháng 9 tôi ra lệnh cho Chuẩn Úy Bảo và Thượng Sĩ Sơn dẫn đầu một trung đội của Ðại Đội 1/82 leo lên Chư Gô tái chiếm cao điểm 509. Trung đội này tới mục tiêu thì địch đã rút đi rồi.
Cùng giờ, một trung đội của Ðại Ðội 4/82 do Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Thượng Sĩ Phong cũng lên đường nhắm hướng Chư Hô. Trên Chư Hô, đơn vị phòng không của địch đã di chuyển, còn lại cỡ một tiểu đội đoạn hậu.
Gần 10 giờ đêm trung đội của Chuẩn Úy Phước chạm trán với tiểu đội Việt-Cộng này. Hai bên bắn nhau chừng mười phút thì địch bỏ chạy xuống núi. Lá quốc kỳ Việt-Nam Cộng-Hòa được kéo lên ngọn cột cao giữa đỉnh Chư Hô vào đúng KHÔNG (0) giờ ngày 2 tháng 9 năm 1974.
Từ đỉnh núi Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước gọi cho tôi rồi báo cáo:
– Trình Thái Sơn, vùng hướng Tây dưới chân núi Chư Hô, xe của địch đang chạy thành đoàn, đèn chiếu sáng choang.
Thì ra, cơ giới địch đang rút đi!
Mấy ngày sau tôi đem theo Ðại Đội 4/82 và một toán cận vệ vào thám sát khu vực mà chú Phước nói có đèn xe của Việt-Cộng thì phát giác ra nơi ấy là một vị trí đóng quân của cơ giới địch. Tiếc rằng thời gian qua, quân ta quá chú ý tới mặt trận hướng Bắc nên không có cuộc không tập nào trên mục tiêu lộ thiên này.
Vùng này nằm cách Pleime gần 5 cây số về hướng Tây Nam. Chắc chắn trận địa này đã được thiết trí sau ngày tiền đồn Chư Hô của ta rút chạy.
Thoạt nhìn ta có cảm tưởng như đang đứng trước vị trí trú quân dã ngoại của một đơn vị của Hoa-Kỳ thời 1968-1970.
Trên diện tích cỡ một sân bóng tròn, xe ủi đất đã tạo thành những ụ đất dành cho loại súng có bánh xe, có lẽ là phòng không 37 ly hoặc 100 ly. Những chùm đạn 37 ly và 100 ly mà Việt-Cộng bắn lên trời để thị uy trong thời gian vừa qua có thể đã xuất phát từ đây.
Mặt đất in đầy vết xích dấu chữ “V” chứng tỏ rằng bãi đậu xe này đã là nơi tập trung của một đơn vị chiến xa Việt-Cộng.
Nhìn dấu tích địch còn để lại, tôi nghĩ người chỉ huy Bắc Quân đã lên phương án sử dụng Tiểu Ðoàn K-16 Tank T-54 vào một trận đánh một mất, một còn với chúng tôi.
Nhưng có lẽ họ đã ước tính được sự tổn hại to lớn nếu thi hành phương án này, nên đã rút lui.
Chắc chắn họ đã thấy, với một mặt trận có chiều ngang chưa đầy hai trăm mét, làm sao đủ rộng để cho một tiểu đoàn cơ giới T54 tận dụng hỏa lực, hàng ngang tiến lên?
Ðó là chưa kể đến những trái mìn chống chiến xa nằm lền khên trong rừng trên cái dốc cổng Bắc, và dày đặc trên sân bay cổng Nam.
Tôi đã chuẩn bị sẵn, mỗi người thủ một trái lựu đạn M-26 là phương tiện cuối cùng để tự đưa mình sang thế giới bên kia.
Tôi tin chắc rằng nếu phải chết, anh lính mù trong bệnh xá cũng rủ được vài cán binh Bắc Việt chết theo chứ đừng nói chi tới những chiến binh còn lành lặn.
Chỉ vì, “Một thằng liều mạng bằng mười thằng sợ chết!” nếu phải đánh nhau trận cuối, chúng tôi bị bắt buộc trở thành “những thằng liều mạng” chúng tôi bị đưa vào thế cùng chết với quân thù, thì dù cho đánh nhau với hai chục chiếc T-54 của Mặt trận B3 hay hai trăm chiếc T-54 chúng tôi cũng coi như pha!
Người chỉ huy Bắc Quân/Việt cộng đã không đánh trận cuối cùng thì coi như chiến dịch Pleime 1974 chấm dứt.
Trong chiến dịch này, ban tham mưu của Sư Ðoàn 320A Bắc-Việt đã đánh giá sai khả năng chiến đấu của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Chắc họ tưởng đánh Pleime cũng dễ như chiếm Lệ Minh, nên cứ tiền pháo hậu xung, rồi lừng lững vác cờ tiến vào đồn?
Không ngờ họ đã đối diện một cổng đồn đóng kín và những hàng kẽm gai dày đặc, để rồi vừa hô được hai tiếng “Xung phong!” tiền quân của họ đã chết như rạ vì những quả đạn Beehive.
Ðánh nhau kỳ này các đơn vị tiến công của địch đã bị dụ vào một cái bẫy, họ cứ tưởng lầm Pleime chỉ có sáu lớp hàng rào, như trên cái sơ đồ phòng thủ mà họ tịch thu được bốn tháng về trước, cứ cho Bangalore đánh thủng kẽm gai mở đường rồi chạy ào lên là có thể chiếm lĩnh mục tiêu, nhưng thực tế Pleime đã có tới 12 lớp rào, giữa hai hệ thống hàng rào lại là một vạt đất rộng hai chục thước đầy mìn bẫy!
Trận Pleime năm 1974 là một cuộc đấu trí và đọ sức trường kỳ không cân sức.
Nhưng với tinh thần chiến đấu quyết tử vì dân, vì nước của toàn thể chiến sĩ trong đơn vị, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến thắng.
oOo
Đồng bào ơi! Chúng con về đây!
Khoảng 9 giờ sáng ngày 2 tháng 9 có một ông tiểu đoàn trưởng của Trung Ðoàn 45 Bộ Binh vào tần số chúc mừng tôi đã bình yên. Tiểu đoàn của ông ta và một chi đoàn của Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh đã tiến tới cách Pleime một cây số nhưng không chạm địch.
Ông ta dẫn theo một tiểu đội theo Tỉnh Lộ 6C đi bộ vào thăm tôi.
Sau khi cho tháo gỡ ngòi nổ những quả mìn trên đường, tôi ra cổng Bắc bắt tay cám ơn người bạn đã vào cứu mình.
Ông này là một Ðại Úy người Bắc, vì thời gian qua lâu quá rồi, nên tôi chỉ nhớ mang máng tên ông ta là Hiền hay Hiển gì đó. Tôi không biết sau này qua bao biến cố, ông bạn ấy có còn sống hay không?
Trưa 2 tháng 9 năm 1974 chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống Pleime mang theo Trung Tá Hoàng Kim Thanh Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân, anh Thanh không quên đem theo một két bia cổ cao và một cây nước đá để tưởng thưởng cho tôi.
Sau đó là một hợp đoàn của Phi Ðoàn 229 mang thực phẩm tiếp tế và vài chục tân binh bổ sung. Hợp đoàn trực thăng này cũng chuyển đi hết số thương binh còn tồn đọng.
Ngày 3 tháng 9 hai vị Ðại Tá Biệt Ðộng Quân xuống thăm chúng tôi cùng một phái đoàn chuyên viên tiếp liệu tới kiểm tra thiệt hại vật chất của đơn vị tham chiến.
Tôi chưa cho gỡ những lớp rào dích dắc, nên đoàn người dài ngoằn phải nối đuôi rồng rắn theo nhau từ sân bay vào trại. Ðại Tá Từ Vấn đi trước, Ðại Tá Phạm Duy Tất đi kế, tôi là người thứ ba.
Không có phóng viên nhật báo nào được tháp tùng phái đoàn của Ðại Tá Tất, nhưng có những bức ảnh ghi cảnh hoang tàn đổ nát của Pleime 1974 đã xuất hiện trên báo Sài-Gòn. Một nhân vật nào đó trong toán chuyên viên thanh tra tiếp liệu đã lén chụp và trao cho báo chí những bức hình này.
Ðứng bên khẩu súng đại bác đã xẹp bánh ở cổng Bắc, Ðại Tá Vấn cho tôi hay ý định của ông:
– Kỳ này ưu tiên cho thằng Tám Mốt (Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân) đi hấp ở Dục Mỹ. Còn Tám Hai (Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân) có Thiếu tá Long là chuyên viên huấn luyện tại chỗ thì không cần phải gửi đi Dục Mỹ nữa!
Tôi không có ý kiến gì khi nghe ông liên đoàn trưởng quyết định đưa một đơn vị đánh nhau chưa đầy một ngày đi tái huấn luyện, thay vì cho đơn vị đánh nhau 33 đêm ngày đi Dục Mỹ bồi dưỡng ít lâu.
(còn tiếp)
Trận Pleime năm 1974 (Kỳ cuối)
Kỳ trước: Cuối cùng thì đơn vị tiếp viện đã tới, ông Tiểu Đoàn trưởng của Trung Đoàn 45 BB đã vào đến cổng trại để bắt tay với Thiếu Tá Vương Mộng Long, trong khi đó toàn bộ các đơn vị bộ binh, xe tăng, phòng không của địch đã rút sạch, sau hơn một tháng ê càng mà không gặm nổi trại Pleime.
Nói đúng hơn, họ không thắng nổi ý chí của những người lính VNCH bằng lòng chiến đấu cho đến chết.
Nhiều kỳ – kỳ cuối
Tôi làm như quay mặt nhìn hướng khác khi thấy ông Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cầm cái can chỉ huy gõ nhè nhẹ vài cái lên nón sắt của Ðại Tá Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân, ra dấu cho ông Ðại Tá Liên Ðoàn Trưởng đừng phát ngôn lung tung nữa.
Ngày 14 tháng 9 một đoàn xe chuyển vận Tiểu Ðoàn 90 của Liên Ðoàn 25 Biệt Ðộng Quân vào trại thay thế cho chúng tôi để trấn giữ trại Pleime.
Toàn bộ quân nhân còn sống sót của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thở dài nhẹ nhõm. Ðoàn xe lăn bánh vượt con dốc vườn rau của trại, để lại sau lưng chúng tôi cái địa ngục trần gian của hơn một tháng trời, ngày đêm đội mưa, đội pháo, ghìm súng chống quân thù.
Theo như ghi chép trên Nhật Ký Hành Quân của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân thì trong thời gian bao vây Pleime, Cộng Quân đã triển khai 20 đợt tấn công biển người nhắm vào hệ thống phòng ngự của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Nhưng theo tổng kết của Trung Úy Trần Dân Chủ sĩ quan Ban 3 của đơn vị tôi thì địch đã mở ra gần 30 đợt xung phong trong thời gian vây hãm này.
Chúng tôi vẫy tay giã từ nơi đây mà không biết đó cũng là lần ra đi vĩnh biệt.
Có một xe GMC được trưng dụng chở chiến lợi phẩm. Ðáng lý ra còn nhiều súng ống của địch nằm trong hàng rào, nhưng tôi không cho người bò vào bãi mìn để lấy thêm, vì đã có hai Biệt Ðộng Quân chết oan khi vướng mìn và lựu đạn trong lúc chui vào rào thu nhặt chiến lợi phẩm.
Chúng tôi được lệnh trú quân trong một khu rừng thưa cách ngã ba Quốc Lộ 14 nửa cây số để tắm giặt, thay quân phục, chờ hôm sau sẽ về Pleiku làm lễ khao quân.
Sáng 15 tháng 9 khi tôi kéo quân lội bộ ra tới Quốc Lộ 14 thì đã có gần hai chục chiếc GMC mười bánh đậu nối đuôi nhau chờ sẵn.
Sau khi trình diện, ông Ðại Úy chỉ huy đoàn quân xa, siết chặt tay tôi:
– Kỳ này các ông mà không giữ được Pleime thì chắc Pleiku bị di tản rồi!
Nghe vậy, tôi vội ngắt lời ông ta:
– Có gì đâu! Nhiệm vụ của Biệt Ðộng Quân mà!
Ông Ðại Úy cười hóm hỉnh:
– Tôi ở Pleiku từ thời Trung Tướng Vĩnh Lộc, tôi biết Thiếu Tá từ khi ông còn là một thiếu úy, mỗi khi hành quân về ông đều ghé Quán Kim Liên!
Nghe vậy tôi cười lớn:
– Mình là dân Pleiku, phải bảo vệ Pleiku cũng là lẽ đương nhiên thôi!
Chiếc xe Jeep của tôi vừa leo dốc qua cầu Hội Thương Hội Phú thì đã thấy dân chúng hai bên đường vẫy tay reo hò:
— “Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!…”
Dân chúng đứng chật ních hai bên đường từ dốc Diệp Kính tới Hội Quán Phượng Hoàng cao tay phất những lá cờ nho nhỏ bằng giấy nền vàng ba sọc đỏ. Trong khi đó thì những cái loa trên một chiếc xe của Ty Thông Tin Pleiku chạy vòng vòng phát đi những điệu hát quân hành: “Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng….”
Quân nhân của tiểu đoàn tôi phải xuống xe nơi đầu dốc Diệp Kính, Hoàng Diệu rồi đi bộ hàng một tiến về sân vận động.
Ði đầu đoàn quân, ngợp trong rừng cờ và biển ngữ, tôi tưởng mình bị hoa mắt trông lầm khi thấy trên hai cái băng vải trắng treo trên hàng rào nhà thờ và căng ngang đường phố trước tư dinh của Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn II có hàng chữ viết bằng sơn đỏ:
“Toàn dân Pleiku ghi ơn Thiếu Tá Vương Mộng Long và các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân”.
Nơi sân vận động Pleiku này, tôi đã từng có vài lần đứng chung hàng ngũ những quân nhân được tiếp đón sau hành quân để nhận huy chương. Tôi chưa thấy có lần nào người chỉ huy đơn vị được nêu đích danh tên họ để “Ghi Ơn”.
Ðây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thành phố, một đơn vị nhỏ, cấp tiểu đoàn vinh dự được dân chúng đón tiếp trọng thể như thế. Ngày hôm đó toàn dân thành phố đã đình công, bãi thị. Các trường học thì đóng cửa để ăn mừng chiến thắng.
Dọc đường, người dân tươi cười hớn hở ào ra dúi cho các anh lính chiến những bao thuốc lá. Thuốc lá mà đồng bào đem ra cho các anh lính có khi hút cả tháng sau mà chưa hết! Ngực ông lính nào cũng căng phồng vì áo lót chứa toàn là thuốc lá!
Trong số đàn bà con nít đứng chờ đoàn chiến binh đang từ dưới dốc Diệp Kính đi lên có nhiều người là vợ con lính của tiểu đoàn. Tôi không nỡ ngăn cản những bé con đang hớn hở, tíu tít vui mừng chạy ra giữa đường níu chân bố chúng nó:
– “Ba ơi! Ba ơi! Ba về rồi! Con nhớ Ba lắm! Ba ơi!”
Cũng có những đôi mắt đỏ hoe, những dòng lệ tuôn, cùng tiếng khóc nấc trong đám đông, khi ai đó vừa hay tin chồng con của họ sẽ không về.
Vào tới sân vận động tôi thấy ở đây quả là một rừng người.
Trên sân, sau hàng quân của tôi là đội ngũ thầy giáo và học trò, kế đó là đội ngũ dân chúng. Hội đoàn dân chính do ông Ngô Xuân Thu và bà Hồ Thị Thơm đại diện.
Tôi đứng một mình trước đoàn quân đội ngũ chỉnh tề.
Anh em còn lại của đơn vị đứng xếp hàng thành một khối 20 hàng dọc và khoảng trên 20 hàng ngang.
Trên khán đài là hai vị đại tá, Ðại tá Nguyễn Ðức Dung Tỉnh Trưởng Pleiku, ngồi bên là Ðại tá Phạm Duy Tất Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2, cùng nhiều thân hào nhân sĩ của Pleiku.
Dàn nhạc của Quân Ðoàn II bắt đầu bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” cùng lúc các nữ sinh đại diện các trường trung học tiến lên, trên tay mỗi cô là một vòng hoa tươi nhiều màu sặc sỡ.
Kể cả tôi, có 21 người đại diện đơn vị được choàng hoa.
Cô nữ sinh dẫn đầu đoàn người đẹp đi qua trước mặt tôi sẽ là người choàng hoa cho anh lính thứ 21. Người đi sau cùng mới là người sẽ đứng lại trước mặt tôi.
Trong số nữ sinh đi trong đoàn người ủy lạo đơn vị tôi hôm đó có một người tôi quen, cô ấy là người yêu của cố Thiếu Úy Biệt Ðộng Quân Ðinh Quang Biện. Thiếu Úy Biện là người anh lớn nhứt của vợ tôi. Anh Biện đã tử nạn năm 1971.
Ði ngang qua mặt tôi, cô ấy nói:
– Cám ơn Tiểu Ðoàn 82! Cám ơn anh Long! Chị Long và mấy cháu có khỏe không?
Tôi mỉm cười:
– Cám ơn chị, gia đình tôi vẫn bình an.
Thế rồi mấy phút kế đó, sau lưng tôi, cô nữ sinh này đã bật khóc giữa hàng quân, ngay khi vừa choàng xong vòng hoa cho một sĩ quan. Có lẽ người con gái Pleiku ấy vừa nhớ đến hình bóng một người lính Biệt Ðộng Quân đã đi qua đời mình.
Tình đầu không thể ví như một giọt sương đọng trên cánh hoa sớm mai, nắng lên thì hạt sương bay. Tình đầu là những gì chứa đầy chua xót, đắng cay, ngọt ngào, nếu đã đánh mất nó rồi, thì sẽ không bao giờ tìm lại được. Nó cứ mãi sống trong tim người. Vì thế mà một thi sĩ thời tiền chiến đã viết:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,
Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên?”
(Thơ Thế Lữ)
Hôm đó người lính nào đứng trong hàng ngũ Tiểu Ðoàn 82 cũng được các em học sinh và đồng bào trao cho một gói quà, kể cả các anh vừa mới được bổ sung quân số mười ngày trước đây.
Cái hình Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được cô hoa khôi trung học choàng vòng hoa chiến thắng đã chiếm hết một trang đầu của Nhật Báo Tiền Tuyến phát hành vài ngày sau đó.
Ðại Tá Nguyễn Ðức Dung Tỉnh Trưởng Pleiku mở đầu buổi lễ bằng một bài diễn văn dài. Ông Tỉnh Trưởng không tiếc lời ca tụng chiến công mà chúng tôi vừa lập được.
Kế tiếp là một bài phát biểu dài thật là hùng hồn và sống động của ông Ngô Xuân Thu, Dân Biểu đơn vị Pleiku.
Ông Ngô Xuân Thu cho chúng tôi những lời khen khiến chúng tôi cảm thấy mình đang bay lên tới tận mây xanh.
Cứ sau vài câu ca tụng “những chàng trai Việt kiêu hùng” ông dân biểu lại lớn tiếng hô to “Hoan hô!” thấy thế dân chúng trong sân cũng lớn tiếng “Hoan hô!” theo.
Ngay sau khi Dân Biểu Ngô Xuân Thu dứt lời thì cả sân vận động bỗng trở thành một cái chợ với những tiếng gọi nhau “Ơi ới!” của các bà, các cô tranh nhau đem quà phân phát cho chiến sĩ. Phái đoàn ủy lạo của bà Hồ Thị Thơm và các bà trong đội ngũ phụ nữ đã chuẩn bị sẵn 500 ổ bánh mì thịt và hai con heo sống thật bự dành cho những đứa con vừa trở về từ chiến trường.
Con rể của bà Thơm cũng là một Trung sĩ Biệt Ðộng Quân, nhưng anh Trung sĩ Ðốc làm việc ở văn phòng, nên không có mặt trong hàng quân đang đứng trên sân.
Cuối cùng tôi bị gọi tên lên bục phát biểu cảm tưởng.
Vì không được thông báo trước chuyện này, nên đứng trước máy vi âm tôi không có tờ giấy đánh máy sẵn như ông Ngô Xuân Thu, tôi cứ nghĩ gì thì nói vậy.
Khi tôi dứt câu:
— “Thưa đồng bào Pleiku! Chúng tôi là những đứa con của đồng bào! Chúng tôi sẵn sàng hy sinh thân xác mình để canh từng thước đất, giữ từng đoạn giao thông hào chống quân xâm lăng, cũng chỉ vì sự an nguy của đồng bào! Hôm nay những đứa con của đồng bào đã bình an trở về rồi! Ðồng bào có thể yên tâm, không còn lo sợ nữa!”...
Thì trong đám dân chúng đứng bên trái khán đài có nhiều tiếng khóc sụt sùi.
Mấy chục năm sau, tôi không quên hình ảnh những cụ già vừa lau nước mắt vừa nghẹn ngào:
– Các con vất vả quá! Thương các con quá, các con ơi!
Những phóng viên nhà báo Việt-Nam và ngoại quốc tranh nhau chụp hình quay phim.
Có một phóng viên người Mỹ hỏi tôi:
— Xin anh cho biết vì sao trong tình trạng thiếu thốn và tuyệt vọng như thế mà các anh vẫn kiên trì chiến đấu rồi chiến thắng?
Tôi cười, đáp gọn:
— Chúng tôi chiến đấu tới cùng là vì an nguy của đất nước Việt-Nam!
Người quay phim của Tiểu Ðoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị cũng phỏng vấn tôi một câu tương tự:
— Ðộng cơ nào thúc đẩy Thiếu Tá đã liều mình tử thủ Pleime?
Tôi cũng cười:
– Vì đồng bào Pleiku, và vì đồng bào cả nước!
Các ký giả săn tin còn tìm thêm được vài Biệt Ðộng Quân khác để phỏng vấn, trong số những người hùng được lên màn ảnh truyền hình kỳ này có Trung Úy Nguyễn Công Minh, Thiếu Úy Phạm Văn Thủy, Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Sĩ viễn thám Nguyễn Chi.
Chiều 15 tháng 9 trên 400 quân nhân của tiểu đoàn được chia thành từng tốp từ 5 tới 8 người để dự tiệc do các cửa tiệm tư nhân, hay hội đoàn tiếp đón.
Tôi cùng Thiếu úy Trần Văn Phước và toán Viễn Thám của Mom Sol được “Nghiệp Ðoàn Tài Xế Xe Lamb” và “Hội Xưởng Cưa” tiếp đãi. Bữa tiệc này có Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 tham dự.
Sau này những cửa tiệm như Giò Chả Bắc Hương, Hủ Tiếu Hiệp Thành, Cà Phê Kim Liên, Nước Mắm Nguyễn Quý, Phở Kim Phượng, Cơm Ba Cò, Quán Kim, Quán Nhớ… vân vân, nếu thấy anh lính Biệt Ðộng Quân nào mang trên vai cái huy hiệu đầu cọp có số “82” thì không tính tiền, hoặc tính theo giá rẻ.
Trong nhiều ngày sau đó, hình ảnh buổi lễ khao quân ngày 15 tháng 9 năm 1974 trên sân vận động Pleiku đã trở thành một trong những sự kiện nổi bật trên màn ảnh truyền hình quốc gia.
Thời gian nghỉ dưỡng quân ở Pleiku tôi có dịp gặp và nói lời cám ơn tới những đồng ngũ đã có mặt trong các đoàn quân vào tiếp viện cho tôi, đặc biệt là các bạn ở Trung Ðoàn 41 Sư Ðoàn 22 Bộ Binh và các bạn ở Trung Ðoàn 53, Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Tôi nói với họ rằng, nhờ có những đóng góp máu xương của họ mà chúng tôi mới tạo được chiến thắng vẻ vang này.
Anh em trong đơn vị tôi có ba ngày nghỉ tự do, nhưng chỉ được đi loanh quanh trong phố Pleiku thôi, không ai được phép đi sang thành phố khác.
Là con chim đầu đàn, tôi phải nêu gương, giữ gìn quân kỷ. Dù nhớ vợ con vô cùng, tôi cũng không dám bỏ đơn vị để “dù” về Ban Mê Thuột thăm nhà.
Chiến thắng Pleime năm 1974 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chứng tỏ cho thế giới biết rằng 'dù phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, Quân-Ðội Việt-Nam Cộng-Hòa vẫn có thể chu toàn nhiệm vụ bảo quốc an dân'.
Với thượng cấp chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng được giao phó.
Với đồng bào Pleiku, chúng tôi đã xứng đáng là những người con tin yêu của thành phố.
Với cá nhân tôi thì trận đánh 33 ngày đêm này chính là cơ hội để tôi thi thố hết khả năng của một người cầm quân.
Những chiến binh “Tử thủ” Pleime năm 1974 đã vì đất nước mà quên cả mạng sống của chính mình, nên nhiều chục năm sau họ vẫn cảm thấy tự hào:
.“Tôi rất hãnh diện đã là một người lính của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân”.
Theo thời gian, những người từng hiện diện trong chiến dịch Pleime 1974 đã và sẽ theo chân nhau thành người thiên cổ. Nhưng trong quân sử, chiến thắng Pleime năm 1974 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng sẽ mãi mãi được lưu truyền như một huyền thoại của chiến tranh Việt-Nam trong thế kỷ thứ 20.
VML-k20
Seattle tháng 9 năm 2019
Trận Pleime Năm 1974
Dàn nhạc của Quân Ðoàn II bắt đầu bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” cùng lúc các nữ sinh đại diện các trường trung học tiến lên, trên tay mỗi cô là một vòng hoa tươi nhiều màu sặc sỡ.
Kể cả tôi, có 21 người đại diện đơn vị được choàng hoa.
BĐQ Vương Mộng Long
Bài Ca Chiến Thắng (VNCH)
https://youtu.be/u1Z2xmr4XWY
|
https://youtu.be/hjoZlGil7zQ
|
*****************************************
Trận Pleime (thứ nhì) 1974
Trại Biên Phòng thời Lực Lượng Đặc Biệt tuy quân là Dân sự Chiến Đấu nhưng nhờ phương tiện đầy đủ, yểm trợ từ Không Quân dồi dào, quân tăng viện sẵn sàng, nên quân Bắc Cộng khó đánh chiếm được. Khi cải tuyển thành Biệt Động Quân Biên Phòng thì các thứ vừa kể coi như giảm xuống tối thiểu nếu không nói là mất hẳn.
Người hùng Pleime - BĐQ Vương Mộng Long
Quân Bắc Cộng có thể dễ dàng đánh chiếm khi họ muốn. Nhưng đóng trại rồi rút bỏ trại đồng nghĩa vói giao đất cho địch, điều mà Chủ trương "bốn Không" của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cương quyết không chấp nhận, thì không chỉ huy nào muốn giải quyết tận gốc vấn đề hiểm nguy này của các Trại Biên Phòng. Chẳng thà chờ khi nào địch tấn công thì ta cố sức đánh giải tỏa, nếu không được, có bị mất luôn cũng còn... nhẹ tội hơn. Tướng Tất chỉ huy Biệt Động Quân Vùng 2, lại là gốc Lực Lượng Đặc Biệt, chứng kiến các Trại Biên Phòng Vùng 1-2- 3 lần lượt mất hết, ông Tất than thở với tác giả, buồn đứt ruột Đỗ Sơn ơi. Bây giờ Tướng Tất chỉ còn nhớ được hai vụ, Trại Ben Het và Trại Pleime.
Chẳng thà chờ khi nào địch tấn công thì ta cố sức đánh giải tỏa, nếu không được, có bị mất luôn cũng còn... nhẹ tội hơn, chứ đóng trại rồi rút bỏ trại đồng nghĩa với giao đất cho địch, không thể chấp nhận được.
Chiếm được hai cứ điểm này thì Bắc Cộng mới có được một hậu phương lớn an toàn từ Kontum xuống đến Ban Mê Thuột. Dù hai thị xã Kontum và Pleiku vẫn còn trong tay Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không gây khó khăn gì cho họ. Trận Pleime thứ nhì xảy ra trong 2 tháng 7 - 8 năm 1974.
Đối với Pleiku, Trại Biên Phòng Pleime và Quận Thanh An là hai cái gai trong mắt của Sư Đoàn 320 Cộng Sản bắc Việt.
Tướng Tất: Đúng vậy, cũng là Sư Đoàn 320, lúc họ mới xâm nhập, bây giờ thì họ quá quen thuộc với Vùng Cao Nguyên, họ đang dốc toàn lực thanh toán Trại Pleime lần nữa. Tôi muốn nói qua một chút về Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82, đó là Thiếu Tá Vương Mộng Long... Tác giả: Tôi có nghe đến tên của Thiếu Tá Long.
Hình: Trận Pleime (thứ nhì) 1974
Để tấn công Trại Pleime quân Bắc Cộng xử dụng quân 2 Trung Đoàn 9 và 48 CSBV cộng thêm Trung Đoàn 26 VC của Mặt Trận B3. Vào lúc trận đánh lên cao điểm, Bắc Cộng đưa thêm Trung Đoàn 64 CSBV nhập trận đánh biển người. Họ cũng tổ chức được 12 vị trí đặt súng phòng không xung quanh Pleime để bắn chận các phi vụ tản thương, tiếp tế và đối đầu với các trận không tập.
Đã có lúc Tiểu Đoàn gần như tuyệt vọng, Thiếu Tá Long phải nói với anh em binh sĩ: "Nếu không giữ được căn cứ thì chúng ta phải 'ra đi' cho thật đẹp". Câu nói này được thu âm lại để nếu chuyện không may xảy ra thì còn có mà lưu gương bất khuất.
Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất
Lại có một ngày tôi muốn đáp thẳng xuống Trại Pleime thăm Thiếu Tá Long và khuyến khích anh em binh sĩ, với sự hướng dẫn của Thiếu Tá Long, Đại Úy Toàn đã lòn lách được xuống Trại. Lại phải bay ra rồi bay vào đón tôi, nguy hiểm không biết dường nào. ° ° ° Nguồn: https://vietmessenger.com/books/?title=chuan%20tuong%20pham%20duy%20tat%20va%20su%20tha%20tcuoc%20triet%20thoai%20quan%20doan%20ii&page=17 Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất và Sự thật cuộc triệt thoái Quân Đoàn II Tác giả: Đỗ Sơn |
6
...........................................................................................................................................................................
Nhắc tới tên Pleiku, Kontum hay Ban Mê Thuột thì những kỷ niệm êm đềm ngày nào ở cao nguyên lại hiện về trong trí nhớ của tôi.
Ở cao nguyên đâu đâu cũng có lính; họ đến từ mọi miền đất nước; họ sống chết bên nhau và thương yêu nhau như huynh đệ. Nơi đây năm nào cũng xảy ra những trận đánh long trời lở đất. Tôi đã trải qua mười năm chinh chiến ở xứ này.
|
.............................................................................................................................................................................
Nhớ Cao Nguyên
Một ngày trên núi cao…
Hạ tuần tháng Giêng năm 1970, Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân có nhiệm vụ hành quân thám sát vùng Tây của Ðèo Mang-Giang (Mang Yang), Pleiku, để yểm trợ tin tức tình báo chiến thuật cho Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân tiến vào Căn Cứ Ðịa 203 của Việt-Cộng.
Ba toán Viễn-Thám đã được tôi thả xuống thung lũng Plei Bon.
Tôi cùng hai cố vấn Mỹ và ba nhân viên truyền tin đóng quân trên đỉnh núi Ngô-Sơn.
Chúng tôi được một trung đội trinh sát bảo vệ.
Cuộc hành quân kéo dài một tuần lễ, hôm ấy đã được sáu ngày, chỉ một bữa nữa thôi, nhiệm vụ của chúng tôi sẽ chấm dứt.
Thời gian này đã là mùa khô Cao Nguyên, nên bầu trời trong vắt. Trong gió, lan rừng ngát hương. Cỏ cây thay lá. Tiếng côn trùng rên rỉ lớn hơn. Tiếng chim muông cũng rộn rã hơn.
Dưới nắng, tôi cũng chợt nhìn thấy những cánh hoa quen, mà tôi thường gọi là “hoa vấn vương”. Những cánh hoa mỏng như sương, đang vờn bay chập chờn trong không trung.
Tôi hay góp nhặt những bông hoa này bỏ vào bao nylon; để lâu lâu, lại lựa vài chùm, kèm với những dòng thư viết vội từ chiến địa, gửi về Ban-Mê-Thuột cho người tôi thương.
Cái tên “hoa vấn vương” là tôi đặt cho loài hoa ấy. Thực ra, hoa vấn vương, giản dị chỉ là những chùm bông gòn bay lênh đênh trong gió.
Do tình cờ, có lần vào cuối mùa mưa, tôi nhìn thấy những quả bông gòn thấm nước, nổ tung. Những chùm bông trắng như tuyết vỡ, tan tác bay, rồi rơi rụng dần. Cứ thế, hoa theo gió phiêu du, cho tới khi chỉ còn là một chùm tơ trắng với cái cuống màu nâu nhỏ như đuôi kim, bay dật dờ, lãng đãng trong rừng.
Tôi đã yêu loài hoa này, vì tôi thấy loài hoa này rất chung tình. Khi cánh hoa đã ghim vào áo trận của tôi rồi, thì hoa sẽ dính trên áo tôi cho đến hết một cuộc hành quân. Những sợi tơ trắng mềm mại của chùm hoa cứ dính cứng trên vải áo rằn ri, gỡ hoài, gỡ mãi không ra.
Ngày này qua tháng khác, vào sinh, ra tử, chết chóc, gian lao, niềm vui của những người lính bạt mạng như tôi thật là giản dị: Chỉ mong lâu lâu được về hậu cứ Pleiku, có vài giờ quây quần bên nhau; ôm cây guitar nghêu ngao đôi khúc nhạc tình; rồi vào một quán quen, ngâm thơ, uống rượu. Qua một đêm vui là chúng tôi quên hết sự đời, hôm sau lại lên đường ra trận.
Ở hoài trong rừng, suốt tháng, quanh năm, mùa nào chúng tôi cũng thấy lạnh, mùa nào cũng thấy nhớ nhà.
Có lần đóng quân bên dòng Pơ-Kô, đang buồn, vừa mở radio lên, nghe Thái Thanh hát, lòng tôi càng buồn thêm:
“Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh
Tuy ra đi rồi, mà vẫn nhớ vẫn thương.
Hình bóng ấy, người em thơ đang từng giờ đợi chờ…”
(Hoàng Thi Thơ)
Ða phần quân nhân Cao-Nguyên Vùng 2 đến từ nơi khác.
Nghe “Nhớ Thành Ðô” mỗi người tơ tưởng tới một thành phố yêu thương của riêng mình. Nhiều bạn tôi than:
“Lâu không về qua Sài-Gòn, nhớ Gia Long, Trưng Vương quá!”
Trước đây, đi hành quân, tôi thường nhớ Hội-An và Pleiku. Hội-An có mẹ tôi, Pleiku có hậu cứ đơn vị tôi.
Trước đây, dù đã có hai lần ghé Ban Mê Thuột, nhưng tôi chẳng mảy may để ý gì tới thành phố này. Tôi đã từng nghe nhiều người than rằng xứ Thượng Ban Mê Thuột là nơi buồn quanh năm, chẳng thế mà mấy anh bạn cùng Khóa 20 Võ Bị của tôi đang phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh cứ gọi thành phố ấy bằng cái tên “Buồn Muôn Thuở”.
Nhưng từ sau lần đi họp Hội-Ðồng Kỷ-Luật tại Bộ Tư Lệnh Sư-Ðoàn 23 Bộ Binh hồi đầu tháng 5 năm 1969, tôi có dịp ghé nhà một người bạn, được gặp mặt em gái anh ta, thì Ban-Mê-Thuột đã trở thành một nơi, đi đâu tôi cũng nhớ, ở đâu tôi cũng muốn về.
Từ đó tôi cũng ít khi về Hội-An. Vì mẹ tôi cũng đã thương cô ấy, và thương cái gia đình “cũng là người Bắc Di Cư như nhà mình ấy mà!”
Những lần mẹ tôi vào thăm vợ chồng Bác Võ, thân sinh của Loan, thế nào tôi cũng nài nỉ Trung Tá Sâm cho tôi rời đơn vị vài ngày để gặp mẹ tôi và gặp Loan.
Bất cứ lần nghỉ dưỡng quân nào, dù chỉ hai, ba hôm, ông Thượng Sĩ Woodell, cố vấn của tôi, cũng phải tìm cho tôi một chỗ ngồi trên những chuyến bay con thoi đưa thư hàng ngày của Mỹ, nối liền Pleiku, Ban-Mê-Thuột, Quảng-Ðức, Ðà-Lạt, Nha-Trang, Qui-Nhơn.
Cứ về Ban-Mê-Thuột thì tôi đương nhiên trở thành người lái xe đưa đón Loan và các em cô ấy từ nhà tới trường. Vì thế con đường rợp bóng phượng vĩ từ khu Cư-Xá Ðộc-Lập, qua Bưu-Ðiện, tới nhà thờ Vinh-Sơn, rồi rẽ sang trường Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột đã trở thành quen.
Tôi cũng không còn thấy xa lạ với những cái tên Y Jut, Ama Trang Long, Ciné Lodo, Chùa Dược-Sư, Kem Chi-Cao, Lâm-Tuyền Cốc, …
Tôi rất thích cái không khí ấm cúng của quán cà phê học trò Mây Hồng gần trường. Những lần lái xe tới sớm, tôi thường vào đây ngồi nhâm nhi ly cà phê đen chờ giờ tan học. Nói cho cùng, tôi thương nhớ Ban-Mê-Thuột cũng chỉ vì nơi đó có nàng.
Ba toán Viễn-Thám đã được thu hồi bằng phương tiện bộ chiều hôm qua.
Hôm nay tôi có trọn một ngày bình yên, không lo lắng.
Tôi có thói quen viết miên man, mỗi khi ngồi buồn một mình. Có bài thơ ghi vội vàng trên chiến địa, rồi bỏ lại trên chiến địa. Có bài thơ ướt đẫm máu hồng từ những vết thương, bạn bè tôi tiếc rẻ, nên chép lại, gửi về Sài-Gòn cho người ta đăng báo.
Trước ngày tôi gặp người nữ sinh Trung Học Ban-Mê-Thuột đó thì thơ tôi viết chẳng để tặng cho riêng ai. Nhưng từ khi tôi quen cô ấy, rồi yêu thương cô ấy, thì những bài tôi viết đều có ghi thêm câu “Gửi người tình nhỏ ở Ban-Mê-Thuột”.
Sáng hôm đó, trên núi cao, sau một giờ bình yên, tôi đã có sẵn một bài thơ ngắn để gửi về cho người mình yêu dấu. Ít lâu sau, ông Hàng Vĩnh Xuân cũng đưa bài thơ này lên trang thơ của “Nguyệt San Biệt Ðộng Quân”. Ông Xuân và tôi vốn có chút giao tình; Ðại úy Hàng Vĩnh Xuân là Chủ Bút Nguyệt San Biệt Ðộng Quân Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong sớm mai
Buổi sáng thức dậy
Thấy mình nằm trong rừng
Núi rừng từ nghìn xưa đã buồn…
Buổi sáng thức dậy
Thấy lòng nhớ thành phố
Thành phố bây giờ xa vô cùng…
Buổi sáng thức dậy
Lật tìm manh bản đồ
Những dấu mực xanh, những đường gạch đỏ
Mục tiêu nào gần, mục tiêu nào xa?
Một ngày trong đời rồi cũng đi qua.
Và một đời người rồi sẽ trôi qua…
Sáng nay thức dậy
con chim nhỏ trên cành ngái ngủ
nhìn mái poncho đôi mắt thờ ơ
Người lính vừa thay phiên gác
trở về lều xếp gọn chiếc ba lô
Bếp lửa ngại ngùng, đợi chờ những viên trái phá
Tôi ngồi một mình, đợi chờ giờ lên đường
Nhớ nhung hoài, cũng thành thói quen!
Em biết không?
Giờ này tôi đang nghĩ về em…
Và sáng nay thức dậy
Chợt thấy mặt trời hồng
Nhớ người Ban-Mê-Thuột vô cùng…
(Vương Mộng Long- 1970)
(Gửi người tình nhỏ ở Ban-Mê-Thuột)
o O o
Xế trưa, một chiếc trực thăng đáp xuống đài tiếp vận để trao cho tôi cái phóng đồ vùng hành quân mới. Hậu cứ cũng chuyển cho tôi một bì thư của Loan gửi từ Ban-Mê-Thuột. Phong thư hơi dày, trong đó chứa một lá thư viết bằng giấy học trò và ba cái bảng tên mới thêu.
Tôi đã biết cô ấy là người vẽ rất đẹp. Nay mới thấy cái tài thêu thùa của cô ấy. Những đường chỉ ngụy trang vắt chéo nhau một cách tỉ mỉ và khéo léo, vừa chắc chắn, lại vừa mịn màng.
Trên nền vải rằn ri, chữ “LONG” thoáng nhìn, thấy sắc nét như vẽ bằng bút lông trên tranh.
Cầm trên tay ba cái bảng tên mới, tôi nhủ thầm:
“Thêu kỹ thế này thì năm, sáu năm sau chưa chắc đã sút chỉ!”
Trước đây ít năm, tôi đã có vài cái bảng tên do các cô nữ sinh Trung Học Pleiku thêu giùm. Tiếc rằng chỉ sau đôi lần đưa áo cho thợ giặt, thì những cái bảng tên ấy đã rách bươm.
Thượng sĩ Goodell mời tôi một điếu xì gà vừa tiếp tế.
Anh đưa cho tôi xem cái ảnh vợ con anh vừa từ Mỹ gửi qua. Trong ảnh, thằng bé trai cười toét miệng. Miệng nó sún mất hai cái răng cửa. Hóa ra nó đang thay răng!
Nhìn cái ảnh, tôi không thể nhịn cười. Vì thằng Goodell con trông giống thằng Goodell bố như in. Thằng Goodell bố cũng vừa bị gãy hai cái răng cửa hôm tuần trước.
Hôm đó, sau chầu rượu đón chào anh Thiếu úy Ðinh Quang Biện từ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân vừa đáo nhậm đơn vị, nhận chức Ðại Ðội Trưởng, Ðại Ðội Trinh-Sát Liên Ðoàn 2 thì ông Trung Sĩ Triêm lái xe đâm xuống ruộng. Thiếu Úy Biện lọi giò, Thượng sĩ Goodell gãy hai cái răng. Goodell chưa kịp làm răng mới, chúng tôi đã có lệnh vào vùng.
Thấy hình ảnh gia đình anh cố vấn Mỹ, tôi mơ ước thầm:
“Biết tới bao giờ tôi và Loan mới có thằng Long con dễ thương như thằng con anh bạn?”
Nhớ có lần tôi đưa Loan đi chợ. Thấy cửa hàng bán sách vở và đồ chơi trẻ con, tôi nói:
– Anh muốn mua một quyển sách “Tập Ðánh Vần” để dành cho con chúng mình. Em nghĩ sao?
Nghe tôi nói đùa, Loan đỏ mặt, cười mắc cỡ, không trả lời…
Chiều nắng xế, hoa bay chập chờn trong núi, tôi ngồi dựa lưng vách đá, thả hồn về phương Nam. Có lẽ bây giờ ở Ban-Mê-Thuột đang là giờ tan học.
Tôi hình dung ra cảnh người tôi yêu đang vén vạt áo dài xanh, rụt rè bước ngang qua sợi dây xích nối giữa hai cột trụ xi măng cổng trường để ra đường chờ xe. Ước gì lúc này tôi có mặt nơi đó nhỉ?
Trưa nay tôi đã nhận cái phóng đồ hành quân mới. Ngày mai sẽ có tiếp tế trước khi chuyển vùng. Có lẽ còn lâu chúng tôi mới được về nghỉ dưỡng quân. Có lẽ còn lâu tôi mới được thấy lại Ban-Mê-Thuột.
Bên cạnh tôi, người bạn Mỹ cũng đang ngồi dựa lưng vào một gốc cây. Mắt Goodell mang kiếng đen. Tôi không biết anh ta đang ngủ gật hay đang nhớ nhung một cái trang trại nhỏ nơi miền quê Texas, bên kia đại dương.
Trời chiều không có mây. Một cặp chim hồng hoàng vừa sóng đôi bay qua đỉnh núi. Bốn cánh chim khổng lồ nhịp nhàng quạt gió. Vài phút sau, hai bóng chim chập vào nhau thành một chấm đen cuối trời…
o O o
Nghĩa, tình, và nhiệm vụ…
Chúng tôi được tiếp tế mười ngày lương khô rồi chuyển vùng.
Hơn nửa năm sau trận Dak Tô 1969 tôi mới quay lại Bắc Kontum.
Trực thăng vừa bay qua cầu Diên Bình, trước mắt tôi đã thấp thoáng những mái tôn chói nắng từ Tân Cảnh.
Bên trái tôi, xa xa là Phi trường Phượng Hoàng, rồi tới Ngok Ring Rua, và Ben Het.
Cảnh cũ vẫn chưa thay đổi, nhưng người anh cả của chiến trường đã không còn nữa. Vào vùng, tôi chạnh lòng nhớ tới “Thẩm Quyền 5”.
“Thẩm Quyền 5” là danh xưng truyền tin của Ðại Tá Nguyễn Bá Liên, Tư Lệnh Biệt Khu 24.
Thẩm Quyền 5 đã không ngừng theo dõi bước chân đại đội tôi suốt một tuần lễ dài của trận đánh đẫm máu nhất năm 1969 của Vùng 2.
Ngày đó bất cứ lúc nào tôi lên máy cũng nghe tiếng Thẩm Quyền 5:
— “Thái Sơn! Ðây là Thẩm Quyền 5! Cố gắng lên em! Em giỏi lắm! Cố gắng lên em!”
Ngay khi chiến dịch kết thúc, dù đang bận rộn, Thẩm Quyền 5 cũng cố gắng bay về Quân Y Viện Pleiku thăm hỏi tôi một lần. Trận này tôi bị thương nặng, vỡ xương vai.
Ðầu tháng 12 năm 1969 trực thăng của Thẩm Quyền 5 đã bị địch bắn cháy ngay khi vừa cất cánh rời Căn Cứ Hỏa Lực số 6 Ngok Ring Rua. Tôi được tin đau lòng này trong khi đang tham dự chiến dịch giải vây cho Trại Lực Lượng Ðặc Biệt Bu Prang, Quảng Ðức.
Nay tôi đem quân trở lại chiến trường xưa, thì người chỉ huy vừa can trường vừa đức độ của tôi đã không còn! Thêm vào đó, vùng hành quân này cũng đã mất tên, danh hiệu quân sự “Biệt Khu 24” chỉ còn trong dĩ vãng.
Chúng tôi vỏn vẹn chỉ có trên dưới sáu chục mạng, chứa không đầy tám chiếc HU1D (thường được gọi là UH1D) nên việc đổ quân xuống sân của hậu cứ Trung Ðoàn 42 Bộ Binh cũng thật là dễ dàng.
Tôi để lại trên đỉnh Ngok Long một anh y tá, một toán sáu trinh sát viên, ba anh truyền tin cùng với hai máy PRC 25 và cây angten 292, rồi bay về Tân Cảnh ở với Ðại Đội 2 Trinh Sát của Thiếu Úy Ðinh Quang Biện.
Chúng tôi tá túc trong căn nhà tôn sát nách câu lạc bộ. Còn hai anh cố vấn Mỹ của tôi thì ngủ nhờ trong căn nhà vòm chứa ban Cố Vấn Hoa Kỳ của trung đoàn.
Tôi vào Trung Tâm Hành Quân để họp bàn với ông trung tá trung đoàn trưởng. Ông trung đoàn trưởng là một sĩ quan đã luống tuổi, phong cách rất từ tốn và hiền hòa.
Thấy tôi có vẻ băn khoăn trước bức tường sừng sững, ghép bằng những tấm bản đồ tỷ lệ 1/100,000 trước mặt, trên đó, nơi tôi dự trù sẽ đổ quân lại nằm trong vùng oanh kích tự do, ông vội nói:
– Trung úy yên tâm! Quân đoàn đã thông báo rằng, ranh giới oanh kích tự do sẽ bị đẩy xa về hướng Ðông thêm 6 cây số nữa trong suốt thời gian Biệt Ðộng Quân hiện diện.
Ông tỏ ra rất vui khi biết tôi xuất thân Khóa 20 Võ Bị. Ông cho tôi hay đại đội phòng vệ hậu cứ của ông hiện giờ cũng do Trung Úy Tuân, bạn cùng khóa của tôi chỉ huy.
Ông cho chúng tôi mượn một chiếc xe Dodge 4×4 để sử dụng cho việc chợ búa và tiếp tế nước dùng hàng ngày.
Lần hành quân này tôi được chỉ thị rõ ràng là chỉ làm công tác trinh sát thuần túy. Do đó, tôi không dự trù bất cứ hành động nào nhằm sử dụng pháo yểm hay không yểm cho các cánh quân.
Tiêu lệnh đề ra cho ba toán Viễn Thám bắt buộc phải tuân theo:
“Nếu bị bại lộ thì tự vệ, rồi chạy!”
Trước khi bay lên Tân Cảnh, tôi có ghé Phòng 2 Quân Ðoàn vài phút, tôi đã trực tiếp nghe Trung Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Khu 2 nhắc nhở:
– Trung Tướng (Lữ Lan) muốn cậu vào vùng là để tìm mục tiêu cho Ðại Úy Ngọc! Tránh giao tranh, càng ít càng tốt!
Ðại Úy Ngọc là Trung Tâm Trưởng, Trung Tâm Mục Tiêu của Phòng 2 Quân Khu 2. Trung tâm này là nơi tổng kết tin tức địch toàn Vùng 2 Chiến Thuật rồi thiết lập các sơ đồ oanh kích B 52 để Tư Lệnh Quân Khu chuyển giao cho Mỹ thi hành.
Nhiệm vụ của tôi là theo dấu Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng-Sản. Ðơn vị Việt-Cộng này lâu nay thường quấy rối, đánh mìn, phục kích đoạn Quốc Lộ 14 gần Tân Cảnh và quận lỵ Dak Tô.
Trung Tá Tiếu cho tôi hay, trước đây, Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công hoạt động trong vùng Bắc Dak Mot tức là hướng chính Bắc của Phi Trường Phượng Hoàng. Nhưng gần đây, các đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu của hai trại Dak Séang và Ben Het liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân liên ranh hướng Tây Quốc Lộ 14, nên đơn vị này phải chạy về ẩn náu trong khu vực núi non hướng Ðông thị trấn Tân Cảnh.
Theo tôi suy đoán thì khu vực rừng rậm quanh chân hai ngọn núi Ngok Wan và Ngok Sie là vùng đáng nghi ngờ nhứt để Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công Cộng-Sản trú ẩn.
Hôm sau, ba toán Viễn Thám được thả; toán An Giang xuống làng Bon Du bốn cây số Ðông Bắc Quận lỵ Dak Tô; toán Bắc Bình xuống làng Dak Men cách Tân Cảnh năm cây số về hướng Ðông Bắc; còn toán Cam Ranh thì nhảy xuống ngọn đồi tranh chỉ cách đài tiếp vận Ngok Long chừng hai cây số về hướng Tây; toán này vừa giữ nhiệm vụ tiếp cứu hai toán đầu, vừa kiểm soát con đường xe be từ làng Dak Long 1 tới Quận lỵ Dak Tô.
Hai ngày trôi qua bình yên.
Ngày thứ ba toán An Giang của Thiếu Úy Minh báo cáo rằng, trên bờ suối Dak Rơnu có nhiều dấu chân voi thồ vượt cạn theo hướng Ðông, Tây. Ước tính đoàn voi vận chuyển này cũng cỡ năm, bảy con voi thồ, cùng hàng chục người đi theo bảo vệ.
Tôi ra lệnh cho toán này men theo con đường thồ leo lên đỉnh ngọn núi nằm giữa Dak Rơnu và Dak Sing, rồi kiếm một vị trí thuận lợi giăng mìn phục kích địch để kiếm tài liệu.
Qua ngày thứ tư, Thiếu úy Nhờ trưởng toán Bắc Bình cũng báo, toán của anh vừa phát giác một khu doanh trại bằng tre nứa có nhiều hầm hào phòng thủ trong khu rừng già, bên cạnh một bãi ngô. Nơi này nằm trên con đường xe be cũ cách Dak Men khoảng một cây số về hướng Bắc. Lực lượng địch ở đây ước chừng một đại đội chính quy, người Bắc
Tôi thấy con đường từ Dak Men vào tới khu trú quân của địch là độc đạo, bên trái là đồng cỏ tranh, bên phải là vách núi, nếu bị địch phát giác chặn nút hai đầu thì toán của ông Nhờ khó thoát.
Tôi bèn ra lệnh cho Bắc Bình leo ngay lên đỉnh ngọn núi hướng chính Ðông con lộ. Sau đó toán sẽ men theo triền núi tiến về hướng Ngok Sie. Từ trên cao họ có thể nhìn thấy những ngọn khói bốc lên trong thung lũng dưới chân núi. Những cụm khói này cho ta biết khái quát vị trí nghi ngờ có địch.
Xế chiều, khi bản tin trong ngày của tôi vừa được mã hóa chuyển đi thì ông hạ sĩ quan trực hành quân của bộ binh tìm gặp tôi và báo rằng Trung tá Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân cần gặp tôi gấp trên hệ thống máy PRC 74. Trên hệ thống truyền tin này chúng tôi có thể đàm thoại với nhau bằng bạch văn.
Ðầu dây bên kia, Trung tá Trịnh Văn Bé, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân nói:
– Này Long! Có thằng đồ đệ của cậu từ Hội An vào. Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi. Nó đang chờ gặp Long! Có về được không thì cho nó hay? Nghe nói nó còn phải đi Vũng Tàu học truyền tin. Nếu phải chờ lâu, chắc nó bị lỡ ngày khai giảng.
Nghe hỏi, tôi ngớ người ra:
– Tôi không có thằng đồ đệ nào đang ở Hội An cả! Chắc là ai đó lầm người!
– Nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong, lính của Long từ ngày Long mới ra trường, khi Tiểu Ðoàn 11 còn ở ngoài Ðà-Nẵng.
Thế là tôi nhớ ra ngay:
– Nếu nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong thì nó là thằng đồ đệ ruột của tôi ngày xưa đó! Bình Minh cho nó tá túc ít ngày, chờ tôi về!
“Bình Minh” là danh hiệu truyền tin của Trung Tá Trịnh Văn Bé. Ông Bé có căn nhà trong cư xá Trần Quý Cáp, vợ con ông còn ở Sài-Gòn, nên ông cho tôi và Thiếu Úy Ðặng Hữu Duyên, sĩ quan tiếp liệu của liên đoàn ở nhờ một phòng.
Trong nhà còn có hai người đàn em của tôi là Trung Sĩ Nguyễn Lác và Hạ sĩ Nguyễn Tiến, tài xế. Có lẽ chú Phong đang tá túc trong nhà Trung Tá Bé, nên ông Bé mới nói:
— “Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi.”
Ngay lúc ấy, Trung Sĩ Nguyễn Lác cũng xen vào:
– Trình Thái Sơn, năm 1966 em là binh nhì, tân binh ở Ðại Đội 1, anh Phong đã là hạ sĩ ở Ðại Đội 3. Anh Phong là người nấu cơm cho Thái Sơn. Anh Phong bây giờ là trung sĩ đang ở Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, nhân chuyến đi học truyền tin, anh ấy ghé thăm Thái Sơn. Ảnh có đem theo mười con cua Cửa Ðại. Cua là do má của Thái Sơn gửi vào, nhưng chờ lâu quá, cua chết hết rồi! Ðể em đưa máy cho anh Phong nói chuyện với Thái Sơn nhé!
Hình như chỉ chờ có thế, đầu dây bên kia đã có tiếng người nghẹn ngào:
(còn tiếp)
Nhớ Cao Nguyên (kỳ 2)
Kỳ trước: ” Thái Sơn” nhận được cú gọi trên máy truyền tin là Trung Sĩ Phong, một đệ tử cũ lặn lội tới thăm. Người đệ tử này đã kiên nhẫn ở chờ cả tuần lễ để gặp cho bằng được “ông thầy” của mình. Trong quân đội (VNCH) tình “thầy trò” thường khi còn nặng hơn tình ruột thịt vì thật sự ngoài chiến trường sống chết có nhau.
Bài nhiều kỳ – Kỳ 2
– Ông thầy! Ông thầy ơi! Em chờ ông thầy gần chục ngày nay. Cứ tưởng sau khi nhảy toán ở Mang Giang xong thì ông thầy sẽ về, nào ngờ, tới hôm nay em vẫn chưa được gặp mặt ông.
Ðúng là chú Phong rồi! Vẫn cái giọng Bắc Kỳ khào khào, quê quê ngày xưa.
Tháng Hai năm 1966, vì lý do kỷ luật, Trung sĩ hiện dịch Nguyễn Hồng Phong bị giáng cấp xuống hạ sĩ, từ Quân Lao Mang Cá về trình diện Ðại Ðội 3/11 Biệt Ðộng Quân. Hôm đó tôi cũng vừa tới đơn vị này sau khi tốt nghiệp Khóa 20 Ðà Lạt và Khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy.
Từ ấy Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong thành người nấu cơm cho Thiếu Úy Vương Mộng Long.
Ðầu đời lính, tôi có ba anh đồ đệ: Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong, nấu cơm, Binh nhất Mai Ðăng Vinh truyền tin và Binh nhất Lý Thí mang đồ ngủ.
Mười hai ngày sau, Lý Thí và Mai Ðăng Vinh chết trong trận Tháp Bằng An, Quảng-Nam, còn lại một mình Nguyễn Hồng Phong. Chú Phong trở thành thuộc cấp thân thiết nhất của tôi.
Tới khi Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân bị lôi cuốn vào vụ Phật Giáo Miền Trung thì chú Nguyễn Hồng Phong đã theo sát bên tôi suốt thời kỳ binh biến này cho tới khi tôi và Phong chạy vào chùa, cạo đầu, xuống tóc, thành hai tỳ kheo Thích Như Tùng và Thích Như Sơn của Long Tuyền Tự, Hội-An.
Sau đó tôi bị tù, bị giáng cấp xuống trung sĩ còn Phong thì phiêu dạt phương trời nào, tôi không biết.
Thế rồi, tháng 7 năm 1967 hết hạn phạt giam, tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ chờ lấy sự vụ lệnh để lên Pleiku, thì bất ngờ thầy trò tôi gặp lại nhau.
Trưa hôm đó tôi đang la cà trong câu lạc bộ thì thình lình bị một người nhào vào ôm chặt:
-Thầy ơi! Thầy ơi!
Người ôm tôi là một tân binh, đầu trọc lóc! Mặt anh ta, thật dễ nhận, với đôi mắt xếch, và một vết sẹo dài trên má trái. Tôi giật mình,
– Phong! Phong đó ư?
Anh tân binh vừa khóc thút thít, vừa kể lể:
– Vâng! Em đây! Thầy ơi! Em nghe Bác (mẹ tôi) nói, sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá, thầy đã bị đưa lên Pleiku, em liền mua một tờ khai sinh với cái tên mới rồi tình nguyện làm tân binh Biệt Ðộng Quân. Mãn khóa này em sẽ xin lên Pleiku gặp thầy! Tên em bây giờ là Lê Văn Ơn! Thầy cứ gọi em là Ơn! Ðừng gọi là Phong nữa!
Nghe vậy, tôi đoán chắc Phong đã ghé Hội An, và được nghe mẹ tôi kể cho biết chuyện tháng Mười năm 1966 tôi đã bị đưa lên Vùng 2 sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá. Chắc chú ấy không hay những chuyện xảy ra sau này. Vì tôi giấu, nên chính mẹ tôi còn không hay chuyện tôi lận đận lao đao cả năm dài vì vụ Ðà-Nẵng 1966.
Chúng tôi không nói chuyện với nhau được lâu, vì thời gian ở câu lạc bộ của tân binh rất giới hạn, và hình như một tuần lễ, họ mới có dịp tới đó một lần.
Sau hôm ấy, cho tới khi lên đường về Pleiku, tôi không còn gặp lại Phong.
Ở Pleiku, mỗi khi có tân binh bổ sung, tôi đều nhờ ông Trung Úy Trọng, sau là Trung Úy Giáp, Sĩ quan Trưởng Ban 1 Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân tìm xem có ai là Lê Văn Ơn không, nhưng tuyệt nhiên chẳng có tân binh nào mang tên này.
Giữa năm 1968, tôi đọc được, trong thư mẹ tôi gửi vào, có câu:
— “Thằng Phong đang làm trung sĩ ở ngoài Huế.”
Bà mẹ tôi biết chuyện này cũng vì nhân dịp vào Hội An thăm nhà tôi, Phong đã kể:
— “Năm 1967, sở dĩ có chuyện Phong đổi họ, đổi tên, tình nguyện làm binh nhì Biệt Ðộng Quân cũng chỉ vì chú ấy hy vọng sau khi ra trường, sẽ được đưa lên Pleiku, ở gần ông thầy của chú. Nhưng tới khi mãn khóa tân binh Dục Mỹ, thấy tên Lê Văn Ơn nằm trong danh sách bổ sung quân số cho Liên Ðoàn 1 Biệt Ðộng Quân ngoài Ðà Nẵng thì chú ấy lại đào ngũ lần nữa!”
Phong tiếp tục cuộc sống bất hợp pháp nơi quê vợ Quảng Trị cho tới sau biến cố Tết Mậu Thân.
Sau Mậu Thân, chính phủ ban lệnh ân xá và miễn tố cho tất cả quân nhân đang tại đào. Cho phép họ phục hồi cấp bậc cũ và trở về phục vụ trong quân ngũ.
Thế là chỉ nửa năm sau khi trình diện và cầm súng trở lại, Hạ sĩ tiểu đội trưởng Nguyễn Hồng Phong đã lên tới trung sĩ, được giao cho chức vụ trung đội phó bộ binh.
Ðã mấy lần tôi về thăm Hội-An nhưng không có thì giờ ra Huế. Thầy trò tôi từ ngày nói chuyện được vài câu năm 1967, ở Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, tới 1970 vẫn chưa nhìn lại mặt nhau.
Tôi thấy mắt mình nhòa đi, khi nghe đầu dây bên kia, người đàn em của tôi đang khóc:
– Thầy ơi! Thầy ráng giữ gìn sức khỏe! Nếu trời không cho chúng mình gặp lại nhau kiếp này, kiếp sau em lại xin tình nguyện làm đồ đệ của thầy lần nữa!
Tôi vội hứa:
– Mai nếu không có gì thật quan trọng xảy ra, anh sẽ về gặp chú.
– Vâng! Em sẽ chờ ông thầy! Hai ngày nữa khóa truyền tin khai giảng. Nếu trình diện trễ, họ không nhận và đuổi về. Nói thế chứ, việc em cần là gặp mặt ông thầy, dù có trễ và bị đuổi về đơn vị em cũng chẳng ngán!
Sau khi trò chuyện với Phong vài phút nữa, tôi gác máy rồi sang khu Cố Vấn Hoa Kỳ của Trung Ðoàn 42 gặp Goodell. Tôi nhờ anh ta ngày mai xin cho tôi một trực thăng để đi quan sát vùng hành quân, sau đó lấy cớ có việc cần phải về hậu cứ Pleiku, tôi có dịp nói đôi câu với Phong trước khi chú ấy đi Vũng Tàu.
Hình như số trời không cho thầy trò tôi được gặp nhau lần nữa, nên mới mờ sáng hôm sau, qua đài tiếp vận, toán Cam Ranh của Trung sĩ Lê Sanh Ma báo cáo chạm địch.
Một con chó săn (?) của du kích Thượng đã đánh hơi, phát giác ra trong ruộng ngô bên đường xe be có người. Toán này phải chạy bán sống bán chết. Hiện giờ chưa rõ vị trí chính xác của toán này đang ở đâu.
Vậy là thay vì xin trực thăng để về Pleiku, tôi lại dùng trực thăng để thả tôi và hai anh Mỹ cùng một toán viễn thám khác xuống đài tiếp vận.
Ðỉnh Ngok Long cao 1075 mét nên từ đây tầm quan sát của tôi thật là mút mắt. Cách Ngok Long chừng hai cây số về hướng Tây Bắc là con đường xe be nhìn giống như một con trăn lớn, nằm ngoằn ngoèo theo hướng Ðông Nam, Tây Bắc vắt ngang một ngọn đồi tranh.
Trưa hôm đó tôi bắt liên lạc được toán Cam Ranh. Toán đang cố gắng tìm cách đánh lạc hướng địch.
Xế chiều, toán Cam Ranh mới bơi qua con suối Dak Sing. Toán không thể thoát chạy nhanh như mọi lần trước đây, chỉ vì có một người bị thương vì… chó cắn!
Tôi dẫn theo anh y tá và bốn viễn thám viên xuống núi đón ông Ma. Sáu người của tôi tới cái yên ngựa cách Ngok Long chừng một cây số thì nghe tiếng súng AK nổ rộ từ bờ Bắc của suối Dak Sing.
Thung lũng Dak Sing toàn là đầm lầy và đồng cỏ tranh rất trống trải. Có lẽ địch đã nhìn thấy quân ta bên bờ Nam, nên nổ súng bắn theo.
Chẳng đặng đừng, tôi phải gọi Trung Ðoàn 42 xin pháo binh Hoa-Kỳ từ Dak Mot bắn phủ vùng một đoạn đường từ Dak Long 1 tới bờ suối, hy vọng chặn được đoàn quân địch đang truy kích quân ta.
Ở Dak Mot có một pháo đội 16 khẩu 105 ly của Mỹ. Muốn yêu cầu bao nhiêu tràng họ cũng thỏa mãn ngay.
Hai tiếng đồng hồ sau, toán Cam Ranh mới về tới cái yên ngựa. Quần áo người nào cũng đỏ lòm vì bùn lầy. Bùn vùng này thật là đặc biệt, màu bùn đỏ như máu tươi, đi tới đâu, bùn từ quần áo giày vớ lại bám trên ngọn tranh, không có cách gì xóa dấu vết được.
Anh y tá vội dùng rượu cồn để rửa vết chó cắn trên đùi anh thương binh. Tôi cũng ngồi bên, giúp anh một tay. Người bị chó cắn là Binh nhì Lê Hóa. Vết thương trên đùi chưa được băng bó, lại bị ngâm nước bùn nhiều giờ, nay đã sưng tấy lên.
Bất ngờ,
— “Xoẹt!…”
từ dưới dốc, một vật gì đó hình thù như một cái gối ôm đen thui phóng lên ngay bên hông tôi!
— “Rẹt! Rẹt! Rẹt!…”
Hạ sĩ Chạy đã nhanh tay “đẩy” một băng M16. Cái gối ôm màu đen văng sang bên lối mòn, thì ra đó là một con chó săn! Ðầu con chó bị đạn bắn vỡ toác. Máu chó văng tung tóe.
Tôi hét lên:
— “Tụi thằng Chạy ở lại cản đường! Tụi thằng Ma kéo thằng Hóa lên đài tiếp vận! Nhanh lên!”
Chúng tôi vác anh viễn thám bị chó cắn leo lên chưa được nửa đường tới đỉnh Ngok Long thì dưới chân núi toán của Hạ sĩ Chạy bắt đầu đánh nhau.
Nghe tiếng súng địch, tôi thấy không phải là tiếng súng hỗn tạp của du kích Thượng Cộng, mà rõ ràng là tiếng AK và RPD của quân chính quy. Súng của du kích thường là loại bắn từng phát một, không có súng bắn liên thanh từng tràng.
Lực lượng địch đang truy sát chúng tôi chắc chắn là trực thuộc một đơn vị chính quy Cộng-Sản.
Tới đài tiếp vận, tôi cho anh em bố trí một vòng cung hướng về con đường mòn đầu dốc.
Mặt trời lặn từ từ…
Dưới chân núi vọng lên năm sáu tiếng “Ùm! Ùm Ùm!…” liên tiếp rồi im. Chắc quân ta đã cản địch bằng lựu đạn M26 trước khi rút.
Không lâu sau, toán bốn người của Hạ sĩ Chạy về tới chỗ quân bạn.
Toán của Hạ sĩ Chạy vừa lên tới đỉnh núi thì dưới chân dốc có tiếng mìn nổ và tiếng chó kêu “Ăng ẳng!”
Chắc chắn vài con chó săn và vài tên địch đã bị bẫy gài của chú Chạy đốn gãy cẳng rồi.
Nhớ lại, hồi sáng, vừa nghe toán của chú Ma báo cáo là bị chó cắn, tôi đã hơi nghi. Vì xưa nay tôi đã hành quân qua nhiều buôn làng của người Thượng, hiếm khi thấy chó sủa người, chứ đừng nói tới chuyện chó tấn công người. Chó của dân Thượng chỉ sủa và cắn thú rừng, tuyệt nhiên chúng không cắn người!
Tối đó chú Ma kể lại tường tận diễn tiến sự việc, tôi mới rõ nguyên nhân vì sao mà toán của chú bị địch đuổi phải chạy vắt giò lên cổ.
Số là, sau khi đặt chân xuống bìa làng Dak Long 1 đã bỏ hoang, Trung sĩ Ma cho quân tụt xuống suối ém quân suốt bốn ngày. Tới khi nghe các toán khác phát giác dấu vết địch, Ma mới cho quân leo lên đỉnh ngọn đồi tranh hướng Bắc để dễ liên lạc và dễ bắt tay với hai toán kia.
Tới đỉnh đồi, họ đụng phải một bãi ngô đang có cờ, anh em tưởng đây là nương rẫy của dân Thượng từ ngoài Dak Tô vào canh tác.
Gần nửa tháng ở trong rừng, từ Mang Giang qua Dak Tô không có cọng rau nào trong bụng, ai cũng thấy xót ruột. Sáu chàng viễn thám lủi vào ruộng ngô, mỗi người cạp vài bắp ngô non cho mát ruột.
Nào ngờ,
— “Gâu! Gâu! Gâu!…”
Bốn, năm con chó xông vào tấn công. Năm viễn thám viên vọt nhanh xuống suối. Riêng Binh nhì Lê Hóa vì luống cuống bởi chiếc ba lô chứa cái máy PRC 25 nên chậm chân.
Hai con chó săn bự xự nhào vào hai chân của Hóa. Hai hàm răng chó vừa nhọn, vừa sắc cắn tới tấp rồi nhay qua nhay lại.
Ðau quá, Hóa nhắm mắt quơ đại một băng hai chục viên M 16 rồi phóng xuống đồi.
Thì ra đỉnh ngọn đồi đó là vị trí một đơn vị tiền tiêu của địch.
Từ đỉnh đồi này chúng có thể kiểm soát hai trục lộ tiến sát từ Dak Tô và từ Tân Cảnh.
Chắc chắn đây là một đơn vị Trinh Sát hay Ðặc Công; các đơn vị cấp tiểu đoàn Ðặc Công hay Trinh Sát Việt-Cộng mới có chó săn để dò đường và dẫn đường.
Cũng may là mùa này gió theo hướng Ðông Tây, mấy ngày qua, toán Cam Ranh nằm cuối gió nên không bị chó đánh hơi, phát giác.
Tới khi nghe tiếng súng của viễn thám viên Lê Hóa nổ “Ðùng! Ðùng!” bọn Việt Cộng mới biết có địch xâm nhập. Tới khi chúng tập họp đủ quân số để truy kích thì kẻ địch của chúng đã chạy xa rồi.
Tôi thở ra nhẹ nhõm khi thấy quân ta không bị tổn thất gì đáng kể.
Hiện thời chúng tôi chỉ có hơn hai chục tay súng, kể cả anh Hóa thương binh và hai anh cố vấn Mỹ. Ðỉnh núi Ngok Long lại quá rộng và bằng phẳng, không có chỗ nào có thể cho chúng tôi dựa lưng để chống đỡ nếu địch mở ra những đợt tấn công liên tiếp.
Ðạn mang trên lưng chúng tôi cũng không nhiều, nếu phải đánh nhau suốt đêm thì chúng tôi sẽ nguy ngay.
Tôi nghĩ, nếu địch tiếp tục truy kích chúng tôi thì chắc chắn chúng sẽ theo con đường mà tôi đã dùng để đổ dốc sáng nay. Tôi bèn trải quân theo hình cánh cung đóng chốt đôi ngay đầu con đường mòn.
Ngoài hai quả Claymore sẵn sàng, chúng tôi còn chuẩn bị gần chục trái lựu đạn M26 để nghênh đón địch ngay đầu dốc.
Ðêm xuống, bóng tối dâng lên, tinh thần chúng tôi càng lúc càng thêm căng thẳng.
Sợ địch sẽ lợi dụng bóng tối để leo lên tập kích, tôi nhờ Goodell xin không quân yểm trợ gần. Chỉ nửa giờ sau, hai trực thăng võ trang Cobra đã đảo một vòng trên đầu tôi. Tôi điều chỉnh Cobra đánh sát chân Ngok Long, rồi từ đó kéo dài vùng oanh kích xa dần về hướng Tây Bắc.
Khi Cobra rời vùng, tôi đã có sẵn một máy bay Hỏa Long AC 47 lên thay thế.
Chúng tôi được Hỏa Long bao vùng cho tới gần sáng.
Ðêm đó Binh nhì Hóa bị vết chó cắn làm độc, lên cơn sốt mê man.
Mặt trời chưa lên, mọi người đã ba lô, súng đạn gọn gàng.
Tôi cho người thay nhau cõng chú Hóa và theo chân nhau tụt xuống núi lánh nạn.
Tôi quyết định không đổ thêm quân vào vùng. Trừ bị của tôi chỉ còn một trung đội nằm ở Tân Cảnh. Nếu sử dụng nốt trung đội này, sẽ không còn ai tiếp cứu nữa. Sau đó lại phải đánh nhau với một lực lượng địch bốn năm lần mạnh hơn mình trong rừng rậm thì chết là cái chắc!
Rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt mới là thượng sách.
Tới trưa, bên một vách núi chênh vênh, chúng tôi an toàn leo lên trực thăng về Tân Cảnh.
Ngày sau nữa tôi triệt xuất hai toán còn lại không trở ngại.
Về tới Tân Cảnh, tôi tập họp các toán lại, để đúc kết tình hình.
Dịp này toán Bắc Bình báo cáo rằng trong những ngày vừa di chuyển vừa theo dõi địch, họ phát giác ra năm sáu vị trí khói bốc lên rải rác trong thung lũng Dak Sing, cặp theo con đường xe be chạy dài từ Dak Men vào tới chân núi Ngok Sie.
Ngày nào cũng thế, các lùm khói chỉ xuất hiện vào lúc mờ sáng khi sương mù chưa tan; tới khi nắng lên thì cảnh vật trở lại yên tĩnh, không có gì đáng nghi.
Thiếu úy Nhờ cho rằng những cuộn khói ban mai đã bốc lên từ các bếp nấu cơm hàng ngày của Việt-Cộng.
Từ những dữ kiện trên, tôi suy ra, đơn vị Việt-Cộng nằm dài theo thung lũng Dak Sing dưới kia chính là Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng-Sản.
Chúng tôi có một ngày nghỉ ngơi rồi lên trực thăng rời Tân Cảnh.
Trung tá Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn không tiếc lời khen ngợi chúng tôi đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó.
Trung Tướng Lữ Lan, Tư Lệnh Quân Khu 2 cũng đã vui vẻ ra tận bãi đáp trực thăng của Thành Pleime để bắt tay và nói lời khích lệ tinh thần chúng tôi.
Tôi về tới Cư Xá Trần Quý Cáp, Pleiku thì chú Phong đã đi rồi.
Trung tá Bé kể lại:
– Thằng học trò của Long đúng là một tên “gàn” hết cỡ! Có mười con cua của bà má Long gửi vào, anh bảo nó luộc lên rồi cất đi chờ Long, nó không nghe. Mỗi ngày vài con cua chết; qua năm ngày thì chẳng còn con nào. Cả ngày nó cứ đi ra, đi vô, không yên. Ðêm nào anh cũng nghe tiếng nó khóc. Tội nghiệp quá!
Không lâu sau, mẹ tôi bất ngờ vào Pleiku báo cho tôi một tin thật là buồn:
– Vợ thằng Phong mới bế đứa con gái nhỏ vào Hội An báo cho mẹ biết rằng thằng Phong chết rồi! Vợ nó nói, thằng Phong được đi học truyền tin ở Vũng Tàu, nhưng cứ mải đi chơi, trình diện trễ, bị trả về nhiệm sở cũ. Ít lâu sau thì tử trận! Mẹ đã cho vợ nó một số tiền, và dặn, bất cứ lúc nào nó cần giúp đỡ thì cứ vào Hội An gặp mẹ.
Vừa kể chuyện này, mẹ tôi vừa lau nước mắt. Chú Phong mồ côi mẹ. Từ đầu năm 1966, khi nhà tôi còn cư ngụ tại Khu Hồ Sen chùa Âm Bổn, Hội-An, chú Phong tới thăm mẹ tôi lần đầu, chú ấy đã coi mẹ tôi như là mẹ chú ấy. Mỗi khi ghé nhà tôi, chú thường gọi mẹ tôi,
– “Mẹ ơi! Mẹ ơi!…”
Chú Phong mất, mẹ tôi cũng đau lòng như vừa mất một người con mang nặng, đẻ đau.
Tin này đã khiến lòng tôi áy náy không yên một thời gian khá dài.
Nếu ngày đó mẹ tôi không gửi mười con cua Cửa Ðại vào Pleiku cho tôi, chắc chú Phong đã đi thẳng một lèo từ Hội-An vào Vũng Tàu rồi.
Nếu ngày đó chú Phong tới Pleiku, tôi vắng nhà, chú không chịu chờ, chắc chắn chú ấy đã không bị trình diện trễ.
Nghĩ xa hơn, nếu năm 1967 anh tân binh có tên Lê Văn Ơn được bổ sung cho Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân ở Pleiku, thì biết đâu anh ta vẫn còn sống!
Cuối cùng tôi đành tự an ủi:
“Con người sống chết có số. Cái số của chú ấy đã như vậy rồi, thì có cưỡng cũng chẳng được!”
Ðầu tháng Bảy năm 2013, một người đàn ông, giọng trọ trẹ, từ Phong Ðiền, Quảng Trị, Việt-Nam gọi điện thoại cho tôi ở Seattle:
– Trung Úy ơi! Cái bật lửa Zippo có khắc dòng chữ “TA LÀ VUA” của Trung Úy có còn đó không? Nếu còn, ông cho em mượn để mồi một điếu Lucky!
Vừa nghe câu này, tôi biết ngay rằng người ở đầu dây bên kia phải là người đã từng cùng tôi chia ngọt sẻ bùi trong suốt thời gian dài ở Ðại Đội 1/11 Biệt Ðộng Quân từ 1967 tới 1969. Họ biết ngày đó tôi có cái Zippo khắc dòng chữ “TA LÀ VUA” vừa khinh mạn, vừa ngổ ngáo, cũng như họ biết trong túi tôi lúc nào cũng có một bao thuốc lá hiệu Lucky không đầu lọc.
Sau này, dù tôi đã đeo lon đại úy, thiếu tá lâu rồi, những thuộc cấp cũ của tôi và cả vợ con họ, mỗi khi gặp lại, đều kêu tôi là “Trung úy”.
Tôi không giấu nổi nỗi vui mừng nên la lớn:
– Ai đó?
– Lụa đây trung úy! Trung úy có nhớ tên em không?
– Okay! Nhớ rồi! Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa ở Ðại Đội 1! Lụa đang ở đâu vậy? Có khỏe không? Gia đình bình yên chứ?
– Dạ, em đang ở quê Quảng Trị, em mới tìm được số điện thoại của Thái Sơn, em gọi Thái Sơn, trước là để thăm Thái Sơn và gia đình, sau là báo cho Thái Sơn biết rằng vợ thằng Nguyễn Hồng Phong đã mất cách nay mấy tháng rồi!
Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa là một tiểu đội trưởng ở Ðại Đội 1/ 11 giải ngũ sau khi bị thương ở Ðà-Lạt trong trận Tết Mậu Thân.
Tình huynh đệ chi binh vẫn còn đó, bốn mươi lăm năm qua đi, mà ông trung sĩ nhất tiểu đội trưởng vẫn chưa quên ông trung úy đại đội trưởng của mình.
Tôi thắc mắc:
– Ủa! Lụa quen nhà thằng Phong à? Ðứa con gái của thằng Phong bây giờ đâu?
– Trình Thái Sơn, vợ thằng Phong là em ruột của Lụa. Sau khi thằng Phong chết, cô ấy đem con về quê Quảng Trị ở nhà em. Cách nay vài tháng cô ấy qua đời vì bệnh. Còn đứa con cô ấy thì bỏ xứ, đi làm xa, lâu lắm rồi không có tin tức gì.
Vì từ năm 1974 mẹ tôi đã di chuyển vào Sài-Gòn định cư, nên gia đình tôi không còn biết thêm tin tức gì của vợ con chú Phong.
Mẹ tôi cứ áy náy rằng vợ chú Phong còn quá trẻ, năm chú Phong tử trận vợ chú mới trên hai mươi tuổi mà đã thành góa phụ, thật là tội nghiệp.
Tôi không hỏi thêm, nhưng qua cung cách nói chuyện của chú Lụa, tôi tin rằng người em gái của chú ấy một đời chỉ có một mối tình.
o O o
Lá đỏ trong rừng lạ
Ðầu tháng Năm năm 1970 có một anh lính của Tiểu Ðoàn 23 vừa chết trận. Quê quán anh ở xã Châu Sơn, Ban Mê Thuột, thân nhân của anh đã áo tang, khăn trắng túc trực ở Quân Y Viện Pleiku. Trung Tá Sâm muốn nhờ tôi bay theo trực thăng, đưa quan tài của người lính đó về thẳng Châu Sơn, đáp giữa sân nhà thờ.
Tôi vừa xuất viện sau khi mổ lấy một mảnh cối 82 ly bên sườn, còn rảnh rang, nên cũng muốn nhân dịp này ghé nhà thăm Loan vài hôm nên nhận lời làm công tác này ngay.
Thói quen, cứ lên trực thăng thì thế nào tôi cũng đem theo một cái PRC 25 có tần số của đài tiếp vận Hàm Rồng. Nếu đi đâu bằng máy bay cánh thẳng thì tôi không mang máy.
Chiếc trực thăng có nhiệm vụ bay con thoi cho Quân Khu 2 ngày hôm đó đã trình diện rất đúng giờ. Họ tới từ Camp Holloway, Pleiku. Phi hành đoàn gồm bốn quân nhân Mỹ trắng. Ông đại úy trưởng phi cơ hơi lớn tuổi, ăn nói có vẻ cộc lốc, thô lỗ nhưng dứt khoát. Ba người còn lại, gồm một trung úy phi công phụ và hai cơ phi xạ thủ thì còn trẻ măng.
Chiếc HU1 D phải dựng ghế lên thành tàu mới đủ chỗ cho tôi và bốn thân nhân tử sĩ ngồi bệt hai bên chiếc quan tài.
Mặc dù quan tài đã được hàn thiếc xung quanh, nhưng mùi tử thi vẫn khiến hành khách không chịu nổi. Hai cánh cửa trực thăng đã được mở rộng tối đa mà tôi vẫn còn cảm thấy khó thở.
(còn tiếp)
Nhớ Cao Nguyên (kỳ 3)
Kỳ trước: Người sĩ quan Biệt Động Quân ấy bị thương, nhập viện, xuất viện… rồi xin đi phép về thăm nhà vài hôm. Trên chuyến trực thăng HU1 D mà ông “quá giang” sẽ xảy ra những sự kiện hồi hộp hơn trong phim sẽ được đăng tiếp dưới đây.
Bài nhiều kỳ – Kỳ 3
Phi cơ bốc lên lấy cao độ rồi lao nhanh trong không trung. Lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ trên chiếc quan tài cứ bật lên, bật xuống, từng cơn phần phật, như muốn thoát ly ra khỏi lòng con tàu để bay ra ngoài.
Chúng tôi đáp xuống Châu Sơn không khó khăn. Dưới sân nhà thờ đã có nhiều người đứng chờ, trong đó có trung đội chung sự của Tiểu Khu Daklac.
Tôi bàn giao chiếc quan tài của người đồng đội cho những người phụ trách công tác tiễn đưa tiếp theo, rồi lên tàu tiếp tục cuộc hành trình.
Rời Châu Sơn, chúng tôi nhắm hướng Ðức Lập. Có một công văn khẩn phải trao cho đơn vị Công Binh đang xây dựng căn cứ Bu Prang.
Sau việc này máy bay mới trở về Ban Mê Thuột, đi Nha Trang, ra Qui Nhơn, cuối cùng sẽ quay lại Pleiku.
Tôi sẽ chấm dứt chuyến quá giang này khi phi cơ xuống Ban Mê Thuột đổ xăng.
Chúng tôi chỉ ghé phi trường của Trại Ðức Lập một phút, trao tay cho ông Ðại úy Tỵ cái bì thư rồi đi ngay.
Trực thăng vừa rời Ðức Lập thì trời chuyển cơn giông, trần mây quá thấp, lại đen kịt đầy chớp giật ngay trên đầu.
Ông phi công vội vàng cho con tàu vọt lên cao tránh sét đánh. Gần tới cao độ bảy nghìn bộ tôi mới thấy trời quang đãng.
Phi cơ tiếp tục lên cao hơn, càng lên cao, nhiệt độ càng giảm. Dù hai anh cơ phi xạ thủ đã đóng kín hai cửa hông của máy bay rồi mà hai hàm răng của tôi còn đánh vào nhau “Cộp! Cộp!…”
Bay được khoảng nửa giờ thì trực thăng giảm độ cao.
Tôi ước tính nếu đi đúng đường thì dưới kia phải là thành phố Ban Mê Thuột. Nhưng ông phi công cứ bay vòng vòng hoài mà không tìm ra cái lỗ hổng nào để chui xuống. Dưới bụng con tàu là một biển mây trắng xóa.
Không ai biết độ dày của cái nệm mây dưới kia là bao nhiêu. Nếu mạo hiểm chui xuống, không may mà cánh quạt chặt phải cây cối hay cột đèn thì chết ngay.
Tôi thấy ông phi công chợt kéo cần cho con tàu đổi hướng sau một hồi đàm thoại với đài kiểm soát không lưu ở dưới đất.
Tôi đoán mò, chắc ông ta được lệnh bay tới một phi trường khác để hạ cánh chăng?
Thế là, chiếc trực thăng cứ “Bạch! Bạch! Bạch!…” vút đi, dưới bụng con tàu vẫn là mây trắng xóa.
Tôi bắt đầu chột bụng khi nhìn thấy, qua vai người lái, cái kim đồng hồ xăng đang tiến gần chữ “E” (E=Empty=Trống rỗng= Hết nhiên liệu).
Bên cạnh đồng hồ xăng là cái quả cầu đo thăng bằng của phi cơ. Phi cơ vẫn trong tình trạng bình phi, nghĩa là bay bình thường, nhưng không hiểu vì sao mà quả cầu của phi cơ lại liên tục lộn mèo, chao đảo, không yên. Cái kim la bàn dạ quang trên đồng hồ chỉ hướng của phi cơ cũng quay lung tung, chẳng biết máy bay đang đi theo hướng nào!
Tôi mở cái địa bàn ra, để trên đùi gióng hướng thì toát mồ hôi, trực thăng đang vùn vụt bay theo hướng Tây Bắc! Chẳng lẽ ông phi công này bay đi Tiêu Atar? Tiêu Atar ở giữa rừng, làm gì có xăng!
Tôi nhỏm người vỗ vai ông Mỹ:
— Where’re you going? Were you lost? (Anh đi đâu vậy? Anh lạc đường rồi à?)
Ông đại úy quay mặt, trợn mắt:
— Sit down! Shut your mouth! (Ngồi xuống! Câm miệng lại!)
Nghe ông phi công nẹt, tôi cũng chột dạ, nín thinh; tôi chỉ là hành khách, ông ta mới là người cầm vận mạng cái trực thăng này.
Anh cơ phi xạ thủ rời vị trí, leo lên chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ:
— Don’t make a mess! Let him going with instrument! (Ðừng quấy rối! Ðể cho ông ta bay theo phi cụ!)
Dứt lời, anh ta thân thiện vỗ vai tôi một cái rồi trở về vị trí cũ của anh.
Hình như ông đại úy này rất có uy, từ khi lên máy bay tới giờ, tôi thấy thuộc hạ của ông cứ răm rắp thi hành khẩu lệnh của ông mà chẳng dám có ý kiến gì.
Tôi là sĩ quan bộ binh, xía vào chuyện bay bổng, bị ông ta nẹt cũng là đáng đời.
Nhưng tôi vẫn cứ phập phồng lo. Nếu tiếp tục thế này thì chỉ vài chục phút nữa là trực thăng hết bay nổi, bình xăng trống rỗng thì làm sao mà bay?
Trong khi đó thì ông trưởng phi cơ tiếp tục công việc một cách rất tự tin. Ông ngồi với tư thế của một kỵ mã, tay phải nắm cần lái như nắm dây cương, lưng ông hơi chồm về đằng trước như đang ở trên yên ngựa. Tay trái ông liên tục vặn vặn, nhấn nhấn, hết nút này tới nút kia.
Qua khe hở của cánh cửa phi cơ khép chưa kín, tiếng nổ của ống phản lực trên nóc con tàu cứ đều đều, “Bùng! Bùng! Bùng!…
Thế rồi, khoảng chừng mười phút sau tôi thấy ông đại úy đột ngột giơ hai tay lên cao, vỗ mạnh mấy cái vào chiếc nón bay trên đầu mình, miệng lớn tiếng chửi thề:
— “F!…you! F!… you!…” (Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!…)
Chắc ông ta đổ quạu sau khi thấy hệ thống phi cụ (flying instrument) của con tàu đã rối loạn, không thể điều chỉnh hay sửa chữa được nữa.
Rồi, bất thình lình, tôi cảm thấy như rớt cả tim, gan, phèo, phổi, vì con tàu đột ngột lao xuống, xuyên thẳng vào cái nệm mây trắng dày đặc dưới bụng.
Qua lớp mây dày là trần mây thấp. Tiếp đó, bên hông con tàu đã có những cụm mây màu xám đục bay ngang.
Rồi máy bay bồng bềnh trên biển sương trắng loãng; dưới bụng con tàu là một dải rừng bằng phẳng màu nâu trùng điệp.
Phi cơ từ từ giảm tốc độ, khi trước mắt tôi hiện ra, không xa lắm, một khoảng đất trống, giống như một mặt hồ cạn nước mùa khô.
Viên phi công ghìm cần lái; con tàu sà xuống; một cú đáp thật lành nghề!
Máy bay vừa chạm đất, cánh quạt còn vèo vèo cuốn gió, bốn ông Mỹ đã vọt lẹ.
Trên tàu còn lại mình tôi. Tôi sợ rằng nếu mình nhảy ra, lỡ con tàu nghiêng đổ làm cho cánh quạt chặt lung tung, có khi bị đứt đầu, đứt cổ.
Tôi cứ hai tay giữ chặt chân cái ghế ngồi, dựa lưng vào vách máy bay, mặc cho thân mình lắc lư theo con tàu.
Một lúc sau thì ông phi công chính cũng quay trở lại. Ông leo lên đưa tay vặn vặn, bấm bấm, mấy cái nút, vài giây sau thì động cơ ngừng quay.
Chui ra khỏi trực thăng, tôi leo lên một ụ đất quan sát địa hình mà chẳng biết mình đang ở tọa độ nào.
Hiện thời chúng tôi đang ở giữa một cánh đồng, cỏ cao ngập đầu người, xung quanh là rừng cây trống chân. Rừng thì bạt ngàn nhưng chỉ có một loại cây dầu rái lá đỏ. Loại cây này chỉ cao tối đa là hơn mười mét, thường mọc trên vùng đất pha đá tổ ong, thân và cành sần sùi, lá lốm đốm xanh, vàng, nâu, đỏ. Nhựa của loại cây này dùng pha sơn, hoặc quết lên phên làm vách nhà, hay trét cho ghe thuyền không bị nước tràn vào.
Theo tôi biết thì rừng loại này chỉ có ở khu vực Cheo Reo và vùng hướng Ðông tỉnh Lomphat của Cao Miên. Vùng Cheo Reo toàn đồi núi, nơi đây thì bằng phẳng hơn.
Trước khi hạ cánh, chúng tôi đã bay rất lâu theo hướng Tây Bắc, như vậy chắc chắn giờ phút này tôi đang đứng trên đất Cao Miên!
Tôi xách chiếc PRC 25 ra giữa bãi tranh, mở máy gọi đài tiếp vận Hàm Rồng. Không nghe tiếng trả lời.
Tôi chợt nghĩ tới toán tuần tra biên giới của Phòng 2 Quân Ðoàn. Nếu gọi được họ, chắc họ sẽ có cách cứu mình.
Khổ một nỗi, chiếc PRC 25 của tôi chỉ có ăngten lá lúa, chúng tôi lại đang ở vùng đất thấp, không thể liên lạc được những đài ở xa.
Trong lúc tôi loay hoay với cái máy PRC 25 thì ông đại úy cũng bận rộn với chiếc máy phát tín hiệu cầu cứu Beacon của ông. Hình như ông không gọi được đài nào, mặt ông ướt đẫm mồ hôi.
Chợt trong trí tôi lóe lên một ý mới. Tôi tiến tới bên ông đại úy Mỹ, đề nghị với ông ta rằng, ông ta thử cố gắng bay lên cao, giữ lơ lửng trên không một vài phút phát tín hiệu cho đài Peacok hoặc cho chiếc máy bay OV 10 đang bay tuần tra biên giới để cầu cứu xem sao.
Chẳng biết kế sách của tôi có đúng sách vở hay không, mà vừa nghe xong, mắt ông ta sáng lên ngay. Ông ra dấu cho ba người còn lại tản ra xa, ôm súng canh gác rồi kéo tay tôi leo lên tàu. Ông vặn nút cho máy chạy. Cái cánh quạt chuyển động từ từ chầm chậm, rồi nhanh dần, nhanh dần…
Con tàu bốc lên cao. Lên tới độ cao khoảng hai trăm thước thì hết lên nổi.
Trong khi ông phi công Mỹ nói lia lịa, tôi cũng lớn tiếng phát thanh bổng, hy vọng có ai đó ở đài Hàm Rồng nghe được tiếng kêu cứu của mình:
– Cấp cứu! Trực thăng của tôi rơi trong vùng biên giới Miên! Yêu cầu tuần tra biên giới bay theo biên giới Miên và Pleiku tìm chúng tôi!
Tôi mới gào lên được một câu thì trực thăng hoàn toàn hết xăng. Con tàu rơi tự do.
– “Ầm!”
bụng trực thăng chạm đất gây nên một tiếng động điếc tai. Bụi bay mù cả một vùng rộng lớn.
Tôi cứ lì lợm ôm chặt hai chân cái ghế ngồi. Cho tới lúc con tàu chao qua một bên, cánh quạt quật “Choảng! Choảng! Choảng!…” vài nhát tóe lửa trên mặt đá tổ ong, rồi nằm im, tôi mới buông tay ra. Con tàu không phát hỏa, hết xăng rồi, làm sao mà cháy được?
Vào lúc tôi vừa chui ra khỏi tàu thì vọng lại từ xa, hướng Tây có tiếng súng bắn “Bóc! Bóc! Bóc!…”
Hướng Tây thì làm gì có quân bạn? Chắc là Việt-Cộng rồi!
Bốn ông Mỹ này kể ra cũng là những tay có bản lãnh, vừa nghe tiếng súng, họ liền chạy ào lên chiếm lĩnh một mô đất cao, vào đội hình, hai phi công thủ súng ngắn, P38, hai cơ phi xạ thủ ôm súng dài, M16, dựa lưng vào nhau, chia hai hướng, sẵn sàng chiến đấu. Tôi cũng vội vàng chạy theo chân họ.
Tôi không mang theo súng ngắn, lại cũng chẳng có súng dài, chỉ có con dao găm giắt bên ống quần. Nếu phải đánh nhau thì không tử trận, cũng thành tù binh!
Nhìn quanh, thấy chỉ có cỏ tranh và cây khọt, không có hang động nào có thể chui vào để trốn lánh, không có gốc cổ thụ nào để ẩn núp, năm người ngồi chụm vào nhau giữa đồng trống thì không khác gì đang ngồi làm năm cái bia cố định cho những tên địch núp trong rừng nhắm bắn.
Sau vài giây do dự, tôi cắm đầu chạy về phía chiếc trực thăng, hy vọng trong lòng tàu có vật gì dùng làm vũ khí được không.
Chiếc trực thăng giờ này trông sống động lạ kỳ! Cái đuôi máy bay bị gãy một khúc dài chừng một thước. Phía sau hai càng thì cắm xuống đất, phía trước hổng lên cao, nhìn như một con cá voi đang vượt cạn. Dưới bụng con cá voi là một vùng bầy hầy nhớt nhát dầu mỡ đen thui. Chiếc trực thăng đã đứt hết kinh mạch rồi, máu huyết của nó là dầu mỡ tuôn ra tung tóe, ngập lụt một khu rộng lớn dưới bụng và xung quanh nó.
Tôi hét lên vui mừng khi nhìn thấy hai khẩu M 60 còn nguyên không hư hại:
– Có súng rồi! Tôi có súng rồi!
Leo lên tàu, một tay kéo cơ bẩm khẩu M 60, tay kia giơ lên vẫy bốn anh lính Mỹ, tôi la lớn:
– Come here! Come here! Hurry up! Hurry up! (Lại đây! Lại đây! Mau lên! Mau lên!)
Bốn ông lính Mỹ tỉnh ngộ ngay, liền chạy ào lên tàu. Ngay tức khắc, đạn lên nòng, hai khẩu đại liên trong tình trạng sẵn sàng.
Chúng tôi chờ đợi khá lâu mới nghe trên trời có tiếng động cơ “O!… O!… ! O!…” của máy bay trinh sát. Trong máy PRC 25 của tôi có người gọi:
– “Ðây là alpha! Có ai nghe không?”
Tôi cầm máy lên:
– Tôi là người kêu cứu, alpha có nghe được tôi không?
Người trên tàu ra lệnh:
– Giới chức đưa máy cho ông “mũi lõ” ngay đi! (Ông mũi lõ: có ý nói là người Mỹ).
Tôi biết, hàng ngày quân đoàn đều biệt phái một sĩ quan Việt-Nam theo phi hành đoàn Mỹ bay trên trinh sát cơ OV10 nhiều giờ để theo dõi hoạt động địch trên biên giới Lào, Miên và Việt Nam.
Trong một lần ghé Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II, tôi có gặp một Trung Úy tên là Anh. Ông Anh là dân không ảnh và không thám của Phòng 2. Không biết người xưng danh là alpha trong chiếc OV10 trên kia có phải là ông Trung Úy Anh không?
Tôi chuyền cái ống nghe cho ông đại úy Mỹ. Lập tức ông và người sĩ quan Hoa-Kỳ đang lái chiếc OV 10 trên kia hối hả lớn tiếng trao đổi với nhau những câu, tôi nghe mà không hiểu gì cả, có thể là họ dùng mật khẩu để xác nhận xem người đang nói chuyện có phải là bạn không?
Rồi ông đại úy rút khẩu súng phóng hỏa châu trong túi áo bay dệt bằng lưới của ông ra. Khẩu súng bắn hỏa châu có hình thù một điếu xì gà, nhỏ và gọn như đồ chơi trẻ con. Ông phóng một viên hỏa châu lên trời.
Sau khi nổ một tiếng “Bóc!” trái hỏa châu tỏa sáng như ngọn pháo bông trong khoảng thời gian chừng nửa phút.
Anh trung úy phi công phụ cũng bắn tiếp một hỏa châu nữa ngay sau khi viên hỏa châu đầu vừa tắt.
Tôi là “tay tổ” viễn thám, nào có lạ gì những dụng cụ thoát hiểm này. Trừ cái máy Beacon ra, tôi cũng được trang bị đầy đủ, nào là, một địa bàn, một gương chiếu, một súng hỏa châu, một tấm banner sơn màu da cam óng ánh để chỉ điểm cho phi cơ, cùng với băng cầm máu, thuốc lọc nước, thuốc chống muỗi… vân vân.
Có điều, tôi chỉ mang những thứ này khi đi hành quân hay khi đi nhảy toán.
Lần này tôi quá giang trực thăng là để về thăm “bồ”, nên tôi không hề nghĩ tới chuyện vác theo mấy thứ đồ nghề lỉnh kỉnh này.
Trong khi hai ông phi công bận bịu liên lạc với quân bạn thì tôi và hai anh xạ thủ vẫn không dời mắt quan sát khu rừng hướng Tây.
Bất chợt, tôi giật nẩy mình khi thấy trong rừng tranh cao cỡ đầu người thấp thoáng có hai cái nón cối di động từ từ về hướng chúng tôi.
Tôi định giơ tay chỉ cho anh cơ phi xạ thủ biết vị trí hai tên địch đang đi tới, thì khẩu M60 đã nổ,
– “Ðùng!… Ðùng!…Ðùng!…”
Chớp mắt, mấy trăm viên đạn đại liên đã cày nát một khoảng đất rộng. Cỏ te tua rạp xuống, lộ rõ hai cái xác bộ đội chính quy Bắc Việt đẫm máu, nằm sõng soài trên nền đá tổ ong, bên cạnh là hai khẩu AK.
Lúc này trời đã quang đãng trở lại. Chiếc OV 10 tiếp tục bay vòng vòng trên cao.
Chừng nửa giờ sau, tôi nghe vọng lại, từ hướng Ðông, những tiếng “Bạch! Bạch! Bạch!…” của trực thăng. Có lẽ cũng vài ba chiếc đang trên đường bay tới.
Khi thấy trên trời có hai chiếc Cobra vừa lộ diện, tôi và anh phi công phụ vội tụt xuống đất nắm tay nhau, nhảy cẫng lên reo mừng.
Ông phi công chính cũng ra khỏi tàu, đứng bên tôi. Ông ta rút chốt và ném một quả lựu đạn khói tím ngay trước mặt.
Khói chưa lên tới đọt cây, Cobra đã bay vòng vòng trên bãi tranh.
Trên trời, hai anh phi công Mỹ đưa tay vẫy chào. Chúng tôi cũng quơ tay vẫy lại.
Khi vạt rừng lá đỏ hướng Tây bắt đầu hứng một trận mưa đạn đại liên và 40 ly của hai chiếc Cobra, thì một HU 1D ào xuống.
Chiếc máy bay cứu cấp không đáp trên đất mà chỉ lơ lửng chờ.
Gió của cánh quạt máy bay làm cho cỏ tranh rạp sát đất, lá đỏ thì bay tung lên như bươm bướm trong khói tím.
Chiếc tàu ở ngay trên đầu tôi, cao cỡ một đầu, một với.
Tôi nhún chân, lấy đà nhảy lên. Hai tay tôi níu được cái càng trực thăng.
Trên máy bay, anh xạ thủ làm như không nhìn thấy tôi, mắt anh ta cứ chăm chú nhìn về hướng bìa rừng, hai tay anh ta ghìm chắc khẩu đại liên M60 trong tư thế sẵn sàng siết cò.
Tôi chưa kịp đu mình đưa tay chụp cái chân ghế của xạ thủ đại liên thì đã bị rớt xuống trở lại.
Tôi vừa rớt xuống đất, thì ông đại úy và anh cơ phi đã nhanh nhẹn kê vai, xốc nách, nâng tôi lên cao, đẩy tôi vào lòng tàu. Rồi chỉ chớp mắt sau, họ đã leo lên ngồi bên cạnh tôi. Bên cái cửa đối diện, hai anh Mỹ kia cũng đã có mặt lúc nào tôi không hay.
Sau này, nhớ lại tình trạng nguy khốn ngày ấy, tôi vẫn còn sởn tóc gáy! Vì vào giây phút mười chết, một sống đó thì mạnh ai, nấy chạy, nếu hai anh bạn Ðồng Minh chỉ lo mạng sống của chính họ, nhắm mắt phóng lên tàu, bỏ mặc tôi dưới đất, thì cũng chẳng ai kết tội họ cả.
Chúng tôi đã an toàn ngồi trên tàu, nhưng cái máy PRC 25 của tôi và súng ống của phi hành đoàn đều bị bỏ lại.
Chiếc máy bay cứu cấp cất cánh gần như thẳng đứng. Hai khẩu đại liên M 60 bắt đầu “Cành! Cành! Cành!…” nhả đạn.
Lúc này thì từ rừng lá đỏ dưới chân tôi, đủ loại súng của Việt-Cộng bắt đầu đua nhau bắn lên trời.
Nhiều tiếng súng “Choang choác!” xen lẫn nhau của RPK, AK.
Có vài viên B 40, B 41 đã nổ “Ùng! Oàng!…” trên bãi cỏ tranh, chỗ chiếc trực thăng nằm bất động.
Ngay khi đó từ hướng Ðông đã hiện ra hai chiếc phản lực cơ F 5 của Hoa Kỳ. Anh trung úy phi công phụ nói rằng hai chiếc F 5 này sẽ làm nhiệm vụ phá hủy cái trực thăng xấu số.
Trên đường về Pleiku, ông đại úy trưởng phi cơ đã nắm chặt tay tôi rồi nghẹn ngào:
– “I’m so sorry!” (Tôi rất ân hận!)
Tôi cũng dang hai tay, ôm ông ta:
– You’re a real brave warrior! (Ông thực sự là một chiến binh can đảm!)
Anh cơ phi xạ thủ cũng cho tôi biết, ông đại úy vốn là dân “Kỵ Binh Bay” kỳ cựu. Ông ta từng một thời bay trực thăng “Cán gáo” OH 6, gan dạ có một không hai của Ðại đội Trực Thăng Thám Sát trực thuộc Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ.
Ðầu năm 1969 tôi đã có dịp làm việc cả tháng trời với đại đội trực thăng thám sát này ở căn cứ Oasis, Thanh An, Pleiku.
Ðơn vị này được tổ chức từng hợp đoàn gồm một trực thăng “Cán gáo” loại OH 6 hai chỗ ngồi, hai trực thăng võ trang Cobra, một trực thăng HU 1D để tìm cứu và một trực thăng chỉ huy C&C.
Họ hành động nhịp nhàng và ăn khớp với nhau như những bộ phận của một cỗ máy.
Chiếc OH 6 cứ bay là là sát “da đầu” mục tiêu, gió từ cánh quạt trực thăng thổi tung từng tàn lá, mái tranh, lùm tre. Khi phát giác địch thì phi công phụ nhanh tay thả một quả lựu đạn khói trên mục tiêu, phi công chính lập tức kéo cần cho máy bay vút chạy ra xa, tránh đường cho Cobra chúc đầu xuống bắn phá.
Hai Cobra đánh phá vừa xong thì một hợp đoàn khác cũng có hai Cobra hộ tống, cõng một đại đội Biệt Ðộng Quân vào vùng để khai thác mục tiêu.
Qua một thời gian tiếp xúc, tôi biết rằng, đơn vị này quy tụ những tay phi công lì lợm nhứt của Lục Quân Hoa-Kỳ.
Những ông phi công này nốc Whiskey như uống nước lạnh. Nhứt là những tay lái “Cán gáo” thực sự là dân “gan cùng mình” và lì đòn, bạt mạng. Mỗi lần họ leo lên OH 6, ví như một lần Kinh Kha ôm kiếm qua sông.
Như vậy, chắc chắn năm ngoái, tôi và ông đại úy này đã có lần cùng nhau tham chiến đâu đó trong vùng Plei De Chi, Lệ Thanh, Ðức Cơ, Ia Drang và Chu Prong.
Chúng tôi chia tay nhau ở sân bay Holloway. Bốn ông Mỹ lên xe cứu thương để đi khám sức khỏe, còn tôi thì lên xe đưa đón nhân viên của Camp Holloway để về Biển Hồ.
Chuyến đi này của tôi đã không tới được Ban Mê Thuột mà còn bị “vượt biên” bất đắc dĩ, suýt chết.
o O o
Tình yêu thời chiến
Tôi và Thiếu Úy Duyên tá túc trong nhà Trung Tá Bé, nhưng lại ăn cơm tháng tại nhà tài xế Thuộc.
Nhà Hạ sĩ Thuộc nằm bên kia đường, đối diện với cư xá Trần Quý Cáp. Trong nhà Thuộc, ngoài vợ chồng Thuộc và hai đứa con nhỏ ra, còn một người em họ của Thuộc là cô Ba. Cô Ba mặt mày hiền hậu, dễ thương. Cô Ba và vợ Thuộc đi làm sở Mỹ.
Trung sĩ Lê Sanh Ma trưởng toán viễn thám dưới quyền tôi lại là người cùng xứ Bình Ðịnh của gia đình chú Thuộc.
Thuộc và Ma thân nhau như anh em. Những ngày không hành quân, không trực gác, Ma đều về ở chơi trong nhà Thuộc.
Dự trù giữa năm 1970 thì Trung sĩ Ma và cô Ba sẽ về quê Qui Nhơn làm đám cưới.
Tháng Tư năm 1970 Trưởng toán viễn thám Lê Sanh Ma vướng mìn khi nhảy xuống Căn cứ Hỏa Lực Tango.
Sau ba tháng nằm Quân Y Viện, Lê Sanh Ma thành một phế binh, hai chân bị cưa quá đầu gối. Anh phải đi trên đôi nạng và hai chân giả.
Xuất viện trở về, anh Ma bỗng đổi tánh, hung dữ lạ kỳ, suốt ngày càm ràm, oán trời, trách đất.
Anh thường la mắng cô Ba rất nặng lời, dù cô chẳng làm điều gì phật ý anh.
(còn tiếp)
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/nho-cao-nguyen-ky-3.baotreNhớ Cao Nguyên (kỳ cuối)
Kỳ trước: Cuối cùng chiếc trực thăng bay lạc, hết xăng bị rớt nhưng nhờ sáng kiến của Trung úy Vương Mộng Long nên đã liên lạc được với hậu cứ và được cứu thoát.
Bài nhiều kỳ – Kỳ cuối
Ðáp lại, tôi thấy cô Ba lúc nào cũng tươi cười, vui vẻ với chú Ma.
Ði làm về cô lại xuống bếp nấu ăn, chăm sóc cho chú ấy.
Cô giặt giũ áo quần, thay chiếu trải giường cho chú hàng ngày.
Tháng Chín năm 1970 chú Ma giải ngũ, về quê. Sau đó tôi cũng không thấy cô Ba trong nhà chú Thuộc.
Hai năm sau, tôi gặp lại cô Ba. Cô trở về nhà Thuộc để thăm bà con. Cô đem theo đứa con trai đầu lòng vừa tròn một tuổi.
Cô kể chuyện rằng:
“Ngày đó, sau khi bị thương cụt hai giò, anh Ma tuyệt vọng vô cùng, muốn tự tử. Anh sợ cô Ba dính líu vào một người tàn tật như anh thì sẽ chuốc khổ một đời. Vì thế anh đã đóng kịch thành một người tính tình hung dữ để xua đuổi cô Ba. Nào ngờ, anh càng chạy trốn, cô càng đeo theo. Thấy anh về quê, cô Ba cũng bỏ công ăn việc làm, về quê theo anh. Cô nói với anh rằng, bây giờ cô không còn lo mất anh nữa. Anh gãy chân rồi, không còn phải đi nhảy toán, phải đi đánh nhau. Anh sẽ không bị chết trận, sẽ sống đời với cô. Cô hết lo! Cuối cùng cha mẹ đôi bên đã tác thành cho họ. Họ đang làm chủ một quán cơm có tên là “Quán Biên Thùy” nơi bến xe Qui Nhơn. Họ đã có với nhau một cháu trai thật là kháu khỉnh.”
Thời chiến tranh, tôi biết có rất nhiều chuyện tình dang dở, đầy nước mắt đã xảy ra.
Nhưng trong thâm tâm, lúc nào tôi cũng mong được chứng kiến những mối tình “có hậu” như mối tình của cô Ba và một thuộc cấp của tôi, Trung sĩ phế binh Lê Sanh Ma.
Kể ra thì chuyện tình này không thơ mộng gì, nhưng với tôi đó là một cái gương tuyệt vời biểu hiện cho lòng chung thủy.
Nhìn hạnh phúc gia đình của những thuộc cấp dưới quyền mình, lòng tôi cũng thấy vui.
Khí hậu tháng Năm thật là ấm áp. Vết mổ nơi sườn trái của tôi cũng vừa lành. Ðại Đội 2 Trinh Sát Biệt Ðộng Quân có một tuần học bổ túc kỹ thuật xâm nhập ở Camp Enarie của Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ nên tôi thật là rảnh rang.
Tôi cảm như đang hồi sung sức nhất. Thấy tôi ngày nào cũng vác cái xuồng làm bằng cái vỏ xốp trắng dùng để bọc bom Napalm ra Biển Hồ bơi chèo hàng giờ, anh bạn Goodell bèn vào Camp Holloway xin cho tôi một cái phao cấp cứu của phi hành đoàn C 130. Chiếc phao cao su màu da cam này tuyệt đẹp. Khi no hơi thì nó dài cỡ hai mét, rộng một mét. Có lẽ cái phao này dư sức vận tải hai người có trọng lượng như tôi thời bấy giờ.
Sau chiến dịch Dak Séang, trên đặc lệnh truyền tin của liên đoàn thì vô tình tôi được gọi với danh hiệu là “Loan Vương”.
Tôi thấy hai chữ “Loan Vương” nửa đầu là chữ “Loan”, tên người tôi yêu, nửa sau là chữ “Vương” họ của tôi, nên tôi dùng luôn cái danh hiệu này để đặt tên cho cái phao cấp cứu của mình.
Tôi dùng bút sơn màu tím, viết lên thành cái phao hai chữ “Loan Vương” thật to.
Nghe tôi giải thích ý nghĩa tên cái phao, anh bạn Goodell cứ gật gù phục lăn. Anh chàng nói, người Việt Nam thật là thâm thúy, khác hẳn giống nòi da trắng của anh.
Tháng 7 năm 1970, tôi lên đại úy. Tháng 9 năm 1970 tôi được đề cử theo học khóa “Tình Báo Tác Chiến” tại Bộ Tư Lệnh Viễn Ðông của Quân Ðội Hoàng-Gia Anh ở Singapore.
Trở về Việt-Nam được vài ngày thì tôi nhận được tờ giấy cho phép kết hôn của Bộ Tổng Tham Mưu, cùng lúc với cái sự vụ lệnh thuyên chuyển vào trại Lê-Minh thay thế Ðại úy Khánh, giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 80 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đang trên lịch trình cải tuyển.
Tôi đem theo Trung sĩ Châu Minh Ðạt vào Lệ Minh. Anh này nguyên là tài xế kiêm nhiệm vụ hộ vệ của tôi sau khi hai chú Phạm Công Cường và Nguyễn Phượng Hoàng được tôi gửi gắm về đảm trách công tác bán tác chiến ở Bộ Chỉ Huy liên đoàn.
Thầy trò tôi ở Lệ Minh được một tuần thì Loan báo cho tôi một tin sét đánh:
“Ba không chịu cho em lấy anh nữa! Ba nói gả con gái cho mấy thằng lính tác chiến, thì lúc nào cũng lo, chỉ sợ con mình sẽ thành góa phụ!”
Thế là tôi leo lên trực thăng bay ngay về Pleiku, năn nỉ Ðại Tá Nguyễn Văn Can, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, cho tôi được tá túc đâu đó ở văn phòng để tôi cưới vợ.
Ðại tá Can cũng thông cảm tình cảnh nguy kịch của tôi, nên cho tôi lên Kontum tạm thời giữ chức Trưởng Ban 2 của Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Biệt Ðộng Quân Kontum đang thành lập.
Tôi rời Lệ Minh thì anh chàng Khánh bị ông Can bắt quay trở lại nhiệm sở cũ.
Ðại úy Khánh thấy chú Ðạt là một người can đảm và trung thành nên đề nghị giữ Ðạt ở lại với anh ta một thời gian, khi nào tôi có công việc nhất định thì anh ta sẽ trả lại.
Nhưng qua một tuần lễ thì anh Khánh đích thân chở chú Ðạt lên Kontum tìm gặp tôi rồi nói, anh ta “kết” chú Ðạt lắm, xin tôi cho anh ta giữ Ðạt ở với anh ta luôn, không trả lại cho tôi nữa. Chú Ðạt cũng thích anh Khánh, vì anh này và Ðạt cùng sở thích, nhậu như hũ chìm. Tôi thấy hai thầy trò họ có vẻ thương mến nhau nên cũng đồng ý.
Nào ngờ, sau đó không lâu, trong một trận pháo kích của Việt-Cộng nhắm vào Lệ Minh, có một viên DKZ 57 ly chui vào hầm chỉ huy, Ðại úy Khánh và Trung sĩ Ðạt bị tử thương. Anh Khánh đã vĩnh viễn ra đi khỏi cõi đời này, mang theo một trong những đứa em mà tôi thương mến nhứt.
Ngay khi nhận sự vụ lệnh đi Kontum, tôi liền chạy về Biển Hồ báo tin cho Trung tá Sâm biết. Trung tá Sâm bèn điện thoại lên Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kể chuyện tôi được về làm việc ở văn phòng cho Trung tá Võ thân sinh của Loan. Ông Sâm còn hứa sẽ đem hai chiếc trực thăng chở toàn bộ ban cố vấn Mỹ của liên đoàn về Ban Mê Thuột dự đám cưới con gái của Trung Tá Võ.
Hôm sau, tôi lên Kontum, vào doanh trại cũ của B12 Lực Lượng Ðặc Biệt để trình diện người chỉ huy mới của tôi là Thiếu Tá Bùi Văn Baul.
Tên “Baul” của ông thiếu tá này quả là có một không hai trong danh sách gần một triệu quân của Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Chắc chắn trăm phần trăm là không tìm ra người thứ hai trùng tên với ông.
Gần hai chục nhân mạng của bộ chỉ huy này, kể cả quan lẫn lính, chỉ có mình tôi đội nón nâu, những người còn lại thì mang nón xanh Lực Lượng Ðặc Biệt. Trong số này có vài người đang chờ sự vụ lệnh về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu để đáo nhậm đơn vị mới.
Bộ chỉ huy của ông Baul thời gian này cũng chưa có con dấu, chưa có Khu Bưu Chính (KBC) để gửi và nhận công văn hay thư từ.
Thời gian này, bốn trại Dân Sự Chiến Ðấu ở biên giới Lào, Miên và Kontum là Dak Pek, Dak Seang, Ben Het và Pơlei Kleng còn do Mỹ chỉ huy. Tin tức báo cáo hành quân hàng ngày của các trại này đều gửi thẳng về Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Pleiku.
Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Biệt Ðộng Quân Kontum chỉ nhận các điện văn có tính cách thông báo.
Mỗi ngày chúng tôi có một buổi họp tham mưu kéo dài chừng nửa giờ, chỉ là để đọc lại bản tin của các trại gửi cho Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân ở Pleiku.
Sau đó là họp bàn chuyện số đề.
Ông Thiếu tá Baul và nhiều vị làm việc dưới quyền ông mê số đề lắm. Họ hăng say bàn đề suốt ngày, không chán. Chiếc xe Jeep của ông thiếu tá phải túc trực trước cửa văn phòng để anh tài xế có thể chạy đi ghi đề bất cứ lúc nào trước giờ đài phát thanh Sài-Gòn truyền đi bài hát vượt thời gian của nghệ sĩ Trần Văn Trạch với câu mở đầu là:
“Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà”. (TVT)
Riêng tôi và một người nữa là Ðại Úy Nguyễn Thái Bình, Trưởng ban 4 là không bao giờ có mặt trong các buổi họp mặt bàn số đề.
Anh Bình là dân gốc Lực Lượng Ðặc Biệt nên được ông Baul châm chước, còn tôi là cái nón nâu lẻ loi ở đây, nên bị ông ta ghét cay, ghét đắng.
Ông Baul không ưa thích tôi, nếu tôi có vắng mặt vài ngày, ông ta cũng chẳng thèm hỏi tới.
Tôi nhờ Ðại úy Nguyễn Ðình Hùng, sĩ quan phụ tá cùa Thiếu Tá Baul ký cho tôi cái giấy phép đặc biệt 5 ngày thăm gia đình ở Ban Mê Thuột rồi chuồn êm.
Tờ giấy phép không có con dấu, tôi phải ghé Pleiku xin Phòng 1 của Bộ Chỉ Huy chứng thực. Người mang giấy phép hay sự vụ lệnh có con dấu đỏ mới được Mỹ cho lên máy bay.
Về tới Ban Mê Thuột, tôi yên chí lớn vào thẳng văn phòng ông Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh khoe:
– Ba ơi! Con được về văn phòng rồi! Ba cho phép tụi con làm đám cưới nhé Ba!
Biết rằng mình đã bị đưa vào thế bí, ông trung tá đành cười,
– Thì Ba có ngăn cản không cho hai con lấy nhau đâu?
Nói câu này xong, ông cụ móc túi dúi cho tôi tờ giấy bạc năm trăm có in hình con cọp:
– Con cầm lấy mà dẫn mấy đứa em đi ăn kem!
Cầm tờ giấy bạc của ông, tôi chợt nghĩ:
“Sao Ba hào phóng quá vậy? Trong nhà, ai mà không biết Ba nghèo rớt mùng tơi. Lãnh lương ra, được bao nhiêu, Ba đưa cho Me gần hết. Chắc là Ba vừa đánh chắn thắng nên mới có tiền cho mình.” (Đánh chắn là trò chơi đánh bài của người Miền Bắc trước năm 1975).
Hôm đó, trong khi chờ Loan tan học, tôi vào quán Mây Hồng.
Quán Mây Hồng buổi chiều vắng khách, khách nhà binh chỉ có mình tôi.
Lác đác vài vị khách học trò con trai, ngồi hút thuốc lá bên tách cà phê đen.
Một chàng học trò, có lẽ là lớp cuối trung học, sà xuống bàn tôi, cười làm quen:
– Chào Ðại Úy! Ðại Úy mới hành quân về?
– Vâng! Tôi về từ Kontum.
– Ðại Úy là dân Võ Bị hay Trừ Bị.
– Tôi là Võ Bị khóa 20.
– Theo ý Ðại Úy nếu đi lính thì nên chọn binh chủng nào?
Tôi cười:
– Tôi đi lính Biệt Ðộng Quân từ ngày ra trường, đâu có biết gì về các binh chủng khác mà có ý kiến.
Rồi hình như đã tới giờ đổi lớp, các chàng thư sinh vội vàng dời gót.
Nhìn thấy họ, tôi hồi tưởng lại những ngày vừa đậu Tú Tài 2, tôi cũng nhiều lần vào quán ngồi hàng giờ suy nghĩ vẩn vơ.
Cứ y như ngày xưa, tôi cũng từng đặt những câu hỏi vớ vẩn như thế với các ông thiếu úy, trung úy trẻ mà tôi bất ngờ gặp gỡ trong các quán cà phê ở Hội-An.
Ngồi một mình, tôi mới nghiệm ra, không có người yêu bên cạnh, thì quán này cũng mất đi cái không khí ấm cúng thường nhật của nó!
Thời chiến tranh, hạnh phúc của chúng tôi là niềm vui đếm từng ngày. Hôm nay còn ngồi bên, cầm tay nhau, ngày mai không biết có còn nhìn thấy nhau nữa không?
Mấy chục năm sau, nhớ lại, lòng tôi không khỏi bồi hồi. Bài thơ dưới đây được tôi viết và đăng trên “Người Việt Tây Bắc” ở Seattle tháng 1 năm 1996:
Truyện ngày xưa
Áo trắng tung bay, sân trường lộng gió
Chiều Xuân, tan học, đón em về,
Trong nắng vàng, bướm bay đầy phố,
Chuyện chiến trường, anh kể, em nghe…
***
Có tiếng lá thì thầm trong gió,
Vạn vật vươn mình sau giấc ngủ Đông
Lối cỏ thẹn thùng thương gót nhỏ
Cánh chim nào gọi bạn giữa thinh không…
***
Gió Xuân ấp ủ nghìn thương nhớ
Mây trắng, lưng trời, bay lang thang
Lá đỏ phủ đầy đường đất đỏ
Áo trận, song đôi áo trắng, dưới hoa vàng…
***
Năm ngày phép đi qua thật nhanh
Đường về nhà em ngắn lại vô tình
Vừa cầm tay nhau một phút,
Vừa hôn môi nhau một lần,
Đèn nhà ai cuối phố đã lên…
***
Chiến tranh héo mòn tuổi Xuân
Vun xới tình yêu bên cạnh Tử Thần
Một đời yêu nhau đắm đuối
Một đời yêu nhau ngắn ngủi
Nụ hôn chưa nguội trên môi…
Một người đã mất một người,
***
Chiến tranh cướp đi ngày xanh
Chiến tranh mang đi người tình
Mỗi lần phải tiễn đưa nhau
Tưởng chừng như đã mất nhau…
***
Nhớ lại một thời
Ngày ấy chiến tranh
Ấp ủ trong trái tim mình
Mỗi người có một chuyện tình…
(Vương Mộng Long-1995)
Cuối năm 1970, vào một ngày không có lớp, Loan cùng vài cô bạn lên chùa Dược Sư, Ban Mê Thuột xin một quẻ xăm.
Ðược lá xăm, Loan đã âm thầm cất giấu nó, không cho ai xem trong một thời gian khá dài. Chỉ vì, trừ bốn câu sau cùng ra thì hầu như trọn quẻ xăm chỉ chứa những điều không hay. Mãi tới ngày tôi được tha ra khỏi trại tù cải tạo, năm 1988, tôi mới được đọc những câu thơ trên quẻ xăm này.
Trên lá xăm, có những dòng, nếu đọc được chắc mẹ tôi, Bác Võ trai, Bác Võ gái sẽ không chấp thuận cho chúng tôi lấy nhau.
Theo quẻ xăm, thì người gieo quẻ cầu gì cũng thất bại: Thưa kiện thì thua, có bệnh thì khó qua khỏi, cầu tài chỉ uổng công, đi thi thì bị rớt, lấy chồng thì duyên phận bẽ bàng.
Dưới đây là 8 câu trích từ quẻ Số 6, “Quẻ Giá Sắc” mà Loan đã xin được từ chùa Dược Sư, Ban Mê Thuột:
Ra đi xứ lạ nhiều lầm lạc
Tính việc chi rồi cũng bất thành
Thưa kiện rốt sau e chẳng lợi
Bịnh nhơn trở chứng khó bình an
Cầu tài vô ích, sanh hao tốn,
Ứng thí rồng mây hội lỡ làng
Gả cưới kết hôn duyên chẳng hiệp,
Nói năng chưa được toại lòng toan.
Loan là người lúc nào cũng lạc quan và hy vọng, vì thế nàng chỉ nhìn vào bốn câu thơ sau cùng:
Phật bảo an phận thủ thường,
Nhẫn tâm theo dõi con đường trượng phu.
Chơn thành, phước đức cần tu,
Như người gieo cấy, tới mùa gặt thâu…
Vài ngày trước đám cưới, có một người con gái đã khấn thầm rằng:
“Yêu anh, em chỉ cầu xin Trời Phật phù hộ cho chúng mình lấy được nhau, thành vợ, thành chồng, dù chỉ được sống cùng nhau trọn vẹn một ngày thôi!”
Người con gái ấy là một nữ sinh mười bảy tuổi rưỡi ở Ban Mê Thuột.
Người yêu của cô ấy là một Ðại úy Biệt Ðộng Quân đồn trú ở Kontum.
Hai ngày sau lễ Giáng Sinh năm 1970 đám cưới của tôi và Loan diễn ra.
Thiếu úy Ðinh Quang Biện, anh ruột của Loan bận hành quân trong rừng Tiều Teo không về được.
Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân đang chạm địch trong vùng Bắc Kontum, nên hai chiếc trực thăng dự trù để chở ông Liên đoàn trưởng và ban cố vấn Mỹ bay về Ban Mê Thuột dự đám cưới của tôi đã bị trưng dụng để chuyển quân.
Ông Trung Tá Sâm và ông Trung Tá cố vấn trưởng của liên đoàn chỉ còn cách gọi điện thoại về nhà nhạc gia của tôi để chúc mừng.
Khách dự đám cưới của hai đứa tôi thì một nửa là nữ sinh Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, nửa kia là quân nhân trực thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.
Không có ai là lính Biệt Ðộng Quân có mặt ngày hôm ấy.
Ðám cưới vừa xong, đầu năm 1971 tôi được lệnh dời bỏ văn phòng, ra tác chiến.
Tôi từ giã cái bộ chỉ huy chưa có con dấu, chưa có Khu Bưu Chính (KBC) của ông Thiếu Tá Bùi Văn Baul để nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 4 Mike Force do Mỹ vừa chuyển giao.
Thời gian này Thiếu Tướng Ngô Du đã thay thế Trung Tướng Lữ Lan đảm nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật.
Tướng Ngô Du ra lệnh sát nhập Tiểu Đoàn 4 Mike Force vào Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Bùi Văn Sâm, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân.
Hai mươi bốn giờ sau khi nhận bàn giao, tôi được lệnh đem quân đi Cheo Reo tăng phái cho Tiểu Khu Phú Bổn.
Tiểu đoàn tôi là đơn vị mới thành lập chưa có trại gia binh, nên tôi cho vợ con binh sĩ đi theo hành quân luôn. Bốn chiếc xe GMC được gắn mui vải dùng để chở đàn bà và con nít.
Tôi mới cưới vợ, nếu để vợ ở Pleiku thì biết gửi cho ai? Tôi cũng đành phải đem vợ đi Phú Bổn chuyến này.
Trung Tá Sâm thấy 4 chiếc xe Jeep của tiểu đoàn tôi đều là xe mui trần, nên thương tình, cho tôi mượn chiếc Jeep chỉ huy của ông để vợ tôi làm phương tiện di chuyển.
Chiếc Jeep của vợ tôi là chiếc xe “tráng lệ” nhất trong đoàn quân xa.
Xe này gắn cánh gà bít bùng, có hai cần angten cao nghều nghệu cùng một dàn loa của máy truyền tin, một VRC 47 và một PRC 25. Xe còn được ba anh lính trang bị súng M16 hộ tống.
Ông Trung Tá Nghiêm tỉnh trưởng Phú Bổn thấy bầu đoàn thê tử chúng tôi, đầu tóc, mặt mũi, áo quần, lem luốc, đầy bụi đỏ, ào xuống sân Tòa hành chánh tỉnh, thì ra lệnh cho ông quận trưởng quận Thuần Mẫn đem toàn bộ nhân viên của ông ta về làm việc trong Tòa tỉnh, nhường lại doanh trại quận đường cho chúng tôi tá túc.
Văn phòng của ông quận trưởng trở thành căn nhà tạm trú của vợ chồng ông Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân.
Văn phòng của ông phó quận trở thành chỗ tạm trú cho ban cố vấn Mỹ của tiểu đoàn. Sĩ quan cố vấn của tôi là anh Trung Úy Hick, sau đó là anh Ðại Úy Jim. Hạ sĩ quan cố vấn vẫn là anh bạn Woodell, người đã làm việc với tôi hơn một năm dài trước đây.
Goodell nghe tin tôi trở lại Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân để làm tiểu đoàn trưởng thì ghi danh thêm một nhiệm kỳ thứ 2 phục vụ tại Việt-Nam.
Cho tới ngày Tiểu Đoàn 4 Mike Force giải tán thì Goodell mới giã từ tôi để về Hoa Kỳ, không trở lại nữa.
Chúng tôi mới hoàn tất hai cuộc hành quân cấp tiểu đoàn nhằm tảo thanh vùng giáp ranh hai quận Thuần Mẫn (Phú Bổn) và quận Buôn Hô (Daklac) thì có lệnh gom quân.
Sáng 28 tháng Chạp Âm Lịch tôi nhận lệnh để lại một đại đội tăng phái cho Chi Khu Phú Túc, thành phần còn lại thì kéo nhau về Pleiku.
Dĩ nhiên bà vợ ông tiểu đoàn trưởng và một số đàn bà con nít gia đình binh sĩ cũng về theo.
Sáng Mùng Hai Tết năm Tân Hợi, ông Trung tá Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh từ Ban Mê Thuột gọi điện thoại cho ông Trung tá Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân ở Pleiku, không phải để chúc Tết, mà là để mắng vốn:
– Vậy là thầy trò ông đã gạt tôi! Ông cam đoan với tôi rằng thằng Long sẽ về làm việc ở văn phòng, nên tôi mới chịu gả con gái cho nó. Ai ngờ, vừa cưới vợ xong nó lại ra tác chiến. Nó còn đem cả con gái tôi ra trận! Tôi bực mình ông lắm rồi đó, ông có biết không?
Ông Trung tá Biệt Ðộng Quân cười hì hì:
– Thì ngày xưa, tôi với ông đều là dân tác chiến. Tụi mình đã nhiều lần chở vợ theo hành quân. Chẳng lẽ ông quên chuyện này rồi sao?
Nghe ông Sâm trả lời, ông bố vợ tôi chán quá, đành chép miệng, thở dài, cúp máy.
o O o
Nhớ Cao Nguyên…
Ngày xưa, cứ lái xe hoặc ngồi trên trực thăng, qua hết con dốc của ngọn đèo ranh giới hai tỉnh Pleiku, Daklac, nhìn thấy phi trường Buôn Blech thì tim tôi lại rộn ràng. Tôi chắc chắn rằng không bao lâu sau tôi sẽ gặp mặt người mình yêu dấu.
Mỗi lần trò chuyện cùng ai mà có nhắc tới tên Pleiku, Kontum hay Ban Mê Thuột thì những kỷ niệm êm đềm ngày nào ở cao nguyên lại hiện về trong trí nhớ của tôi.
Tôi lại hình dung ra rõ ràng trước mắt mình là cả một khung trời bao la, cảnh vật vừa hùng vĩ, oai nghiêm, lại vừa chen lẫn chút thê lương.
Một dải đất trải dài từ Bắc xuống Nam 300 cây số dọc Trường Sơn đã trở thành không thể nào quên.
Thời chiến tranh, nơi ấy mang tên “Cao Nguyên Trung Phần” của nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Vùng này chỉ có núi và rừng trùng điệp nối tiếp nhau.
Ở cao nguyên đâu đâu cũng có lính; họ đến từ mọi miền đất nước; họ sống chết bên nhau và thương yêu nhau như huynh đệ.
Nơi đây năm nào cũng xảy ra những trận đánh long trời lở đất. Tôi đã trải qua mười năm chinh chiến ở xứ này.
Ðây cũng là nơi mà Thượng Ðế đã ban cho tôi một người tình trọn đời chung thủy.
VML
Seattle, July 2019
MÀU ÁO HOA RỪNG - Hồn Việt Rev.
https://youtu.be/9buYTrycMSE
■
*
~~
***
Làng của người Lào thì gọi là “Bản”, làng của người Rhadé là “Buôn”; làng của người Jharai lại là “Plei”.
ReplyDeleteViệt cộng có dã tâm thay đổi tên thành phố, thị trấn, bản địa, trường học... thời VNCH sau khi chúng chiếm miền nam để mang những tên mới của chúng để xóa hết dấu vết lịch sử, Ban Mê Thuột bị đổi Buôn Ma, Cao Nguyên bị đổi là Tây Nguyên, Pleiku bị sửa là playcu....
Chúng ta đang ở hải ngoại, không cần phải nói theo chúng. Việt cộng cưỡng chiếm miền nam, chúng không do dân bầu lên, chúng không có quyền tự tung tự tác vi hiến như thê.