Hung/Huns - Hung nô/Xiongnu - Hán/Hoa
|
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT. |
|
Hình: Bản đồ Bắc Á, giống dân du mục từ Tây Bắc dãy núi Thiên Sơn Từ Hung, Hung Nô, Thổ, Hồ, Xibian, Mông Cổ, đến Liêu và Kim...
Hiên Viên Hoàng Đế
Hiên Viên Hoàng Đế người gốc Tiên Ti, tên là Thủy Quân, là người gốc Hán văn hóa du mục.
Hiên Viên Hoàng Đế cũng có họ hàng từ thị tộc Hữu Hùng. Ông là người lai hai dòng máu của gốc du mục và văn hóa lúa nước. Hiên Viên được tôn làm thủ lãnh của bộ lạc thị tộc Hữu Hùng. Sau khi ông thắng trận Trác Lộc với Viêm Đế của Việt tộc ở Trung Nguyên chủ quyền tộc Việt, ông Hiên Viên dựng nên đất Hoa Hạ, và đem người Hán tộc di dân và đất Hoa Hạ. Hoa Hạ là giống dân lai giống giữa Hán tộc và Việt tộc. Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc du mục người Hán (khoảng 2697 trước Tây Lịch), Hiên-Viên (Huan-yuan) luôn tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ trung nguyên. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti). Tiên Ti 鲜卑, Xianbei Tiên Ti là tên gọi một dân tộc du mục ở phía bắc nước Tàu, hậu duệ của người Sơn Nhung. Người Sơn Nhung bị liên quân Tề Yên tiêu diệt vào năm 660 TCN buộc họ chạy lên vùng đông bắc và bị đồng hóa thành người Đông Hồ. Sau thiền vu Hung Nô là Mặc Đốn tiêu diệt Đông Hồ, Đông Hồ bị phân ra thành người Tiên Ty và Ô Hoàn. |
=========================================
Văn Hóa Sở có thời xưng mình là Shan 商 - Thương, Ân Thương 殷商 Âu-Nhân 甌 人 (Âu-Nhân chỉ là phiên âm, Âu-Nhân 甌 人= Ân, tức là Ân Thương) rồi xưng là Sở 楚.
Sở và Việt đồng tông đồng tộc, ngày xưa là ngôn ngữ giống nhau, sau nầy thì còn giống nhau 1/2 (phân nửa), ngày nay tiếng Quan-Thoại đã chiếm lĩnh vùng đất Sở.
Quảng Đông Quảng Tây và Việt Nam là người Việt, nó như anh em sinh đôi, nhưng một thời gian với một cảnh sống khác, và vì bị người Hán tẩy não. Quảng Đông và Quảng Tây không nhận mình là người Việt của Bách Việt mà nhận mình minh là người Hoa, (Hoa Hạ) gốc Hán
Quảng Đông và Quảng Tây luôn mặc cảm bị Hán đô hộ trong hai thế kỷ, trong khi Lạc Việt đã thoát ra ách thống trị của người Hán được một thế kỷ rồi. Nhưng đồng thời họ cũng không nhận hay nói họ là người Hán, mà chỉ nói trại ra là người hoa, bắt quàn với người Hạ Hoa giống Bách Việt như Dương Việt, Mân Việt Nam Việt... thì không dám nhận là người Hán mà nhận mình là giống Hoa Hạ, hay Hoa. Hoa hay Hán gì có khác nhau đâu, hồn Trương Ba, da hàng thịt đó mà.
Người Bách Việt chưa được "cởi trói" khỏi những nếp suy nghĩ lệch lạc, vì với tâm thế không muốn thừa nhận thực tế bờ cõi nước Nam Việt đã từng bị Phương Bắc Tần xâm đất Bách Việt.
Tại vùng Lưỡng Quảng loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Thêm bài "Việt Nhân Ca" nữa, mà họ còn không nhận họ là gốc Bách Việt mà lại nhận là người Hoa (gốc Hoa Hạ của Hiên Viên Hoàng Đế).
Hiên Viên Hoàng Đế tên là Thủy Quân, là người gốc Tiên Ti.
Hiên Viên Hoàng Đế cũng có họ hàng từ thị tộc Hữu Hùng.
Hoàng Đế được tôn làm thủ lãnh của bộ lạc thị tộc Hữu Hùng.
Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc du mục người Hán (khoảng 2697 trước Tây Lịch), Hiên-Viên (Huan-yuan) luôn tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ trung nguyên. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu cho thời Ngũ đế.
Tiên Ti / 鲜卑/ Xianbei là tên gọi một dân tộc du mục ở phía bắc nước Tàu, hậu duệ của người Sơn Nhung.
Người Sơn Nhung bị liên quân Tề Yên tiêu diệt vào năm 660 TCN buộc họ chạy lên vùng đông bắc và bị đồng hóa thành người Đông Hồ.>
Sau thiền vu Hung Nô là Mặc Đốn tiêu diệt Đông Hồ, Đông Hồ bị phân ra thành người Tiên Ty và Ô Hoàn.
===============================
|
Đất Trung Nguyên vào tay Hán tộc
|
========================================
Hung Nô với Mông Cổ là một thứ, Hung Nô là anh của Mông Cổ. Hung Nô có liên quan đến người Huns - hay Là người Hán đấy. Đó là người Hán, còn chữ Hán thì lại mang danh là chữ Hán, nhưng lại do từ Việt Tộc-Viêm Tộc sáng chế, chữ Hán chỉ là Danh Xưng Nguồn gốc Mẹ Trời Nữ Oa cũng là Việt tộc Cha Rồng Mẹ Tiên từ Sư Huynh Đệ của ta Thần Nông thị tức Tổ Tiên người Việtchúng ta.
Người Hán tôn thờ chủ thuyết nhà Chu và lịch sử do nhà Chu biên soạn, rồi kể từ đó, đến khi Đại Hán thành lập thì người Hán họ đã gom về hết chủ thuyết của nhà Chu, chữ viết của tộc Việt, thì Văn hóa Việt bị thành Hán. Hán tức Hung Nô, mà Hung Nô là giống dân Thổ lai giống với Mông cổ thì không có một dân tộc nào là thuần cả, tất cả đều là bị lai giống. Khi Hung Nô bị tiêu diệt, một phần tử nhỏ còn sót lại của họ mang tên là Hán, Hán tộc là loại dân có giống lai tạp nhạp người thổ và Mông cổ du mục từ phương Bắc - Bắc Chi, vì lý do người Hán chỉ có một nhúm người du mục, đi cướp đất của thiên hạ quá đông, quá rộng lớn nên người Hán sợ mất đi gốc của mình nên họ đã cho lai giống cấy giống với người Bách Việt vùng Trung Nguyên thì chúng tự xưng là người Hạ, hay Hoa Hạ. Vì đất tổ người Việt màu mỡ, dân hiền hòa, không xảo trá, không gian manh, có nền văn minh lúa nước. (bản đồ nhà Thương/Thang) Hạ Hoa không phải là một một dân tộc, mà chỉ là dân tộc du mục Hán lai giống với các bộ tộc chung quanh và Bách Việt với người Việt cổ. Khi dân du mục Hán lai Việt này đã cướp hết văn hóa Việt, thì họ sửa lại toàn bộ. Đến thời Nhà Tần thì chúng đã khá mạnh và đông lên (vùng phía Tây Bắc Thanh Hải và Tứ Xuyên) thì chúng dốc toàn lực chiếm Bách Việt và Nam Việt trong đó có Việt Nam và Chiếm Đoạt văn hóa cùng Lịch Sử Việt. - Viêm Đế / Si-Vưu / Trầu / Kỳ / Văn Lang là thị tộc Việt "Hùng". Chữ viết trong sử là "Hữu hùng Thị": đọc là "Dồ Hùng'', đó là một âm của Diệt Hùng, tức là Việt Hùng. Con cháu các đời vua sau luôn xưng là Hùng Vương như Hùng Tảo 熊蚤, Hùng LỆ 熊麗, HÙNG CUỒNG 熊狂, HÙNG Dịch 熊繹, HÙNG NGẢI 熊艾, HÙNG ĐẢN 熊䵣, HÙNG THẮNG 熊勝, Hùng Dương 熊楊, Hùng cừ 熊渠, Hùng Chí 熊摯, Hùng Diên 熊延, Hùng Dũng 熊勇, Hùng Nghiêm 熊嚴, Hùng Tương 熊霜, Hùng Tuân 熊徇, Hùng Ngạc 熊咢, Hùng Nghi 熊儀, Hùng Khảm 熊坎, Hùng Thông 熊通, Hùng Chất 熊貲, Hùng Giang 熊艱, Hùng Uẩn 熊惲, Hùng Thương - Thần 熊商臣, Hùng Lữ 熊侶, Hùng Thẩm 熊審, Hùng Chiêu 熊招, Hùng Viên 熊員 Hùng Vi, v. v... |
====================================
Thụ phong ở đất Kinh
Xiong Yi (熊繹)
Xiong Yi
Viscount of Chu
Reign 11th century BC
Full name
Family name: Mǐ (羋)
Clan name: Xióng (熊)
Given name: Yì (繹)
Tên thật
Hùng Dịch (熊繹)
Chính quyền nước Sở
Thân phụ Sở Hùng Cuồng
Mất 1006 TCN
Nước Sở - đất Kinh
ông là vị quân chủ đầu tiên của nước Sở.
Ông là con trai của Sở Hùng Cuồng[1], người được xem là vị vua thứ ba của nước Sở.
Chu Thành Vương đã phong cho ông chính thức cai quả đất Kinh, kiến đô lập quốc, với tước hiệu Sở tử. Từ đây, đất Kinh được gọi là Kinh Sở, hay nước Sở, trong thế hàng ngũ chư hầu của nhà Chu.
font color="yellow" size="6" style="text-shadow: 4px 2px maroon, 0 0 25px black, 0 0 8px maroon; color: thistle; font-family: 'Times'; font-size: 34pt; width="30"
Thụ phong ở đất Kinh. Tổ tiên của nước Sở là Dục Hùng. Dục Hùng đổi thành họ Hùng[10]. khi được thụ phong ở đất Kinh. Dục Hùng trước kia được cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca [9], giữ chức quan trong triều Thương. Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương, Khi Chu Văn Vương tiêu diệt nhà Thương, con của Dục Hùng là Hùng Lệ và cháu của Dục Hùng là Hùng Cuồng tiếp tục cai quản nước Sở, sau được phong quan trong triều nhà Chu. Đến đời Hùng Dịch thì được Chu Thành Vương (con của Chu Văn Vương) phong cho Hùng Dịch cai quản đất Kinh, tước hiệu là Sở tử[11]. Từ thời điểm đó, Sở chính thức trở thành nước chư hầu của nhà Chu. Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tại Đan Dương[12]. Sở quốc: 楚國), đôi khi được gọi Kinh Sở (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / Srikrung[7], chữ Hán: 荆楚), Lãnh thổ của quốc gia (Sở quốc: 楚國) này nằm giữa Sông Hoài / Hoài Hà và sông Dương Tử / Dương Tử Giang. Đại Việt Ở vùng lãnh thổ ven sông Trường Giang, số nhóm người Việt Cổ còn đông hơn Việt Nam hiện giờ. Ở đó có các nhóm người như Điền Việt, Ư Việt, Dương Việt, Cán Việt, Mân Việt, Sơn Việt và còn nhiều nữa. Tại nước Việt Nam chỉ tồn tại hai nhóm người là Âu Việt và Lạc Việt là không bị nhà Tần xâm lược và đồng hóa. |
Thủy tổ của người Hán
Hiên Viên Hoàng Đế (轩辕黃帝), Hoàng Đế: 黃帝: huángdì), được coi là thủy tổ của người Hán.
Chữ Hoàng (黃) sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành Thổ, khác với Hoàng (皇).
Hoàng đế, là danh xưng của các quân chủ kể từ thời nhà Tần (xem bài Tần Thủy Hoàng).
Hoàng Đế là tổ tiên của người Hán ngày nay.
Hoàng Đế chiến thắng xi vưu trận Trác Lộc, chiếm lĩnh khu vực Trung Nguyên, người trong bộ tộc Cửu Lê của Xi Vưu một số dân ly tán, còn một số sáp nhập vào với các bộ tộc của Hoàng Đế rồi trở thành người Hoa Hạ của người Hán, và Hoàng Đế là thủy tổ của tộc Hoa Hạ này. tộc Hoa Hạ này là lai giống giữa Hán (Thổ, Hung Nô, Mông Cổ) với người Việt cổ. (Cửu Lê, Bách Việt).
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
NƯỚC XÍCH QUỶ
Chương II
II/1.-BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI THỜI ĐẠI VUA ĐẾ MINH
Nhờ sự phát triển rực rỡ của nền nông nghiệp dưới thời đại Thần Nông Đế Viêm*, xã hội Miêu, Viêm mà về sau gọi là Bách Việt đã có những phát triển vô cùng khởi sắc trên nhiều lãnh vực . Cư dân nông nghiệp sinh tụ đông đảo, đời sống an lạc, sung túc… Thời gian này tương ứng với giai đoạn giữa của thời kỳ văn hóa Bắc Sơn kể từ 7.000 đến 1.000 năm trước Công nguyên).
* Thời đại Thần Nông Đế Viêm :
Thời kỳ 1.- Từ vua Thần Nông Đế Viêm đến cháu ba đời là vua Đế Minh từ năm 3118 đến 2879 tr.CN kéo dài 239 năm.
Thời kỳ 2.- Từ vua Đế Minh chia nước cho hai con lập thành hai triều đại Xích Thần (Bắc Miêu) và Xích Quỷ (Nam Miêu).
A.- Triều đại Xích Thần:
–
Đế Nghi 2.879 – 2.813/tr.CN
– Đế Lai 2.813 – 2.704/tr.CN
– Đế Du Võng 2.704 – 2.636/tr.CN
B .- Triều đại Xích Quỷ:
–
Kinh Dương Vương 2879 – (?) tr,CN
– Lạc Long Quân năm (?) – 2.704/tr.CN
Từ năm 2704 tr.CN trở về trước là giai đoạn độc lập và thanh bình được coi là cảnh thái hòa đã đạt. Sau chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN, nước Xích Thần (Bắc Miêu) hoàn toàn bị tiêu diệt, nước Xích Quỷ (Nam Miêu) thì mất vua (Lạc Long Quân), lạc tướng đến độ triều đình tan rã. Bà Âu Cơ về đất Tương Dạ (trên Cánh Đồng Tương) lập đàn, phong cho con trưởng Lạc Long Quân thuộc Hồng Bàng Thị (con của người mẹ họ Hồng Bàng) lên làm Hùng vương và đổi tên nước là Văn Lang. Sau họ Hồng Bàng còn có 17 họ khác thay nhau làm Hùng vương. (Xin xem phần khảo luận ở đoạn sau).
Năm 1959, mặc dù chính quyền Trung Hoa Cộng sản không công bố nhưng báo chí Đài Loan có đăng một bản tin xuất phát từ các nhà khoa học khảo cổ ở bảo tàng viện Hồ Nam. Bản tin cho biết họ tìm được tại di chỉ khảo cổ Xinqlang, phía Đông hồ Động Đình khoảng 50 km những miếng đất sét nung hình chữ nhật có ghi những chữ chân chim và họ giải đoán là bảng ghi những con số thu hoạch nông nghiệp và chăn nuôi của những quý tộc xã hội Miêu.
Họ xác định những mảnh đất nung này có niên đại 4.600 năm tr. CN + 100. Việc phác giác những cổ vật tiền sử ở Xinqlang đã xác nhận trước khi “văn minh!” du mục Hoa tộc tràn tới thì Nam Miêu đã có văn minh chữ viết.
Hình
2
Trong
giai đoạn tiền sử này, vùng Bắc Việt Nam dù
là vùng rìa của trung tâm văn hóa Động Đình,
các chuyên gia ngành khảo cổ học và tiền
sử học đã tìm thấy nhiều di chỉ quan
trọng điển hình nhất là tại Bắc Sơn.
Đấy
là giai đoạn tân thạch khí với những
đồ đá mài và sơ kỳ kim loại đồng
thau, phát triển nghi lễ mai táng, thuần hóa trâu bò,
kỹ thuật đan tre, mây, lát. Phát minh đồ
gốm văn hoa chải, tiền đá Hòa bình và
nghề dệt và nhất là nghệ thuật ca múa, hát
nói, vè, hát ru em, hò giã gạo, chèo thuyền…
Xã hội
Việt cổ đã hình thành những cộng đồng
và tổ chức làng xã, đình, miếu, chợ búa,
văn nghệ hát nói, ca múa… Như
thế, nếu vùng Bắc Việt Nam đã đạt
được những thành quả như trên thì vùng
trung tâm Động Đình chắc hẳn còn cao hơn.
Tuy nhiên, vào cuối thời vua Đế Minh (2789
Tr.CN), cháu ba đời vua Thần Nông Đế Viêm*, một số khó
khăn có tầm vóc an nguy quốc gia và sự sinh
tồn của xã hội Miêu cổ đã bắt đầu
xuất hiện :
II/1A
.-Một vài khó khăn mới của xã hội Miêu
tộc
Xã hội nông nghiệp Miêu tộc sinh sôi nẩy
nở rất nhanh. Đất nước vốn không
có biên giới nên đồng ruộng lan tràn hết
đồng bằng này qua đồng bằng khác.
Sự phát triển nông nghiệp rộng ra về
mọi phía, nhất là về phía Nam, nhờ vùng này
khí hậu ẩm ướt, ấm cúng, mưa
thuận gió hòa… khiến việc liên lạc giữa
trung ương và các tộc địa phương
mỗi ngày một trở nên khó khăn, chậm
chạp. Việc điều động nhân dân
thực hiện những công tác công ích không thể
thích ứng với đường lối lãnh đạo
của chế độ Liên minh Bộ tộc mà đứng
đầu là những vị vua gọi là Thiên tử*
*
Thiên tử: Khi sử
gia nổi danh nhất Trung Hoa, Thái sử công Tư Mã
Thiên (thuộc một dòng họ chuyên viết sử
từ thời nhà Chu đến thời cực
thịnh nhà Hán) tả lại cuộc chiến tranh Hoa–Miêu tại Trác Lộc
năm 2704 tr.CN,
ông gọi người lãnh đạo các bộ
lạc du mục Hoa tộc là Cộng chủ trong khi
đó ông gọi người
lãnh đạo liên minh Xích Quỷ là Cổ Thiên
tử Xi Vu.
Tại sao ông
ấy không gọi Hiên Viên là Thiên tử?
Cho
tới giai đoạn này, Hoa
tộc chỉ là những bộ lạc du mục
gọi là hậu. Tù trưởng bộ lạc
gọi là hậu chủ. Từng đoàn, từng lũ, man
rợ y như các giống du mục khác trên thế
giới thời đó, họ kéo nhau đi tìm đất
sống. Họ xâm nhập đất Bắc Miêu và
gặp sự chống cự của cư dân nông
nghiệp Miêu tộc, họ liền họp nhau “công
kênh” một hậu chủ hùng mạnh nhất là Hiên
Viên lên làm “Cộng chủ” (chữ của Tư Mã
Thiên) để gọi người lãnh đạo các
hậu. Như vậy có nghĩa là họ
chưa lập quốc, chưa xưng vua, xưng vương,
xưng đế gì cả.
Họ chỉ là một
đám Rợ du mục cường bạo, dã man
mới tập trung lại…
Như vậy danh hiệu Thiên
tử là danh hiệu
của các vị vua Miêu tộc đã có từ
rất lâu về trước chứ không phải
của Hoa tộc.
Theo
quan niệm nông nghiệp cổ đại, Thiên
tử là người đứng đầu Thiên
hạ và Thiên hạ thì không hạn định biên
giới. Thiên tử thay Thiên hạ tế giao
trời đất, nghiên cứu thiên tượng
để đoán thời tiết và định ngày
tháng nước lớn, nước ròng, gió mây, mưa
nắng để chỉ cho dân biết mà làm mùa. Thiên
tử chấp hành ý dân như ý trời, gìn giữ
đức hiếu sinh bằng lòng nhân như cha
mẹ vỗ về, giáo huấn con và gọi đấy
là nhân trị hay vương đạo, vương hóa.
Các bộ tộc tự trị đối với Thiên
tử ngoại trừ việc hằng năm cung
cấp đồ tuế cống (cống phẩm),
đóng góp dân quân và lương thực mỗi khi
thiên tử cần đến để duy trì công
đạo và tôn trọng quyền tài phán của Thiên
tử.
Xem
thế, vai trò lãnh đạo xã hội nông nghiệp
Miêu tộc rất nhẹ nhàng, uyển chuyển, nhân
ái… thích hợp với bản tính người nông
nghiệp mà xã hội du mục vốn chuộng cường
lực và thực tiển khó có thể có được.
Đây
là vấn đề cốt lõi, là khởi đầu
của mọi nghi vấn văn hóa giữa hai dân
tộc Việt và Hoa mà phía Việt luôn luôn là kẻ
gánh chịu mọi áp đặt cực kỳ phủ
phàng trước cường lực Hoa tộc trong
suốt 5000 năm lịch sử chiến tranh và hòa bình
của hai dân tộc Hoa, Việt.
Về
sau, khi
Hoa tộc làm chủ Bắc Miêu (nước Xích
Thần) thì họ tiếp tục duy trì truyền
thống lãnh đạo của xã hội Miêu tộc vì họ quá ít
nhân lực và chưa đủ sức mạnh để
trực tiếp cai trị một vùng đất quá
rộng lớn và người thì đông đảo.
Họ phong hàng vạn tộc trưởng Bắc Miêu
làm vua chư hầu. Tuy nhiên, họ không duy trì
được thanh bình lâu dài vì bản tính dã man,
hung bạo, chỉ chú trọng thực tiễn cường
lực và truyền thống độc đoán của
du mục. Chính sách Nhân trị của Miêu tộc
chỉ áp dụng vài trăm năm đầu, về
sau chỉ còn là khẩu hiệu “cho vui”. Các chư hầu gốc du mục Hoa
tộc nuốt dần các chư hầu gốc Miêu
tộc khiến từ hàng vạn chư hầu
thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn xuống còn
vài ngàn thời Thương. Cho đến thời Chu
thì còn lại vài trăm… vài chục… rồi 7,6 chư
hầu.
Sách
Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp thế
kỷ 13 có nhắc việc: “Vua
Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng rồi
lãnh đạo quân đội đánh nhau với Hiên
Viên ở Bản Tuyền. Đế Lai thua
trận bị giết”. Từ chứng liệu này và
đoạn sử Tư Mã Thiên vừa dẫn trên, chúng
tôi tìm được người lãnh
đạo Liên minh Xích Quỷ chính là vua Đế
Lai. Thật rõ ràng, vua
Đế Lai khi cầm quân tại Trác Lộc và
Bản Tuyền là cựu thiên tử (ông đã
truyền ngôi cho Đế Du Võng) chứ không phải
đương kim thiên tử, vì thế sử Tầu
gọi ông là cổ thiên tử Xi Vu có nghĩa là
“cựu vương xấu xí và khoác lác”.
II/1B .-Du
mục Hoa tộc
Du mục Hoa
tộc sống thành từng bộ lạc gọi là
hậu. Mỗi hậu có hậu chủ là
những ông chủ tham lam, hung bạo với những
đội quân kỵ và bộ chuyên lo việc xâm
chiếm đất đai, trấn áp kẻ địch,
bắt nô lệ và bảo vệ tài sản của
hậu chủ. Các nhóm du mục Hoa tộc thời
kỳ này còn rất man rợ mà về sau các
giống Rợ Trung Á và Châu Âu cũng y hệt.
Trong một
thời gian dài, chia ra thành nhiều giai đoạn, các
giống du mục man rợ ở Tiểu Á, Trung Á, Tây
Bắc Á, Âu châu… cũng gặp phải thiên tai
hạn hán hoặc sa mạc hóa… Họ di dân đi
khắp nơi tìm đất sống. Họ đã xâm
lược thành công và tạo ra nhiều nước
“mới” thời cổ như Hi Lạp, Ai Cập,
Ấn Độ, Ba Tư (I-Ran), Babilon (I-Raq), Hébreux (Do
Thái)… Những nước này học được
nền văn hóa đặc thù của những nước
mà họ xâm lược để trở nên văn
minh, cường thịnh.
Khoảng năm
2750 tr. CN, những vùng đất ở tây bắc
lục địa Đông Á như Tân Cương,
Thanh Hải… dần dần bị sa mạc hóa
khiến những bộ lạc du mục Hoa tộc (các
sử gia Tây phương gọi các giống du mục
là Savage hay Barbarian, Rợ… tức là dân tộc dã
man, mọi rợ, chưa khai hóa) chuyên chăn nuôi dê,
cừu, heo, bò, ngựa… đang sống rải rác
tại đây phải đi tìm những đồng
cỏ mới cho những đoàn gia súc của họ.
Họ đưa thân tộc cùng với những đoàn
gia súc, đầy tớ và đội quân bảo
vệ đi dọc theo nguồn bờ bắc sông Hoàng
Hà mà vào phía bắc Trung Hoa ngày nay. Họ đã
gặp vùng đất cực bắc của nước
Xích Thần và người nông nghiệp Bắc Miêu
ở đó.
Rợ Hoa
tộc cũng không nằm ngoài bản tính hung hăng,
cường bạo, dã man của xã hội du mục.
Trước vùng đất bạt ngàn, đồng lúa
mênh mông… niềm mơ ước của họ y
hệt như dân Do Thái khi rời khỏi Ai Cập
tiến vào đất Palestine. Điều đáng nói
là trong khi lịch sử các nước kia đã ghi
lại sự vay mượn văn hóa của các dân
tộc mà họ xâm lược, còn Trung Hoa thì
thật là mĩa mai, họ cho rằng nền văn hóa
mang biệt sắc nông nghiệp vùng Đông Á là do
họ mang tới từ… hai sa mạc Tân Cương,
Thanh Hải !!!..
II/2.-NHỮNG TIÊN LIỆU
CỦA VUA ĐẾ MINH
Vua Đế
Minh đã thấy được sự uy hiếp
đó đối với khu vực địa đầu
của đất nước. Ông muốn truyền ngôi
thiên tử cho Lộc Tục là con thứ, vốn là
rể của vua Động Đình Quân ở phía nam Trường
Giang (sông Dương Tử) nhằm dựa vào
sức mạnh Động Đình để bảo
vệ vùng đất phía Bắc. Nhưng Lộc
Tục cố nhường cho anh, không nhận.
Cuối cùng,
vua Đế Minh chia lãnh thổ làm hai vùng.
Từ sông Trường Giang trở lên bắc gọi
là nước Xích Thần, phong cho Đế Nghi làm
tự quân. Từ
hồ Động Đình trở về nam gọi là nước
Xích Quỷ, phong cho Lộc Tục làm vua gọi là Kinh
Dương Vương
với lời dặn: “Hai nước phải đoàn
kết như keo sơn thì đất nước
mới bền vững được”
II/3.-TRIẾT LÝ NÔNG NGHIỆP
LỘ RÕ NÉT
TRONG HÀNH ĐỘNG CỦA VUA ĐẾ MINH
II/3A .- Nước
Xích Thần và nước Xích Quỷ.
Năm 1944-45
tôi học trường Pellerin, Huế, vị sư
huynh Việt Nam dạy lớp tôi tên là frère (sư
huynh) Paul,một tu sĩ rất già, râu tóc bạc phơ.
Bài học về huyền sử Tiên Rồng, tôi
được frère Paul dạy: vua Đế Minh chia nước
ra làm hai, phong cho Đế Nghi làm vua nước phía
bắc, gọi là nước Xích Thằng; Lộc
Tục làm vua nước phía nam gọi là nước
Xích Quỷ… Về sau, khi học những lớp cao hơn
ở Sài Gòn, tôi không thấy nhắc đến tên nước
Xích Thằng nữa. Tôi vẫn thắc mắc không
hiểu tại sao tên nước Xích Thằng của
Đế Nghi bị gạt ra khỏi sách giáo khoa?
Năm 1986, tôi
tham gia sinh hoạt An Việt, một tổ chức nghiên
cứu triết lý An Vi của triết gia Lương
Kim Định. Có lần tôi hỏi cha Kim Định
về việc loại bỏ tên nước Xích
Thằng trong huyền thoại Tiên Rồng. Cha đáp,
có lẽ Bộ Quốc gia Giáo dục thời đó
cho rằng tên Xích Thằng*
vô nghĩa nên không để vào. Tôi trình bày, thưa,
cha có nghĩ là Xích Thần mà đọc trại ra Xích
Thằng không? Bởi vì phải có Xích Thần
mới có Xích Quỷ** chứ! Cha
nhìn tôi gật gù: Đúng lắm! Người là
hội tụ bởi thần và quỷ kia mà! Cha
dặn tôi: Phải đấy, anh viết một bài nói
về việc nầy đi nhé! Thời gian đó tôi
đang bận rộn chuẩn bị in cuốn
“Thần Long Bách Việt” nên quên bẵng.
* Xích
Thằng: Tôi nghĩ, người Hoa vốn tiểu tâm,
ngạo mạn… họ tự xưng là Hoa tộc (đẹp
như đóa hoa), Trung Hoa (cái hoa ở trung tâm) còn thiên
hạ thì họ miệt thị là bọn tứ di, nam
man, man di, man (mọi rợ)… Người
Mông Cổ, họ gọi là hung nô (mọi, đầy
tớ). Các dân
tộc ở phía tây họ gọi là rợ Khuyển,
rợ Hồ… Tên vua Đế Lai chúng đổi
là Xi Vu (xấu xí, láo khoét). Tên bà Triệu Thị
Trinh, người Việt cổ gọi bà là oa
Triệu (oa=o=cô Triệu, tiếng Tầu đọc là
Triệu oa) họ đổi ra là Triệu Ẩu
(Triệu ẩu tả); Tên nước Xích Thần
họ đổi là Xích Thằng và gọi chung cả
hai nước là “thằng quỷ”, vừa xóa nhòa
cái di tích văn hóa Việt cổ vừa tỏ ra cha
chú, trịch trượng. Đau thật!… Suốt
mấy ngàn năm người Việt vô tình cứ
theo đó mà gọi…
Anh Hoa
tộc ơi, anh học lóm văn hóa tổ tiên tôi và
anh từng viết vào thượng cổ sử Trung
Hoa rằng nước Văn Lang của tổ tiên tôi
có 10 điều luật (có luật tức là xã
hội đã có tổ chức, có luật pháp,
truyền thống, đạo đức, luân lý). Anh
khen giấy Mật hương của người Văn
Lang bền dai, mực không lem, có mùi hương thoang
thoảng, xuống nước không rã… (có giấy
tức là đã có chữ viết, có ghi chép… cho dù
còn sơ khai). Anh đến
đất Văn Lang cướp của, giết người,
hãm hiếp phụ nữ, đày đọa dân
Việt… Nhưng anh lại ghi vào sử của
anh: vua sai quan qua Giao Chỉ giáo hóa man di! Anh ăn gian,
nói dối kéo dài nhiều ngàn năm… May sao, đã có
đức Khổng Phu Tử làm chứng: đạo mà
ngài ghi chép để dạy cho các anh là “đạo
cổ của người quân tử ở phương
Nam”. Có nghĩa là… chẳng những các anh đã không
xóa được gì cả mà còn để lại
trong lịch sử nước anh những vết
bẩn muôn đời không bao giờ rửa sạch
được nữa”!
** Xích
Quỷ .- Bác sĩ
Trần Đại Sĩ, trưởng ban Nghiên cứu
Phối hợp Đông Tây y tại Pháp, sau chuyến công
tác y học ở nam Trung Hoa 1980, đã viết trên
“Việt Nam đệ ngũ thiên niên kỷ”
xuất bản tại Mỹ năm 1994 như sau:
Hiện nay ở tả
ngạn sông Tương Giang, trong dãy
núi Quế Dương có một ngọn núi cao 179m
mang tên là Thiên Đài Sơn, đỉnh tròn, sườn
núi thoai thoải, có đường đi lên. Trên
đỉnh có một ngôi miếu hoang phế, rêu
phong, không người ở. Có một
tấm bia cổ khắc chuyện vua Đế Minh
phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương và
đặt tên nước là Xích Quỷ tại đấy.
Ông cho
biết, tại thư viện tỉnh Hồ Nam, ông
được đọc một cuốn phổ
viết từ thời nhà Đường do Chu Minh Văn
biên soạn nói rõ
chuyện vua Đế Minh truyền ngôi cho Lộc
Tục làm vua nước Xích Quỷ trên Thiên Đài
Sơn và chuyện các quan nhà Đường khi
được sai sang cai trị Lĩnh Nam đã chung
tiền xây ngôi miếu hoặc xuất tiền tu
bổ ngôi miếu này. Mỗi lần như thế,
họ tổ chức cúng tế linh đình để
cầu xin Miêu vương Đế Minh phù hộ cho
họ được bình an cai trị dân Miêu ở chín
quận đô hộ.
II/3B.-
Nhất nguyên Lưỡng cực
Danh xưng
hai nước Xích Thần và Xích Quỷ mang dấu
vết minh triết Đông Á: Nhất nguyên Lưỡng cực
hoặc Nhất thể Lưỡng tính. Trong đại
thể Miêu tộc (Người) luôn luôn có sự
kết hợp bởi Thần và Quỷ. Hai cụm
từ trên có nghĩa: Trong một Nguyên (Thể) luôn
luôn có hai Cực (Tính): âm và dương, tình và lý,
tinh thần và vật chất… Tỷ dụ: Người
là kết hợp bởi Trời và Đất, âm và dương,
thần và quỷ, tình và lý, nhu và cương, nóng và
lạnh, đực và cái…
Lời dặn dò của vua Đế
Minh khi đặt tên hai nước và phong vương
cho hai con: “Hai
nước phải đoàn kết như keo sơn thì
dòng giống mới bền vững được…”
Thật là
thú vị khi hiểu được những tư tưởng
ẩn dấu trong lời nói đó. Bởi vì đấy
không phải là một lời khuyên đoàn kết bình
thường như ta thường nghe mà đấy là
lời minh xác một triết lý quan trọng: Người
là kết hợp bởi Thần và Quỷ… sự
kết hợp đó không thể chia cắt được,
chia cắt là không thể tồn tại… đó là
triết lý Nông nghiệp Miêu tộc cổ: Con Người
phải duy trì Nhất nguyên Lưỡng cực thì
mới có thái hòa trong cuộc sống của mình và xã
hội..
Vua Đế
Minh khi đặt tên nước Xích Thần, Xích
Quỷ và lời dặn dò đoàn kết là sống,
chia rẽ là chết cho hai con, ngài đã an bài
triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực trong đời
sống của hai xã hội mới. Và, lời căn
dặn là một huấn lệnh triệt để:
âm dương phải hòa hợp như keo sơn
mới có thái hòa. Nói theo triết gia Lương Kim
Định thì: nhu cầu thiết thực của con
người phải đặt trên nền tảng
Nhất thể Lưỡng tính tức là nhân bản
toàn diện gồm hai lãnh vực tinh thần và
vật chất luôn luôn kết hợp làm một.
Khác với
Tây phương ngày nay chỉ chọn một trong hai,
có cái này thì không có cái kia hoặc ngược
lại. Chẳng những thế, họ chú trọng quá
nặng vào vật chất (Nhân bản suy lý) còn tinh
thần thì lơ là, thả nổi có khi chối
bỏ chà đạp. Triết gia Lương Kim Định
gọi triết lý Tây phương là Nhị nguyên, hai
Nguyên tách biệt, có cái này thì không thể có cái
kia.
II/4.-GIẢ
THUYẾT LỊCH SỬ VỀ CUỘC CHIẾN
TRANH HOA-VIỆT TẠI TRÁC LỘC, 2704 tr.CN
Để quý
độc giả có cái nhìn sinh động về xã
hội Miêu tức Viêm Việt trong khoảng
thời gian 20 năm kể từ năm 2720 đến
năm 2700 tr.CN chúng tôi xin trình quý vị một tài
liệu tạm gọi là giả thuyết lịch
sử:
Chiến
tranh Trác Lộc 2704 tr.CN.
Giả
thuyết dưới đây được tổng
hợp từ các tài liệu đã được
dẫn chứng trong sách này.
II/4A .- Vị trí nước
Xích Thần (Bắc Miêu) nằm vắt ngang sông Hoàng
Hà trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương
Tử
với hàng vạn bộ tộc nông nghiệp chuyên
canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò,
lợn, chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh
bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò… Xã hội Xích
Thần theo truyền thống mẫu hệ, thanh bình,
trù phú và hầu như chưa hề biết chiến
tranh. Vị vua đương thời là Đế Lai,
con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng
dõi Thần Nông Đế Viêm. Kinh đô nước Xích
Thần đặt tại Sơn Đông tức là vùng đất thuộc chư hầu Lỗ sau này. Vào thời Chiến
quốc đất này sẽ là nơi sinh của đức
Khổng Tử. Quý độc giả đọc sách
Đông Châu Liệt quốc chắc không quên nước
Lỗ là một nước có truyền thống luân
lý và đạo đức nổi tiếng thời
cổ.
Danh xưng
vua của nước Xích Thần có ý nghĩa như
đại tù trưởng, đại tiên chỉ. Sử gia Trung Hoa Tư Mã
Thiên thì gọi vua nước Xích Thần là thiên
Tử.
Việt
sử Tân Biên chép:
“… Chúng tôi
cả quyết như vậy bởi vì từ thời
Hồng Bàng cho tới khi nhà Đông Hán sang lập
nền đô hộ trên đất ta, thể chế
chính trị Lạc Việt tuy có tính cách phong kiến
nhưng sử sách không hề chép có sự lãnh đạm
hay mâu thuẫn giữa quý tộc và bình dân vì
vậy Đại Việt Sử Ký Tiền Biên
(ngoại kỷ quyển 1 tờ 9b) đã có thể bình
luận tình trạng
Lạc Việt đời thượng cổ như
sau”:
“Nước
Nam về thời Lạc Hồng vua dân cùng cầy, cha
con cùng tắm, người và giống vật cùng
ở nhà sàn. Ruộng Lạc điền theo nước
triều lên xuống. Dân đời ấy cùng nhau vui
vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét
không nóng. Người già rồi thì chết, người
trẻ đến lúc già không biết gì đến
việc đánh nhau. Có thể gọi là đời chí
đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì
yên vui như tượng Phật. Dân thì vẽ mình làm
ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu
thuế, không việc gì canh phòng. Vua dân thân nhau,
dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi…”
Xã hội
Việt tộc cổ là như vậy, nếu so
với uy quyền của các vua du mục Hoa tộc sau
này thì khác hẳn, quyền hành của các vị vua
phong kiến hay chuyên chế của truyền thống
du mục vốn rất bạo ngược, thuế má,
sưu dịch nặng nề, chiến tranh chiếm
đoạt liên miên lúc nào cũng sẵn sàng xẫy
ra…
II/4B .- Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều
hậu du mục Hoa tộc (mỗi hậu như
một bộ lạc có từ một tới vài
vạn người) với những đàn gia súc
đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh
Hải (đang bị sa mạc hóa)du cư về phía
Đông Nam. Các sử
gia Tây phương gọi dân du mục trên thế
giới là Savage, Barbarian
tức là Rợ, có nghĩa là thành phần dã man,
mọi rợ, chưa khai hóa.
Rợ Hoa tộc tấn công chiếm
đoạt đất đai của nước Xích
Thần,
bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt
tài sản, hảm hiếp phụ nữ. Những toán
kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông
vào các khu cư ngụ Miêu tộc như vào chỗ không
người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc
quật cường tổ chức chống cự nhưng
đều bị đánh bại. Trung Quốc Sử Cương viết về người
Miêu:
“Kẻ cường bạo hơn
cả là Xi Vu (ám chỉ vua Đế Lai là kẻ
sấu xí, khoác lác), thường nhiễu loạn các
bộ lạc (Hoa tộc) khiến nhân dân không ở yên
được”.
Tuy nhiên trước
những đoàn quân thiện chiến, những đội
kỵ binh hung hãn của rợ Hoa tộc, các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước
Xích Thần thua liên tiếp nhiều trận phải rút
về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều
đoàn rợ Hoa tộc nhân đà thắng lợi,
họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía
Nam. Thế nước Xích Thần mỗi ngày một
trở nên nguy ngập.
II/4C .- Để cứu nguy nước Xích
Thần, vua Đế Lai đem công chúa Âu Cơ
(một vị nữ tướng) về Nam, đến
nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu
viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ
cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương,
cháu nội vua Đế Minh. Tổ
chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích
Thần, tuy nhiên đất
nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư
đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân
họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích
Quỷ*, chia làm hai
cánh, một cánh đặt
dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới
quyền chỉ huy của Công chúa Âu
Cơ.
* Chúng ta đã biết hai nước
nông nghiệp Bắc Miêu và Nam Miêu thanh bình lâu đời,
không có quân đội thường trực. Khi hữu
sự, các vua Miêu tộc thường góp dân quân
từ các bộ tộc. Cuộc góp quân 100 bộ tộc nước Xích
Quỷ năm 2704 Tr. CN là một cuộc tập
họp đại quy mô khiến du mục Hoa tộc
rất lo sợ (con số 100 có ý nói rất
nhiều bộ tộc có dạng như nói: trăm
họ, muôn dân…).
Quân Liên Minh Xích Quỷ theo vua Đế
Lai tiến lên phía bắc họp với tàn quân Xích
Thần lập thành một đạo binh rất
lớn. Để
chứng tỏ lòng quyết chiến, vua
Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng rồi
dẫn đại binh tiến lên sông Hoàng Hà (sử Tàu
ngạo mạn gọi cựu vương Đế Lai
là Cổ Thiên tử Xi Vu). Thấy quân binh Miêu tộc
được tiếp viện từ phương Nam
tiến lên “đông vô số”, những
hậu du mục Hoa tộc ở phía nam sông Hoàng Hà
vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến tại Trác
Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu
cứu các rợ du mục Hoa tộc khác.
II/4D .- Hội nghị các thủ lĩnh du mục
họp ở Tân Trịnh, họ
công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Hữu Hùng
Thị, một hậu (bộ lạc) hùng mạnh
nhất, lên làm cộng chủ các hậu Hoa tộc.
Cộng chủ liền lãnh đạo quân các hậu
kéo về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên
Minh Xích Quỷ.
II/4E .- Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ,
rất đông, có tài xử dụng búa. Nhân khi
sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công
vào phòng tuyến du mục Hoa tộc rất dữ. Quân
du mục bị đánh bất ngờ, hốt
hoảng, hàng ngũ rối loạn, thoát chạy.
Trong nhất
thời quân du mục thua Liên minh Xích Quỷ, tuy nhiên nguyên lực quân
sự của họ vẫn hùng mạnh. Chẳng bao lâu
sau, cộng chủ Hiên Viên chế được “xa bàn” để định phương
hướng, liền hội quân các hậu, tổ
chức phản công. Quân du mục vốn là những đạo
quân chuyên nghiệp, được trang bị xa mã và
kỵ binh. Họ có tài xử dụng cung và trường
thương. Bộ binh thì to lớn, mặc áo da và
đánh cận chiến bằng giáo dài và mã tấu.
Hình
3
Quân Liên Minh Xích
Quỷ là những nông dân mới tập họp, ô
hợp, thiếu kinh nghiệm và vũ khí chiến
đấu.
Sau trận đầu toàn thắng, trở nên khinh
địch, lơ là việc phòng bị.
Đến khi quân
du mục Hoa tộc dùng xa bàn khống chế
được sương mù và tấn công thì liên
minh Xích Quỷ không chống nổi, hàng ngủ
rối loạn, thua lớn.
Vua Đế Lai lui quân về phía Đông, lập
trại tại Bản
Tuyền. Tại đây, hai bên lại đánh một
trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiềt
hại nặng. Vua
Đế Lai tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn
tan vỡ.
II/4F .- Lạc
Long Quân dẫn
tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà chạy ra hướng
đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên
Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi
chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa tộc truy kích rất dữ, phải chạy ra
biển Đông và mất tích*.
Kể từ đấy, nước Xích
Thần mất hẳn**
vào
tay du mục Hoa tộc.
*Chạy ra
biển Đông và mất tích :
Theo
cố học giả Bình Nguyên Lộc trong sách
“Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam” (danh xưng Mã Lai xuất phát từ địa danh
Hi-Malaya tức cao nguyên Hi Mã lạp sơn chứ không
phải nước Mã Lai Á ngày nay) với những
dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân đã
tản mát ra khắp nơi ở Biển Đông: Đông-Bắc lục
địa, kết hợp với dân địa phương
lập ra nước
Triều Tiên; phía Đông với giống Ai Nô
lập nước Nhật,
Đài Loan; Đông Nam họ lên quần đảo
Célèbre ở Indonésia, đảo Hải
Nam; phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng
sông Cả và sông Mã với đồng chủng. Ông
gọi sự kiện đạo binh Lạc Long Quân
chạy ra biển đông là cuộc di dân đợt
một của dân tộc Việt Nam, còn
cuộc di dân đợt hai xẩy ra vào
cuối Chu và Tần và Hán.
**
Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích
Thần (bắc Miêu, Thần Nông bắc) sau khi bị
Hoa tộc xâm lược đã chuyển đổi thành
“hàng vạn” nước chư hầu và nước
phụ dung của vua chúa du mục Hoa tộc. Họ
dần dần trở thành người Trung Hoa gốc
Miêu.
Cánh quân của công chúa Âu Cơ vượt sông
Hoàng Hà chạy về phía nam. Bị quân Hiên Viên đuổi
riết, bà lại vượt sông Dương Tử lui về vùng núi
Ngũ Lĩnh trên Cánh Đồng Tương* quê
hương chồng. Theo sách Lĩnh Nam Trích
Quái của Trần Thế Pháp thì Âu Cơ và các con
(các đơn vị dân quân trong Liên Minh Xích Quỷ)
đã về đến Tương Dạ.
Bà ở lại đấy có ý đợi tin tức
Long Quân.
II/4G.-
Sách
Lĩnh Nam Trích Quái kể:
Chờ
lâu không gặp chồng, bà lập đàn ở Tương
Dạ*
kêu khóc tha thiết: “Quân
ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương
nhớ”
Các
con cũng khóc:“Bố
ở phương nào mau về với chúng con”.
Thốt
nhiên Long Quân về trên đàn, ông bàn với Âu Cơ
nên chia các con ra trấn giữ các nơi. Long Quân
dặn Âu Cơ phong con trưởng họ Hồng Bàng
Thị làm vua gọi là Hùng Vương,
đóng đô Phong Châu.
Sau
khi mọi việc tạm ổn, công chúa Âu Cơ
nhớ nhà, nhớ nước bèn đem các con đi lên
biên cảnh. Vua Hoàng Đế (Sau chiến thắng
tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng vua và đổi tên
là Hoàng Đế) nghe tin lấy làm sợ mới phân
binh trấn ngự quan tái khiến mẹ con không
về bắc được.
*
Cánh Đồng Tương, đất Tương
Dạ : Những danh xưng Cánh Đồng Tương,
đất Tương Dạ, sông Tiêu, sông
Tương… ở phía Nam Động Đình Hồ
có thể đã xuất hiện từ câu chuyện công
chúa Âu Cơ và các con thương nhớ Lạc Long
Quân và lập đàn kêu khóc? Để rồi từ
đó trở thành địa danh nổi tiếng trong
văn học sử Việt cũng như Trung Hoa sau này.
Về
sau người Tầu có chuyện hai bà vợ vua
Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm xác chồng
Cánh Đồng
Tương.
Khi họ đến bờ sông Tiêu Tương thì nghe
dân địa phương nói vua Thuấn chết
ở đấy. Hai bà này bèn ngồi bên những
bụi trúc trên bờ sông Tương mà khóc lóc
thảm thiết. Nước mắt họ rơi trên
các lóng trúc. Từ đó, mới có tên sông Tiêu Tương,
Cánh Đồng Tương và trúc hai bên bờ sông Tương
có những đốm xanh như ngọc rất đẹp
giống những giọt nước mắt của hai
bà ấy.
Cho
đến giữa thời nhà Thương khoảng 1000
năm sau chiến tranh Trác Lộc, Hoa
tộc chỉ mới mò tới vùng đất
giữa 2 con sông Dương Tử và Hoàng Hà, thì vào
thời vua Thuấn chắc chắn vùng đất nam
Dương Tử vô cùng xa lạ đối với
Hoa tộc. Chúng tôi nghĩ, chuyện hai bà vợ vua
Thuấn mang nặng tính giả tạo, huyễn
hoặc qua giai thoại vua Thuấn đi tuần thú
“tới phía Nam Động Đình Hồ và chết
ở đấy và chuyện nước mắt
của hai bà này làm cho những lóng tre hai bên bờ Tương
Giang từ đó lốm đốm nước mắt
màu xanh ngọc!!!”Thời Nghiêu, Thuấn, phía
Nam Trường Giang còn là đất thuộc
quyền người Nam Miêu, trong phạm vi nước
Văn Lang của các vua Hùng, thì
chuyện vua Thuấn đi tuần thú phương Nam
ở đây là phương nam của châu thổ sông
Hoàng Hà cho tới phía bắc châu thổ sông Dương
Tử .
Chuyện
những cây trúc hai bên bờ sông Tương về
sau có hình những đốm nước mắt
của hai bà vợ vua Thuấn lại càng quá hoang
đường… Rõ ràng người Tầu đặt
ra chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc
xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu
Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương
Dạ… của Việt tộc.
Tiếng Tầu
vốn là một kết hợp bởi hàng trăm
thứ tiếng của nhiều dân tộc gốc nông
nghiệp Miêu, Viêm mà họ xâm lăng
và đồng hóa… trong đó, chắc chắn ngôn
ngữ của người Bắc Miêu mà trung tâm là vùng
Sơn Đông và nam Miêu (Bách
Việt) vùng Động Đình
đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Chỉ riêng vùng
Giang Nam, Hồ Nam, Lưỡng Quảng (đất Bách
Việt cổ)… xưa nay vốn là trung tâm xuất
phát những nền văn học, nghệ thuật,
triết học, kinh tế, võ thuật, ca múa, hàng tơ
lụa, đồ gốm… của Trung Hoa đã cho chúng ta
một lời giải đáp rất rõ: Những “Hán
ngữ” đầy
dẫy trong hàng ngàn danh xưng Việt cổ (Thiên
tử, Thiên hạ, Đế Viêm, Đế Minh, Đế
Lai, Đế Du Võng, Lộc Tục, Kinh Dương Vương,
Sùng Lãm, Lạc Long Quân, Động Đình Quân, Long
Nữ, liên minh Xích Quỷ, kinh đô Cửu Linh, sông
Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất
Tương Dạ, Bách Việt…) là ngôn ngữ
của Miêu tộc
do các quý tộc Bách Việt đem tới bắc
Việt Nam trong nhiều cuộc rút lui về phía nam cách
đây nhiều ngàn năm.
Tưởng
cũng nên nói thêm, thổ ngữ của các địa
phương Miêu, Viêm hay Bách Việt kể cả vùng
rìa là bắc Việt Nam hầu như không giống
nhau do ở họ cư ngụ trên một vùng địa
lý quá rộng và rất hiếm khi liên lạc với
nhau
(xin xem mục II/9. Nghi
vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành
không?)
Một
vấn đề quan trọng khác: công chúa Âu Cơ
làm tướng không phải là điều ngạc nhiên
nếu chúng ta nhớ xã hội Việt cổ theo
chế độ mẫu hệ. Trước và sau bà
Âu Cơ có nhiều vị nữ lưu khác như bà
Oa Nữ (Việt ngữ gọi là O Nữ hoặc Oa
Nữ, chuyển qua Hoa ngữ thành Nữ Oa), Bà quân Ngô
Nhuế (Hành Sơn Vương), bà Mai Quyên, bà Man
Thiện, Hai
bà Trưng, bà Triệu
Thị Trinh (Oa hoặc O Trinh, chuyển qua ngôn
ngữ Tầu đọc là Triệu Oa… rồi
miệt thị thành Triệu Ẩu), bà Bùi
Thị Xuân… Các vị này làm vua, làm tướng
cầm quân dẹp giặc vô cùng oanh liệt không thua
gì nam giới.
II/4H.-
TÌM HIỂU SUY TƯ CỦA NGƯỜI XƯA
Các
danh xưng Xích Thần, Xích Quỷ và nhân thoại Tiên
Rồng không phải là những chuyện huyền
hoặc, vô bổ như nhiều người lầm tưởng.
Đó
chính là quan niệm nhân sinh và vũ trụ cũng như
đường lối xây dựng xã hội và con người
hoàn thiện mà người xưa cài đặt vào
những sự kiện lịch sử quan trọng
của dân tộc. Mục đích nhằm truyền
dạy, lưu lại cho con cháu khi mà tình thế không
cho phép họ diễn đạt trực tiếp
những vấn đề bị coi là “quốc
cấm”.
Cũng
có thể vào thời ấy, dù đã có chữ
viết nhưng chỉ mới ghi ra những chữ tượng
hình như những chữ số, cái nhà, đất,
nước, sông, núi, trâu, bò… chứ chưa diễn
tả được tư tưởng hoặc
những từ trừu tượng thuộc về tình
cảm, tâm linh… Vậy, để truyền lại tư
tưởng của tổ tiên nòi giống, người
xưa chỉ có thể dựa vào những câu ca dao,
phong dao, tục ngữ, thành ngữ, vè, ca múa hoặc
trong những câu chuyện ta gọi là chuyện
cổ, là nhân thoại, huyền sử để
phổ biến trong đại chúng. Nhờ vậy mà
lưu truyền đến các thế hệ về sau.
Âm – Dương
và quan niệm nhân sinh :
–
Xích Thần, Thần thuộc Âm chỉ tinh thần, lương
tri, đạo đức, luân lý, nhu, văn, đường
ngang, nét cong, hình tròn…
–
Xích Quỷ, Quỷ thuộc Dương, chỉ
vật chất, lý trí, luật lệ, cương, dũng,
nét dọc, nét gãy, hình vuông…
Xã
hội nói chung và con người nói riêng phải
được xây dựng và duy trì trên nền
tảng có âm có dương, có tinh thần có vật
chất, có tình có lý, có nhu có cương… như hai
dòng điện âm dương phải được
nối lại mới phát ra ánh sáng, như hai sợi
chỉ ngang dọc đan vào nhau mới thành tấm
vải…
Thái cực và quan
niệm vũ trụ :
–
Liên minh Xích Quỷ = Tiên
Rồng = Thái cực = Nhất nguyên Lưỡng
cực
–
Cha Rồng đem
50 con xuống biển, Mẹ Tiên đem 50 con lên núi
= âm dương phân cực = Sinh lưỡng nghi
–
Âu Cơ lập họ
Hồng Bàng làm vua Văn Lang và chia con trấn
giữ khắp nơi = Lưỡng nghi biến hóa vô
cùng
Tuy
nhiên, càng về sau, nước
Văn Lang càng bị dồn vào thế thu hẹp
trên cả hai lãnh vực đất đai và văn hóa
vì các tộc ở phía Bắc bị ảnh hưởng
cường lực thống trị của Hoa tộc
dần dần nổi lên xưng độc lập… Và cuối cùng,
Việt tộc lâm vào cảnh nô lệ Hoa tộc hơn
1000 năm. Với
ý đồ đồng hóa dân Việt thành Tầu,
kẻ cường bạo Hoa tộc đã thi hành
một kế hoạch bôi xóa văn hóa vô cùng tinh
vi… Vì thế, cho đến khi thoát khỏi xiềng
xích nô lệ Hoa tộc thì Việt tộc dù đang
sống trong văn hóa nguồn cội (đã bị
pha chế, biến dạng) mà vẫn tưởng là
học được văn minh của kẻ thù!
II/5.-DU MỤC
HOA TỘC LẬP QUỐC
Sau
chiến thắng ở Trác Lộc 2704 Tr. CN,
du
mục Hoa tộc chiếm trọn toàn bộ đất
Miêu Bắc,
nông dân Miêu hiền lành, đông gấp trăm
lần Hoa tộc. Họ có một nền văn hóa
“khoan nhu dĩ giáo” và họ đã bắt đầu
sáng tạo chữ viết. Do vậy, cộng chủ
Hiên Viên dựa theo truyền thống Miêu tộc, ông
đổi tên là Hoàng Đế*
với thiên chức mới: thiên tử. Ông phong các
hậu chủ Hoa tộc và các trưởng bộ
tộc nước Xích Thần quy phục tạo thành
một hệ thống hàng vạn nước chư
hầu hoặc nước phụ dung, mở màn cho
chế độ phong kiến sơ khai của Hoa
tộc thời kỳ lập quốc. Đất đai
của mỗi chư hầu có lẽ bằng một
tổng hoặc xã ngày nay. Chế độ chư
hầu tự trị, có quân đội, luật
lệ, kinh tế riêng… vua chư hầu cha truyền
con nối. Chư hầu phải tuân phục chính
quyền trung ương, hỗ tương quân sự,
nộp cống và vật lệ định kỳ…
Nhờ
vua Hoàng Đế sáng suốt tiếp nhận nền
văn hóa tư tưởng chứa đầy luân lý,
đạo đức, xây dựng và dẫn dắt xã
hội trên nền tảng Âm Dương, Tam thông, Ngũ
hành… của Miêu tộc, các triều đại
khởi đầu của du mục Hoa tộc đạt
được một giai đoạn thanh bình lâu dài
hiếm có trong lịch sử Trung Hoa.
*
Hoàng
Đế, đọc cổ sử, chúng ta thấy
chữ Đế nơi nhiều vị vua Việt
cổ như Đế Viêm
(Thần Nông), Đế
Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng. Cùng
lúc này, du mục Hoa tộc vẫn còn mang những danh
xưng Hậu chủ.
Khi Hiên Viên được
tôn làm người lãnh đạo các Hậu thì xưng
là Cộng chủ. Cho
đến khi chiếm được nước Xích
Thần thì Hiên Viên liền đổi tên là Hoàng và
gọi là vua Hoàng Đế
theo truyền thống Miêu tộc.
Chúng
tôi nghĩ, khởi thủy chữ Đế là danh
hiệu của người lãnh đạo xã hội
Miêu tộc. Khi một Trưởng bộ tộc Miêu
được chọn làm Thiên tử (người
đứng trên cái đế). Ông Minh, ông Nghi… đứng
trên cái đế thì được gọi là Đế
Minh, Đế Nghi… Cộng chủ Hiên Viên sau khi
chiếm được nước Xích Thần thì ông
chiếm ngôi vị Đế của Đế Nghi và
tự gọi là Hoàng Đế (ở đây ta
thấy truyền thống ngôn ngữ Việt cổ và
Hoa tộc có sự khác biệt: Việt đặt ngôi
vị trước đại danh từ nên gọi là
Đế Minh, Đế Nghi… Tầu đặt đại
danh từ trước từ chỉ ngôi vị nên
gọi là Hoàng Đế. Cũng như Oa Nữ, Oa
Triệu của Miêu thì Tầu gọi là Nữ Oa,
Triệu Oa, Đối với Triệu Oa họ
miệt thị bằng cách đọc trại đi là
Triệu Ẩu (ẩu tả) như đã dẫn trong
đoạn trước).
Tiếp
đó, con và cháu nội Hoàng Đế thì chỉ
gọi tên mà không xưng Đế (Thiếu Hạo,
Xuyên Húc), phải chăng đã có sự cân nhắc,
phân biệt trong việc xử dụng danh xưng “Đế”
của Miêu tộc?
Tuy
nhiên, các vị vua sau Xuyên Húc thì lại gọi: Đế
Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế
Thuấn, Đế Khải… theo đúng truyền
thống ngôn ngữ Miêu. Có lẽ áp lực văn hóa
Miêu đang đè nặng lên xã hội đương
thời (hàng vạn nước chư hầu và
phụ dung vốn gốc Miêu). Sau Đế Khải thì
các vua kế tiếp của Hoa tộc không lót chữ
“Đế”như các vua trước. Dù vậy, các
sử gia Trung Hoa vẫn dùng chữ đế trong
cụm từ: “lên ngôi đế, đế
nghiệp…”
Hai
ngàn năm trăm năm sau, danh xưng Hoàng Đế
được Tần Chính làm sống lại nhưng
đổi thành tước hiệu, nó có nghĩa như
đại đế, vua nước lớn. Chẳng những thế, Tần Chính ngông nghênh
tự xưng là Tần Thủy Hoàng còn con cháu thì
sẽ xưng Tần Nhị Thế, Tần Tam Thế
cho đến vạn thế… Y bãi bỏ chế
độ chư hầu, chế độ phong đất
và thi hành một đường lối cai trị
cực kỳ hà khắc, tàn độc… Giả
dụ ông ta xưng là Đế Chính và áp dụng
lại đường lối trị dân theo truyền
thống Miêu tộc cổ của thời Đế
Nghiêu, Đế Thuấn thì xã hội Trung Hoa thời
nhà Tần sẽ tốt đẹp biết mấy…
II/6.-NGHI VẤN
LỊCH SỬ :
NƯỚC VĂN LANG VÀ 18 VỊ VUA HÙNG.
Trong
khi đó, nước Xích Quỷ ở phía Nam bị
mất lãnh đạo. Công chúa Âu Cơ trong tư thế là Mẹ của
toàn dân, bà lập Đàn ở Tương Dạ,
phong cho người con trưởng của Lạc Long
Quân thuộc Hồng Bàng Thị (con của người
mẹ họ Hồng Bàng) lên làm Hùng Vương (xin
hiểu Hùng vương thời này có vị thế như
một đại tộc trưởng, liên tộc trưởng…
khác hẳn các vị vua quân vương Hoa tộc và
các vua chư hầu đang hình thành ở phía
Bắc). Giá trị minh triết của hai nước Xích
Thần và Xích Quỷ không thích hợp nữa, bà
đặt tên mới: nước
Văn Lang.
Khởi
đầu nước Văn Lang trải dọc từ
hồ Động Đình tới đất Thanh Hóa,
Nghệ
An, rộng từ Tứ Xuyên ra tới biển Đông.
Về sau, một phần do Hoa tộc lấn chiếm,
một phần do các tộc đồng chủng
nổi lên giành độc lập, tạo thành
những nước mới, khiến biên giới nước
Văn Lang tụt dần về phía Nam gần giống
ngày nay. Quý tộc
những nước Bách Việt mới lập,
mỗi lần bị Hoa tộc chiếm mất nước
lại chạy về Nam, nhập vào Văn Lang và
trở thành những dân tộc thiểu số ở các
vùng Thượng du, vùng biên giới miền Bắc, vùng
miền núi hoặc các phần đất phía Nam
quận Nhật Nam sau này gọi là Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên*.
*
Ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên xưa nay nhiều sử gia vẫn cho rằng
đây là đất cổ của Chiêm Thành. Điều
này không đúng. Chúng tôi có phần bình luận
về ba tỉnh miền Trung này qua tựa đề:
Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không ở đoạn
sau).
Hình
4
Có
4 giả thuyết về thời đại các vua Hùng.
Giả
thuyết 1.– Giả thuyết này
dựa vào huyền thoại Tiên Rồng kể
chuyện Âu Cơ phong cho con trưởng của
Lạc Long Quân hoặc vị tộc trưởng
họ Hồng Bàng lên ngôi Hùng Vương.
Tuy nhiên giả thuyết này gặp khuyết điểm
rất lớn là 18 vị Hùng Vương làm vua
suốt 2446 năm kể từ năm 2.704 đến năm
258 tr.CN. Tính ra trung bình mỗi vị ở ngôi vua 135 năm
(chưa kể thời gian các ngài chưa lên ngôi). Cũng
thời gian này nhà Hạ bên Tầu có 17 đời
vua với 432 năm, nhà Thương có 34 đời
vua với 629 năm, nhà Chu có 37 đời vua với
878 năm. Đổ đồng mỗi vua Tầu
chỉ làm vua 22 năm. Vậy số cách biệt
tuổi tác quá xa không thể có trên thực tế.
Giả
thuyết 2.- Theo truyền thuyết, đời
Hùng vương thứ sáu, Phù Đổng Thiên vương
đánh tan giặc Ân bên Tầu (nhà Ân tức là nhà
Thương 1505-1134 tr.CN, biên giới nước Văn
Lang và Trung Hoa thời gian này rất gần nhau). Vua Hùng
vương thứ 6 cùng thời với vua Trụ bên
Tầu là vị vua cuối cùng của nhà Ân. Vua
Trụ dũng mãnh, ham chinh phạt nhưng lại
đam mê tửu sắc… đến độ mất
nước vào tay Chu Bá Phát (tổ
nhà Chu). Nếu quả thực như thế thì
vua Hùng thứ 6 trị vì Văn Lang trong khoảng
những năm 1120
tr.CN. là thời điểm nhà Chu diệt nhà
Thương (Ân) mà lập quốc. Cho đến năm
257 tr.CN. thì vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán
diệt mà chiếm Văn Lang. Giả dụ mỗi
vị vua Văn Lang bình quân ở ngôi được
25 năm thì từ vua Hùng thứ I đến vua Hùng
thứ VI chỉ có thể lập quốc Văn Lang
khoảng năm 1270 tr. CN:
Số
năm làm vua của 6 vua Hùng đầu tiên:
6
vị x 25 năm =150 năm
Vậy
thời điểm nước Văn Lang xuất
hiện là:
1120
tr.CN +150 năm = năm 1270 tr.CN.
Như
thế, vua Hùng thứ nhất chỉ có thể
xuất hiện vào khoảng năm 1270 tr.CN chứ không
thể xuất hiện ngay sau chiến tranh Trác Lộc
2704 tr.CN.
được. Vậy bà Âu Cơ đâu có thể
sống từ năm 2704 đến năm1284 tr.CN để
thực hiện lời dặn của Lạc Long Quân?
Giả
thuyết 3 .- Theo Lịch Sử Việt Nam của
sử gia Phan Huy Lê, từ Hùng là từ Việt âm Hán.
Tiếng Mường có từ Kun, Lang Kun chỉ người
con trưởng, ngành trưởng. Người Môn-Khơ-Me,
người Xink-Mun người Khơ-Mú, người
Kháng, Thái, Lào… có từ Khun chỉ Tù trưởng,
thủ lĩnh. Người Mun-Đa có từ Khunzt
chỉ tộc trưởng. Như vậy có lẽ
chữ Hùng được phiên âm từ Kun, Khun hay
Khungzt. Do đó ta có thể nói Hùng vương nguyên là
thủ lãnh của một bộ tộc hay liên minh
bộ tộc, đúng như sử gia Hoài Nam Tử
viết: “Tù trưởng
bộ lạc Văn Lang dùng pháp thuật quy phục 15
bộ lạc mà lập nước Văn Lang, xưng
hiệu là Hùng vương”. Con số 18 đời Hùng vương
chỉ là con số biểu trưng, ý nói là rất
nhiều. Người Việt Nam thường nói: 9
từng mây, 9 ngọn sông, voi chín ngà gà chín cựa
ngựa 9 hồng mao; 18 đời quận công,
Thạch Sanh đánh tan quân 18 nước; 36 chước,
giặc có 36 tướng… Như vậy giả
thuyết III chấp nhận có rất
nhiều Hùng vương chứ không phải là 18
vị.
Khổ
nỗi, không thể có một dòng họ con cháu
nối nhau làm vua liên tục suốt 2.446 năm…
Chúng
tôi xin trình giả thuyết mới:
Giả
thuyết 4.- Danh
xưng Hùng vương, theo giả thuyết 3 có nghĩa
là chức vị người đứng đầu
để gọi người lãnh đạo liên minh
bộ tộc như danh xưng Vua, Quốc trưởng,
Tổng thống… một quốc gia chứ không
phải danh hiệu như những
danh hiệu Quang Trung, Gia Long, Louis 8, Elizabeth đệ
II… Còn con số đi theo sau từ Hùng Vương là
con số thứ tự của cái Ho làm Hùng Vương
chứ không phải là số hiệu của một
vị vua như ta thường thấy.
Như
thế, thời đại Hùng vương thứ I
gồm những vị vua thuộc họ Hồng Bàng.
Thời đại Hùng vương thứ II, thứ
III… là những Hùng vương thuộc các họ khác.
Vậy 18 đời
Hùng vương là 18 dòng họ thay phiên nhau làm Hùng vương.
So sánh với thời gian 88 vị vua Tầu của 3
họ Hạ, Thương, Chu làm vua trong 1939 năm
hoặc sau này10 họ Việt như Ngô, Đinh,
Tiền Lê, Lý… Nguyễn thay nhau làm vua từ năm
939 đến 1945 tổng cộng 1006 năm, thì 18 họ làm Hùng vương trong 2.446
năm tỏ ra rất hợp lý.
Lý
do khác, truyền thống vua cha truyền ngôi cho con
chỉ xẩy ra trong chế độ Phụ hệ.
Thời đại các Hùng vương lại thuộc
chế độ Mẫu hệ, con cái theo mẹ và
mang họ mẹ. Con, cháu các Hùng vương chắc
chắn cũng mang họ mẹ chứ không mang họ
của vua cha. Việc truyền ngôi cho con để duy
trì dòng họ hoàn toàn không thích hợp với
chế độ Mẫu hệ. Lẽ dĩ nhiên con,
em, cháu trong gia tộc Hùng vương đương
nhiệm có ưu thế hơn người khác nhưng
chưa hẳn có thể làm lệch cán cân tuyển
chọn của Hội đồng Tộc trưởng
thường căn cứ trên tài năng đức
độ. Cho dù có truyền ngôi cho em để duy trì
dòng họ thì cũng chỉ đặt trên tình
cảm anh em thân cận được vài đời
Hùng vương là tối đa, cuối cùng rồi
con của vị vua (em út cùng một mẹ) cũng
sẽ phải nhường ngôi khi họ khác
được bầu lên.
Thời
xã hội Miêu tộc cổ đại, làm vua là
tiếp nhận trách nhiệm hơn là quyền uy, danh
vọng và của cải vật chất như
những vị vua thời quân chủ mà ta thường
thấy sau này. Nó có dáng như vị Tiên chỉ trong
làng, như Tộc trưởng một tộc họ
nhưng trên một tầm vóc rộng lớn hơn.
Chức vụ Hùng vương không phải là ước
mơ của những kẻ chọc trời khuấy nước,
tranh bá đồ vương như các thời đại
về sau. Bởi đó, theo truyền thống, người
được chọn lên ngôi vua thường tỏ
ra lo lắng, e sợ không đảm đương
nổi công việc trọng đại. Khi không
thể từ chối được mới cung kính vâng
lời.
Từ
những luận cứ trên, chúng tôi tin rằng,
mỗi họ Mẫu hệ lên làm Hùng vương
khoảng ba, bốn đời vua thì có những người
tài đức cao trọng hơn xuất hiện và
đại hội các Tôc trưởng lại suy
cử Mẫu hệ khác lên thay thế.
Những
tin tức thêm về nước Văn Lang.-
1.-
Khi mới lập quốc, Văn Lang có biên cương
như huyền sử đã ghi, tức là toàn bộ vùng
đất phía Nam sông Dương Tử với cơ
chế trị quốc khoan nhu dĩ giáo*
mà Thiên tử là Hùng Vương và Thiên Hạ là hàng
trăm, hàng ngàn bộ tộc gọi chung là Bách
Việt ở phương Nam.
*
Khổng Tử (551-479 Tr. CN) người nước
Lỗ thời Chiến quốc khi nói về nơi
xuất phát Đạo cổ ngài nói là ở phương
Nam trong câu: “Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo
Nam phương chi cường dã quân tử cư
chi” (sách Trung Dung/10).)
Tuy
nhiên, từ phía Bắc, Hoa tộc từ nhà Hạ
(2195-1763 Tr.CN) tới nhà Thương (1763-1134 tr.CN) sau
khi nuốt trọn và đồng hóa nhân dân nước
Xích Thần thành Trung Hoa, thì nhà Chu trong hai giai đoạn
Xuân Thu, Chiến Quốc, sức mạnh cường
lực của họ đã ảnh hưởng rất
mạnh trên các bộ tộc Bách Việt kế
cận.
Xã
hội Bách Việt ở cực Bắc Văn Lang (phía
Nam sông Dương Tử) cũng bị ảnh hưởng
nhưng chậm hơn. Các Tộc trưởng ở
đây hầu như không quan tâm tới vị trí
tối cao của các Hùng Vương theo truyền
thống Việt cổ mà lại thích làm vua theo cơ
chế quyền lực trực trị của Hoa
tộc. Do vậy, họ theo nhau thoát ly khỏi chính
quyền trung ương Văn Lang. Họ dựng lên
những nước nhỏ, xưng vua và tranh chấp
nhau… gần giống các cuộc chiến tranh chư
hầu cùng thời của nhà Chu.
Tuy
nhiên, thời nhà Chu cuối Xuân Thu (550 tr,CN), truyền
thống du mục không dừng lại ở bên kia
bờ Trường Giang. Bằng cách này hay cách khác,
đã xuất hiện dọc theo bờ Nam sông Trường
Giang và bắt đầu khống chế một
số nước Việt phương Nam. Chiến
tranh giữa các chư hầu liên miên khiến xã
hội đảo điên, luân lý suy tàn… Lão Tử,
Khổng Tử xuất hiện. Họ vận dụng
tư tưởng sẵn có của phương Nam, kêu
gọi bảo vệ luân lý, đề cao đạo
đức, thiết lập lại tôn ti trật
tự xã hội… (Nho) hoặc chủ trương
sống nhàn, sống tự nhiên, không tranh chấp, vô
vi, tự tại… (Lão)
Cho
đến giữa thời kỳ Chiến Quốc nhà
Chu thì biên giới nước Văn Lang đã lui
tới gần sát lằn ranh biên giới Việt Nam
Trung Hoa ngày nay.
Tới
đây chúng ta nhận ra một vấn nạn có tính
cách “sinh tử” của nước Văn Lang là
chế độ Nhân chủ, Nhân Trị Bách Việt
(theo kiểu tiền sử) đã tỏ ra quá yếu
thế trước áp lực của các nước
theo chế độ quân chủ chuyên chế du
mục phương Bắc: Liên tiếp nhiều
bộ tộc nông nghiệp bị thu hút theo truyền
thống tổ chức của xã hội du mục càng
ngày càng gia tăng. Họ li khai Văn Lang và lập
quốc bằng những cơ chế quân chủ sơ
khai.
2.-
Theo sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử
Toàn Thư thì vào thế kỷ thứ 9 tr.CN, một
quý tộc Việt ở Chiết Giang thuộc Thị
tộc Mỵ đứng lên lập nước Sở
và xưng là Hùng Mỵ (vua Mỵ). Rõ ràng, danh xưng
hùng trong Hùng Mỵ có liên hệ với hùng của Hùng
vương: hùng = vua. Tuy nhiên vào giai đoạn này, Hùng
Mỵ và nước Sở đã bước vào
truyền thống quân chủ chuyên chế của du
mục Trung Hoa.
3.-
Các Hùng vương không hoàn toàn do phái nam đảm
nhiệm mà chắc chắn đã có nhiều nữ Hùng
vương. Bởi vì, là thời đại mẫu
hệ, trước đó đã có bà Nữ Oa, bà
Vụ Tiên, bà Âu Cơ và sau đó lại có Bà Quân
Ngô Nhuế, bà Mai Quyên, bà Man Thiện, Hai Bà Trưng,
bà Trần Thiếu Lan, bà Phật Nguyệt, bà
Triệu Thị Trinh… đã làm vua, làm tướng thì
nhất định phải có nữ Hùng vương
trong suốt 2.446 năm đằng đẵng đó.
Hình
5
4.-
Hai vua Kinh Dương Vương (Lộc Tục) và
Lạc Long Quân (Sùng Lãm) thay nhau làm vua nước Xích
Quỷ và nước này đã bị tan rã vì mất
lãnh đạo sau trận Trác Lộc năm 2.704 TCN. Tù
trưởng các bộ lạc Việt thay nhau làm Hùng
vương nước Văn Lang là thời đại
kế tiếp sau thời đại Xích Quỷ.
Nhiều sử gia ghi rằng Kinh Dương Vương
và Lạc Long Quân là hai vị vua đầu tiên
của nước Văn Lang và gọi họ là Hùng vương
thì e nhầm chăng ?
II/7.-NƯỚC ÂU LẠC
Trong
cuộc chạy thoát về phương Nam tìm đất
sống, quý tộc của một quốc gia Miêu
tộc dòng Âu là Thục Phán đã bất ngờ
đánh chiếm nước Văn Lang dòng Lạc
của vị Hùng vương cuối cùng thuộc
họ thứ 18. Thục Phán*lên
làm vua xưng là An Dương Vương đổi
Quốc hiệu là Âu Lạc năm 257 tr.CN. An Dương
Vương lưu dụng toàn bộ Lạc hầu,
Lạc tướng, Bố chính… của Văn Lang giúp
mình cai trị đất nước.
*Thục
Phán, nguyên là cháu vua Thục đất Tứ Xuyên,
vị vua này đã chết khi nước Thục
bị chư hầu Tần Xâm lược năm 270
tr.CN. Đúng ra Thục Phán là con của một vị
Thái tử nhà Thục sống lưu vong trên đất
Tây Âu, tại đây vị Thái tử này được
tôn là “vua Thục” (lưu vong) nên cũng có sách chép
là con vua Thục. Thục Phán là một tướng
trẻ có tài cầm quân, xây thành đắp lũy.
Họ sống lưu vong ở nước Tây Âu
của vua Trạch Hu Thống và giúp vua này bình định
giặc giã và lập được nhiều công
trạng. “Vua Thục” xin cưới công chúa Văn
Lang nhưng vị Hùng vương cuối cùng
thuộc họ thứ 18 cự tuyệt nên đem lòng
thù hận. Trước khi chết, ông vua lưu vong này
khuyên Thục Phán nên chiếm lấy Văn Lang.
Mặt
khác, vua Trạch Hu Thống nước Tây Âu vốn
ngại Thục Phán ở lâu trong nước
“bất tiện” nhân đó giúp binh lực cho
Thục Phán xâm lăng Văn Lang theo kiểu vừa
đền ơn vừa tống cổ đi. Hùng vương
bị tấn công bất ngờ, thua trận, phải
tự sát năm 257.
II/8.-VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN NHÀ TRIỆU
Năm
207 tr.CN, một quốc gia Việt tộc khác ở vùng
Nam Hải, Quế Lâm, Mân Việt… là nước Nam
Việt của Nam Việt vương Triệu Đà*thôn
tính nước Âu Lạc lập thành một quốc
gia với biên cương rộng lớn, phía Bắc
lên tới Động Đình Hồ. Kinh đô đặt
tại Phiên Ngung (Quảng Tây).
*
Một số các sử gia cho rằng, Việt Nam
trong thời này là đã lệ thuộc Trung Hoa.
Chúng
tôi có thiển ý: Triệu Đà phản Tần
phục Việt, cùng dân Việt lập quốc gia Nam
Việt và xưng là Nam Việt Vương, ông
“ngồi xổm, nhai trầu” mà tiếp sứ
giả nhà Hán tức là ông đã nhập quốc
tịch Việt. Nước Nam Việt độc
lập, không lệ thuộc nhà Tần cũng không
lệ thuộc nhà Hán. Về sau dù có xưng thần
với Hán nhưng vẫn giữ vững biên cương,
và nền tự chủ suốt 5 đời vua không khác
gì các họ Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần… sau này.
Trước
đó, những vùng đất phương Nam như
Nam Hải, Việt Thường, Quế Lâm, Mân
Việt, Tây Âu*… qua những
biến động lịch sử mà chuyển đổi
thành nước Nam Việt dưới triều đại
Triệu Việt Vương có thể coi là một
cuộc đảo chánh hành chánh mà những cấp lãnh
đạo địa phương người Bách
Việt hầu như không thay đổi. Sau này quý
tộc Văn Lang và Âu Lạc cùng Triệu Đà chia
xẻ quyền hành lãnh đạo dân tộc, chúng ta
không có lý do gì để gọi Hải Nam, Quế Lâm,
Mân Việt, Tây Âu đô hộ Âu Lạc. Hơn
nữa đây là thời chiến tranh nhiễu nhương
liên tục nhiều trăm năm giữa Việt
tộc với Việt tộc, Việt tộc với
Hoa tộc. Sự kiện Nam Việt Vương
thống nhất các nước Việt tộc phía Nam
Trường Giang tạo nên một nước lớn
trên bình diện xã hội, chính trị và quân sự
có giá trị ngăn chặn bước tiến
của Hoa tộc là một điều hữu lý.
*
Trước
đây, những quận này là những quốc gia thoát
ly từ nước Văn Lang của các Hùng Vương.
Họ độc lập được một
thời gian và cũng tham gia tranh bá đồ vương
trong giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc ở châu
thổ Trường Giang. Năm 221 tr.CN, Tần
Thủy Hoàng sai Đồ Thư xâm lăng các nước
Việt phương Nam là xâm lăng các nước
Việt này (ngoại trừ Ngô, Sở đã bị xâm
lăng trước đó)
Sau
này Vua Gia Long nhà Nguyễn đặt tên nước ta
là Nam Việt khiến vua Thanh tức giận vì cho
rằng vua Gia Long muốn nhắc lại ranh giới nước
ta thời nhà Triệu. Chẳng những thế,
nếu gọi nước ta lệ thuộc Nam Việt
thì chúng ta nghĩ sao về việc Thục Phán xâm lăng
Văn Lang? Cho nên, xin cứ để nhà Triệu là
một dòng vua Việt Nam chính thống như tiền
nhân đã chấp nhận từ hơn hai ngàn năm
trước là thỏa đáng hơn cả.
II/9.-NGHI VẤN
LỊCH SỬ:
LÂM ẤP CÓ PHẢI LÀ CHÀM KHÔNG?
NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở ĐÂU ?
Nhân
khi nói tới các nước Bách Việt ở phía
bắc thoát ly từ quốc gia Văn Lang, xưng
độc lập, rồi dần dần bị Hoa
tộc xâm chiếm, chúng tôi xin mời quý độc
giả trở lại thăm nước Việt Thường.
Nước Việt Thường được
nhắc đến rất nhiều trong lịch sử
Việt cũng như Trung Hoa và gây nhiều tranh
luận về vị trí của nước này.
Chẳng những thế, từ nước này mà phát
sinh ra nhiều nghi vấn lịch sử rất quan
trọng khác trong giai đoạn 1000 năm lệ
thuộc Trung Hoa.
Chúng
tôi xin trình trước công luận một số tài
liệu liên quan đến vấn đề này.
–
LÂM ẤP CÓ PHẢI LÀ CHIÊM THÀNH KHÔNG?
–
NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở ĐÂU?
–
NGUỒN GỐC 3 LÀNG LONG HƯNG, ĐẠI NẠI
Ở QUẢNG TRỊ VÀ MỘ TRẠCH Ở THỪA
THIÊN?
–
CHUYỆN CHÙA PHẬT LỒI Ở QUẢNG TRỊ
–
NGÔN NGỮ VÀ VĂN NGHỆ VIỆT THƯỜNG
Hình
6
II/9A
.- SỬ TẦU – SỬ VIỆT
Sử
gia Việt Nam khi viết sử Việt từ giai đoạn
lệ thuộc Trung Hoa trở về trước thường
truy cứu từ sử Trung Hoa. Sử gia Trung Hoa khi ghi
chép các chuyện ở biên ngoại, họ thường
dựa theo báo cáo của bọn quan lại trấn
nhậm. Bọn này đa số là bọn có tội
bị đày, tham nhũng, gian ác… nói chung là bọn
sâu dân mọt nước. Làm thì lếu, báo cáo thì
hay, miễn sao có lợi cho họ… Do vậy, lịch
sử Việt Nam trong thời kỳ Trung Hoa đô
hộ trở về trước không khỏi bị trình
bày sai lạc. Điển hình là “giặc” Lâm
Ấp mà bọn quan lại đô hộ Tầu này gán
cho người Chàm để chạy tội.
Mặt
khác, nguồn gốc quốc gia Việt Thường
của người Lâm Ấp cũng nằm trong
chủ trương bôi xóa dấu ấn Bách Việt
nhằm mục đích đồng hóa “Man di” và chia
rẽ hai dân tộc Việt Lạc và Việt Thường.
Tuy
nhiên, người Trung Hoa khi chép sử các nước
Việt phương Nam đã vô tình để lộ
ra nhiều sơ hở khiến chúng ta có thể suy ra
những sự thực khi tìm về nguồn gốc
của người Lâm Ấp. Sau đây là những
sự kiện rất quan trọng mà chúng tôi xin đề
nghị các sử gia Việt Nam ngày nay xét lại.
II/9B
.- LÂM ẤP LIÊN MINH LẠC VIỆT NỔI DẬY
ĐÁNH ĐUỔI ĐÔ HỘ TRUNG HOA
Sử
gia Phạm Cao Dương trong sách Lịch Sử Dân
Tộc Việt Nam, từ trang 114 đến trang 122
đã dẫn rất nhiều sách sử Trung Hoa để
trình bày tiểu mục
“Người Lâm Ấp quấy phá Giao châu” chúng
tôi xin trưng dẫn những đoạn như sau
(Những đoạn có danh mục A, B, C… chữ nghiêng
là phần trích dẫn):
A-
“Lâm Ấp: Quốc giới của Việt Thường
thời xưa, đời Tần là huyện Lâm
Ấp thuộc Tượng Quận …tr.117…
Đời
nhà Tần, Tầu chỉ mới chiếm được
vài nước Bách Việt ở sát bờ sông Dương
Tử (Trường Giang) mà nước Việt Thường
là một. Họ đổi tên nước Việt Thường
thành huyện Lâm Ấp. Vậy Lâm Ấp có thể là
tên một địa danh quan trọng của nước
Việt Thường và nằm trong nhóm nước
bị nhà Tần chiếm rồi gom lại thành
một quận gọi là Tượng Quận. Tượng
Quân không nằm ở Việt Nam mà nằm bên
Tầu, sát với bờ Nam sông Dương Tử. Câu
B dưới đây do chúng tôi ngắt ra khỏi câu
A:
B-
“… đời Hán đổi làm huyện Tượng
Lâm thuộc quận Nhật Nam.” tr. 117
C-
”Trung tâm của nước này theo các nhà khảo
cứu hiện đại là các vùng kế cận thành
phố Huế ngày nay” tr.116,
Huyện
Lâm Ấp thuộc Tượng Quận ở bên
Tầu thời Nhà Tần và huyện Tượng Lâm
thuộc quận Nhật Nam ở vùng Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên thời lệ
thuộc nhà Hán là hai địa bàn khác nhau, cách nhau
nhiều ngàn cây số; còn thời gian của hai giai
đoạn này cách nhau chừng 260 năm. (Kể
từ năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ
Thư đem nửa triệu quân xâm lăng các nước
Việt phương Nam đến năm 43 sau CN, Mã
Viện thôn tính nước ta vào thời Hai Bà Trưng).
Sử
gia Phạm Cao Dương và nhiều sử gia khác nghĩ
rằng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là
quốc giới của nước Việt Thường,
có nghĩa nước Việt Nam xưa có tên là
Việt Thường. Cách suy nghĩ này không đúng vì
lẫn lộn hai địa danh cùng mang tên Lâm Ấp
và Việt Thường vừa ở bên Tầu
vừa ở bên ta, do vậy gây nhiều sai lầm khác
rất quan trọng, chúng tôi sẽ bàn tới ở
tiểu mục nước Việt Thường ở
đâu?
A-
Trong “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Đô Thành Hoài
Cổ), Học giả Đào Duy Anh viết bài “Les
colonnes de bronze du Mã Viện”xác định rằng
trụ đồng Mã Viện ở núi Đồng
Trụ cũng gọi là núi Lam Thành thuộc tỉnh
Nghệ An. Ông nói rằng sách Ngô Lục và sách Tùy Thư
đều chép như thế,
B-
“… dẹp xong tàn quân của tướng Đô Dương
ở huyện Cư Phong, quận Cửu Chân, Mã
Viện kéo quân vào Nhật Nam, tiến sát vùng biên
giới thì dân Chàm đem vàng bạc dâng cống chúc
mừng. Mã Viện liền tâu xin phong cho dân Chàm
ở đất Tượng Lâm.(Nguồn gốc Mã
Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc)
C-
Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử Tân
Biên (tr.198) chép theo sách Lĩnh Ngoại: Cột đồng
Mã Viện ở Lâm Ấp (Chiêm Thành). Ông chép thêm: Khâm
Định Việt Sử Tiền Biên, Nghệ An Thi
Tập, Vân Đài Loại Ngữ… cũng nói Đồng
Trụ ở Lâm Ấp… tại Nghệ An huyện Hưng
Nguyên có một hòn núi gọi là Đồng Trụ
ăn vào giữa làng Phú Điền và Nghĩa
Liệt. Núi này ở đồng bằng đột
khởi lên một ngọn cao chạy thẳng
xuống Lam Giang…
D-
“Sự xuất hiện của người Chàm đã
được sử Trung Hoa nói tới trong một
biến cố xảy ra ở huyện Tượng Lâm
thuộc quận Nhật Nam trong thời Đông Hán,
đời Hòa Đế niên hiệu Vĩnh Nguyên
thứ 14, tức năm 102 sau TL. Năm đó hơn
3000 người ở huyện này đã nổi lên cướp
phá, đốt các dinh thự… Để đề phòng
những cuộc biến loạn mới, nhà Hán đặt
chức Tướng Binh Trưởng Sử ở
huyện này” Tr.114.
Đất
Bình, Trị, Thiên cổ tên là gì thì không ai biết vì
là đất hoang “khỉ ho cò gáy, cho ăn đá gà
ăn muối…” có lẽ có một vài bộ
lạc Chàm sống rải rác ven sông và bờ
biển. Tuy nhiên, điều nay khoáng quan trọng,
việc tìm hiểu việc làm của Mã Viện trong
cuộc xâm lược đất Lĩnh Nam thì chúng tôi
thấy rất rõ:
Sau
khi Mã Viện diệt nhà Trưng và chiếm cứ toàn
bộ đất Lĩnh Nam và miền Bắc Việt
Nam, y kéo quân vào vùng biên giới quận Nhật Nam.
Người Lâm Ấp rất lo sợ, họ đem vàng
bạc, châu báu “dâng cống” cho Mã Viện và xin
quy phục. Mã Viên bèn xin Hán triều đặt tên vùng
đất người Lâm Ấp đang cư trú
ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
là huyện Tượng Lâm, bổ nhiệm huyện
lệnh Tầu lo việc cai trị và đặt
huyện này dưới quyền thống trị
của Thái thú quận Nhật Nam. Cái khéo của Mã
Viện là kết hợp đất Tượng
Quận và huyện Lâm Ấp ở bên Tầu thành
huyện Tượng Lâm cho người Lâm Ấp
ở bên Việt (rất đông sử gia Việt
đều tưởng rằng địa danh Tượng
Quận ở phía Nam sông Dương Tử là tên cũ
của địa danh Tượng Lâm).
Chẳng
những thế, y cướp đoạt hàng ngàn
trống đồng và các dụng cụ bằng đồng
dùng trong việc thờ cúng của dân Việt đúc
thành một trụ đồng rất lớn và
trồng giữa ranh giới Nghệ An và Quảng Bình
để phân biệt đất Lâm Ấp và đất
Lạc Việt dù rằng Tượng Lâm cũng là
một huyện trực thuộc quận Nhật Nam.
Mã
Viện biết rất rõ nhóm dân hối lộ vàng
bạc cho y là con cháu người Lâm Ấp ở Tượng
Quận (bên Tầu) nên y đặt tên huyện Tượng
Lâm và phong đất này cho họ. Tuy nhiên y vẫn
cứ gọi họ là Chàm, tại sao? – Rõ ràng y
muốn dấu tung tích của đám dân này để
chia rẽ hai đồng chủng Lạc Việt và
Việt Thường cũng có thể y dấu tung tích
của họ để ẵm trọn số vàng
bạc hối lộ vì sợ phải chia cho vua quan nhà
Hán
Kể
từ đoạn nầy, chúng tôi chỉ nói về người
Lâm Ấp ở địa bàn Tượng Lâm và xin quý
độc giả tạm quên địa bàn
“huyện Lâm Ấp và Tượng Quận bên
Tầu”. Khi minh định Lâm Ấp không phải là
Chàm, chúng tôi sẽ dùng lại huyện Lâm Ấp này.
Huyện
Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam là một
trong 9 quận Việt cổ đang bị Tầu đô
hộ. Ba ngàn dân huyện Tượng Lâm nổi
dậy tấn công huyện lỵ, đốt phá các
dinh thự… Vậy đây không phải là Chàm xâm lăng
“nước ta” mà là dân Lâm Ấp ở huyện Tượng
Lâm nổi dậy chống lại quan quân đô
hộ. Rõ ràng bọn quan lại đô hộ Tàu đã
vu cáo cho Chàm để chạy tội tham ô, gian ác,
hiếp đáp dân lành đến độ dân chúng
huyện Tượng Lâm đã nổi lên “làm
loạn”!
A-
“Năm 137, Hậu Hán Thư lại ghi rằng người
Man ở cõi xa thuộc huyện Tượng Lâm,
quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đem vài ngàn người
đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành quách,
công sở, giết người Trưởng lại.
Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem hơn
một vạn quân thuộc hai quận Giao Chỉ và
Cửu Chân đến cứu, nhưng quân lính sợ
phải đi xa đã quay lại đánh phá phủ
lỵ . Phàn Diễn tuy dẹp được bọn
quân sĩ làm phản nhưng thế lực quân Man
mỗi ngày một mạnh” (Tr.114)
Lại
dân Man (Lâm Ấp) nổi dậy dưới sự lãnh
đạo của một người (tộc trưởng?)
tên là Khu Liên. Họ đốt phá thành quách, công
sở và giết Trưởng lại Tầu chứ không
cướp bóc của dân Việt. Hơn một
vạn quân Giao Chỉ và Cửu Chân được
điều động tới dẹp loạn. Một
vạn quân này hẳn là người Lạc Việt
mới hợp tác với quân Lâm Ấp đánh
lại bọn quan lại Trung Hoa. Sau vụ này,
huyện lỵ Tượng Lâm vẫn còn nằm trong
tay nghĩa quân Tượng Lâm.
B-
“Năm sau (năm 138), Thị Ngự Sữ Giả Xương
sang công cán ở quận Nhật Nam đã cùng với
các châu quận hợp sức đánh Khu Liên nhưng
đánh không lại, lại bị bọn Khu Liên
phản công và bao vây hơn một năm khiến quân
Hán lâm vào tình trạng thiếu lương ăn và
vua Hán lo ngại triệu tập các Công khanh … Sau
nhiều cuộc nghị luận sôi nổi, cựu
thứ sử Tinh Châu là Chúc Lương và Trương
Kiều, người đã dẹp giặc Ích Châu
đã được triều đình bổ làm thái
thú Cửu Chân và thứ sử Giao Châu (phủ đô
hộ đóng ở Giao Chỉ). nhờ khéo phủ
dụ, hai viên quan mới này đã ổn định
được tình thế.” Tr.115
Rõ
ràng, vị anh hùng tên là Khu Kiên lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa của dân Tượng Lâm
nổi lên lật đổ chính quyền đô
hộ Trung Hoa chứ không có Chiêm Thành nào ở đây
cả… Các Thứ sử và Thái thú ở hai quận
cực Nam Giao Châu Đô hộ phủ này hể có
biến là báo cáo về Tầu rằng, giặc Chàm
tấn công “nước ta” để chạy
tội tham ô, bạo ngược khiến dân Việt
vì căm hờn mà nổi dậy.
Vậy
Lâm Ấp là ai mà các sử gia Việt đều theo
Tầu mà gọi là Chàm? Và mĩa mai thay, các sử
gia của ta cũng bắt chước Tầu gọi
rằng: “ giặc Chàm đánh nước ta!”
A-
“Năm 144 hơn một ngàn người ở
quận Nhật Nam lại nổi dậy đốt phá
các huyện ấp. Họ liên kết cả với người
Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu là Hạ Phương
dùng ân nghĩa chiêu dụ. Quân giặc đều ra hàng
cả”. Tr.115
B-
“Năm 160, khi nhân dân huyện Cư Phong dưới
sự lãnh đạo của Chu Đạt chống
lại sự tham bạo của viên huyện lệnh,
“quân Man” (Lâm Ấp) đã tiếp tay. Số người
làm loạn lên tới bốn, năm ngàn. Họ
tấn công vào quận Cửu Chân. Thái thú Nghê
Thức ra đánh bị tử trận… Nhà Hán sai
Đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng đi
đánh, phá tan được. Nhưng tướng
giặc vẫn còn chiếm đóng Nhật Nam, thế
lực ngày một cường thịnh. Nhà Hán
lại phải sai Hạ Phương sang chiêu dụ.
Nhờ uy tín có sẵn, Hạ Phương đã
khiến được 20.000 quân giặc đầu hàng”
Tr.115
Lại
có 2 cuộc nổi dậy của nô lệ Việt,
lần trước năm 144 có hơn 1000 người;
lần sau, năm 160, đông hơn, có đến 5000
người. Chẳng những vậy, lại có thêm
quân Lâm Ấp liên minh tiếp trợ. Dân Việt
nổi dậy dưới sự lãnh đạo
của anh hùng Chu Đạt tấn công quận
Cửu Chân và giết được thái thú Nghê
Thức. Tuy nhiên, hình như nghĩa quân không chiếm
được quận lỵ Cửu Chân. Do vậy
họ tiến vào Nhật Nam và phối hợp với
nghĩa quân ở đây tấn công giải phóng
quận Nhật Nam. Từ đó, phong trào dân chúng
nổi dậy bùng lên mãnh liệt và trở thành
một cuộc Khởi nghĩa thật sự. Nghĩa
quân chiếm được quận Nhật Nam và các
huyện của quận này trong một thời gian dài.
Nhà
Hán sai tướng Ngụy Lãng điều quân từ
Cửu Chân vào Nhật Nam đánh dẹp cuộc
nổi dậy có quy mô lớn của Chu Đạt, nhưng
quân Ngụy Lãng đã bị thất bại, có
thể y đã bị giết chết. Sau đó, nhà Hán
phải sai thứ sử Giao Châu là Hạ Phương
đem đại quân từ Giao Chỉ đến
đàn áp. Chắc chắn cuộc đàn áp rất tàn
khốc, đến độ các đạo Nghĩa quân
đang chiếm giữ quận Nhật Nam và các
huyện của quận này đã phải đầu hàng.
Tổng số Nghĩa quân đầu hàng lên tới
20.000 người. Như thế có nghĩa là dân
Việt huyện Cư Phong ở Cửu Chân và
quận Nhật Nam cùng nổi dậy dưới
sự lãnh đạo của anh hùng Chu Đạt
rất đông. Có lẽ sau khi Chu Đạt bị
tử trận (?) thì Nghĩa quân mới đầu hàng.
Nếu số Nghĩa quân đầu hàng lên tới
20.000 thì số bị Nghĩa quân bị tàn sát không dưới
10.000.
A-
“Theo các tài liệu của người Tàu, niên đại
chính thức của sự thành lập vương
quốc của người Chàm là năm 192. Năm
đó con của viên công tào bản xứ tên là Khu Liên,
đã lợi dụng tình trạng suy yếu của nhà
Hán, giết viên huyện lệnh huyện Tượng
Lâm và xưng làm vua. Khu Liên cũng là tên của nhóm
người nổi loạn năm 137. Vương
quốc này được người Trung Hoa gọi
là Lâm Ấp là do sự gọi tắt của Tượng
Lâm Ấp có nghĩa là kinh đô hay đúng hơn là
lỵ sở của Tượng Lâm (có nghĩa là
rừng voi). Trung tâm của nước này theo các nhà
khảo cứu hiện đại là các vùng kế
cận thành phố Huế ngày nay”. Tr.116
Năm
192, sau hơn 320 năm định cư ở huyện
Tượng Lâm quận Nhật Nam, người Lâm
Ấp đứng lên lâp quốc. Họ xưng
quốc hiệu là gì thì không ai biết, chúng tôi
tạm gọi là (Tân) Việt Thường. Tuy nhiên các
sử gia Tầu thì cứ gọi là nước Lâm
Ấp, là Chàm. Rõ ràng người Tầu chỉ
muốn coi Lâm Ấp là Chàm và dứt khoát dập
tắt việc quay trở lại dòng giống Việt
Thường cổ! Không muốn người Lạc
Việt liên kết với đồng chủng
Việt Thường vốn rất quật cường
dù chỉ là con cháu một nhóm dân chạy loạn.
B-
“Năm 433, tiến hơn một bước nữa,
Phạm Dương Mại (vua nước Lâm Ấp)
sai sứ sang cống nhà Tống, xin quản lãnh Giao Châu
nhưng không được vua nhà Tống chấp
nhận”. Tr.120
C-
“Phạm Dương Mại do đó tiếp tục cướp
phá Giao Châu khiến năm 446 nhà Tống phải
cử Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem quân đi đánh…
quân Chàm đại bại. Chỉ Phạm Dương
Mại và các con chạy thoát được thân…”
Tr.120
Tới
giai đoạn này, nước Lâm Ấp đã đủ
mạnh, đã có nhiều liên hệ mật thiết
với nhân dân các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao
Chỉ… đã tự thấy có đủ tầm vóc
nói chuyện với nhà Tống để
“xin quản lãnh Giao Châu” (lời chép của
Sử gia Trung Hoa với tư thế nước
lớn). Chúng tôi nghĩ đấy là cuộc vận
động của vua Lâm Ấp đòi nhà Tống
phải chấp nhận cho Giao Châu tự trị. Tuy
nhiên, nhà Tống không chấp nhận.
Vua
Lâm Ấp Phạm Dương Mại liền tạo
sức ép quân sự bằng cách cho quân đội
tấn công thẳng vào phủ trị Giao Châu. Mười
ba năm sau tức là năm 446 nhà Tống sai tướng
Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem đại binh giải
cứu Giao Chỉ, trong đánh ra, ngoài đánh vào
khiến quân Lâm Ấp đại bại. Vua Phạm Dương
Mại và con trai thoát được nhưng quân đội
Lâm Ấp thì bị tàn sát toàn bộ, vô cùng
khủng khiếp. Nước Lâm Ấp từ đó
suy yếu hẳn. Cuộc chiến này giằng co
suốt 13 năm, chắc chắn vô cùng cam go khiến
Lâm Ấp kiệt quệ và đi đến chỗ
đại bại.
Chúng
tôi đã dẫn chứng những tài liệu của
sử gia Phạm Cao Dương và một số
học giả khác ghi lại từ các sách sử Trung
Hoa nói về các cuộc chiến tranh giữa Trung Hoa và
Lâm Ấp đồng thời chỉ ra những
phần quan trọng để xác minh rằng Lâm
Ấp không phải là Chàm (Chiêm Thành), mà là một dòng
dân rất gần với Việt tộc. Họ thường
xuyên liên minh với dân Việt đánh đuổi xâm
lược Trung Hoa. Cho đến năm 192 là năm người
Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm chính thức
lập quốc. Các cuộc liên minh nổi dậy
giữa Việt tộc với Lâm Ấp như trên còn
kéo dài liên tục vào những năm tiếp theo: 220,
230, 248, 353, 399, 413, 415, 420, 424, 431, 433, 446, 448, 627…808
Trong
suốt thời gian kể trên người Lâm Ấp
liên tục liên minh với dân Việt đánh phá các
phủ huyện đô hộ Tàu ở các quận
Nhật Nam, Cửu Chân có khi tràn tới quận Giao
Chỉ… Dù ghi như trên, thỉnh thoảng sử gia
Phạm Cao Dương vẫn theo sát sách sử Trung
Hoa, cứ gọi Lâm Ấp là Chàm.
Chúng
tôi xin mời quý độc giả xem quaViệt
Sử Toàn Thư của Sử gia Phạm Văn
Sơn trước:
A-
“… Trung quốc lại trở về cái cảnh tam
phân ngũ liệt gần giống như thời Đông
Chu … các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí
của nó, Giao châu thuộc về NamTống … Năm
448 Lâm Ấp nhân cơ hội (Trung Hoa nội loạn)
cử Sứ sang điều đình với Tống
triều xin lãnh đất Giao châu, nhưng đề
nghị của họ không được chấp
thuận”. Trang 131
B-
“Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều
Tống cử Đàn Hòa Chi sang làm thứ sử Giao
châu và đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp sợ xin
trả lại những người Nhật Nam bị Lâm
Ấp bắt trước đây và nộp vàng để
tạ tội”.tr.131
Đoạn
sau đây khá dài, xin tóm tắt:
Mặc
dù Lâm Ấp nộp vàng xin tạ tội nhưng đại
quân Đàn Hòa Chi vẫn tấn công, tàn sát dân Lâm
Ấp cực kỳ dã man. Vua Phạm Dương
Mại phải dẫn vợ con chạy trốn. Quân
Tống tha hồ vơ vét vàng bạc.Tr.131
C-
“Sử không ghi rõ ràng sau cuộc thắng trận này
nhà Tống có lập nền đô hộ ở Lâm
Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu
hàng và hàng năm nộp cống.”Tr.131
Việt
Sử Tân Biên cũng của Sử gia Phạm Văn Sơn
(gồm 7 cuốn với khoảng 4000 trang) ghi thêm:
A-
“Người ta nghi rằng khai sinh ra nước Lâm
Ấp là bọn giặc bể dòng giống Mã Lai
đã xâm nhập vào đất Trung Việt truớc
kỷ nguyên có kinh thành là Khu Túc ở Huế bây
giờ…”Tr. 215/Q.I.
B-
“Họ (Lâm Ấp) hợp giống với Cao Miên và
giống Chiêm Thành trong khi một chi phái của họ
hợp với giống Mông Cổ và dân tộc
Việt Nam” Cũng trang 215/QI.
Sử
gia Phạm Văn Sơn viết “người ta
nghi” tức là các sử gia không biết đích xác
Lâm Ấp là ai, họ ngờ rằng Lâm Ấp là
giặc bể từ Mã Lai đến. Nhưng họ
quên rằng, nhiều năm trước, khi Tần
Thủy Hoàng xua quân tấn công các nước
Việt phương Nam và tàn sát dân Việt vô cùng
dữ dội. Nhiều dòng Bách Việt trong đó có
dân Ấp Lâm của nước Việt Thường
đã dùng thuyền chạy về phương Nam
tị nạn. Cũng do vậy, cái tên nước
Việt Thường, quốc giới của Việt
Thường, Tượng Quận… dính vào ba tỉnh
miền Trung này. Và, thêm một minh xác rất quan
trọng: Hai tên hai châu Ô, Châu Rí của Chiêm Thành hoàn
toàn chưa xuất hiện trong giai đoạn 1000 năm
lệ thuộc này.
Tôi
nghĩ, các sử gia Tầu quá biết Lâm Ấp là
Việt Thường (Bách Việt) nhất là khi Mã
Viện đặt tên huyện Tượng Lâm cho dân
tị nạn đang sống ở đó, tuy nhiên
nhất định họ cứ phải theo chủ trương
chia rẽ hai dòng Việt Lạc và Việt Thường.
Tại
sao có sự giống Mông Cổ ở đây? Điều
này không lạ, theo Tiến sĩ J.Y.Chu trên Tạp chí
khoa học The Nation Academy Of Science – USA ngày 29/7/1990 thì
người Hiện đại đầu tiên xuất
hiện từ đông Phi Châu cách đây vào khoảng
150.000. Từ đây họ dần dần di cư ra
khắp thế giới. Có nhóm tiến về phía
đông qua Ấn Độ, tới bán đảo Trung
Ấn rồi tách ra làm hai: Một nhóm tiến lên phía
đông bắc băng qua bắc Việt Nam, Trung Hoa, Mông
Cổ, đông Tây Bá lợi Á rồi băng qua eo
biển Bering mà vào Châu Mỹ. Nhóm thứ hai đi
xuống phía nam, vào Thái Lan, Mã Lai rồi ra các
quần đảo ở Đông Nam Á. Trong nhóm lên phía
bắc Á chắc chắn có tổ tiên Miêu Viêm
tức Bách Việt và nhiều tổ tiên của các
chủng khác như Tây Tạng, Mản, Mông … Vậy
Việt Thường có giống Mông Cổ cũng không
lạ vậy.
Từ
các đoạn trích dẫn ghi trên chúng tôi có suy
luận như sau:
Chúng
ta đã biết lịch sử giữa Chiêm Thành và
Đại Việt kể từ năm 981 (thời nhà
Tiền Lê), đến các nhà Lý, Trần và các
họ về sau cho tới Chúa Nguyễn là những
cuộc chiến tranh tàn khốc và hận thù
triền miên cho đến khi Chiêm Thành bị Việt
tộc nuốt trọn. Trong khi đó giữa Lâm
Ấp và Việt tộc, các quận Nhật Nam,
Cửu Chân luôn luôn kết hợp ngoài đánh vào,
trong nổi dậy, cùng tấn công kẻ xâm lược
Trung hoa rất nhịp nhàng trong suốt 700 năm
gần như không ngưng nghỉ.
Nếu
Lâm Ấp là Chiêm Thành với mảnh đất
chỉ bằng vài tỉnh nhỏ (Bình, Trị, Thiên),
chắc chắn họ không dám xin “lãnh” Giao châu
vốn là thủ phủ 9 quận Việt tộc đang
bị Tầu đô hộ. Chín quận này đất
rộng người đông gấp 20 lần Lâm
Ấp.
Nói
cách khác, Lâm Ấp kiên trì, tích cực, liên tục
hợp tác với Việt tộc tấn công các
phủ trị đô hộ Trung Hoa đến độ
vua quan Trung Hoa đàn áp dữ dội mà đi vào
diệt vong là do họ chung dòng Bách Việt với
Việt tộc, hai dân tộc cùng mang nổi căm thù
đô hộ Trung Hoa cực kỳ sâu nặng. Chúng tôi
tin rằng, vua quan Lâm Ấp đã có quyết định
khôn ngoan khi vừa giúp giải phóng đồng
chủng 9 quận vừa quyết tâm thâu hồi
lại quê hương Việt Thường của
họ.
Một
điều rất rõ ràng là trong khi nước Lâm
Ấp với kinh đô đặt tại Khu Túc trong
phạm vi tỉnh Thừa Thiên hiện nay đang gây sóng
gió liên tục với quan quân đô hộ Trung Hoa, thì
Chiêm Thành đã lập quốc rất lâu trước
đó với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó
dời về Đồ Bàn (Quảng Nam). Chứng
tỏ Lâm Ấp là Việt Thường – Chiêm Thành
là Chàm, hai dân tộc này hoàn toàn khác nhau.
II/9C
.- ĐOẠN SỬ BI ĐÁT CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI
VIỆT THƯỜNG NƯỚC LÂM ẤP
Sách
Cương Mục Tiền biên chép:
“Khoảng
giữa niên hiệu Trinh Quan (627-649) nhà Đường,
vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn
Long bị giết, người trong nước lập
con bà cô của Đầu Lê là Gia Cát Địa lên
làm vua. Gia Cát Địa đổi quốc hiệu là
Hoàn Vương và thường cho quân sang xâm lấn
An Nam. Hoàn Vương do đó bị quan đô hộ
An Nam là Trương Chu đánh phá phải bỏ Lâm
Ấp dời đến đất Chiêm, gọi là nước
Chiêm Thành… Bấy giờ thành Phật Thệ ở
Phủ Thừa Thiên, Thành Chà Bàn ở tỉnh Bình
Định đều là di tích cố đô của
Chiêm Thành thời đó.
Sách
Việt Sử Toàn Thư thì chép:
Chư
Cát Địa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương
quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy
nhiểu Giao Châu. Đã có phen họ chiếm
được châu Hoan, châu Ái (tức là hai tỉnh
Thanh, Nghệ của ta) – Hai thế kỷ sau vào năm
Mậu Tý (808), Đô hộ Trương Chu lại
đem quân đánh Hoàn Vương quốc rất tai
hại khiến họ phải lui xuống phía Nam (hai vùng
Nam, Ngãi bây giờ). Lại một lần nữa,
quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho
tới ngày nay.
Cách
hành văn của 2 đoạn sử trên, cùng trình bày
giai đoạn cuối cùng của lịch sử nước
Lâm Ấp nhưng có nhiều điểm không
giống nhau (thời gian và danh xưng thành Phật
Thệ…). Chúng tôi xin thử bình giải:
Thời
vua Trinh Quan nhà Đường (627 – 649), nước Lâm
Ấp, vua Đầu Lê chết, thái tử là Trấn
Long vừa lên ngôi thì bị giết, triều đình
tôn Gia Cát Địa là con bà cô của vua Đầu
Lê lên ngôi. Gia Cát Địa đổi quốc
hiệu là Hoàn Vương, kinh đô Khu Túc thì đổi
tên là Phật Thệ và tiếp tục đường
lối của tổ tiên, tiến hành những
cuộc liên minh quân sự với Lạc Việt đánh
đuổi quân cướp nước ra khỏi
bờ cõi. Trong gần 200 năm (từ khoảng 627 –
808) họ tổ chức nhiều cuộc nổi
dậy có lúc họ chiếm được Cửu Chân
và Nhật Nam. Năm 808, triều đình Trung Hoa sai tướng
Đô hộ Trương Chu đem đại binh tiêu
diệt Hoàn Vương quốc (Lâm Ấp).
Lần
thứ hai từ sau ngày gạt lệ rời bỏ quê
hương Việt Thường bên hồ Phiên Dương
năm 221 Tr. CN ; con cháu Việt Thường năm 808
sau CN , kẻ ra đi, người ở lại và hàng
vạn người nằm xuống, dưới
những nấm mộ tập thể, chôn vùi đây
đó trong vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên.
Nước
Lâm Ấp hoàn toàn bị tiêu diệt. Khi quân Trương
Chu rút đi thì nước Chiêm Thành đã lập
quốc từ lâu với kinh đô Chiêm Bà (Quảng
Ngãi) sau đó dời về Đồ Bàn (Quảng
Nam) liền vượt đèo Hải Vân tiến ra
chiếm đất Tượng Lâm (Bình, Trị, Thiên).
Người Việt Thường, Lâm Ấp một
số lánh nạn lên vùng núi hay ra bờ gần
biển, một số khác chạy ra Nghệ An, Thanh Hóa
sống chung với dân Lạc Việt một số
ở lại trở thành nô lệ Chiêm Thành…
Từ
đầu thế kỷ thứ 9, lịch sử nước
ta không còn nhắc đến tên huyện Tượng
Lâm hoặc nước Lâm Ấp nữa. Vùng đất
này có tên mới: Châu Ô, Châu Rí (Lý) do Chiêm Thành đặt.
Cũng từ năm ấy, sử Việt chép rất
kỷ các giai đoạn “chiến tranh và hòa bình”
giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Năm
1304, đời nhà Trần, khi vua Chiêm Chế Mân, dâng
hai châu Ô, Lý để xin cưới Công chúa
Huyền Trân thì con cháu Việt Thường ở
lại với Đại Việt trong khi dân Chiêm Thành
rút về phía nam đèo Hải Vân.
Năm
1697, phần đất cuối cùng của người
Chàm bị chúa Nguyễn Phúc Chu nuốt trọn và nước
Chiêm Thành hoàn toàn bị xóa tên.
II/9D
.- VỊ TRÍ NƯỚC VIỆT THƯỜNG CỔ
Hình
7
Cho
đến hôm nay, vị trí nước Việt Thường
trên các tài liệu lịch sử Việt Nam vẫn còn
là một nghi vấn.
1-
Một số sử gia cho rằng Việt Thường
là tên nước Việt Nam cổ, tức là toàn
miền Bắc Việt Nam ra tới Đèo Ngang.
2-
Ông L.Wie1ger, nhà Trung Hoa học thì rời vị trí
Việt Thường xa hơn nữa. Ông cho Việt Thường
là Cao Mên (Trích dẫn từ VSTB tr. 38).
3-
Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược
lại nói nước Việt Thường ở phía
Nam Giao Chỉ. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
4-
Sử gia Lê Văn Hòe trong Việt Sử cho rằng nước
Việt Thường ở vào vị trí 3 tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay.
(Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
5-
Ông Lê Chí Thiệp nói rằng, xem bản đồ
Trung Hoa thế kỷ 20 Tr. CN còn chia ra nhiều bộ
lạc trình độ khác nhau thì không thể tin
được Sứ giả Việt Thường vượt
đường bộ từ Bắc Việt, hoặc
theo hải đạo đến được thành Bình
Dương là kinh đô của vua Nghiêu tận
tỉnh Sơn Tây, phía Bắc sông Hoàng Hà và dưới
đời Chu lại đến thành Tây An ở phía
Nam sông Vị, tỉnh Thiểm Tây bấy giờ. Theo
lẽ đương nhiên, chỉ có gần gũi
nhau, chịu ảnh hưởng của nhau mới có
sự giao dịch với nhau. Tóm lại, Việt Thường
tất không xa Hán tộc, có lẽ ở phía Nam sông Dương
Tử vùng hồ Phiên Dương và sông Dương
Tử. Lý luận này theo ý chúng tôi có ý nghĩa hơn
cả. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
6-
Ở trang 39 VSTB ghi “Kinh Thư chép đất Dương
có nhiều giống chim lạ, đất Kinh có
nhiều rùa lớn thì Việt Thường ở vào
khu hồ Phiên Dương và hồ Đông Đình, như
vậy ta càng thấy sự đối hợp với
việc cống chim Trĩ và Rùa lớn.
7-
Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, vùng hồ Phiên Dương
có đất Việt Thường, vua Sở Hùng
Cừ (887 Tr. CN) phong cho con út là Chấp Tỳ làm vua
ở đấy. Việt Thường, Việt Chương
có lẽ là hai tên dùng lẫn cho nhau (như Cao Mên, Cao
man; Lào, lèo…). Ông Lê Chí Thiệp định vị trí
Việt Thường ở ngay chỗ thành Nam Xương…”
Chúng
tôi rất tán đồng ý kiến của ông Lê Chí
Thiệp. Nước Việt Thường chỉ có
thể ở vùng gần hai hồ Động Đình
và Phiên Dương. Nhưng lý do tại sao vùng Bình,
Trị, Thiên lại có tên là Việt Thường thì
chúng tôi có câu trả lời như sau:
Năm
221 tr. CN, Tần Thủy Hoàng xua quân xâm lăng các nước
Việt phương Nam. Nước Việt Thường
bị đánh bại, quý tộc Việt Thường
ở “kinh đô Lâm Ấp (?)” bèn đưa dòng
họ và quân đội theo đường biển
chạy về phương Nam và đổ bộ lên vùng
đất sau này gọi là Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên thuộc nước Âu Lạc
của vua Thục An Dương Vương và tị
nạn ở đó. Họ thân thương gọi vùng
đất mới này là (Tân) Việt Thường, là
Lâm Ấp (tổ quốc và kinh đô cũ). Sử ta
về sau lẫn lộn vị trí nước Việt
Thường là vậy. Xin nhắc lại vùng
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là nơi
“Khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn
muối…” là “rú”, tại đây có thể đã
có một số bộ lạc Chàm sống rải rác
trên các đồng bằng nhỏ hẹp… họ
lập tức họ bị người tị nạn
Việt Thường khống chế
*. Triều đình Chiêm Thành ở bên kia
đèo Hải Vân có lẽ đã không quan tâm tới
đám dân Chàm không đáng kể này.
*Y
hệt thổ dân Đài Loan năm 1949 bị đoàn
quân bại trận của tổng thống Tưởng
Giới Thạch khống chế ngay khi họ đổ
bộ lên đảo này.
Dân
tị nạn Lâm Ấp “vui sống” ở đó,
trải từ cuối thời Âu Lạc của
Thục An Dương Vương, qua Nam Việt
của nhà Triệu, rồi nhà Hán xâm lăng Nam
Việt và đặt phủ trị đô hộ… Cho
đến khi Mã Viện diệt Hai Bà Trưng vào năm
43 là 264 năm. Mã Viện đem quân đuổi đánh
tàn quân Hai Bà vào tận đất Nhật Nam. Người
Lâm Ấp một mặt không giúp Hai Bà Trưng,
một mặt thất hứa với Mã Viện trong
việc tấn công mặt hậu Lĩnh Nam. Bây
giờ lại hối lộ Mã Viện rất
nhiều vàng bạc châu báu để được
yên thân. Nhờ vậy, Mã Viện lập huyện Tượng
Lâm trực thuộc quận Nhật Nam và cho người
Lâm Ấp tiếp tục cư trú ở đó. Như
vậy, Lâm Ấp đã tỏ ra rất khôn ngoan.
Họ “ừ! è!…” với Mã Viện nhưng
nhất định không tiếp tay cho giặc để
đánh đồng chủng. Có lẽ họ dư
biết dù liên minh với Lĩnh Nam cũng không
chống nổi với Mã Viện. Khi biết Hai Bà Trưng
đã hoàn toàn thất bại trước Mã Viện
thì họ dâng vàng bạc để được yên
thân mài nanh vuốt chờ dịp quật khởi.
Quả nhiên, kể từ năm 102 (60 năm sau), khi
đã có thực lực, Lâm Ấp tung ra hàng loạt
cuộc tấn công vào quân đô hộ Tầu không
ngưng nghỉ.
Theo
sách Cương Mục, năm 192 tức là 408 năm
sau khi dân Lâm Ấp định cư ở Tượng
Lâm quận Nhật Nam, con cháu người Việt Thường
tị nạn chính thức tái lập quốc gia. Chúng
tôi không biết ngoài tên nước Lâm Ấp, Chàm,
Chiêm Thành mà sử Tầu thường gọi, họ
có quốc hiệu nào khác không. Sau khi lập quốc,
họ tiếp tục tổ chức kết hợp
với dân Việt ở nhiều địa phương
Việt Lạc liên tục tấn công các phủ
trị đô hộ Tầu các quận Nhật Nam,
Cửu Chân có khi vươn tới quạn Giao
Chỉ. Triều đình Trung Hoa phải vô cùng
chật vật để bảo vệ quyền đô
hộ. Cho đến năm 468 nhà Tống đưa
đại binh tấn công nước Lâm Ấp, tàn phá
55 thành khiến nước Lâm Ấp yếu đi.
II/9E.-
VÀI TÀI LIỆU RIÊNG
II/9E1
.- Bí mật ngôn ngữ Việt Thường:
3 Làng LONG HƯNG, ĐẠI NẠI, MỘ TRẠCH nói
tiếng gì?
Bí
mật về ngôn ngữ của dân hai làng Long Hưng
và Đại Nại ở Quảng Trị và làng
Mộ Trạch ở Thừa Thiên ngày nay nói tiếng
Việt với 60-80% đặc âm địa phương,
khó nghe đến độ chính dân Quảng Trị
với khoảng 20% đặc âm (dân chúng ở vùng
quê không học chữ Quốc ngữ) cũng rất
cực khổ để hiểu họ muốn nói gì.
Tỉ dụ: Ló : lúa ; rọn : ruộng ; nác : nước
; su : sâu ; khun : khôn ; ngái : ngại : mói : muối ;
đùi : cùn ; lọi : gãy ; cái chưng: cái chân ; lưa
sưa : lưa thưa ; chạc dây : sợi dây ;
mụ tra : bà già ; mự : mợ ; cơm siu :cơm
thiu ; cái trố-ôt : cái đầu ; lộ mụi :
lỗ mũi ; rào : sông ; bọ tui : bố tôi ; bưa
: vừa ; bấp bo : vấp té ; trung nớ : trong đó
; đi ẽ : đi ĩa ; côi : trên ; trộ mưa :
trận mưa ; mi đi mô rứa : mầy đi đâu
đó ; ốt dột quái : xấu hổ quá ; giãy
tọt lên côi nớ : nhảy vọt lên trên đó…
Tất cả vần NH biến thành GI như cái nhà :
cái già ; con nhện : con giện ; bổng nhưng :
bổng giưng ; nhiều : giều ; tuy nhiên : tuy giên
; nhức nhối : giức giối ; nhảy nhót :
giảy giót ; nhà nho : già gio, nhu nhược : giu giược…
Những
địa phương ngữ nói trên, chắc
chắn có pha trộn ít nhiều với tiếng Chàm
khi mà người Lâm Ấp đã từng sống
chung với người Chàm cả ngàn năm trong
suốt thời kỳ lệ thuộc Trung Hoa.
Chúng
tôi không biết nhiều về ngữ học, cũng
xin lạm bàn để phân biệt tiếng Lâm
Ấp và tiếng Chàm trên một quy tắc đơn
giản như sau: Tiếng nào nghe na ná hoặc có
vần như tiếng Việt toàn quốc là tiếng
Lâm Ấp đồng chủng Việt tộc, còn
tiếng nào không giống ai là tiếng Chàm.
Tỉ
dụ 1 : MÓI nghe na ná và cùng vần với MUỐI, GIÃY
TỌT cùng vần với NHÃY VỌT… thì mói, giãy
tọt là tiếng của Lâm Ấp đồng
chủng Việt tộc.
Tỉ
dụ 2 : RÀO là sông, cái TRỐT là cái ĐẦU, CÔI
là TRÊN… rõ ràng RÀ0, TRỐT, CÔI… không giống ai thì
có thể là tiếng vay mượn của Chiêm Thành.
Vậy
chúng ta tạm có bản phân tích dưới đây
1.-
Những tiếng nghe na ná hoặc đồng vận
như : rọn : ruộng ; nác : nước ; mói :
muối ; sưa : thưa ; su : sâu ; chộ nớ :
chỗ đó ; tra : già ; lộ mụi : lỗ mũi ;
mự : mợ ; trộ mưa : trận mưa ; cơm
siu :cơm thiu ; bấp : vấp ; giều : nhiều ;
bọ : bố ; mần chi hỉ : làm gì nhỉ ; chưn
: chân ; con giện : con nhện ; bưa : vừa ;
lấy dô-ôn : lấychồng ; hun : hôn ; ma tui : mẹ
tôi … là tiếng Bách Việt dòng Việt Thường.
2.-
Những tiếng khác vần hoặc không giống ai
như: trốt : đầu ; chạc : sợi dây ;
lọi : gãy ; rào : sông ; tê : kia ; rứa : thế ; răng
: sao ; nôốt : thuyền ; nậy : lớn ; cái đọi
: cái tô… có thể là tiếng vay mượn của
Chàm, Chiêm Thành.
Xét
tổng quát, ngôn ngữ miền bắc và miền nam
(kể cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khanh Hòa… vốn là quê hương của Chiêm
Thành), khi nói lên, mọi người trên toàn quốc
có thể nghe và hiểu nhau dễ dàng mặc dù có
một vài đặc âm, đặc ngữ nhưng không
đáng kể.
Riêng
ngôn ngữ của vùng Thừa Thiên, Quảng Trị,
Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa (nhất là thời
gian chữ quốc ngữ chưa thông dụng) thì hai
miền bắc và nam Việt Nam phải cố gắng
lắm mới hiểu được. Nếu chẳng
may gặp phải dân ở ba làng Long Hưng, Đại
Nại và Mộ Trạch (80% đặc âm + đặc
ngữ) nói ở trên thì không thể biết
được họ muốn nói gì. Y hệt như ta
nghe người… Tây Tạng nói chuyện!! Nhất
định những đặc âm, đặc ngữ
ấy là do các dân tộc dòng Bách Việt vì biến
động lịch sử mà phải thay đổi nơi
cư trú đã xuất hiện trong dòng Lạc
Việt.
Qua
bản phân tích đơn giản nói trên, chúng tôi
thấy rõ dân ba làng Long Hưng, Đại Nại và
Mộ Trạch đúng là con cháu của dòng Việt
Thường còn sót lại. Còn dân chúng các tỉnh
Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình cho đến
cả Nghệ An, Thanh Hoá rất có thể trong
huyết quản có lẫn ít nhiều máu Việt Thường.
II/9E2
.- Tượng người đầu chim
bằng đồng đen ở chùa Phật Lôi
Khoảng
năm 1920, trời làm lụt lớn trên sông Thạch
Hãn, Quảng Trị. Nước lụt xoi mòn bờ cát
phía làng Nhan Biều đối diện với tỉnh
lỵ. Sau lụt, dân làng phát giác một đầu
chim bằng đồng lồi trên bờ cát. Đào lên
thì đó là một tượng người đầu
chim bằng đồng đen, nặng khoảng 60 ký.
Dân làng Nhan Biều liền xây một ngôi miếu
thờ Người Chim gọi là chùa Phật Lồi.
Vài năm sau, quan sứ Pháp đem lính đến
miếu tịch thu tượng “Người Chim”, nói
rằng đem về Pháp nghiên cứu!?
Ngày
tôi còn ở Quảng Trị, cậu tôi vốn sinh trưởng
ở làng Nhan Biều tả hình dáng tượng Người
Chim như sau: cổ chim khá cao, mõ chim dài, mạnh
khỏe, mồng chim lớn và thẳng đứng. Bên
dưới cổ là thân người “trơn tru” không
tạc quần áo (khi dân làng đưa lên bàn thờ
thì họ hay quần áo cho tượng chim). Hai chân
chim con nhện : khẳng khiu, giống bàn chân người,
đứng trên một cái đế, tất cả
bằng đồng đen… Ngày nay nhớ lại, tôi
tin chắc rằng đó là biểu tượng “Người
Chim” của người Lâm Ấp đem từ đất
nước Việt Thường đến đất
Quảng Trị cổ hoặc họ đã đúc
ở đấy.
Như
chúng tôi đã dẫn chứng, nước Việt Thường
cổ ở giữa hồ Phiên Dương và hồ
Động Đình. Vùng này có rùa lớn và giống
chim Trỉ rất đẹp… Người Việt Thường
thờ chim Trĩ làm biểu tượng như người
Lạc Việt thờ chim Lạc. Họ đã
từng đem rùa lớn có khắc lịch nông
nghiệp trên mai rùa tặng vua Nghiêu khoảng năm
2300 Tr. CN. Đến năm 1100 Tr. CN họ lại đem
tặng vua nhà Tây Chu một đôi chim Bạch Trĩ
để tỏ lòng “ngưỡng mộ”, thì chúng
ta sẽ không sai khi nghĩ rằng:
Người
Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm đúng là dân
nước Việt Thường cổ đã từng
di cư đến tị nạn ở đất
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và tái
lập quốc gia Lâm Ấp ở đó.
II/9E3
.- Di sản văn học Việt Thường
vẫn vang vọng
Từ
lâu, một vài nhạc sĩ cho rằng người Chàm
xưa mang nổi buồn mất nước nên ca
nhạc của họ mang nét u sầu, ai oán… cũng
vì thế, nhạc cổ miền Trung đặc
biệt là hai điệu Nam Ai và Nam Bình đã bị
ảnh hưởng bởi nhạc Chàm. Chúng tôi nghĩ
rằng những phán đoán trên có phần nào
phiếm diện.
Từ
những minh xác về nguồn gốc người
Việt Thường nước Lâm Ấp, chúng tôi có
những ý kiến như sau về bộ môn “văn
nghệ cổ*”
miền Trung từ Huế trở ra như sau:
*
Chúng tôi gọi chung là văn nghệ cổ, trong
đó có âm nhạc, ca dao, tụcngữ, chuyện
cổ, vè, ca múa, thổi kèn, đánh đàn, đánh
trống, truyền thống lễnhạc…xuất phát
từ dòng Việt Thường này. Chúng tôi rất
mong sẽ có nhiều học giảđể tâm nghiên
cứu sâu rộng những vấn đề mà tôi
đề cập sơ lược hôm nay.
Dân
Việt Thường từ hồ Phiên Dương (bên
Tầu) theo đường thủy chạy về vùng
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tị
nạn, chắc chắn họ đã đem theo
truyền thống văn hóa của họ đến vùng
đất cư trú mới. Nguồn gốc nước
Lâm Ấp, biểu tượng Chim Trĩ, tiếng nói
Việt Thường thì đã được dẫn
chứng. Tuy nhiên còn nhiều truyền thống đặc
thù khác chưa được đề cập
tới, trong đó có sinh hoạt văn nghệ
của họ. Do vậy, “văn nghệ cổ”
miền Trung ngày nay, đặc biệt là Huế (cũng
là kinh đô của nước Lâm Ấp, “Tân
Việt Thường”), sau đó là Quảng Trị,
Quảng Bình và có thể cả Nghệ An và Thanh Hóa…
mang dạng văn nghệ và âm nhạc Việt Thường
bởi các lý do sau :
1.-
Đất Bình, Trị, Thiên (huyện Tượng Lâm)
vốn là đất cư trú của người Lâm
Ấp từ năm 221 tr. CN đến năm 808 sau CN
(tồn tại hơn 1000 năm) thì bị Chiêm Thành
chiếm và đổi tên là châu Ô, châu Rí (Xin lưu
ý: Dù bị chiếm mất nước, người Lâm
Ấp và văn hóa của họ vẫn tồn
tại ở đó). Năm 1.304, vua Chiêm Chế Mân dâng
hai châu này cho nhà Trần đển xin cưới Công
chúa Huyền Trân. Rõ ràng người Chiêm không màng
đến một vùng đất vốn không phải
là của họ. Tất nhiên họ cũng không
thiết tha, khóc thương đến độ
phải đặt ra những điệu nhạc ai oán,
não nuột như thế.
2.-
Vùng đất phía nam xứ Huế như Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… có
kinh đô Chàm Đồ Bàn và là địa bàn định
cư lâu đời của Chàm, nếu có nhạc ai oán
vì mất nước thì phải xuất hiện
tại vùng này chứ không phải từ Huế
trở ra.
3.-
Người Việt Thường vốn là một dân
tộc có văn hóa cao. Khi phải bỏ nước
ra đi vì giặc ngoại xâm (Tần Thủy Hoàng)
tất nhiên nổi tủi nhục, sầu hận nước
mất nhà tan của họ phải vô cùng cay đắng,
sâu nặng. Văn nghệ của họ chắc
chắn đã bị ảnh hưởng từ các
cuộc ra đi tị nạn đó. Trải qua bao công
lao xây dựng, chiến tranh tàn phá, thăng trầm,
cuối cùng mới lập được quốc gia Lâm
Ấp. Rồi nước Lâm Ấp lại cũng
bị điêu tàn, bị chiếm đoạt và
phải làm nô lệ dân Chiêm Thành…
4.-
Việt Thường và Lạc Việt đồng
chủng, đồng ngôn ngữ (dù phát âm hơi khác),
đã từng chung vai sát cánh chống lại đô
hộ Trung Hoa suốt bảy trăm năm… nhất
định hai dân tộc này đã có thông gia, có trao
đổi văn hóa một cách mật thiết.
Những
điệu Nam Ai, Nam Bình và nhiều loại văn
học khác như văn, thơ, ca dao, chuyện
cổ, ca vè… của các vùng liên hệ tất nhiên
chịu ảnh hưởng từ văn nghệ
Việt Thường. Nếu so nổi buồn Việt
Thường với những cung điệu ai oán
sầu hận của người Việt tị
nạn ở hải ngoại ngày nay với những
bản nhạc “Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt”, “Người
Di Tản Buồn”, “Khi Xa Sài Gòn”, “Sài Gòn
Niềm Nhớ Không Quên”, “Ai Trở Về Xứ
Việt”, “Em Nay Ở Phương Nào”… Với hàng
vạn bài thơ, truyện, ca dao mới… nói lên
niềm chua xót nước mất, nhà tan… Hai nổi
đau thương, khắc khoải của hai dân
tộc Việt Lạc, Việt Thường trong hai
giai đoạn lịch sử cực kỳ đau thương
ấy, chắc cũng không khác nhau bao nhiêu…
Chúng
tôi tin rằng những biệt sắc văn nghệ các
tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình
kể cả Nghệ An và Thanh Hóa một số
lớn là di sản văn hóa Việt Thường
chứ không phải là của Chàm như chúng ta
vẫn tưởng.
II/9F
.- LỊCH SỬ NƯỚC TA THỜI LỆ THUỘC
VÀ TIỂU QUỐC LÂM ẤP CẦN TU CHỈNH LẠI
Tiểu
quốc Lâm Ấp, dòng dõi Việt Thường, đồng
chủng Việt tộc hào hùng của ngàn năm trước,
hậu duệ của quý ngài nay ở đâu? Hay đã
hòa tan trong dòng Đại Việt của các thời
đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê,
Nguyễn? Hai vị anh hùng Khu Liên người tái
lập quốc gia Lâm Ấp; Chu Đạt, người
lãnh đạo 30.000 nghĩa quân đánh chiếm hai
quận Cửu Chân và Nhật Nam là ai? Và biết bao
anh hùng, liệt nữ hai nước Việt Lạc và
Việt Thường đã bỏ mình trong suốt 700
năm lịch sử nổi dậy bất thành
ấy? Có ai dành cho họ giọt nước mắt,
nén hương thương tiếc, đồng
thời làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử
đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng hào
hùng ấy!
Những
người anh hùng ấy chắc chắn phải
được vinh danh trong lịch sử Việt
tộc.
Chúng
tôi thiết tha kêu gọi các nhà làm sử Việt
Nam, các học giả đang nghiên cứu thực
hiện bộ sách Giáo khoa Tiểu, Trung và Đại
học nên tu chỉnh các đoạn sử này để
khỏi phụ lòng những anh hùng Việt tộc
ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam cùng cả
một dòng giống Việt Thường oanh liệt
cổ xưa đã hết lòng với tổ tiên
Việt tộc trong nổi khốn cùng một ngàn năm
đô hộ! Điều này rất cấp thiết.
Chúng
tôi đề nghị viết lại các biến
chuyển lịch sử Việt Nam nên dựa trên 4
điểm chính sau đây:
1.-
VỊ TRÍ NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở PHÍA
NAM SÔNG DƯƠNG TỬ GẦN HỒ ĐỘNG
ĐÌNH VÀ HỒ PHIÊN DƯƠNG, LÀ MỘT TRONG BA NƯỚC
DÒNG BÁCH VIỆT BỊ NHÀ TẦN THÔN TÍNH NĂM 221
TR.CN. NHÀ TẦN ĐỔI THÀNH HUYỆN LÂM ẤP VÀ
GỌI VÙNG ĐẤT MỚI CHIẾM LÀ TƯỢNG
QUẬN.
2.-
SAU ĐÓ MỘT SỐ DÂN VIỆT THƯỜNG Ở
HUYỆN LÂM ẤP, TƯỢNG QUẬN THEO ĐƯỜNG
THỦY CHẠY VỀ PHÍA NAM. HỌ ĐỔ BỘ
LÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ
THỪA THIÊN VÀ ĐỊNH CƯ Ở ĐÓ. VÙNG NÀY
VỐN LÀ ĐẤT HOANG DÃ Ở VỀ PHÍA NAM
CỦA QUẬN NHẬT NAM. NĂM 43, NHÀ HÁN SAI MÃ
VIỆN XÂM LĂNG LĨNH NAM, MÃ VIỆN LẬP ĐẤT
NÀY LÀ HUYỆN TƯỢNG LÂM, ĐẶT HUYỆN
LỆNH CAI TRỊ VÀ CHO NGƯỜI LÂM ẤP CƯ TRÚ
Ở ĐÓ. NĂM 192, NGƯỜI LÂM ẤP GIẾT
HUYỆN LỆNH TẦU MÀ LẬP QUỐC, ĐẶT
KINH ĐÔ Ở KHU TÚC GẦN HUẾ .
3.-
NGƯỜI LÂM ẤP TRƯỚC VÀ SAU KHI LẬP
QUỐC (102 Tr.CN – 808 S.CN) NHIỀU LẦN LIÊN MINH
VỚI DÂN VIỆT CÁC QUẬN NHẬT NAM, CỬU CHÂN
VÀ GIAO CHỈ TẤN CÔNG VÀO THÀNH LŨY ĐÔ HỘ
TRUNG HOA NHẰM GIẢI PHÓNG VIỆT TỘC THOÁT
KHỎI THẢM TRẠNG LỆ THUỘC TRUNG HOA. NHƯNG
TIẾC THAY MỌI CỐ GẮNG ĐỀU KHÔNG THÀNH
CÔNG. NƯỚC NÀY ĐÃ BỊ TRUNG HOA TIÊU DIỆT VÀO
NĂM VÀ BỊ CHIÊM THÀNH CHIẾM KHOẢNG NĂM 808.
NƯỚC LÂM ẤP (ĐẤT TƯỢNG LÂM)
BỊ CHIÊM THÀNH ĐỔI THÀNH HAI CHÂU Ô, LÝ…
4.-
DÂN TỘC VIỆT NAM XÁC NHẬN SỰ SAI LẦM KHI
GỌI NHÂN DÂN LÂM ẤP LÀ CHÀM, LÀ GIẶC TRONG QUÁ
KHỨ. NAY CHÍNH THỨC VINH DANH VÀ TRI ƠN NGƯỜI
LÂM ẤP VÀ NƯỚC LÂM ẤP LÀ ĐỒNG
CHỦNG BÁCH VIỆT ĐÃ HẾT LÒNG VỚI DÂN
TỘC VIỆT NAM TRONG NỔI KHỐN CÙNG 1000 NĂM
LỆ THUỘC TRUNG HOA.
II/10.-VỊ
THẾ LÀNG XÃ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN LỆ THUỘC HOA TỘC
Vào
giai đoạn này, sự bành trướng của con
cháu du mục Hoa tộc đã trở thành một
đế quốc cường thịnh bậc nhất
của lịch sử Trung Hoa không dừng lại
ở đó mà tiếp tục lấn chiếm về
phương Nam. Năm 111 tr. CN, nhà Hán thôn tính nước
Nam Việt mở đầu thời kỳ 1000 năm
Việt Nam lệ thuộc Trung Hoa.
Một
ngàn năm nô lệ Trung Hoa là một thử thách
cực kỳ cam go đối với dân tộc
Việt Nam sau khi các dân tộc Bách Việt đã
lần hồi đánh mất những phần đất
rộng lớn ở phía bắc và đại đa
số dân chúng đã biến thành Tầu. Và, như
chúng ta đã biết, người Việt khi thì
ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ, khi thì
vùng lên chống trả mãnh liệt. Trước sau có
9 cuộc cách mạng nổi lên giành độc
lập, tự chủ mà càng về sau càng dồn
dập, quyết liệt, càng có qui củ và tài trí.
Cuối cùng thì người Việt đã hóa giải
được áp lực đồng hóa khủng
khiếp của Hoa tộc đồng thời vươn
vai đứng lên với thế giới sau khi Ngô
Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
năm 939.
Do
đâu mà người Việt Giao Chỉ thoát
được áp lực đồng hóa sau 1000 năm
lệ thuộc Hoa tộc mà các dân tộc cùng chung
danh xưng Bách Việt đã phải khuất phục
trước đó?
Câu
trả lời đúng nhất là do họ đã
giữ được tinh anh của văn hóa Việt
cổ trong hệ thống các bộ tộc, bộ
lạc Bách Việt mà về sau được gọi
là làng xã mà người Tầu có thể đã xem thường.
Người Tầu không biết rằng: sau cái lũy
tre tầm thường ấy, khi ở thế
tỉnh, làng quê là một cuộc sống êm đềm,
hiền hòa, dễ bảo, dễ ăn hiếp; nhưng
khi có cơ hội thì nó chuyển qua thế động.
Từ làng này qua làng khác, bùng lên như những
ngọn sóng thần cuốn phăng xiềng xích nô
lệ!
Như
đã trình bày ở đoạn trước, sau
chiến tranh Trác Lộc các bộ lạc, bộ
tộc Miêu nào “theo về” liền được
vua Hoàng Đế phong chư hầu hoặc phụ
dung với quyền tự trị khá cao mà chính
quyền trung ương tôn trọng. Dần dần các
chư hầu học thói “thực tiễn cường
lực” của du mục, thôn tính lẫn nhau
khiến từ hàng vạn chư hầu xuống còn vài
ngàn, vài trăm, vài chục rồi thì… 7, 6 nước
“lớn”… Cuối cùng chư hầu Tần
thống nhất toàn thể lục địa Trung Hoa,
thì biệt sắc văn hóa Miêu tộc cổ
chuyển thành “văn minh” Trung Hoa, nghĩa là
bối cảnh xã hội nông nghiệp nhân chủ, nhân
trị và xã hội mẫu hệ theo năm tháng
chuyển thành xã hội du mục quân chủ cường
lực chuyên chế và xã hội phụ hệ.
Khác
với chế độ quân chủ phong kiến
của giai đoạn Hạ-Thương-Chu gồm
vị Thiên tử chăm lo vỗ về Thiên hạ,
đem vương hóa mà thi ân ban đức cho người
dân (dù chỉ còn là những giai đoạn rất
ngắn ngủi, còn thì đa số chỉ để
làm khẩu hiệu, làm kiểng)… dần dần
chuyển qua quân chủ chuyên chế mà đỉnh cao
là giai đoạn Tần Thủy Hoàng. Sau đó, nhà Hán
lại càng ra sức tô bồi cho chế độ
tạo thành một định chế quân chủ chuyên
chế, tạo thành một truyền thống toàn
trị của xã hội Trung Hoa các thời đại
về sau.
Khi đô hộ Việt Nam, các triều đình Trung Hoa thường chỉ quan tâm tới hai cấp quận, huyện. Họ đặt chức Thứ sử trông coi guồng máy đô hộ gọi là An Nam Đô Hộ Phủ, các chức Thái thú thì cai trị cấp Quận. Cấp Huyện thì họ đặt chức Huyện lệnh. Toàn bộ đám quan lại này hoàn toàn là người Trung Hoa, chúng cực kỳ gian ác, tham ô, coi người dân còn tệ hơn gia súc. Tuy nhiên, đối với Làng, Xã* thì họ để như cũ, tức là cho tự trị tùy theo truyền thống sẵn có từ xưa gọi là Lệ của mỗi Làng. Truyền thống này quan trọng nhất là thể lệ thành lập cơ quan lãnh đạo chính trị, hành chánh, kinh tế, an sinh… của Làng Xã. Chắc chắn trong thời đô hộ các chức vụ quan trọng của Làng, Xã đã bị bọn quan lại đô hộ Tầu mua chuộc hoặc áp đảo phải làm tay sai cho họ. Họ kiểm soát chặt chẻ bằng một chế độ độc đoán, hung bạo để bảo vệ chính quyền đô hộ và thỏa mãn lòng tham không đáy của bọn này vốn ở xa triều đình trung ương. Rõ ràng, nhờ ở vị thế tự trị này mà các truyền thống văn hóa Làng Xã Việt cổ đã tồn tại.
*Làng, Xã là đơn vị khởi điểm của tổ chức hành chánh hạ tầng cơ sở của nước ta từ nhiều ngàn năm trước, Làng là ngôn ngữ Việt, Xã là chữ Hán. Tùy theo vị trí mà Làng, Xã còn có nhiều tên khác:
§ Trang, Động, Sách, Trại là những xóm làng tiếp giáp rừng núi hay ở sâu trong rừng, núi.
§ Vạn thì ở vùng ven biển, ven sông chuyên nghề chài lưới, chuyên chở, khuân vác đường sông, đường biển .
§ Phường thường ở các thị trấn đông người, thường làm cùng một nghề (phường nón, phường đúc…)
Thành phần dân chúng của Làng Xã được kể gồm có: Tiểu hoàng nam (trên 18 tuổi), Hoàng nam (trên 20), Nhiêu (từ 50 tuổi), Lão nhiêu (trên 60).Kể từ hạng Nhiêu có thể được bầu vào Hội đồng Hương xã, có giá trị như một nghị viện của Làng để bàn thảo việc Làng, bầu cử các chức vụ trong Làng như Xã trưởng và các chức sắc khác…
Chúng tôi tin chắc rằng ít nhất là hơn một nửa những truyền thống văn hóa của người dân trong các Làng Xã miền bắc và các tỉnh phía bắc miền trung vẫn còn duy trì tốt đẹp. Từ những may mắn đó, Làng Xã Việt tộc đã là nơi phát sinh ra những anh hùng dân tộc và là những căn cứ yểm trợ, huấn luyện và xuất phát những đoàn quân kháng chiến cứu nguy đất nước.
Một điểm son khác, đất bắc và trung Việt Nam vốn là vùng cực nam của văn hóa Động Đình, từ thời Văn Lang đã là nơi dung thân của nhiều nguồn tị nạn xâm lược Hoa tộc mà đa số là thành phần quý tộc Bách Việt và thân nhân của họ. Vì là thành phần trốn chạy, đa số trong các nhóm này nương náu trong các Làng Xã xa nơi thị trấn hoặc cư trú trên các vùng cao nguyên, miền núi… Sự kiện này vô tình giúp cho làng xã Giao Chỉ liên tục được bổ sung tinh hoa văn hóa Bách Việt cũng như tinh thần bất khuất của dân Việt càng ngày càng được củng cố. Nhờ đó mà suốt 1000 năm lệ thuộc, dân tộc Việt không bào giờ lùi bước mà liên tục chống trả cho đến khi toàn thắng.
II/11-KẾT LUẬN II
Văn hóa Bách Việt cổ trong thời kỳ còn trinh nguyên là văn hóa biểu tượng, các loại chữ viết đang còn sơ khai như chữ chân chim, chữ tượng hình, chữ nòng nọc… chỉ mới được dùng để chỉ ra một vài sự kiện trong đời sống thường nhật có hình dạng như những chữ số, trâu bò, nhà cửa, sông núi, mưa nắng… nó chưa đủ khả năng trình bày những ý niệm thuộc về tư tưởng, tâm linh, vốn mang tính trừu tượng.
Cùng với những loại chữ này, người xưa đã dùng những hình vẽ khắc trên mu rùa, hòn sỏi, búa đá, búa đồng, khạp đồng, trống đồng… hoăc những quan niệm nhân sinh, vũ trụ được cài đặt trong các nhân thoại như chuyện ông Bàn Cổ, chuyện Phục Hy, Nữ Oa, Toại Nhân, Hữu Sào, Thần Nông trước chiến tranh Trác Lộc. Hay chuyện Tiên Rồng, Sách ước Gậy thần, Trầu cau, Thánh Gióng, Tiên Dung Chữ Đồng Tử, Bánh chưng bánh dày, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mai An Tiêm, Trương Chi… sau chiến tranh Trác Lộc.
Một số khác được cơ chế hóa trong các nghi lễ dân gian như đám cưới, đám giỗ, lễ hội, lễ tết…, trong phong dao, đồng dao, ca dao, hát ru em, thành ngữ… hoặc trong các truyền thống sinh hoạt làng xã, trong phạm vi đình làng. Các học giả cũng tìm thấy trong nhiều loại sách, sử Trung Hoa ghi lại những truyền thống văn hóa, đạo đức, luân lý, tư tưởng Việt cổ. Điển hình trong các bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Đạo đức kinh… của Khổng Phu Tử, Lão Tử và học trò của các ông ghi chép lại… Chúng tôi gọi đó là nền văn hóa kỳ diệu của tổ tiên hiền triết Việt tộc.
Nếu quý độc giả chưa đọc Đường Ta Đi từ chương I, có thể khi nghe chúng tôi nói văn hóa tư tưởng Việt tộc cổ tràn ngập trong Kinh sách và đời sống người Trung Hoa, hẳn có vị nhăn mặt cho rằng chúng tôi quá lời đến độ sống sượng! Xin thưa, không quá lời đâu! Không sống sượng đâu! Sự thực chính xác đến độ chính chúng tôi cũng phải ôm đầu kinh ngạc, tiếc nuối cho một gia tài văn hóa cha ông bị cướp đoạt, mạo nhận suốt nhiều ngàn năm. Cho đến ngày nay, con cháu dù đang xữ dụng văn hóa ấy mà vẫn cứ nghĩ rằng mình được ông hàng xóm tàn bạo, điêu ngoa khai hóa, dạy bảo!!!
Giả thử, bây giờ ta đưa vài trăm ngàn người miền Thượng ở Pleku, Kontum, Banmêthuột; đặt họ vào đồng bằng Cửu Long sống giữa đồng bào miền Nam thì họ sẽ có tư tưởng và cuộc sống như thế nào sau một ngàn năm? Chắc chắn họ sẽ suy nghĩ và đời sống giống như người Việt miền Nam. Có thể họ sẽ có những “làng” Gia Rai, “xẽo” Cheo Reo, “xóm” Cái Bà Na…
Ngày nay người Việt dù đang sống hầu như khắp nơi trên đất Mỹ, nhưng cùng đồng thuận rằng Cali là “thủ đô” là “Sàigòn Nhỏ” của dân Việt tỵ nạn và chỉ mới non 30 năm người Việt đã có những suy nghĩ và cuộc sống không khác gì người “Mỹ trắng”. Tôi chọn Mỹ trắng mà không chọn Mỹ Đen, Mễ… vì Mỹ trắng có nếp sống văn minh cao hơn các giống kia. Vậy khi rợ Hoa rớt vào hủ gạo Miêu tộc cách đây 5000 năm ở lục địa Đông Á họ cũng ở trong hoàn cảnh y hệt những điều chúng tôi vừa nói trên. Cái đáng buồn là vì họ quá mạnh quá gian ác trong khi Miêu thì quá hiền nên văn hóa Miêu bị đóng dấu “made in China” mà thôi.
Ngày nay, nếu chúng ta tìm học tư tưởng người xưa thành hệ thống, sàng sẩy, chọn lọc, khai triển, phối hợp với những hiểu biết của nhân loại ngày nay, chúng tôi tin chắc rằng đất nước Việt Nam sẽ có một minh triết chủ đạo chẳng những trong công cuộc kiến tạo, dựng xây quốc gia dân tộc mà còn quảng bá cho thế giới ngày nay. Cố triết gia Lương Kim Định gọi đó là Việt đạo là triết lý An vi với hướng đi nhân chủ, nhân trị trong một xã hội bình sản, tự do và dân chủ hoàn mỹ.
Mở rộng tầm mắt nhìn quanh, những định chế tổ chức của các nước trên thế giới ngày nay đã đưa con người đi vào tình trạng lệ thuộc tất cả, nghĩa là không nô lệ thần minh thì cũng nô lệ vật chất hoặc vất bỏ tất cả… Đó là con đường thoái thác quyền làm Người!
Ông Cao Bá Quát, một nhân tài văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18 đã phải thốt lên trước những lễ cầu đảo rềnh rang của triều đình vua Tự Đức:
Thần
thánh chi chi kệ!
Không nhân đếch có ra Người!
Triết gia Kim Định vốn là một linh mục Công giáo đã rất can đảm khi viết:
“Trời có việc của Trời, Đất có việc của Đất, Người có việc của Người. Nay bỏ cái khả năng của Người mà đi cầu cái khả năng của Trời, Đất thì có lầm chăng?”
|
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT. |
|
No comments:
Post a Comment