Thursday, August 1, 2019

VNCH 10 Ngày Cuối Cùng

VNCH 10 Ngày Cuối Cùng - Thứ Năm 24.04.1975 & Thứ Sáu 25.04.1975

Thứ Năm 24.04.1975
Trần Văn Hương Tiếp Xúc Với Dương Văn Minh.



Theo các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt Nam Nhân Chứng, Frank Snepp trong Decent Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril thì hồi 10 giờ sáng ngày 24-4-75, qua sự trung gian của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm,Tổng Thống Trần Văn Hương đã đến gặp cựu Đại Tướng Dương Văn Minh tại tư gia của Đại Tướng Khiêm trong cư xá sĩ quan tại Bộ Tổng Tham Mưu gần phi trường Tân Sơn Nhứt.

Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Trần Văn Hương lại cho người viết biết rằng Cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở dinh độc Lập cũng như tại Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia của ông Minh trên đường Hồng Thập Tự như ông Minh muốn, do đó Cụ đã nhờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sắp đặt cuộc gặp gở nầy. Cụ Hương cũng không muốn việc nầy tiết lộ ra ngoài, do đó Cụ đã dùng trực thăng bay từ Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý đến Bộ Tổng Tham Mưu và ngay cả hai người phi công cũng chỉ được lệnh bay lên Tổng Tham Mưu sau khi Cụ lên phi cơ.

Trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội ngày 26 tháng 4 năm 1975, TT Trần Văn Hương có nói rằng: “Trong các cuộc gặp gỡ tại tư thất của người bạn chung – bởi vì họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại Tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại Tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung”.

Trong cuộc tiếp xúc nầy, TT Trần Văn Hương đã yêu cầu Tướng Minh nhận chức thủ tướng toàn quyền để thương thuyết với phe Cộng sản theo đề nghị của Đại sứ Pháp . TT Trần Văn Hương đã nói với Lưỡng Viện quốc Hội về việc gặp gỡ Tướng Dương Văn Minh rằng:

“Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm đã qua, mọi sự không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia”.

Tuy nhiên Tướng Minh đã cương quyết từ chối và ngược lại ông đã yêu cầu Tổng Thống Hương từ chức, nhường chức vụ tổng thống VNCH lại cho ông Minh để được toàn quyền nói chuyện với phe bên kia.

Cuộc tiếp xúc đó coi như là đã hoàn toàn thất bại và Cụ Hương trở về Phủ Tổng Thống. Theo vị sĩ quan tùy viên của TT Trần Văn Hương, đó là chuyến bay bằng trực thăng duy nhất kể từ khi Cụ nhận chức Tổng Thống và chuyến bay khứ hồi chỉ mất khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ chứ Tổng Thống Trần Văn Hương không có “bay vòng vòng khắp Sài Gòn – Chợ Lớn” như một vài người đã đồn đại sau nầy. (ghi chú: Phỏng vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của TT Trần Văn Hương).

Trong cuốn “Cuộc Đời của Tướng Nguyễn Khoa Nam”, ông Nguyễn Mạnh Tri, một trong những tác giả cuốn sách nầy đã được cựu TT Nghuyễn Văn Thiệu dành cho một cuộc phỏng vấn tại San Jose ngày 22-10-2000. Trong cuộc phỏng vấn nầy, cựu TT Thiệu có nói như sau về việc ông bàn giao chức vụ tổng thống VNCH cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương:

“Khi tôi quyết định từ chức, tôi chỉ giao quyền lại cho Cụ Hương mặc dù tôi có nghe nói ông Dương Văn Minh muốn thay thế Cụ Hương. Tôi từ chức là vì những lý do riệng của tôi và tôi nghĩ rằng đó là quyết định tốt nhát cho đất nước trong tình thế khó khăn lúc ấy. Tôi quyết định từ chức vì bổn phận bắt buộc tôi phải làm như vậy. Tôi tin rằng giao lại cho Cụ Hương, chắc chắn Cụ Hương sẽ không bao giờ chịu trao quyền lại cho Việt Cộng, họa chăng là VC vào Dinh Độc Lập dí súng vào cổ ông. Ông thà chịu để địch bắt chớ không bao giờ kêu gọi quân dân trao quyền cho bọn chúng” (*148: Nguyễn Mạnh Tri: “Cuộc đời của Tướng Nguyễn Khoa Nam” do Hội Phát Huy Văn Hóa Việt Nam, Ann Arbor, Michigan xuất bản năm 2001).

Có lẽ sau ngày 21 tháng 4 năm 1975, ông Thiệu là một trong số những người hiếm hoi ủng hộ cụ Trần Văn Hương. Ông Thiệu muốn Cụ Trần Văn Hương ngồi ở ghế tổng thống vì muốn bảo vệ cho quyền lợi của cá nhân của riêng ông, dù sao đi nữa thì Cụ Trần Văn Hương cũng không thể nào đối xử “cạn tàu ráo máng” với ông Thiệu, còn các thế lực chính trị khác tại Sài gòn thì gần như hầu hết đều chống lại việc cụ Hương tiếp tục làm tổng thống. Trước hết là toà Đại sứ Pháp vì giải pháp của người Pháp là dùng lá bài Dương Văn Minh, toà Đại sứ Mỹ thì như trên đã nói chỉ muốn lo cho việc di tản ra khỏi Miền Nam và khoán trắng mọi sự sắp xếp cho người Pháp, tuy nhiên riêng Đại sứ Graham Martin thì mong muốn Cụ Hương ngồi ở ghế tổng thống thêm dăm ba ngày nữa để giữ cái bộ mặt hợp hiến của chế độ miền Nam, cựu Đại tướng Dương Văn Minh thì chỉ muốn lên làm tổng thống ngay để có đủ toàn quyền thương thuyết với “những người anh em bên kia” và cuối cùng là cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cùng một số tướng tá thân cận của ông ta.

Theo lời của Trung tướng Trần Văn Đôn kể lại trong “Việt Nam Nhân Chứng” thì ngay ngày hôm sau khi Cụ Hương tuyên thệ nhậm chức, một số tướng lãnh như Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư­lệnh Lữ đoàn III Thiết giáp đã gọi điện thoại “khuyên” ông nên đứng ra lãnh nhiệm vụ thủ tướng. Đến ngày 25 tháng 4 thì cựu tổng thống Thiệu mời ông Đôn vào Dinh Độc lập và trong buổi gặp mặt này, ông Thiệu có nói với ông rằng “Ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận lãnh đựơc trách nhiệm này Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973 nhưng vì tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với họ, nếu chịu thương thuyết thì tôi đã mời ông làm Thủ Tướng từ năm 1973 rồi”. ông Thiệu gọi điện thoại cho Cụ Hương và “khuyên” Cụ rằng “Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ Tướng toàn quyền thì Cụ tìm một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Trần văn Đôn” (*149 Trần Văn Đôn: sđd, trang 467).

Cũng theo lời Trẫn Văn Đôn thì đến 4 giờ 30 chiều 24 tháng 4, Tướng Khiêm gọi điện thoại cho ông Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy lãnh tụ Phong trào Quốc gia Cấp tiến làm tân Thủ Tướng. Cụ Hương biết giáo sư Nguyễn Ngọc Huy từ hồi thập niên 1940 trước khi sang Pháp du học và Cụ rất quý trọng ông Huy. Sau đó ông Đôn đến gặp Dương Văn Minh và ông Minh tha thiết yêu cầu ông Đôn giàn xếp thế nào để cho Cụ Hương đồng ý giao quyền lại cho ông ta càng sớm chừng nào tốt chừng đó để thương thuyết với phe bên kia.

Tướng Đôn nghĩ rằng nên có áp lực về phía quân đội để Cụ Hương chấp nhận giải pháp này và ông ta đã điện thoại mời hai Đại tướng Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên đến nhà ông Dương Văn Minh, tuy nhiên cả hai ông này không đến nhà ông Minh mà họ đến thẳng Dinh Độc Lập. Đại tướng Khiêm vào nói chuyện với Cụ Hương, kế đó là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và sau đó Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Văn Đôn cùng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên trình bày về tình hình quân sự: vòng đai Sài Gòn đang bị thu hẹp, đạn dược thiếu và tinh thần chiến đấu của binh sĩ quá sa sút.

Tổng thống Trần Văn Hương nói rằng ông chia xẻ với số phận của anh em quân nhân tại chiến trường, ông sẽ sống chết với anh em binh sĩ trong quân đội. Sau đó ông chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân lực VNCH, có nghiã là Tướng Cao Văn Viên có toàn quyền chỉ huy và điều động quân đội, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hoà do chính ông Thiệu nắm giữ. Đại tướng Cao Văn Viên phải miễn cưỡng nhận lời, tuy nhiên ông yêu cầu TT Trần Văn Hương một điều, đó là “nếu Tổng Thống phải giao quyền lại cbo Đại tướng Dương Văn Minh thì tôi xin Tổng Thống cho tôi đựơc nghỉ dài bạn không lương vì tôi không thể làm việc dưới quyền Dương Văn Minh”. Theo lời Trần Văn Đôn thì Tổng thống Trần Văn Hương chấp thuận lời yêu cầu này. Trước khi ra về, ông Đôn còn nói thêm với Cụ Hương rằng “Xin Cụ nghiên cứu lại vì phía bên kia bọ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi.”.

Tối hôm đó, ông Đôn đến nhà Dương Văn Minh thì đã có sự hiện diện của Nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn toà đại sứ Pháp. Ông Minh cho ông Đôn biết là Cụ Hương không muốn từ chức, cố vấn Brochand tỏ ra thất vọng vì ông ta cho biết Hà Nội nhất quyết không nói chuyện với bất cứ nhân vật nào ngoại trừ Dương Văn Minh. Ông Đôn trấn an nhóm này và nói rằng “ông Hương mới lên mà ép buộc ông phải từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn có hiến pháp và quốc hội”. Nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền đồng ý và sau đó thì cả ông Minh lẫn ông Vũ Văn Mẫu đều cho rằng ông Hương cố trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận từ chức.
Lá Bài Trần Văn Đỗ?

Vào cuối tháng 4 năm 1975, sau khi ông Nguyên Văn Thiệu từ chức, Tổng Thống Trần Văn Hương trong một tuần lễ ngắn ngủi kế nhiệm chức vụ tổng thống theo hiến pháp đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm người để thương thuyết với Bắc Việt ngõ hầu tìm được một giải pháp ít bi thảm hơn cho miền Nam và cuối cùng đã phải “trao quyền” lại cho cựu Đại tướng Dương Văn Minh, một người mà hồi đó tại miền Nam người ta đồn rằng ông ta là người duy nhất có thể nói chuyện được với Cộng sản Bắc Việt. Sau ngày 30 tháng 4 thì tất cả mọi người đều thấy rõ điều đó không đúng sự thật vì trong hai ngày ngắn ngủi lên làm Tổng Thống, Cộng sản không hề nói chuyện với Dương Văn Minh và cũng không bao giờ có ý định nói chuyện với ông ta cả.

Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sau khi hơn một nửa lãnh thổ bị rơi vào tay Cộng sản, vào khoảng cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, một số dư luận về phía ngoại quốc có đề cập đến việc đã đến lúc miền Nam nên “nói chuyện” với Cộng sản Bắc Việt và tên tuổi của Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng có được nhiều người nhắc nhở đến.
Trong một cuốn hồi ký được xuất bản vào năm 2003 ông Nguyễn Bá Cẩn, vị thủ tướng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa có cho biết:

“Theo lời Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên thuật lại với Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh (đăng trong Tạp chí Human Rigbts viết bằng Pháp) văn) thì Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm nói rằng “không có một chính phủ ở một quốc gia nào còn có thể đứng vững sau một sự sụp đổ kinh thiên động địa như vậy. Một khi đất nước đã mất 14 tỉnh rồi mà không có một nhân vật nào từ chính phủ cho tới Tổng Tham Mưu bị trừng phạt thì là một việc vô lý. Và Thủ Tướng Khiêm nói ông ta xin tự nguyện làm “vật tế thần".

“Từ Tổng Thống Thiệu cho đến Thủ Tướng Khiêm và Phó Thủ Tướng Viên đều đồng ý là phải có một biện pháp gì mạnh hơn quyết định sự cải tổ nội các. Sau đó, theo lời phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên thì Tổng Thống Thiệu đọc lại tờ trình của thủ tướng Trần Thiện Khiêm, trong đó có đoạn đề cập đến giải pháp nếu cần có một tân nội các thì những nhân vật sau đây được Thủ Tướng Khiêm đề nghị với Tổng Thống Thiệu:

1. Bác Sĩ Trần Văn Đỗ
2. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy
3. Chủ tịch Thựơng nghị Viện Trần Văn Lắm
4. Chủ tịch Hạ nghị Viện Nguyễn Bá Cẩn ” (*150: Nguyễn Bá Cẩn: Việt Nam Đất Nước Tôi, tác giả xuất bản, San Jose 2003, trang 365-366).

Như vậy thì theo nhận xét của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Bác sĩ Trần Văn Đỗ được xem là một trong những nhân vật có đủ khả năng để thay thế ông để đảm nhận chức vụ thủ tướng và trong số 4 người được ông đề nghị, tên của Bác sĩ Trần Văn Đỗ được đứng vào hàng đầu, tuy nhiên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã chọn người đứng hàng thứ tư trong danh sách này là ông Nguyễn Bá Cẫn làm Thủ Tướng.

Người viết có một thời gian được phục vụ dưới quyền Bác sĩ Trần Văn Đỗ cho nên người viết biết được rằng giữa Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Bác sĩ Trần Văn Đỗ thì chỉ có một vài liên hệ thân hữu, có quen biết nhau chứ hai người không hề có liên hệ họ hàng hay là bạn bè thân thiết gì cho lắm khiến cho ông Khiêm đã vì cảm tình cá nhân mà để tên Bác sĩ Trần Văn Đỗ đứng hàng đầu trong bản đề nghị gửi lên Tổng Thống Thiệu.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ là em ruột của Luật sư Trần Văn Chương, người đảm nhiệm chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ của Cụ TrầnTrọng Kim vào năm 1945 và dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Washington từ năm 1955 cho đến năm 1963 thì từ chức để phản đối Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Trần văn Chương cũng là thân phụ của bà Trần Lệ Xuân tức là bà Ngô Đình Nhu.

Năm 1954, khi Bác sĩ Trần Văn Đỗ đang giữ chức vụ Đại Tá, Giám Đốc Nha Quân Y của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thì ông Ngô Đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định thành lập một tân chính phủ thay thế cho Hoàng thân Bửu Lộc. Dù rằng đến ngày 7 tháng 7 năm 1954 chính phủ Ngô Đình Diệm mới ra mắt tại Sài Gòn, nhưng ngay từ trước khi rời nước Pháp về Việt Nam vào cuối tháng 6 năm 1954, ông Ngô Đình Diệm đã mời Bác sĩ Trần Văn Đỗ đảm nhận chức vụ Tổng Truởng Ngoại Giao và tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đã được chỉ thị của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bay sang Thụy Sĩ để thay thế cho Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu Phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam tham dự Hội Nghị về Đông Dương đang diễn ra tại Genève.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ là người đại diện cho Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam đã không ký vào Bản Hiệp Định Genève về Đông Dương ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia đôi đất nước tại Vỹ tuyến 17.

Năm 1955, Bác sĩ Trần Văn Đỗ từ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao cho đến năm 1965 mới trở lại giữ chức Ngoại trưởng trong chính phủ của Bác sĩ Phan Huy Quát và sau đó tiếp tục giữ chức vụ này trong ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là chính phủ của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Từ năm 1968 cho đến năm 1965, Bác sĩ Trần Văn Đỗ không hề giữ một chức vụ nào trong các chính phủ dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa sau này.

Vào thời điểm năm 1975, Bác sĩ Trần Văn Đỗ được nhiều người nói đến không phải vì ông dã từng giữ chức vụ ngoại trưởng dưới nhiều chính phủ trước đó, nhưng người ta chú ý đến ông vì một lý do khác mà ngay cả người Việt Nam ở miền Nam cũng có ít người được biết: Bác sĩ Trần Văn Đỗ là nhân vật Miền Nam duy nhất đã được cộng sản Bắc Việt mời đến gặp gỡ - được mời chứ không có xin hay yêu cầu như những người khác – không những chỉ một lần mà đến hai lần: lần đầu tiên tại Genève vào tháng 7 năm 1954 và lần thứ hai tại Paris vào khoảng năm 1969 hay 1970.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ có kể lại cho nhiều người, trong số đó có cả người viết, về chuyện ông được Cộng sản mời đến gặp Phạm Văn Đồng, trưởng Phái Đoàn của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội Nghị Genève khi ông vừa mới đến Thụy Sĩ hồi cuối tháng 6 năm 1954.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cho biết lúc đó ông chỉ là một bác sĩ Y Khoa, không có một kinh nghiệm gì về ngành ngoại giao, tuy nhiên, qua sự giới thiệu của ông Ngô Đình Nhu là cháu vợ của ông, khi ông được ông Ngô Đình Diệm khẩn khoản mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao để thay thế cho Giáo Sư Nguyễn Quốc Định mà những người ủng hộ ông Diệm cho rằng “quá thân Pháp” thì ông cũng phải nhận lời vì thì giờ quá cấp bách, lúc đó đã vào cuối tháng 6 mà Thủ Tướng Pháp Mendes France thì đã long trọng hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trước ngày 20 tháng 7.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói trong khi ông đến Genève vào cuối tháng 6 thì Phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam không được người Pháp cho biết một điều gì về việc họ đang thương lượng với Việt Minh, tuy nhiên ông có nghe một vài dư luận hành lang cho biết một cách mơ hồ về những giải pháp có thể tiến đến một cuộc hưu chiến tại Đông Dương và một trong những giải pháp đó là chia cắt nước Việt Nam thành hai phần, không rõ chia cắt ở điểm nào, địa phương nào. Khi ông đến Genève thì các phái đoàn tham dự Hội Nghị đang tạm “ngưng họp” (recess) và trong thời gian này, trưởng phái đoàn Pháp là Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Mendes France đang về Paris tham khảo với chính giới Pháp, do đó ông có thêm thì giờ để thăm dò và tìm hiểu tình hình các phái đoàn tham dự hột nghị: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Bang Xô Viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cao Miên, Lào và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức là Việt Minh do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng lãnh đạo. Vào đầu tháng 7, vài người bạn của Bác sĩ Đỗ đang sống tại Paris báo cho ông Đỗ biết rằng Luật sư Phan Anh có nhờ họ nhắn với ông rằng ông ta muốn gặp. Bác sĩ Đỗ nói rằng Luật sư Phan Anh là bạn của Luật sư Trần Văn Chương, anh ruột của ông và cũng là bạn của ông thời còn ở Hà Nội trước năm 1945, ông ta từng làm Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và vào thời gian 1954 thì ông đang làm Bộ Trưởng Kinh Tế của Việt Minh và cũng đang là một thành viên trong Phái đoàn của Phạm Văn Đồng. Ông Đỗ trả lời rằng “anh em bạn cũ muốn gặp nhau thì gặp chứ có chuyện gì mà phải ngại!”. Sau đó ông đã sang nơi trú ngụ của Phái đoàn Việt Minh để gặp Luật sư Phan Anh và tại đó ông đã gặp cả Phạm Văn Đồng.

Bác sĩ Đỗ nói rằng sau phần chào hỏi, Phạm Văn Đồng hỏi ngay về vấn đề chia cắt đất nước và khi ông hỏi lại là chia cắt từ đâu thì Phạm Văn Đồng nói rằng “ở vỹ tuyến thứ 13.” Bác sĩ Đỗ nói rằng đây là lần đầu tiên ông nghe nói một cách chính thức về vấn đề chia cắt và cũng là lần đầu tiên ông nghe nói đến “vỹ tuyến thứ 13.” Phạm Văn Đồng cũng hỏi ý kiến ông về vấn đề “tổng tuyển cử” và khi Bác sĩ Đỗ hỏi chừng nào thì Phạm Văn Đồng trả lời rằng có lẽ trong vòng 6 tháng. Khi Phạm Vàn Đồng hỏi ý kiến của ông về cả hai vấn đề này thì ông chỉ trả lởi một cách ỡm ờ là “không có ý kiến gì” vì quả thật thì Bác sĩ Đỗ cũng như phái đoàn Việt Nam chẳng hay biết gì về những quyết định trọng đại này.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng nhờ ông tự ý đi sang thăm phái đoàn của Việt Minh nên tình cờ mới biết được rằng Việt Minh và các cường quốc đã đồng ý về giải pháp chia cắt chứ không phải là “da beo” tức là ngưng bắn tại chỗ và về sau thì ông được biết rằng giải pháp này đã được họ thỏa thuận với nhau từ cuối tháng 4 năm 1954 tức là ngay cả trước khi trận Điện Biên Phủ kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1954. Ngoài ra họ cũng còn đề cập đến vấn đề Tổng tuyển Cử, những vấn đề sính tử đối với người Việt Nam mà phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam không hề được biết mảy may gì cả. Chuyện nực cười là chính ông, người cầm đầu phái đoàn này lại chỉ được biết về hai vấn đề tối quan trọng này qua sự tiết lộ của ông Phạm Văn Đồng, Trưởng Phái đoàn của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức là phe đối thủ của phe Chính phủ Quốc Gia Việt Nam mà sau này người ta vẫn gọi là “phe Quốc Gia.” Ông Trần Văn Đỗ kể lại chuyện này với một nụ cười chua xót và ông nói rằng“người ta định đoạt số phận của nhân dân mình mà chính mình cũng không hay biết gì hết.”

Bác sĩ Đỗ cho biết rằng cuộc gặp gỡ này diễn ra trong một bầu không khí rất thân hữu, khi ông Phan Anh giới thiệu ông Phạm văn Đồng thì ông ta nói rằng: “Xin giới thiệu với anh đây là “Anh Tô”. Tên thật của Phạm Văn Đồng là “ Tô”, do đó chỉ trong vòng đồng chí, bạn bè thân hữu thì người ta mới gọi . là ” anh Tô “. Ông cho biết rằng sau một hồi chuyện vãn xã giao thì ông ra về và ngày hôm sau chính ông Phạm Văn Đồng lại dẫn một nhóm sang thăm đáp lễ phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam. Bác sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết thêm rằng cho đến ngày Hội Nghị Genève về Đông Dương kết thúc vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 thì giữa hai phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lãnh đạo và Phái Đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do ông lãnh đạo không hề có chuyện cãi vã, không hề có thái độ hận thù gì cả.
Ông nói rằng ngày hôm sau khi ông gặp ông Phạm văn Đồng, báo chí tại Thụy Sĩ đã đăng tãi tin này dưới cái tít “Cuộc Gặp Gỡ Giữa Hai Huynh Đệ Thù Nghịch” (La rencontre desfrères ennemis) và đó cũng là một điều may mắn cho Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam vì sau đó thì các phái đoàn như Pháp và Hoa Kỳ đã đến tiếp xúc với ông và trao cho ông những tài liệu chính thức: đó là một cái “note verbale” tức là một sự thỏa thuận bằng miệng giữa Pháp, Anh và Mỹ từ ngày 27 tháng 4 năm 1954 chấp nhận giải pháp chia cắt nước Việt Nam và nếu chia cắt tại vỹ tuyến thứ 18 thì có thể chấp nhận được.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết rằng ngoài việc gặp gỡ ông Phạm Văn Đồng, trong thời gian Hội Nghị Genève, ông cũng còn được gặp Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chính ông Chu Ân Lai có ngỏ lời mời ông và ông Ngô Đình Luyện sang thăm viếng Bắc Kinh. Chuyện này ông có tường trình lên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngay sau khi ông về đến Sài Gòn, tuy nhiên sau đó ông không nghe Thủ Tướng Diệm nhắc nhở gì đến chuyện này vì chỉ ít lâu sau thì ông từ chức.

Chuyện Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ gặp Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng hồi Hội Nghị Genève năm 1954 rất ít người được biết vì dưới thời Ngô Đình Diệm, chính quyền không cho phép phổ biến những tin tức có liên quan đến Cộng sản như vấn đề này. Nhưng sau năm 1975, chính Bác sĩ Trần Văn Đỗ đã kể lại chuyện này qua một lá thư gửi cho cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu và ông này đã cho đăng vào Phụ Bản của cuốn sáchViệt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Người viết xin trích lại một đoạn như sau:

“Paris ngày 30 tháng 8 năm 1983
“Nhắc lại Hội nghị Genève thì không mấy ai biết bề trong thế nào. Ai cũng tưởng tượng trong bàn hội nghị bàn cãi kẻ nói qua người nói lại như đi chợ trả giá. Nhưng sự thật chẳng có bàn cãi gì trong phòng hội nghị cả.

“Tôi sang Genève hỏi nhân viên phái đoàn thì họ nói lúc này nghỉ hè, các trưởng phái đoàn đều vắng mặt, trừ các phái đoàn Việt Nam, Lào và Cao Mên. Không có tin tức gì các phái đoàn nói chuyện với nbau, không ai đá động gì đến ta cả. Trong lúc đó có tin hành lang nói đến việc chia xẻ đất nước. Tin đồn không biết thiệt hư, ở đâu ra. Phía Pháp trước khi tôi qua Genève, ông Tổng Trưởng Guy la Chambre (Ministre des états Associés – Tổng Trưởng Các Quốc Liên Kết tức là Đông Dương), hứa có tin gì thì sẽ cho mình biết nhưng không bao giờ cho mình biết gì cả.

Bởi vậy nên tối 3 hay 4 tháng 7 gì đó, hai ông Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn mạnh Hà đến trụ sở hỏi tôi có bằng lòng gặp Phạm Văn Đồng không. Tôi nói tôi không có complex (mặc cảm) gì cả, gặp ai cũng được, ở đâu cũng được lúc nào cũng được. Hôm sau tôi đi với ông Nguyễn Hữu Châu qua trụ sở Việt Minh gặp Phạm Văn Đồng, có mặt Hoàng Văn Hoan, Trần Công Tường. Chào hỏi xong, ông Đồng nói đến vấn đề chia xẻ đất. Tôi hỏi chia chỗ nào ông Đồng trả lời: lối vỹ tuyến thứ 13, rồi đem bản đồ ra chỉ về đường đi từ Pleiku xuống An Khê. Hỏi thì tôi trả lời không có ý kiến. Đồng nói. “nhưng chia chỉ tạm thời vì tính sẽ có Tổng tuyển Cử để thống nhất, trong vòng 6 tháng. ” Tôi trả lời chưa có ý kiến gì vì mới tới.

Ngày bôm sau, Phạm Văn Đồng sang đáp lễ nhưng không có nói gì khác. Nhờ vậy tôi mới biết việc họ bàn tính với nbau, định đoạt số phận mình mà không cho mình biết.

Vài giờ sau khi tôi nói chuyện với bên Việt Minh thì báo chí tung ra “La rencontre des frères ennemis” vì đây là lần đầu tiên mà hai bên gặp nói cbuyện riêng với nhau.

Tôi về đến nhà thì phái đoàn Pháp kế đến phái đoàn Mỹ xin lại gặp tôi. Người Pháp hỏi tôi nói chuyện với Phạm văn Đồng có chi lạ cho họ biết với. Tôi nói tôi đi thăm ông Đồng cũng như đi thăm các ông – thăm xã giao. “(*151 Đỗ Mậu: Việt Nam Máu Lửa Quệ Hương Tôi, trang 1441-1442).

Hai nhân vật mà Bác sĩ Trần Văn Đỗ đề cập đến là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Mạnh Hà là hai nhà trí thức Việt Nam rất nổi tiếng trong giới người Việt Nam đang sống tại Pháp. Nguyễn Mạnh Hà là một nhà trí thức nổi tiếng thân Việt Minh ngay từ thời năm 1945, tuy nhiên Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích thì không phải là một người thân Cộng sản.

Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích là một nhân vật mà đa số người Việt Nam ở miền Bắc và miền Trung ít biết đến, tuy nhiên người Việt Nam ở Nam Bộ tức là Nam Kỳ thì không có ai mà lại không biết đến ông, nhưng mà dưới một cái tên khác: Bác vật Nguyễn Ngọc Bích. Ông Nguyễn Ngọc Bích là con của ông Nguyễn Ngọc Tương, Giáo Tông của Đạo Cao Đài tại Bến Tre. Vào thập niên 1930, ông thi đậu vào trường Politechnique tại Pháp. Trước ông cũng có hai người đã thi đậu vào trường nổi tiếng này là Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân về sau làm Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948 và Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính Phủ Trần Trọng Kim vào năm 1945. Sau khi tốt nghiệp trường Politechnique, ông lại theo học ngành kỹ sư tại École des Ponts et Chaussées tức là trường Kỹ Sư Kiều Lộ, một trong những Trường Lớn (Grandes Écoles) của nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp kỹ sư kiều lộ, ông trở về Việt Nam phục vụ trong ngành công chánh, người Việt Nam gọi là trường tiền. Hồi đó, tại Việt Nam chưa có trường nào đào tạo ngành kỹ sư cho nên danh từ này chưa được thông dụng và riêng tại Nam Kỳ thì đa số dân chúng gọi những người tốt nghiệp bằng kỹ sư ở Pháp bằng “bác vật”, do đó mà ông được mọi người gọi là ông “bác vật Nguyễn Ngọc Bích”.

Tháng 8 năm 1945, sau khi người Nhật đầu hàng, người Pháp trở lại Nam Việt nhằm tái lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ nhưng nhân dân đã nổi lên chống lại người Pháp và cuộc kháng chiến tại Nam Bộ bùng nổ vào tháng 9 năm 1945. Bác vật Nguyễn Ngọc Bích cũng hăng say tham gia kháng chiến và ông được cử làm chỉ huy một đơn vị kháng chiến tại vùng Tiền Giang. Nhằm ngăn chận không cho quân Pháp tiến về chiếm tỉnh Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây, bác vật Nguyễn Ngọc Bích đã chỉ huy những toán kháng chiến phá sập các cây cầu quan trọng trên Quốc lộ 4 từ Sài Gòn về miền Tây như cầu Bến Lức, cầu Tân An thuộc tỉnh Tân An, cầu Long Định thuộc tỉnh Mỹ Tho và cầu Cái Răng thuộc tỉnh Cần Thơ v.v. Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích được đồng bào Nam Bộ xem như là một vị “anh hùng kháng chiến chống Pháp” và tên tuổi, uy tin của ông nổi bật hơn cả những cán bộ cao cấp Việt Minh tại Nam Bộ. Chính trong thời gian này, ông được Việt Minh cử giữ chức Khu Bộ Phó Khu 9 tức là vùng Hậu Giang. Cựu Thủ Tướng Cộng sản Võ Văn Kiệt vào thời gian đó chỉ là một cán bộ cấp quận đã nói về Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích như sau:

“Nguyễn Ngọc Bích tham gia kháng chiến, bị địch bắt và trục xuất khỏi Việt Nam khi là Khu Bộ phó Khu 9. Thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến tôi có dịp gặp Nguyễn Ngọc Bích trong chiến khu. Khi đó ông Ngọc Bích là Khu Bộ Phó Khu 9, một “dân Tây” đẹp trai và đặc biệt nhiệt tình. ” (*152 Trầm Hương: Đêm Trắng của Đức Giáo Tông, nhà xuất bản Công An Nhân dân, Sàigòn 2002).

Người Pháp điều tra và họ biết được người chỉ huy việc phá cầu này phải là một người có hiểu biết thật nhiều về cầu cống và họ biết ngay người đó không ai khác hơn là bác vật Nguyễn Ngọc Bích, cựu sinh viên trường Ponts et Chausées tại Pháp. Người Pháp đã huy động mấy tiểu đoàn đi truy lùng kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích và sau cùng thì nhờ có sự điềm chỉ, họ đã bắt sống được ông vào năm 1946.

Theo ông Chester Cooper, một chuyên gia đã từng phục vụ cho Trung Ương Tình Báo CIA của Hoa Kỳ thì “Vì ông Nguyễn Ngọc Bích càng ngày càng có uy tín trong quần chúng Nam Bộ mà lại không theo Cộng sản cho nên bọ tìm cách loại ông và báo cho gián điệp của Pháp biết hành tung của ông. Không rõ Việt Minh có thực sự phản bội mà điềm chỉ cho tình báo của người Pbáp nơi trú ẩn để bắt ông bay không, điều đó không có gì rõ rệt, tuy nhiên ông Nguyễn Ngọc Bích thì luôn luôn nghi ngờ rằng đó chính là nguyên nhân khiến cho ông bị Pháp bắt.” (*153 Chester Cooper: The Lost Crusade: America in Vietnam, Dodd, Mead & Company. New York. 1970, trang 123.)

Trên nguyên tắc, tất cả mọi sinh viên tốt nghiệp trường Politechnique đều đương nhiên trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp và dĩ nhiên ông Nguyễn Ngọc Bích cũng là một sĩ quan của Pháp, vậy mà ông lại có những hoạt động chống lại quân đội Pháp, do đó người Pháp đưa ông ra tòa án quân sự. Ông bị khép vào tội “phản nghịch” và bị kết án tử hình tại Sài Gòn. Tuy nhiên nhờ sự can thiệp tích cực của giới cựu sinh viên các trường Grandes Écoles tại Pháp và sự vận động tích cực của vợ ông là Bác sĩ Heriette Bùi Quang Chiêu mà người Pháp tại Đông Dương phải trả tự do cho ông với điều kiện là ông phải rời khỏi Việt Nam sang sống ở Pháp. Sau khi sang Pháp, ông Nguyễn Ngọc Bích không hành nghề Kỹ sư kiều lộ mà trở lại đi học ngành Y khoa và sau khi tốt nghiệp Bác sĩ, ông chuyên nghiên cứu về ngành ung thư.

Vào năm 1961, ông trở về Việt Nam và cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Thoại ghi danh ứng cử tổng thống, tuy nhiên liên danh này bị bất hợp lệ vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cho ghi thêm một điều khoản vào luật bầu cử quy định rằng tất cả mọi ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải cư ngụ tại Việt Nam ít nhất là hai năm, một điều kiện mà nếu được áp dụng vào tháng 10 năm 1955 thì chính ông Ngô Đình Diệm cũng không hợp lệ vì ông mới trở về Việt Nam vào cuối tháng 6 năm 1954.

Trong thời gian sống ở Pháp, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích thường hay tham dự những cuộc hội họp trong giới trí thức nhằm đòi người Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam, tuy nhiên Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Bích không hề theo Cộng sàn. Ông Nguyễn Ngọc Châu, con trai của Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, thời trước 1975 là một trong những vị Giám Đốc của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín tại Sài Gòn và hiện đang sống tại Paris, có cho người viết biết rằng ông Gaston Phạm Ngọc Thuần, anh của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, đã từng làm đại sứ của Việt Cộng tại Đông Đức nhưng sau năm 1975 thì đã “vượt biên” sang ty nạn tại Pháp, ông ta là bạn của Kỷ sư Nguyễn Ngọc Bích trước năm 1945 và đã nói cho ông Châu biết rằng trong thời kỳ tham gia kháng chiến, dù có được Việt Minh mời mọc, thuyết phục nhiều lần nhưng Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích cương quyết từ chối không chịu gia nhập vào đảng Cộng sản, ông chỉ theo kháng chiến để chống lại thực dân Pháp mà thôi.

Trong thời gian sống tại Pháp, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư và cũng có viết một số bài có giá trị đăng trên báo chí. Sau khi bị bác đơn không được tham dự cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1961, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích có viết một bài nhan đề ” Vietnam-An Independent Viewpoinf’ (Việt Nam- Một Quan Điểm Độc Lập) đăng trên The China Quarterly) số tháng 1-3 năm 1962. The Chinia Quarterly là một tam cá nguyệt san vô cùng giá trị chuyên nghiên cứu về các vấn đề Á châu và trong số báo này, ngoài Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích còn có bài của những học giả nổi tiếng khác như là Philippe Devillers, P. J. Honey, Bernard Fall, Gerard Tongas, William Kaye, ông Hoàng Văn Chí và nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến.

Trong phần giới thiệu về tác giả, tạp chí China Quarterly viết rằng:
“Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích là một trong những người Việt Nam đầu tiên được tốt nghiệp trường Politechnique ở Paris, sau đó ông trở về phhục vụ tại Nam Kỳ, thuộc địa của Pbáp. Sau Đệ Nhĩ Thế Chiến, ông trở thành một chỉ huy cao cấp trong phong trào kháng chiến tại Nam Bộ nhưng mà ông đã bị các đồng đội Cộng sản phản bội điềm chỉ cho người Pháp bắt vì ông nhất quyết chủ trương công cuộc kháng chiến là để chồng lại người Pháp để dành độc lập cho Việt Nam chứ không phải cho đảng Cộng sản. Thoát được bản án tử bình nhờ một thỏa hiệp ân xá giữa hai phe, sau đó ông sang sinh sống tại Pháp cho đến bây giờ. Ông hiện là giám đốc một nhà xuất bản tại Paris và là một Y khoa bác sĩ, tuy nhiên ông vẫn còn rất chăm chú theo dõi rất sát mọi diễn biền chính trị tại Việt Nam. Ý kiến của ông về các vấn đề miền Nam Việt Nam rất được nhiều người tôn trọng và ông cũng được họ xem như là một người có thể kế vị ông Ngô Đình Diệm. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích có nộp đơn tham dự vào cuộc bầu cử tổng thống năm 1961 nhưng vào giờ chót thì liên danh này lại bị chính quyền Sài Gòn tuyên bố là bất hợp lệ vì lý do “kỷ thuật” (*154 The China Quarterly, January-march 1962, trang 221.)

Người viết có được đọc bài này và nhận thấy rằng tuy được viết vào năm 1962 nhưng Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích có nhiều ý kiến vô cùng độc đáo, không những của một nhà trí thức mà còn là một nhà chính trị, một nhà kinh tế và một nhà xã hội có cái nhìn rất xa và rất rộng. Trong bài này, ông chỉ trích những sai lầm về chính trị của cả hai chế độ Hà Nội cũng như Sài Gòn và đã đưa ra những nhận định rất xây dựng về các vấn đề kinh tế cũng như là xã hội tại cả hai miền. Nếu còn sống, có lẽ ông cũng có thể đóng góp dược một phần nào đó trong lãnh vực chính trị tại miền Nam vào thời gian giữa thập niên 1960 sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết. Tiếc thay khi cảm thấy đã đến giai đoạn cuối cùng của bệnh ung thư, ông trở về sống những ngày cuối cùng tại quê hương và từ trần vào ngày 4 tháng 12 năm 1966 tại Bến Tre.
Luật sư Đinh Thạch Bích có được may mắn hầu chuyện với Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Bích mấy lần trước ngày ông tạ thế có nói với người viết rằng B.S. Nguyễn Ngọc Bích quả thực đúng là một người “quốc gia chân chính”.

Các ông Nguyễn Mạnh Hà, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích và Luậtsư Phan Anh đều là bạn của Bác sĩ Trần Văn Đỗ do đó mà khi ông Đỗ làm Tổng Trưởng Ngoại Giao, họ đã móc nối cho ông Đỗ gặp gỡ Phạm Văn Đồng để hai bên nói chuyện với nhau ngõ hầu có thể tìm được một giải pháp nào tốt đẹp hơn cho Việt Nam tuy nhiên vào năm l954 thì số phận của Việt Nam lại do các cường quốc quyết định như lời của Bác sĩ Đỗ: “người ta định đoạt số phận của nhân dân mình mà chính mình cũng không bay biết gì bết!".

Nhà báo Pháp nổi tiếng Jean Lacouture cũng có nhận xét về Bác Sĩ Trần Văn Đỗ như sau:“Tân Tổng Trưởng Ngoại Giao của Việt Nam, Bác sĩ Trần Văn Đỗ đã sang Genève đại diện cho chính phủ của ông tại bội nghị với một thái độ hòa hoãn, đầy tư cách và tinh thần thực tiễn rất đáng quý."

Lacouture cũng có kể lại cuộc gặp gỡ giữa Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng và Ngoại Trưởng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ như sau:

“Ngày bôm sau, 13 tháng 7, là một ngày vô cùng quan trọng. Mendes-France gặp Chu Ân Lai và Phạm văn Đồng, cả Trần Văn Đỗ cũng gặp Phạm Văn Đồng. Sau khi Mandes France rời Genève về Paris, Phạm Văn Đồng tiếp Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng của phe Quốc Gia, một cơ bội mà ai cũng ngạc nhiên và vô cùng khích lệ.

“Phan Anh, Bộ Trưởng Kỹ Nghệ và Thương Mại là một nhân viên trong phái đoàn Việt Minh, vốn là bạn thân của anh Bác sĩ Trần Văn Đỗ. Ngay sau khi ông Đỗ đến Genève, Phan Anh đã nhắn với ông ta rằng cả hai vị ngoại trưởng nên gặp gỡ nhau. Bác sĩ Trần Văn Đỗ trả lời: “những người anh em cùng huyết thống thì làm sao mà có thể từ chối không gặp gỡ nbau?”

“Và sau đó thì Phạm Văn Đồng và Trần Văn Đỗ đã chính thức gặp gỡ đối diện nbau, cả hai người đều gầy ốm khẳng khiu như nhau, đều có gương mặt khắc khổ nghiêm trang như nhau và cũng đều có những mối ưu tư khắc khoải về một tổ quốc chung đang bị cảnh tan nát vì chiến tranh. Đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa hai phe, và cuộc tiếp xúc này chứ không phải là cuộc thảo luận chính trị giữa đôi bên đã đựơc mọi người xem như là một việc rất đáng khích lệ.

“Tuy nhiên hai vị Tổng Trưởng có thảo luận với nhau về một vấn đề có liên hệ đến cả hai người nhiều nhất: cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Lần đầu tiên ông Phạm Văn Đồng đề nghị một cách cụ thể là cuộc tuyển cử sẽ được tổ chức trong vòng 6 tháng, một thời hạn mà trước đó ông ta cũng có mập mờ nói đến. Ông Trần Văn Đỗ tỏ ra thận trọng, không có phản đối những mà điều hiển nhiên đối với ông và cả hai đồng minh Pháp và Hoa Kỳ đều hiểu rằng nếu tổng tuyển cử trong thời gian chỉ có 6 tháng sau ngày Việt Minh chiến thắng thì khó mà có thể thắng đựơc họ tại phòng bỏ phiếu” (*155:Philippe Devillers & Jean Lacouture End of a War. Indochina 1954, Frederick A. Praeger. New York 1969, trang 281-282).

Bác sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết thêm rằng ngoài việc gặp gỡ ông Phạm Văn Đồng, trong thời gian Hội Nghị Genève, ông cũng còn được gặp Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chính ông Chu Ân Lai có ngỏ lời mời ông và ông Ngô Đình Luyện sang thăm viếng Bắc Kinh. Chuyện này ông có tường trình lên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngay sau khi ông về đến Sài Gòn, tuy nhiên sau đó ông không nghe Thủ Tướng Diệm nhắc nhở gì đến chuyện này vì chỉ ít lâu sau thì ông từ chức.

Theo Bác sĩ Trần Văn Đỗ thì đây là lần đầu tiên Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã ngõ lời mời đại diện của Miền Nam Việt Nam sang viếng thăm Bắc Kinh, tuy nhiên mấy năm sau đó thì Chu Ân Lai lại còn ngõ lời mời và đề nghị thiết lập liên lạc ngoại giao trên cấp tổng lãnh sự với Việt Nam Cộng Hòa và lần thứ nhì thì đề nghị này đã được chuyển đến ông Ngô Đình Luyện, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại London. Cựu Đại sứ Ngô Đình Luyện cũng có tiết lộ chuyện này với một số người thân tín của ông và mới đây, một trong những người đó là cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ có ghi lại như sau:

“Ông Ngô đình Luyện kể cho tôi ngbe một bí mật hết sức quan trọng mà tôi chưa ngbe bao giờ.

Ngày Thủ Tướng Chu Ân Lai viếng Anh Quốc (tôi quên bẵng nhớ năm nào),phái đoàn của Chu Ân Lai đông lắm, có đến bơn 100 người và được chính phủ Anh đón tiếp rất long trọng. Ông Luyện đựơc một tham vụ ngoại giao của tòa đại sứ Trung Quốc đem biếu hai vò rượu “Mao Thái”, kèm tấm thiệp của Thủ Tướng Chu Ân Lai mời dự tiếp tân ờ tòa Đại sứ Trung Quốc với sự hiện diện của Nữ Hoàng Anh.

Khi ông đựơc đại sứ Trung Quốc giới thiệu với Thủ Tướng Chu Ân Lai, thủ tướng rất niềm nở, nói đã biết ông là em của tổng thống Việt Nam, là người ông rất kính trọng và ngưỡng mộ. Ông xin ông Luyện chuyển lời thăm của Mao Chủ Tịch đến Ngô Tổng Thống. Ông Chu Ân Lai nói ông không có cơ hội để nói nhiều với Đại sứ Luyện nhưng đã chỉ thị cho đại sứ Trung Quốc đến gặp đại sứ Luyện trình bày chi tiết sau.

Sau đó, ông đại sứ Trung Quốc đến thăm ông Luyện ờ tòa đại sứ Việt Nam. Đại sứ Trung Cộng nói với ông Luyện rằng Chủ tịch Mao Trạch Đông rất cảm phục lòng yêu nước và những gì Ngô Tổng Thống đã làm cho miền Nam Việt Nam được phồn thịnh như ngày nay. Ýcủa Chủ tịch Mao là muốn có liên lạc ngoại giao với miền Nam Việt Nam.

Theo ý Mao Trạch Đông, trước tiên hai bên sẽ đặt liên lạc trên cấp tổng lãnh sự, sau đó sẽ nâng lên cấp đại sứ nếu tình thế cho phép.Theo Mao trạch Đông thì hai bên sẽ có liên lạc chặt chẽ về văn hóa và bình thường hóa việc buôn bán giữa hai quốc gia. Trung Quốc cũng sẽ giàn xếp để hai miền Nam Bắc Việt Nam có đại diện giữa hai miền, sau đó sẽ đi đến việc liên lạc, tiếp tế và buôn bán giữa hai miền.

Ông Luyện trả lời là sẽ trình Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sẽ trả lời ông Đại sứ Trung Cộng sau.

Ông Luyện đích thân về Sài Gòn trình Tổng Thống Diệm việc này. Sau đó gần hai tháng, ông đựơc Tổng Thống triệu về và cho biết là sau khi đã nhờ ông đại sứ Trung Hoa Quốc Gia về tham khảo ý kiến Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, tổng thống cũng tham khảo ý kiến với đại sứ Hoa Kỳ thì đi đến kết luận là việc này chưa thể đồng ý trong giai đoạn này đựơc. ” (*156:Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh TT Ngô Đình Diệm, tác giả xuất bản. San Diego 2003, trang 33-34.)

Sự tiết lộ này cho thấy rằng hồi năm 1954 khi ông Chu Ân Lai ngỏ lời mời Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ sang thăm Bắc Kinh là theo ý kiến của Mao Trạch Đông và đến mấy năm sau thì nhà lãnh đạo Trung Hoa Cộng sản này cũng vẫn còn có ý đó, lần này còn đi xa hơn nữa, ông ta đã đề nghị việc thiết lập liên lạc ngoại giao, văn hóa và thương mại với miền Nam Việt Nam mà chắc chắn rằng đó không phải là điều mà các nhà lãnh đạo Cộng sản Hà Nội mong muốn. Ông Nguyễn Hữu Duệ nói rằng ông không nhớ rõ năm nào nhưng việc đó xảy ra khi ông Ngô Đình Diệm còn làm tổng thống tức là phải trước năm 1963. Thật là một điều đáng tiếc cho Miền Nam Việt Nam vì nếu hồi đó mà miền Nam thiết lập mối bang giao, dù chỉ là thương mại, với Trung Hoa Cộng sản thì đó là một điều vô cùng có lợi về phương diện ngoại giao vì trong trường hợp đó thì Trung Cộng sẽ ít thân thiện hơn với Hà Nội và cũng sẽ ít đối nghịch hơn đối với miền Nam. Thật là đáng tiếc khi chính quyền Ngô Đình Diệm đã bỏ lở cơ hội đến hai lần.

Tuy nhiên đến 10 năm sau thì chuyện liên lạc với Trung Hoa Cộng sản lại được nhắc nhở đến và lần này thì phía muốn xích lại gần Trung Hoa Cộng sản lại chính là Việt Nam Cộng Hòa. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết rằng trong một cuộc phỏng vấn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại London vào ngày 8 tháng 8 năm 1978, ông Thiệu đã tiết lộ rằng:

“Vào mùa thu năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã đề nghị với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là Việt Nam Cộng Hòa nên bí mật tiếp xúc với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa để yêu cầu các nhà lãnh đạo Trung Cộng giảm thiểu bớt sự ủng bộ của họ dành cho Cộng sản Bắc Việt là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tại miền Nam. Lúc đó thì Tổng Thống Thiệu đang sẵn sàng thỏa hiệp với Trung Cộng về vấn đề khai thác dầu hỏa trong vùng thềm lục địa biển Nam Hải và theo đuổi một đường lối ngoại giao mới theo đó thì Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ảnh hưởng của Trung Cộng trong vùng Đông Nam Á “.

Sau đó ông đã phỏng vấn luật sư Vương Văn Bắc tại Paris vào ngày 22 tháng 8 năm 1985 về việc này và đựơc Luật sư Bắc cho biết thêm như sau:

“Trong thời gian ông Bắc làm đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh từ năm 1972 đến năm 1973 ông có quen thân một vị dân biểu Anh thuộc Đảng Bảo Thủ. Vào cuốn năm 1974, lúc đó ông Vương Văn Bắc đang làm Tổng Trưởng Ngoại giao, người bạn dân biểu Anh nầy có tên trong một phái đoàn đoàn quốc hội Anh sắp sang viếng thăm Bắc Kinh. Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã nhờ ông đại sứ Việt Nam tại London nhân danh ông tiếp xúc với vị dân biểu này và nhờ ông ta thăm dò với giới lãnh đạo Trung Cộng về khả năng có thể xích lại gần (rapprochement) giữa Bắc Kinh và Sài Gòn. Ông Bắc hy vọng rằng có thể lợi dụng được sự nghi ngờ sâu xa giữa Hà Nội với Trung cộng sau cuyến công du của Tổng Thống Nixon tại Bắc kính. Vị dân biểu Anh này đã nói chuyện với Thứ trưởng Ngoại giao Trung cộng là ông Kiều Quán Hoa và đã được ông này cho biết rằng lập trường của Trung Hoa Cộng sản là hoàn toàn ủng hộ chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Kiều Quán Hoa cũng nói thêm rằng vì lý do đó mà nếu muốn thay đổi đường lối đối với Sài Gòn thì cũng đã quá trễ rồi . Như vậy thì Ông Vương Văn Bắc đã biết rõ rằng Trung Cộng đang cố gắng gây dựng chính phủ Cách Mạng Lâm Thời như là một lực lượng để cầm quyền tại Miền Nam đương đầu với ảnh hưởng của chế độ Hà Nội. Khi ủng bộ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời ý đồ của Trung Cộng là duy trì ảnh hưởng của họ tại Đông Dương sau khi người Mỹ triệt thoái ra khỏi vùng này."

“Khi Ngoại Trưởng Bắc trình với Tổng Thống Thiệu về việc Trung Cộng khước từ đề nghị của Việt Nam thì Thống Thiệu nói rằng: Người Trung Hoa quá tự tin.

Họ tự nhủ rằng “Tại sao mà bây giờ chúng tôi lại phải giúp cho miền Nam? Bây giờ chúng tôi đã có trọn nước Việt Nam rồi”. Họ tin tưởng rằng Bắc việt sẽ để cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời cai trị miền Nam, như vậy thì chẳng có lý do gì lại chia xẻ xẻ một miếng bánh với Thiệu".

“Có điều nực cười là người Mỹ can thiệp vào Việt Nam với lý do “be bờ” ảnh hưởng của Trung Cộng trong lòng Đông Nam Á thì đến khi cuộc chiến gần tàn, ông Thiệu cảm thấy rằng Việt Nam sắp sửa bị Hoa Kỳ bỏ rơi vì chiến lược của Nixon là nghiêng về phía Trung Cộng, do đó ông Thiệu muốn quay sang Trung Cộng để tìm cách “be bờ” Cộng sản Bắc Việt. Ông Thiệu sẵn sàng đi với Bắc Kinh còn hơn bị Hà Nội thống trị. Ông Thiệu tin rằng Trung Cộng cũng sợ ảnh hưởng của Hà Nội tại Đông Dương hơn là Sài Gòn do đó họ có thể sẽ bỏ rơi Bắc Việt vì họ nghĩ rằng chính Bắc Việt mới là đối thủ chính của Trung Cộng tại Đông Dương. Viễn kiến của ông Thiệu rất đúng, tuy nhiên tiếc thay ông đã hành động quá trễ rồi”. (*157: Nguyễn Tiến Hưng & Jenold Schecter: Sđd, trang 313-314.)

Có lẽ Bác sĩ Trần Văn Đỗ có “duyên” với những người lãnh đạo Cộng sản như Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Cộng và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của Cộng sản Bắc Việt cho nên gần khoảng 15 năm sau thì nhân một chuyến viếng thăm Paris với tư cách cá nhân, ông lại được Cộng Sản Bắc Việt “mời “ đến gặp một lần thứ hai.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ có kể lại với một số thân hữu rằng nhân một chuyến ông sang Pháp về việc gia đình, người viết không nhớ rõ vào khoảng cuối năm 1969 hay đầu năm 1970 gì đó, thì ông nhận được lời mời của ông Xuân Thuỷ, Bộ Trưởng Ngoại Giao kiêm Trưởng Phái đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại cuộc Hòa Đàm Paris. Lúc bấy giờ Hội nghị Paris đang ở trong tình trạng mà báo chí gọi là “đánh đánh đàm đàm”, tuy Việt Nam Cộng Hòa cũng có phái đoàn chính thức tham dự hội nghị nhưng cộng sản Bắc Việt chỉ nói chuyện với Hoa Kỳ và tuyệt đối không bao giờ tiếp xúc hay nói chuyện trực tiếp với phái đoàn miền Nam.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ lúc đó không còn giữ một chức vụ gì trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1968 (cho đến năm 1975), ông chỉ là một người công dân thường mà thôi, vì thế cho nên ông vô cùng ngạc nhiên khi ông được chính Bộ Trưởng Xuân Thủy mới đến gặp. Bản tính dễ dãi, hiền hòa, cởi mở, hiếu khách và không hề có mặc cảm, Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng thấy chuyện này cũng hay hay và thú vị cho nên ông đã nhận lời dù rằng ông không có quen biết thân tình gì với ông Xuân Thủy. Tuy nhiên, vì cuộc gặp gỡ này vào giai đoạn đó có phần vô cùng tế nhị về những phương diện ngoại giao và chính trị cho nên ông đã nhờ tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris phúc trình việc này về Sài gòn. Bác sĩ Trần Vãn Đỗ nói với người viết rằng ông không giữ chức vụ gì trong chinh phủ cho nên ông không cần phải xin phép ai cả, tuy nhiên ông phải cho tòa đại sứ biết vì ông chỉ muốn thông báo cho các giới chức có thẩm quyền ở Sài Gòn biết về việc này mà thôi. Ông cũng nói thêm rằng tuy Sài Gòn có đưa ra một vài ý kiến nhưng ông khẳng định ông lúc đó chỉ là một thường dân và cuộc gặp gỡ này là do phía Cộng sản chủ động cho nên ông sẽ chỉ lắng nghe những điều gì họ muốn nói mà thôi.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng khác với lần gặp gỡ trước tại Genève có tính cách chính thức vì ông đang giữ chức Tổng Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đang giữ chức vụ Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lần này thì ông Xuân Thủy đang giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao kiêm Trưởng Phái đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Paris còn ông thì chỉ là một “phó thường dân” cho nên cuộc gặp gỡ chỉ có tính cách cá nhân mà thôi. Bác sĩ Đỗ nói rằng trong suốt buổi gặp gỡ, ông gọi Xuân Thủy bằng “ông Bộ Trưởng” và ông Xuân Thủy thì gọi ông là “Bác sĩ” chứ cả hai người không hề gọi nhau bằng tiếng “Anh” như đối với ông Phạm Văn Đồng hồi năm 1954.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng ông Xuân Thủy và một vài người phụ tá đã đón tiếp ông một cách niềm nỡ và cởi mở, tuy nhiên câu chuyện chỉ loanh quanh trong vòng xã giao, nói những chuyện thông thường mà thôi chứ tuyệt đối không có đả động gì đến chuyện chính trị, nhất là chuyện liên quan đến hòa đàm. Ông nói rằng sau hai tiếng đồng hồ chuyện vãn một cách thân tình thì ông ra về và chuyện ông gặp gỡ Xuân Thủy thật sự cũng chỉ có vậy mà thôi, chẳng có gì quan trọng cả.

Bác sĩ Đỗ nói rằng sau khi đến gặp ông Xuân Thủy thì ông lại gặp phải nhiều chuyện rắc rối làm cho ông rất bực mình.

Trước hết là người Mỹ.
Bác sĩ Đỗ nói rằng vị Phó Trưởng Phái đoàn Hoa Kỳ lúc đó là Đại Sứ Phillip Habib, trước đó là phụ tá của Đại sứ Ellsworth Bunker trong chức vụ Phó Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ông nói rằng ông Habib là bạn thân của ông, vào năm 1965 chính ông Habib đã thuyết phục ông nên nhận lời giữ chức vụ ngoại trưởng trong chính phủ quân nhân của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ vì ông Habib nói rằng “nếu có bác sĩ trong chính phủ thì ít ra người Mỹ chúng tôi cũng biết còn có một người có thể nói chuyện được.” Vậy mà sau khi ông gặp Xuân Thủy, dù đã kể lại cho ông Habib nghe những gì đã xẩy ra mà ông ta vẫn không chịu tin vì người Mỹ nghi rằng Bác sĩ Đỗ gặp Xuân Thủy để trao một đề nghị gì đó của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho Hà Nội. Bác sĩ Đỗ nói rằng sau đó thì ông đi đâu cũng có người của CIA theo dõi.

Có lẽ vào lúc đó Bác sĩ Trần Văn Đỗ không được biết chủ trương của Tiến sĩ Henry Kissinger là tất cả mọi sự thương thuyết về Việt Nam phải do chính người Mỹ hay nói rõ hơn là do chính Kissinger với Bắc Việt mà thôi. Trong cuốn sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, ông Nguyễn Tiến Hưng có tìm thấy một tài liệu nói rõ vấn đề này:

“Cho đến thời điển cuối cùng trước khi Miền Nam sụp đổ ngày 26 tráng 4 năm 1975, Kissinger còn đánh điện cho Đại sứ Martin nói rằng: bất cứ điều đình nào cũng phải là giữa Hoa Kỳ và phía Bắc Việt chứ không phải giữa Sài Gòn và Hà Nội. Ông còn nói thêm rằng “bất cứ cuộc thảo luận nào cũng phải diễn ra tại Paris” (*158: Nguyễn Tiến Hưng: Sđd., trang 453-454.)

Sau đó Bác sĩ Trần Văn Đỗ cũng gặp một vài sự phiền phức ở SàiGòn.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ cho biết thêm rằng sau khi về đến Sài Gòn thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại mời ông vào Dinh Độc Lập để tường trình về cuộc gặp gỡ này. Ông cũng thực tình kể lại như vậy, chỉ có nói chuyện suông mà thôi chứ cũng chẳng có gì quan trọng cả, ông Xuân Thủy không hề đưa ra một đề nghị nào, không có một điều gì nhắn gửi gì đến chính quyền Miền Nam, tuy nhiên ông Thiệu cũng không tin như vậy và sau đó thì mối liên lạc giữa Tổng ThốngThiệu với ông trở nên lạnh nhạt hơn.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng cho đến khi về Sài Gòn, ông suy nghĩ thật nhiều mà cũng không thể nào hiểu được nguyên nhân lại sao ông lại được Xuân Thủy mời đến gặp tại Paris. Bác sĩ Đỗ nói với người viết rằng nếu Xuân Thủy hay các nhà lãnh đạo Cộng sản muốn mua chuộc hay thuyết phục ông thì đó cũng là một điều thật vô cùng buồn cười vì tại Sài Gòn thì ai cũng đều biết rằng từ năm 1968, Bác sĩ Tần Văn Đỗ là Phó Chủ Tịch Chi Hội Việt Nam Liên Minh Thế Giới Chống Cộng (World’s Anti-communist League), vị Chủ Tịch Chi Hội là Bác sĩ Phan Huy Quát và Tổng Thơ Ký là luật sư Nguyễn Lâm Sanh, bạn thân của Luật sư nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang làm Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Sau năm 1975, Bác sĩ Phan Huy Quát bị giam tại Chí Hòa rồi bị Cộng sản đầu độc và chết ở trong tù, Luật sư Nguyễn Lâm Sanh, dù là bạn thân của Nguyễn Hữu Thọ cũng bị đi tù “cải tạo“ ở Bắc Việt gần 10 năm trời và sau khi được trả tự do thì sang sống ở Pháp rồi từ trần tại Paris.

Mấy năm sau thì chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại yêu cầu Bác sĩ Trần Văn Đỗ tiếp xúc với các đại diện của Mặt Trận Giải Phóng tại Paris. Theo ông Nguyễn Tiến Hưng thì vào cuối năm 1974 Thiệu “cho phép“ (authorized) cựu Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ bí mật thương thuyết với đại diện của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Paris. Ông Đỗ, một người miền Nam đã được sự tin cậy của các đại diện của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời mà ông đã từng quen biết từ trước khi cuộc chiến tranh xảy ra. Người Mỹ không chấp thuận việc ông Đỗ tiếp xúc với phái đoàn Việt Cộng, tuy nhiên nổ lực của ông Đỗ cũng chẳng đi đến đâu vì Hà Nội không muốn chính phủ Cách Mạng Lâm Thời thương thuyết trực tiếp với Sài Gòn, cũng cùng một lý do mà người Mỹ không muốn Sài Gòn trực tiếp gặp gỡ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Cả hai phe Bắc Việt và Hoa Kỳ đều muốn kiểm soát mọi hành động cũng như là kết quả.” (*159: Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold Schecter : Sđd., trang 314.)

Vào năm 1974, theo tinh thần của điều 12 Hiệp định Paris l973, một hội nghị giữa VNCH và Việt Cộng đã được triệu tập tại La Celle St Cloud ở Pháp để làm hết sức mình để “thực hiện việc ký kết một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam”, Bác sĩ Trần Văn Đỗ đã được mời tham dự vào phái đoàn này cùng với các ông Trần Văn Ân, Nguyễn Quốc Định, Nguyên Đắc Khê, Nguyễn Ngọc An, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Luật sư Trần Văn Tuyên và Luật sư Nguyễn Thị Vui, trưởng phái đoàn là Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và phó trưởng phái đoàn là ông Nguyễn Xuân Phong. Phía Việt Cộng, người cầm đầu phái đoàn là Nguyễn Văn Hiếu. Hội nghị này diễn ra hằng tuần, mỗi phía đọc một bài diễn văn soạn sẵn rồi sau đó ai về nhà nấy chờ đến tuần sau, không khí vô cùng tẻ nhạt và chẳng có đi đến đâu, báo chí Sài Gòn hồi đó gọi hội nghị này là “chuyện dài nhân dân tự vệ”. Hội nghị kéo dài cho đến ngày 15 tháng 5 năm 1974 thì cả hai bên đồng ý ngưng hẳn mọi sự thương thuyết vì tất cả mọi người đều biết rõ rằng vấn đề Việt Nam sẽ chỉ được giải quyết trên chiến trường mà mọi lực lượng quân sự đều do Cộng sản Bắc Việt lãnh đạo.

Trong một cuốn sách tên là “Hồi Ức Về Hội Nghị Paris” do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ở Hà Nội xuất bản vào năm 2001 thì Nguyễn Văn Hiếu cho biết rằng Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, Trưởng Phái đoàn VNCH có một lần ngỏ lời mời phái đoàn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến dùng cơm nhưng họ đã từ chối. Trong một bài phỏng vấn dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh cách đây mấy năm, Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận chuyện đó. Ông cho biết rằng: ” Tôi có đề nghị phái đoàn của Nguyễn Văn Hiếu dùng cơm chung vì cùng là dân miền Nam cả, nhưng họ tránh né”.

Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1945, ông từng làm quân y sĩ trưởng của Sư Đoàn 320 hồi năm 1949 và người chính ủy đại đơn vị này là Văn Tiến Dũng do đó trong thời kháng chiến ông quen biết với cả Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng. Ông rời bỏ hàng ngũ kháng chiến sau khi đảng Cộng sản chính thức lãnh đạo cuộc kháng chiến và trở về sống trong vùng quốc gia vào năm 1951 và sau này đã giữ chức vụ phó thủ tướng trong ba chính phủ: Trần Văn Hương năm 1964, Nguyễn Cao Kỳ năm 1965 và Trần Thiện Khiêm vào năm 1969. Ông cho biết rằng có lẽ vì nguyên nhân ông có tham gia kháng chiến cho nên đã được chính phủ VNCH chọn làm trưởng phái đoàn ở Hội nghị La Celle Saint Cloud để đễ bề nói chuyện với Việt Cộng chứ ông không có tài ăn nói giỏi.

Một người có thành tích kháng chiến trên 5 năm như Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên ngỏ lời mời phái đoàn Việt Cộng dùng cơm mà họ cũng không dám nhận lời thì việc Bác sĩ Trần Văn Đỗ được các nhà lãnh đạo cộng sản cao cấp hơn như Phạm Văn Đồng và Xuân Thủy mời đến gặp hai lần đủ cho thấy rằng ông cũng có nhiều uy tín đối với những người cộng sản Bắc Việt.

Tưởng cũng nên nhắc lại là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ tuy từng đảm nhận chức vụ tổng trưởng Ngoại Giao của Miền Nam nhiều lần nhưng ông là người có đầu óc rất phóng khoáng, được cảm tình của nhiều người, nhiều phe phái và họ đều cho rằng ông ta có tinh thần “quân tử”, hiểu theo tiếng quân tử của người Tàu hay là tiếng “gentleman” của người Anh. Về phương diện chính trị, tuy rằng ông là người có tinh thần chống Cộng sản nhưng ông cũng tôn trọng chính kiến của những người khác, dù rằng họ theo Cộng sản. Ông là con rể của Kỹ sư Lưu Văn Lang, người đã được Cụ Trần Trọng Kim mời làm Bộ Trưởng Công Chánh trong chính phủ đầu tiên vào năm 1945. Vào tháng 4 năm 1954, trước khi Hội nghị Genève khai mạc, có một nhóm trí thức tại Sài Gòn thành lập một hội mang tên là “phong Trào Bảo Vệ Hòa bình.”

Chủ tịch phong trào này là Dược sĩ Trần Kim Quan và trong số các ủy viên có Luật sư Trịnh Đình Thảo, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Hòa Thượng Thích Huệ Quang, Thạc sĩ Phạm Huy Thông, Giáo sư Nguyễn văn Dưỡng, Chuyên viên Ngân hàng Nguyễn Văn Vi và Kỹ sư Huỳnh Văn Lang.

Vào khoảng tháng 11 năm 1954, phong trào này tổ chức một cuộc biểu tình tại chợ Bến Thành và sau đó thì chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam 26 người trong phong trào này. Tuy những người như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Tiến sĩ Phạm Huy Thông v.v sau này theo Cộng sản nhưng vào thời điểm đó thì họ chỉ hoạt động cho hòa bình mà thôi, do đó người đứng ra can thiệp với chính quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trả tự do cho một số người chính là Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ. Nhờ sự can thiệp của ông, có một số người được trả tự do, trong đó có Kỹ sư Lưu Văn Lang, nhạc phụ của ông, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, sau này là Chủ tịch Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam vào năm 1961 và Luật sư Trịnh Đình Thảo, sau vụ Tết Mậu Thân là chủ tịch Liên Minh Dân Tộc, Dan Chủ Phụng Sự Hòa Bình, một tổ chức thân cộng sản.

Bác sĩ Trần Văn Đỗ được người Mỹ di tản vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 rồi sang sống tại Pháp. Cho đến ngày ông từ trần, Bác sĩ Trần Văn Đỗ vẫn hăng say hoạt động, tuy tuổi đã cao nhưng ông đã đi nhiều nơi kêu gọi người ty nạn tích cực chống lại bạo quyền Cộng sản Việt Nam.

Người viết có dịp hỏi Bác sĩ Trần Văn Đỗ hồi tháng 4 năm l975 ông có được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tham khảo mời làm thủ tướng theo đề nghị của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm hay không thì ông trả lời rằng ông không hề gặp hay nói chuyện gì với ông Thiệu vào tháng 3 hay tháng 4 năm 1975.

Theo cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn thì Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm, theo lời Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên, cũng đã nghĩ đến các ông Trần Văn Đỗ, Nguyễn Ngọc Huy và Trần Văn Lắm. Tôi đốc thúc khéo để TT Thiệu mời ông Lắm như đã trình bày ở đoạn trên nhưng có nhiều lý do, và nhất là những suy tính chính trị tế nhị làm cho TT không mời họ mà lại “nhắm ” vào tôi”. (*160: Nguyễn Bá Cẩn : Sđd., trang 376).

Khi được hỏi rằng nếu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có ngỏ lời mời ông làm Thủ Tướng thay thế Đại Tướng Trần Thiện Khiêm thì ông có nhận lời hay không, Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng chức vụ thủ tướng chính phủ là thi hành đường lối chính sách của tổng thống và dù rằng vào đầu tháng 4 năm 1975, tình hình đã trở nên vô vọng nhưng ông không rõ đường lối và chính sách của ông Thiệu như thế nào, vẫn giữ nguyên “4 không” như cũ hay là có thay đổi. Nếu Tổng Thống Thiệu vẫn giữ nguyên chính sách “4 không”, vẫn mong muốn làm tổng thống một phần ba nước Việt Nam v.v. thì ông không bao giờ nhận lời. Tuy nhiên nếu ông Thiệu muốn cứu vãn một vài phần còn lại cho nhân dân miền Nam, miền Nam đây là xứ Nam Kỳ cũ vì miền Trung và miền Cao Nguyên đã hoàn toàn rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt rồi, nếu ông Thiệu muốn cho phần còn lại của Nước Việt Nam Cộng Hòa có thể tránh được chết chóc, đau thương và đổ nát như tại miền Trưng thì ông ta phải nghĩ đến việc “nói chuyện” với Cộng sản. Tuy nhiên họ có muốn “nói chuyện” với chúng ta hay không là một vấn đề khác, một vấn đề mà chúng ta cũng chưa biết được. Nếu Tổng Thống Thiệu muốn lập một chính phủ để “nói chuyện” với Cộng sản ngỏ hầu làm chậm bước tiến của đoàn quân xâm lược của họ, ngỏ hầu chuẩn bị cho miền Nam thích ứng với tình thế mới để phải sống trong vòng thỏa hiệp với phe Mặt Trận Giải Phóng và Cộng sàn Bắc Việt, để ít ra miền Nam cũng còn giữ được phần nào danh dự và phẩm giá của họ thì trong trường hợp đó, bác sĩ Trần Văn Đỗ nói tiếp rằng nếu được yêu cầu thì ông có thể nhận lời.

Theo cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn thì khi ông nhận lời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để đứng ra thành lập nội các, ông “cũng đưa ra điều kiện chính trị mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải miễn cưỡng chấp nhận là trong công cuộc thương thuyết sắp tới sẽ không còn lập trường “4 không” nữa. Tôi hình dung một thứ liên hiệp với Mặt Trận Giải Phóng để mua thời gian. ..” (*161: Nguyễn Bá Cẩn: Sách đã dẫn, trang 370).

Như vậy thì khi thành lập chính phủ Nguyễn Bá Cẩn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có nghĩ đến việc nói chuyện trong tương lai với Mặt Trận và đã đồng ý bỏ lập trường 4 không, tuy nhiên nhân vật mà ông chọn lựa để đảm nhận vai trò đó là ông Nguyễn Bá Cẩn.

Người viết có hỏi Bác sĩ Trần Văn Đỗ rằng hồi đó, ai là người đã nghĩ đến việc đưa tên của Bác sĩ vào trong danh sách những người được đề nghị làm thủ tướng thì ông trả lời rằng ông không được biết, tuy nhiên ông cho biết trong khi nói chuyện với một vài nhà ngoại giao Nhật Bản thì họ là những người đã đưa ra ý kiến là nếu cần phải thương thuyết hay nói chuyện một cách nghiêm chỉnh với Cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì nhân vật thích hợp nhất là ông. Người viết đã từng được tháp tùng Bác sĩ Trần Văn Đỗ sang thăm Nhật Bản nhiều lần và có biết rõ ràng ông có nhiều liên hệ rất thân thiết với cựu thủ tướng Nhật Nebusuki Kishi lãnh tụ đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Liberal Demoratic Party) cầm quyền tại Nhật Bản từ sau Đệ Nhị Thế chiến cho đến tận bây giờ.

Ông Kishi là vị Thủ Tướng Nhật đã đưa nước Nhật phục hồi sau sự bại trận vào năm 1945 để trở thành một quốc gia cường thịnh nhất trên thế giới về phương diện kinh tế. Do đó ông Kishi sau này tuy không còn làm thủ tướng nhưng vẫn còn có rất nhiều ảnh hưởng trong giới chính trị tại Nhật Bản, nhất là trong giới lãnh đạo của Đảng Dân Chủ Tiến Bộ đang cầm quyền tại Nhật từ thập niên 1940 cho đến tận bây giờ.

Người viết có hỏi Bác sĩ Trần Văn Đỗ rằng trong quá khứ, ông là người Miền Nam duy nhất đã được những người trong giới lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt mời đến nói chuyện với họ đến hai lần, giả thử như ông được mời và nhận lời làm thủ tướng vào tháng 4 năm 1975, liệu phe Cộng sản có chấp nhận “nói chuyện” với ông hay không?

Sau vài giây suy nghĩ, Bác sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng ông không tin rằng họ sẽ nói chuyện với ông vì đến cuối tháng 3 năm 1975 thì mình có còn gì nữa đâu để mà họ cần phải nói chuyện với mình!

Chuyện Bác sĩ Trần Văn Đỗ hồi năm 1975 có thể được mời đứng ra thành lập một chính phủ với đại diện của nhiều thành phần đối lập để nói chuyện với Cộng sản vẫn còn được nhắc nhở đến gần 10 năm sau. Trong cuốn The Final Collapse được xuất bản vào năm 1983 tại Hoa Kỳ, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng:

“Ngày 2 tháng 4 năm 1975, trong một cuộc họp thường lệ ở quốc hội, Thượng Viện VNCH đã bỏ 42 phiếu thuận và 10 phiếu chổng, kết tội Tổng Thống Thiệu về những thất bại đang xảy ra và yêu cầu ông thành lập một nội các mới với đại diện của nhiều thành phần chính trị đối lập. Có nhiều tiếng đồn chính phủ có thể có một nội các liên hiệp với sự lãnh đạo của hai ông Trần Văn Đỗ và Trần Văn Lắm. Ba ngày sau, ngày 5 tháng 4, chủ tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn được chỉ định làm thủ tướng”.(*162: Cao Văn Viên : sđd, trang 218.)

Trong cuộc đời chính trị, Bác sĩ Trần Văn Đỗ đã giữ chức vụ Tổng trưởng Ngoại Giao trong ba nội các khác nhau: Nội các của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vào năm 1954 nội các của Bác Sĩ Phan Huy Quát vào năm 1965 và nội các của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ từ năm 1965 cho đến 1968. Tuy nhiên có lẽ số mệnh đã an bài, dù rằng ông có thể được mời làm thủ tướng đến hai lần nhưng ông không bao giờ có cơ hội được giữ chức vụ này.

Cách đó chừng 10 năm, vào tháng 2 năm 1965, sau khi Tướng Nguyễn Khánh tuyên bố Hội Đồng Tướng Lãnh dưới sự lãnh đạo của ông đã “bất tín nhiệm’ Thủ Tướng Trần Văn Hương, Tướng Nguyễn Khánh đã dự định mời Bác sĩ Trần Văn Đỗ ra làm thủ tướng. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo Lý Kiến Trúc trên đài truyền hình Little Sai gon TV vào ngày 20 tháng 2 năm 2004, cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh cho biết:

” Tôi chỉ định ông Phan Huy Quát làm thủ tướng. Một cái chi tiết nữa là tôi có hai người lựa chọn, trong lúc đó ngoài ông Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ không bằng lòng (nhận lời làm thủ tướng), là cái ông gì làm Bộ Ngoại Giao của mình, đó là Bác sĩ Trần Văn Đỗ. Trần Văn Đỗ với tôi có liên hệ chút nào đó, ông Trần Văn Đỗ lúc đó cũng được người ta để ý lắm. Tôi mời ông Trần Văn Đỗ lại, ổng đang đi đánh tennis. Trời ơi! Quốc gia hữu sự như thế này mà mời ổng, ổng đang đi đánh tennis thì thôi, thì cho ổng đi luôn đi. Tôi đưa ông Quát thế thôi” (*163: Lý Kiến Trúc : Phỏng vấn Đại Tướng Nguyễn Khánh, Nguyệt san Văn Hóa số 86. tháng Ba năm 2004).

Bác sĩ Trần Văn Đỗ, dù là một trong những người trong sạch, có tài đức và uy tín nhất tại Miền Nam nhưng chưa bao giờ nắm giữ chức vụ thủ tướng, chắc có lẽ đó cũng là cái số của ông. Sau khi đọc bài phỏng vấn cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh vào năm 2004, người viết không thể nào hỏi Bác sĩ Trần Văn Đỗ về vấn đề này được nữa vì ông đã qua đời tại Pháp.
__________________________________________ __________________________________________

Thứ Sáu 25.04.1975

Ông Thiệu RA ĐI



Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4 năm 1975, tuy nhiên ông vẫn còn trú ngụ trong Dinh Độc Lập cho đến ngày 25 tháng 4. Theo bản cáo trạng của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước và Kiến Tạo Hoà Bình phổ biến vào ngày 8 tháng 9 năm 1974 tại Huế thì “Tổng Thống Nguyễn vẫn Thiệu có mua một căn nhà ờ trên đường Công Lý trị giá khoảng 98 trệu đồng và một ngôi nhà ba căn trong Cư xá sĩ quan cao cấp trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu mà ông đã dùng 30 trệu đồng của ngân sách quốc gia để sửa chữa và tân trang từ khi còn là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia năm 1965″ (*l64: Nguyễn Khắc Ngữ: Sđd, phần Phụ lục) tuy nhiên ông Thiệu không muốn dọn ra khỏi Dinh Độc Lập vì “lý do an ninh.”

Theo ông Nguyễn Tiến Hưng, tác giả cuốn ” The Palace Fale,” thì chính tân Tổng thống Trần Văn Hương đã yêu cầu Đại sứ Graham Martin thuyết phục ông Thiệu nên rời khỏi Việt Nam và sắp xếp phương tiện để đưa ông ta ra đi vì chừng nào ông Thiệu còn ở lại Việt Nam thì ông ta cứ tìm cách can thiệp vào công việc của tân chính phủ. Đại sứ Martin đồng ý. Ông Nguyên Tiến Hưng nói rằng TT Trần Văn Hương đã gọi ông Thiệu và đề nghị ông Thiệu nên ra đi vì nếu ông Thiệu còn ở lại thì phe Cộng sản sẽ có cớ để tố cáo rằng chính quyền của TT Hương là một “chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mà không có Thiệu.” Để cho việc ra đi của ông Thiệu có vẻ hợp pháp, TT Trần Văn Hương đã ký một sắc lệnh cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu làm đại diện đặc biệt cho VNCH đến Đài Loan để phân ưu về việc Tổng Thống Tưởng Giới Thạch từ trần ngày 5 tháng 4 năm 75. Thật ra thì đây là một chuyện khôi hài vì tang lễ của cố TT Tưởng Giới Thạch đã diễn ra tại Taipei cách đó ba tuần lễ và người đã đại diện cho VNCH chính là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương.

Theo Frank Snepp, người đã lái xe đưa ông Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất, thì Cụ Hương cũng không mấy vui vẻ cho lắm khi ông Thiệu tuy đã từ chức nhưng vẫn còn muốn đóng vai “thái thượng hoàng” và vẫn còn ngồi trong Dinh Độc Lập gọi điện thoại can thiệp hết chuyện này đến chuyện kia, tuy nhiên nếu Cụ ép buộc ông Thiệu phải ra đi thì sẽ làm phật lòng những kẻ vẫn còn ủng hộ ông Thiệu, do đó Cụ yêu cầu đại sứ Martin tìm một giải pháp cho vấn đề này. Đại sứ Martin chẳng mấy tha thiết về việc này vì cho đến giờ phút đó, ông vẫn còn muốn cho mọi người mang cái cảm tưởng là toà đại sứ Hoa Kỳ không hề dính dáng gì đến việc ông Thiệu từ chức. Tuy nhiên, Tướng Dương Văn Minh thì lại nghĩ rằng việc ông Thiệu còn tiếp tục ở lại Sàigòn sẽ là một chướng ngại vật cho việc ông ta vận động lên thay thế Cụ Hương để điều đình với Cộng sản, do đó ông Minh đã yêu cầu bạn của ông và cũng là nhân vật số hai của CIA ở Sài gòn là cựu Thiếu tướng Charles Timmes phải tìm mọi cách đề đẩy ông Thiệu ra đi. Khi có thêm áp lực của CIA, Đại sứ Martin phải bỏ thái độ dè dặt và đành phải sắp xếp đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam.

Theo ông Trần Văn Đôn trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng thì vào buổi sáng ngày 25 tháng 4, ông Thiệu mời ông Đôn vào Dinh Độc Lập để “nhờ tôi lấy cho bạn ông ấy một chiếu khán đi ngoại quốc.” Ông Trần Văn Đôn kể lại rằng trước khi từ giã, ông nhìn thẳng vào ông Thiệu và nói với ông ta rằng: “còn phần ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không muốn xảy ra chuyện như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông, nhất là khi nghe có tân Thủ Tướng và chính phủ mới. Nếu tôi lên làm thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đòi bắt ông và tôi phải làm theo “. (*165: Trần Văn Đôn: sđd, trang 467-468).

Frank Snepp nói thêm trong phần phụ chú rằng ông Đôn là người đóng vai trò quyết định trong việc ông Thiệu sớm ra đi khi ông Đôn nói thêm với ông Thiệu rằng “Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Không Quân muốn ông Thiệu ờ lại – để họ có thể giết ông”.(*166: Frank Snepp: sđd, trang 434). Như vậy thì việc cựu Tổng Thống Thiệu ra đi là do ý của tân TT Trần Văn Hương và Tướng Dương Văn Minh, ông Trần Văn Đôn hù doạ thêm và Đại sứ Martin sắp xếp để ông Thiệu ra đi càng sớm càng tốt.

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp kể lại rằng vào hồi 5 giờ 30 chiều ngày 25 tháng 4 năm 75, trùm CIA Thomas Polgar gọi Tướng Charles Timmes và Frank Snepp vào văn phòng của ông ta và ra lệnh cho họ phải giúp cho ông ta đưa ông Thiệu và ông Khiêm đi Đài Loan vào tối hôm đó.

Khoảng 8 giờ rưỡi tối, Tướng Timmes, Frank Snepp cùng 2 nhân viên CIA khác lái ba chiếc xe đến tư gia của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ Tổng Tham M­ưu và khoảng 9 giờ tối thì trùm Polgar cũng đến nơi. Ít lâu sau thì một chiếc xe Mercedes chạy đến đậu ngay trước nhà ông Khiêm và ông Thiệu vội vã bước vào nhà. Frank Snepp nói rằng ông Thiệu có mái tóc bạc chải bóng loáng, quần áo ủi thẳng nếp và trong lúc trời còn tranh tối tranh sáng, ông ta có vẻ giống như là “một người mẫu trong tạp chí Gentleman’s Quartery” hơn là một vị cựu Tổng Thống.” Đoàn tuỳ tùng của ông Thiệu người nào người nấy đều to con vạm vỡ tay xách những chiếc va-li quá khổ đến những chiếc xe của toà Đại Sứ Mỹ và họ đòi phải để cho họ đích thân đặt những chiếc va-li đó vào thùng sau xe. Frank Snepp nói ông ta không biết trong những va-li đó đựng gì, tuy nhiên có vẻ rất nặng vì khi những hành lý đó được đặt xuống xe thì nghe như có tiếng kim loại chạm vào kim loại.

Trong một bài nhan đề Từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà Đến Dinh Độc Lập, Những Ngày Cuối, một cựu thiếu úy Công Binh đã từng chỉ huy Đại đội 541 Công Binh Kiến Tạo vào sửa chữa Dinh Độc Lập sau ngày bị Nguyễn Thành Trung dội bom vào tháng 4 năm 1975 có cho biết rằng:”Ngày 25 tháng 4 lăm 1975, vị Trung úy trong Dinh đến bắt tay thăm hỏi. Ánh mắt có vẻ không vui. Ngỏ ý mượn 6 anh em binh sĩ. Khoảng 25 phút, anh Công Binh trong toán trở lại đưa cho tôi 1O,OOO đồng và nói ông Trung uý nhắn là đưa cho tôi 4,000 còn mỗi anh em binh sĩ 1,OOO đồng. Nghe xong tôi đưa bết cho anh em binh sĩ để họ chia nhau. Tôi thắc mắc hỏi xem họ đã làm công việc gì thì họ trả lời: lên trên lầu vào phòng khiêng một cái tủ sắt nhỏ xuống dưới thềm Dinh thì thấy có xe hiệu Scout, loại cảnh sát dã chiến sử dụng, che bạt kín bịt bùng đậu sẵn. Đẩy tủ sắt vào sàn xe bên trong có 4 người mặc thường phục áp tải đi với viên trung úy. Theo tôi suy nghĩ, đây là tài sản riêng của Tổng Thống Thiệu mang đi vào phút cuối. Tôi không biết trong tủ sắt nhỏ đó có những gì”. (*167:Nhật báo Người Việt ngày Chủ nhật 20 tháng 4 năm 2003).

Như vậy, ông cựu thiếu úy Công Binh này cho biết là lính của ông đã di chuyển tủ sắt nhỏ vào ngày 25-4 tức là ngày ông Thiệu ra đi thì việc này cũng có thể bổ túc cho nhận xét của Frank Snepp nói rằng “hành lý rất nặng”.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông Nguyễn Tiến Hưng ngày 6 tháng 3 năm 1986, ông Thomas Polgar, cựu giám đốc CIA tại Sài Gòn đã phủ nhận điều này. Ông ta nói rằng ông Thiệu ra đi không có mang theo nhiều hành lý vì ông Polgar muốn rằng việc ra đi này phải thật lẹ làng và êm thấm chừng nào tốt chừng đó. Frank Snepp cũng cho biết thêm rằng ông Thiệu đã cho gởi đi nhiều thùng tài sản, đồ đạc sang Đài Loan và Canada từ ngày 2 và 3 tháng 4, tức là mấy tuần lễ trước khi ông từ chức.

Theo Frank Snepp thì sau khi đưa hành lý vào thùng xe, Polgar, Tướng Timmes cùng nhiều nhân viên người Việt ra khỏi nhà và bước lên xe. ông Thiệu lên ngồi đằng sau xe của Frank Snepp, ông ta ngồi giữa Tướng Timmes và một nhân viên người Việt, (có lẽ là Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn phòng của ông Thiệu). Tướng Timmes đã từng quen biết với ông Thiệu khi ông ta làm Tư Lệnh Sư đoàn 1 tại Vùng I hồi năm 1961 và khi ông Thiệu làm Tổng Thống, Tướng Timmes vẫn thường thuyết trình cho ông Thiệu về các tiến bộ trong lãnh vực bình định. Trên xe, Tướng Timmes nói với ông Thiệu: “Xin Tổng thống cúi đầu xuống” và khi xe đi vào cổng phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta lại vội vã nhắc ông Thiệu cúi đầu xuống vì lính gác có thể nhìn mặt người trong xe, nhất là lúc đó đã sau giờ giới nghiêm. May thay, khi thấy xe mang bảng số ngoại giao đoàn, lính gác vẫy tay cho đoàn xe chạy thẳng.

Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn phòng của hảng hàng không Air America, người lái xe trước tắt đèn và Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội vã tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bổng Frank Snepp chợt nhìn thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước, tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích gì. Pọlgar mở cửa xe và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lởi cám ơn rồi bước vội đến phi cơ. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại Sứ Graham Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc phi cơ vận tải C-118 bốn động cơ của Không Lực Hoa Kỳ, ông ta cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn lên phi cơ rồi sau đó cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất bay đi Đài Bắc. Frank Snepp nói rằng vì có sự sơ sót của Văn phòng CIA Sài Gòn, Polgar quên không mang theo hồ sơ tạm dung (parole documents) lên phi trường cho nên cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu rời khỏi Việt Nam mà không có giấy tờ gì cho phép ông được nhập cảnh vào Hoa Kỳ và cũng không hề có chiếu khán xuất cảnh của chính phủ Việt Nam.(*168: Frank Snepp: sđd, trang 434-436)

Việc cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam vào năm 1975 đến hơn 30 năm sau thì lại được một nguồn tin xuất phát từ London nói rằng ông Thiệu đã được người Mỹ đưa bằng phi cơ ra Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi hải phận Việt Nam rồi từ đó ông được đưa sang ty nạn tại nước Anh. Nguồn tin này hoàn toàn không đúng sự thật vì khi ông Thiệu rời khỏi Việt Nam vào ngày 25 tháng 4 thì các tàu chiến của Hoa Kỳ chưa nhận được lệnh cho phép đón tiếp người ty nạn Việt Nam và hơn nữa, ông Thiệu được di tản bằng phi cơ C-118 tức là một loại phi cơ vận tải 4 động cơ, loại phi cơ này không thể nào đáp xuống hàng không mẫu hạm được. Ông Thiệu được đưa sang Đài Loan rồi sau đó ông và gia đình được sang ty nạn tại Anh Quốc, mãi cho đến thập niên 1980 mới di chuyển sang Hoa Kỳ.

Cũng trong ngày 25 tháng 4 khi cựu Tổng Thống Thiệu ra đi, theo Pierre Darcourt thì TT Trần Văn Hương đã tiếp kiến Đại sứ Pháp Mérillon trong 80 phút và sau khi ông Mérillon ra về thì lại đến lượt Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martinvào Dinh Độc Lập gặp TT Trần Văn Hương. Darcourt nói rằng cả hai ông đại sứ đều cố thuyết phục TT Trần Văn Hương nên tìm ngay một công thức để thương thuyết với phe Cộng sản. Tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương vẫn giữ vững lập trường của ông, đó là ông không thể giao quyền cho ai ngoài khuôn khổ Hiến Pháp.

Trong khi đó, cũng trong ngày 25 tháng 4, Thường Vụ Trung Ương Cục đã gửi bức điện văn sổ 481/TV cho “Anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) anh Năm Xuân”? và P.10 tức là Đảng ủy Sài gòn Gia Định nói rằng “Theo đài BBC thì Hương đã gặp Minh nhường quyền Tổng Thống cho Minh. Trước đây ta dự kiến Thiệu đổ thì phải làm gái. Nay Thiệu đổ trong một tình hình ta đang thắng lớn, địch đang thất bại và bối rối, nhưng lại đưa con bài mới này ra và sẽ đặt vấn đề thương lượng để hạn chế thắng lợi của ta và làm lạc hướng đấu tranh của quần chúng. Cần lãnh đạo tư tưởng cho nòng cốt ta tuyên truyền trong những người tích cực ở lực lượng thứ ba đừng mắc mưu bọn đế quốc và phản động đang có âm mưu dùng con bài mới để ngăn ta giành thắng lợi hoàn toàn. Ta vẫn khẳng định phải giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để”. (*l69:Văn kiện Đảng, trang 307-308).

Như vậy thì theo tinh thần điện văn này, dù cụ Trần Văn Hương có trao quyền cho “con bài mới” là Dương Văn Minh đi nữa thì Cộng sản vẫn quyết tâm không thương lượng và “khẳng định phải dành thắng lợi hoàn tòan và triệt để” tức là đi đến chiến thắng toàn diện, đó là chiếm Sài Gòn.


VNCH 10 Ngày Cuối Cùng - Thứ Ba 22.04.1975 & Thứ Tư 23.04.1975



Thứ Ba 22.04.1975

Theo Oliver Todd trong Cruel Avril thì vào ngày 22 tháng 4 năm 1975, tức là sau ngày ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Lê Duẩn nhân danh Bộ Chính Trị của Đảng Cộng sản Bắc Việt đã đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh tại Lộc Ninh, ra lệnh “Phải gia tăng các cuộc tấn công và đánh mạnh đánh mau trên khắp mọi mặt, mọi hướng”. Bức điện văn của Lê Duẩn kết luận rằng “tấn công chậm đi một ngày nào thì sẽ đưa đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trên cả hai phương diện quân sự cũng như chính trị” (ghi chú: Oliver todd: sách đã dẫn, trang 319)
Theo nhận định của Oliver Todd thì dường như Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Bắc Việt sợ rằng nếu tình hình chính trị cứ kéo dài thì trong thời gian nầy có thể sẽ có những sự can thiệp của quốc tế như hồi năm 1954 khiến cho Việt Minh đã phải chấp nhận một giải pháp chia cắt ở vĩ tuyến 17 thay vì một chiến thắng toàn diện.

Trong bức điện văn gởi lúc 15 giờ 30 ngày 22 tháng 4 năm 1975 cho “anh Tuấn” (Văn Tiến Dũng) “anh Sáu” (Lê Đức Thọ) “anh Bảy” (Phạm Hùng) và “anh Tấn” (Lê Trọng Tấn) Lê Duẩn cho biết rằng sau khi nghe ông Thiệu từ chức, Bộ Chính Trị đã họp và “nhất trí nhận định” và đề ra chủ trương như sau:

“Nguyễn Văn Thiệu đã phải từ chức để làm chậm lại cuộc tấn công của ta vào Sài Gòn, Mỹ Ngụy đã lập chính phủ mới, đưa ra với ta đề nghị ngưng bắn, đi đến một giải pháp chính trị hòng cứu vãn tình thế thất bại hoàn toàn của chúng. Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi.

Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động trong lúc nầy là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị.

Xin các anh ra lệnh ngay cho các hướng hành động kịp thời, đồng thời chỉ thị cho Khu Ủy Sàigòn-Gia Định sẵn sàng phát động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tấn công của quân đội.

Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng.” (ghi chú: Văn kiện Đảng, trang 300-301).

Tuân lệnh của Bộ Chính Trị, với tư cách là Tổng Tư Lệnh chiến trường Miền Nam, Văn Tiến Dũng đã ban lệnh cho tất cả các đơn vị của Cộng sản Bắc Việt từ Chiến khu C, Chiến khu D, Khu Tam Giác Sắt ở Miền Đông, cũng như các đơn vị vùng đồng bằng Sông Cửu Long và vùng Cà Mâu phải khởi sự chuẩn bị tấn công vào Sài gòn và các tỉnh.

Sau khi ông Thiệu từ chức và sau khi nhận lệnh của Bộ Chính Trị, Ban Thường Vụ của Trung Ương Cục Miền nam đã gởi ngay một thông tri số 10/TT ngày 22 tháng 4 năm 1975 cho tất cả mọi cán bộ và cơ sở tại miền nam. Nguyên văn như sau:

“1. Do những thắng lợi dồn dập của ta và trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ đã ép Thiệu từ chức hòng tìm biện pháp ngăn chận tổng công kích, tổng khởi nghĩa của ta, làm lạc hướng đấu tranh của quần chúng, mong tránh khỏi thất bại hoàn toàn của chúng.

Việc Thiệu từ chức và Hương lên thay trong tình hình hiện nay càng làm cho tinh thần ngụy quân, ngụy quyền sụp nhanh, nội bộ chúng càng mâu thuẫn phân hóa sâu sắc, càng có lợi cho ta tấn công nổi dậy và dành thắng lợi nhanh chóng ở thành thị và nông thôn.

Vì vậy các cấp đảng bộ và toàn thể quân dân ta cần phải:

-Nắm vững mục tiêu đánh đổ toàn bộ chính quyền địch, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
-Quyết đẩy mạnh cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa và quyết giành toàn thắng.
-Đả phá mọi tư tưởng chờ đợi, chập chờn, do dự.

2. Các cấp các ngành đều phải tập trung sức đẩy mạnh tấn công nổi dậy, đồng thời tiếp quản xây dựng tốt vùng giải phóng và phát triển các lực lượng cách mạng. Phải hết sức tranh thủ thời cơ và thời gian thuận lợi hiện nay để dành toàn thắng, không được chút nào do dự, chần chừ, dù là kẻ địch có đưa ra bất cứ đề nghị thương lượng nhân nhượng nào.

-Phải khẩn trương thực hiện các kế hoạch tấn công quân sự thật kiên quyết triệt để, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch và chiếm lĩnh các mục tiêu quy định.

- Thẳng tay phát động nhân dân nổi dậy dành chính quyền, nhanh chóng thảo gở hàng loạt đồn bót giải phóng nông thôn, nhanh chóng diệt ác phá kềm, mở rông quyền làm chủ đưa lên phong trào khởi nghĩa để phối hợp với tấn công quân sự dành giải phóng các thành thị.

-Đặc biệt là cần đẩy mạnh hơn nũa công tác vận động binh lính và nhân viên ngụy quyền, nhân thời cơ nầy làm tan rã lớn ngụy quân, ngụy qyền.

3. Tiếp theo việc Thiệu từ chức, sẽ còn có những thay đổi khác trong bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền. Các cấp cần theo dỗi sát các diễn biến nầy để liên tục tranh thủ những thời cơ cụ thể mà đẩy mạnh tấn công nổi dậy và kịp thời tấn công binh vận thật sắc bén dành thắng lợi mau lẹ và to lớn hơn nữa.

4. Ở Sài Gòn và các thành phố, phải kịp thời ngăn chận và đối phó với mọi âm mưu tuyên truyền lừa mị của Mỹ-Ngụy, đừng để quần chúng lạc hướng đấu tranh trong lúc nầy. Phải nhân cơ hội nầy mà đưa quần chúng nổi dậy dùng bạo lực chính trị và vũ trang kết hợp với binh tề vận mà diệt ác trừ gian dành quyền làm chủ ở cơ sở. Phải dựa vào sức đấu tranh cách mạng của quần chúng cơ bản mà lôi kéo quần chúng tiểu tư sản, trí thức tiến bộ đi theo con đường cách mạng đừng để cho các lực lương trung gian lừng chừng giao rắc ảo tưởng hòa bình thương lượng trong quần chúng, kéo quần chúng đi lạc hướng đấu tranh đấu tranh cách mạng, chệch con đường tấn công nổi dậy dành toàn thắng.

Sau việc Thiệu từ chức, thái độ của quần chúng, của nhân viên chính quyền và binh lính địch, của các phe phái chính trị tiến bộ và phản động thế nào, cần báo ngay về KBN (bí danh của Trung Ương Cục) (ghi chú: Văn Kiện Đảng: trang 302-304).

Như vậy sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, CS Bắc Việt không hề có ý định thương thuyết với bất cứ người nào, bất cứ phe phái nào tại Miền Nam vì mục tiêu tối hậu của Bắc Việt là tiến công chiếm Sài Gòn cà cưỡng chiếm toàn bộ Miền Nam bằng võ lực mà thôi. Trong khi đó thì tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại phải đương đầu với những áp lực chính trị và ngoại giao nhằm thúc đẩy ông tao quyền lại cho Dương Văn Minh vì họ nghĩ rằng Dương Văn Minh có đủ điều kiện để thương thuyết với CS Bắc Việt.

Theo ông Trần Văn Đôn thì ngày 22 tháng 4 “Theo lời đề nghị của Brocba, cố vấn chính trị và tình báo của tòa đại sứ Pháp, ông đến gặp Dương Văn Minh, ông hỏi ông Minh: “Anh có thương thuyết với bên kia được không?” Ông Minh Trả lời: “Được. Nhưng phải thật lẹ, nếu không chúng ta không có hy vọng”.

Ông Minh cho biết Hà Nội chờ ông Minh nắm chính quyền rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với tân Tổng Thống Trần Văn Hương vì ông Hương chậm chạp lại không thích ông Minh cho lắm nên kéo dài thời gian. Việc nầy rất là bất lợi, nhất là có tin Xuân Lộc thất thủ, VC đang tiến vào vây SàiGòn.

Sau đó dù đã quá khuya nhưng ông Đôn vẫn xin đến gặp đại sứ Martin tại nhà riêng và yêu cầu ông Martin đề nghị với Cụ Trần Văn Hương giao quyền cho Dương Văn Minh để thương thuyết với Hà Nội. Đại sứ Martin hứa sẽ thuyết phục Tổng Thống Trần Văn Hương về vấn đề nầy. (ghi chú: Trần Văn Đôn: sách đã dẫn, trang 461).

Không hiểu ông Dương Văn Minh dựa vào đâu mà nói với Trần Văn Đôn rằng :”Hà Nội chờ ông Minh nắm chính quyền rồi sẽ thương thuyết” khiến sau đó ông Trần Văn Đôn phải chạy đôn chạy đáo hết tòa đại sứ Pháp đến tòa đại sứ Mỹ để vận động Cụ Hương từ chức, “trao quyền” lại cho Dương Văn Minh trong khi Hà Nội đã quyết định “phải hết sức tranh thủ thời cơ và thời gian thuận lợi hiện nay để dành toàn thắng, dù là kẻ địch có đưa ra bất cứ đề nghị thương thuyết nhân nhượng nào”.

Ngoài đại diện của CIA là tướng hồi hưu Charles Timmers đến gặp đại Tướng Dương Văn Minh sáng 21-4, tối hôm đó, sau khi tân Tổng Thống Trần Văn Hương nhận chức, Pierre Brocband, đệ nhị cố vấn và cũng là trưởng ngành tình báo tại tòa đại sứ Pháp đã có mặt tại tư gia của ông Minh, cũng được báo chí Việt Nam hồi đó đặt tên là “Dinh Hoa Lan” ở đường Hồng Thập Tự bên hông Dinh Độc Lập, để hướng dẫn, khuyến khích và nhất là giúp ông Minh chống lại những nổ lực chống phá ông ta lên nắm chính quyền một khi Cụ Hương bị áp lực phải từ chức. Trong ngày hôm đó, đại sứ Pháp Mérillon đã vào dinh Độc Lập đến hai lần để thuyết phục TT Trần Văn Hương nên từ chức.

Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin phải giữ khuôn mặt hợp hiến, hợp pháp của chính quyền VNCH và do đó ủng hộ sự duy trì vai trò tổng thống của Cụ Trần Văn Hương, ít ra là cũng trong thời gian ngắn. Tối 22 tháng 4, đại sứ Graham Martin thảo một bức điện văn dài gởi cho ngoại trưởng Henry Kissinger trong đó ông đại sứ đã phúc trình những điểm chính sau dậy:

* Ông Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng, trước đây đã nói với đại sứ Martin rằng sau khi ông Thiệu từ chức thì ông ta sẽ là người toàn hảo để đóng vai trò thủ tướng. Tuy nhiên trong ngày hôm nay thì ông Đôn lại nói với Đại sứ Martin rằng người mà Hà Nội mong muốn sẽ đại diện cho Miền Nam để thương thuyết là ông Dương Văn Minh, dĩ nhiên là phải có Trần Văn Đôn trong vai trò cố vấn. Theo ông Đôn thì phe Phật Giáo, phe Thiên Chúa Giáo và các giáo phái khác đều sẵn sàng ủng hộ giải pháp nầy. Ông Đôn hỏi Đại Sứ Martin nghĩ sao về giải pháp nầy thì đại sứ Martin trả lời rằng ông không có một quyền hạn nào để ủng hộ hay phản đối giải pháp nầy vì đây không phải là một vấn đề của người Mỹ mà lại là vấn đề của người Việt Nam. Ông Martin đã đề nghị với ông Tổng trưởng quốc Phòng Trần Văn Đôn là ông ta nên gặp và thảo luận với người Pháp.

* Đại sứ Martin cũng phúc trình với Ngoại Trưởng Henry Kissinger rằng ông đã gặp Đại sứ Pháp Mérillon sau khi ông nầy hội kiến với TT Trần Văn Hương. Đại Sứ Mérillon xác nhận rằng Bộ Ngoại Giao Pháp đang gây áp lực để thúc đẩy cho giải pháp Dương Văn Minh, tuy nhiên Ông Trần Văn Hương phản ứng rất là chậm chạp, có lẽ vì già yếu và bệnh hoạn. đại Sứ Martin hỏi Đại Sứ Mérillon rằng liệu có dấu hiệu nào cho thấy Hà Nội có thể sẽ chấp nhận nói chuyện với Dương Văn Minh hay không thì ông Mérillon không trả lời thẳng cho câu hỏi nầy. Đại Sứ Martin nói ông nghĩ rằng người Pháp đã đề nghị với Hà Nội về giải pháp Dương Văn Minh nhưng Hà Nội chưa trả lời và người Pháp nghĩ rằng Hà Nội đã mặc thị đồng ý. Người Pháp cũng nghĩ rằng nếu có thể đưa ông Minh lên nắm chính quyền ngay thì sau đó thì đã một sự đã rồi và Hà nội sẽ khó mà phản đối.

* Đại Sứ Martin nói rằng Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã được TT Trần Văn Hương yêu cầu ngồi lại xử lý thường vụ, tuy nhiên ông Cẩn thì muốn ra đi. Đại Sứ Martin cho biết ông đã nói thẳng với những người muốn ra đi rằng Tòa Đại Sứ Mỹ không có sẵn phi cơ, phải đến cuối tuần (26-27 tháng 4) mới có. Ngoài ra, Đại Tướng Dương Văn Minh cũng có cho Tướng Timmes hay rằng một số sĩ quan người Bắc thuộc phe Tướng Kỳ đang chuẩn bị chống lại Ông Minh, ông Đại sứ đã cử người đến gặp ông Kỳ và nói với ông ta rằng người Mỹ muốn tình hình tại Sài Gòn phải yên tĩnh cho đến cuối tuần tức là ngày Chủ Nhật 26 hay 27 tháng 4 năm 75.

* Đại Sứ Martin cũng phúc trình thêm rằng Đại Sứ Mérillon đã vào Dinh Độc Lập hai lần trong ngày để gặp TT Trần Văn Hương vào lúc 4 giờ chiều nhưng không đạt được kết quả nào. Ông Mérillon đã yêu cầu ông Đại sứ Mỹ nên thúc đẩy để TT Hương từ chức. Sau đó, TT Hương đã mời ĐS Martin vào gặp ông vào lúc 5 giờ chiều và đã nói chuyện với ông Martin với tư cách như là bạn bè. TT Hương hỏi ý kiến ông Martin về Dương Văn Minh nhưng ông ĐS Mỹ nói rằng chưa hề có dịp gặp ông Dương Văn Minh chỉ nghe nói nhiều về những tham vọng của ông nầy mà thôi. ĐS Martin nói với TT Trần Văn Hương rằng nhóm “lực lương thứ ba” cũng như là một vài tướng lãnh có thể ủng hộ ông Minh và ông Hương có vẻ đồng ý với ông đại sứ. Vấn đề quan trọng là liệu cộng sản có chấp nhận nói chuyện với ông Minh hay không và TT Trần Văn Hương đề nghị ĐS Martin nên thăm dò với ông Đại Sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến về vấn đề nầy.

ĐS Martin cho biết là trong cuộc hội kiến nầy, TT Hương cho thấy ông ta rất bình tĩnh, có lúc ông ta quay sang nói chuyện thi ca với ông Brunson McKinley, thông dịch viên tiếng Pháp của ĐS Martin. TT Trần Văn Hương cũng có tâm sự với ông Martin rằng: “Nếu tôi phải làm Pétain của Việt Nam thì ít ra tôi cũng sẽ phải đóng vai trò đó trong danh dự và đúng với phẩm giá”. (si je dois être le Pétain du Vietnam, je serai au moins dans l’honneur et la dignité) (ghi chú: Oliver Todd: sách đã dẫn, trang 324).

* ĐS Martin phúc trình với NT Kissinger rằng sau khi từ giã TT Hương, ông đã mời ĐS Ba Lan đến nói chuyện vào lúc 8 giờ tối ngày 22 tháng 4-75. ông Martin nhận xét rằng ông ĐS Ba Lan là một đảng viên cộng sản cứng rắn nhưng đồng thời cũng là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. ĐS Martin nói với ông ĐS Ba lan về mối ưu tư của TT Trần Văn Hương và nhờ ông ta thăm dò với Hà Nội thử xem họ có chấp nhận vai trò của Dương Văn minh hay không. ĐS Ba Lan là người thận trọng và ông ta trả lời rằng ông ta sẽ xin phép chính phủ Ba lan để xúc tiến việc nầy. ĐS Martin nói rằng ông không tin ông Đại Sứ Ba Lan sẽ trả lời cho ông ngay trong ngày hôm sau.

TT Trần Văn Hương Cho Phép Thả Bom CBU ở Xuân Lộc.

Ngay sau khi Cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, trong ngày 22 tháng 4, Trung Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III đã yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên xin với Hoa Kỳ yểm trợ cho Vùng 3 một phi vụ B52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Đại Tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối. Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại Tướng Federick Weyand và phụ tá Bộ Trưởng quốc Phòng Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU-55. Loại bom nầy còn được gọi là “bom dầu” (fuel bomb), loại bom có sức công phá và sát hại mạnh nhất trong các loại vũ khí của Mỹ. Sau khi được thả xuống, bom sẽ nổ tung ra thành hàng trăm trái bom nhỏ khác, mỗi trái nhỏ nầy sẽ tạo thành một bức màn như dầu hỏa có chiều rộng khoảng 17 mét và bề dày chừng 3 mét là đà trên mặt dất rồi sau đó sẽ nổ tung gây ra một áp suất khoảng 300 cân Anh trên một inch vuông (300 pounds per square inch) và hút hết khối lượng oxygen ở dưới đất, ở trong buồng phổi của tất cả mọi sinh vật, dù là ở dưới hầm sau cũng không thở được.

13 ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của Cộng Sản Bắc Việt, các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã “được hoạch định và thi hành rất hay” và các đơn vị nầy về đến Biên Hòa thì chỉ bị thiệt hại chừng 30% quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng địch đông gấp bốn, năm lần. Bộ Tổng Tham Mưu đề nghị lên TT Trần Văn Hương xin xử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của CS Bắc Việt và chính TT Trần Văn Hương đã chấp thuận cho phép Không quân VNCH thả những trái bom nầy.

Với sự trợ giúp về kỹ thuật của các chuyên viên thuộc DAO (Văn Phòng Tùy Viên quân Sự Hoa Kỳ), Không Quân VNCH đã gằn loại bom nầy lên một chiếc phi cơ C-130 xuất phát từ căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bay lên thả xuống vùng Xuân Lộc, nói mà các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 vừa mới triệt thoái tối hôm trước. Trái bom CBU-55 nầy được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh Sư Đoàn 341 của CSBV lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía Tây Bắc thành phố xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội Bắc Việt bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đã dùng loại vũ khí hóa vi quang (Chemical-Biological-Radiological weapons) một cách bất hợp pháp. Trung Hoa Cộng Sản cũng tiếp tay Hà Nội lên án Hoa Kỳ vô cùng mạnh mẽ về việc đã sử dụng loại vũ khí giết người ghê gớm nầy.

Theo Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không quân Hoa Kỳ cũng có trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Cộng sản kiểm soát quanh thị trấn Xuân Lộc hằng chục trái bom “daisy cutters”, tên thông dụng của loại bom BLU-82 tức là loại bom dùng để khai quang bãi đáp cho trực thăng nặng khoảng 15,ooo cân Anh tức khoảng 7 tấn rưởi cùng với hàng loạt bom 500 cân anh gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho cộng quân. (Sau 1975, cộng sản tìm được 3 trái bom BLU-82 chưa sử dụng và cho triển lãm tại Sài Gòn). Chính tân Tổng Thống Trần Văn Hương là người cho phép Không quân VNCH thả những trái bom hạng nặng nầy xuống đầu quân CSBV tại vùng Xuân Lộc.

Frank Snepp nói rằng có một số phi cơ của Hoa Kỳ thuộc loại Wild Weasel (Con Chồn Hoang) đã được xử dụng trong việc tấn công các đơn vị hỏa tiễn phòng không lưu động của CSBV đang hoạt động trong vùng đông bắc Vùng 3 Chiến Thuật. Wild Weasel là biệt danh dành cho các loại chiến đấu cơ F-105 hoặc F-4 được trang bị với những dụng cụ điện tử đặc biệt ECM (electronic counter-measures) nhằm vào khám phá các địa điểm đặt hỏa tiển phòng không SAM của Việt Cộng và dùng phi đạn không địa tiêu diệt các giàn rada điều khiển các hỏa tiễn nầy. Văn phòng CIA Sài gòn không hề được thông báo về việc nầy và Tòa Bạch Ốc cũng không muốn cho ai hay biết gì về việc phi cơ của Không Lực Hoa Kỳ lại đã được sử dụng tại chiến trường Miền Nam Việt Nam trong mấy ngày cuối tháng 4 năm 1975 nầy. (ghi chú: Frank Snepp: sách đã dẫn, trang 416).

Theo Đại Tướng Cao Văn Viên thì:

“Cuối tháng 2 năm 1975, qua những lần viếng thăm Sài Gòn của Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Eric Von Narbod và Đại Tướng Frederick weyand, Bộ Tham Mưu QLVNCH có xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam Cộng Hòa những loại bom chiến lược mà không quân có thể sử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là loại bom có biệt danh là “Daisy Cutter”, nặng 15,000 pounds tức khoảng trên 7 tấn. Không Quân Hoa Kỳ dùng bom nầy để phá rừng, làm bãi đáp cho trực thăng trong cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên để huấn luyện sử dụng bom trong vòng một tuần.

“Giữa tháng Tư, 3 trái được chở đến và cuối tháng Tư thêm 3 trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn Không quân Việt Nam gắn ngòi nổ và cách chuyển vận bom trên phi cơ, tuy nhiên người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái phi cơ lại không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường và sự nguy hiểm khi phải tồn trử loại bom nầy ở phi trường Tân Sơn Nhất hay Long Bình, Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư Lệnh Không Quân quyết định tuyển chọn một phi công Việt Nam có kinh nghiệm để đảm nhiệm việc thả bom. Chiếc C-130 và quả bom Daisy Cutter” cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau 20 phút lại phải hạ cánh vì một lý do kỹ thuật không quan trọng, nhưng phi cơ lại cất cánh 30 phút sau đó.

“Vào một giờ sáng, phi cơ thả trái bom “Daisy Cutter” thả trái bom đầu tiên xuống một địa điểm cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố xuân Lộc bị rúng động như bị động đất, tất cả đèn điện bị tắt và truyền tin của địch ngưng hoạt động: bộ tư lịnh sư đoàn 341 của bắc Việt cộng bị tiêu diệt. Tinh thần binh sĩ VNCH phấn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh ở mặt trận Xuân Lộc hỏi “Bộ Tổng Tham Mưu có còn nhiều loại bom đó không?”. Tin đồn loan truyền nhanh chóng ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom “nguyên tử”. CSBV lên tiếng chửi rũa VNCH và Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí tàn phá chiến lược” (ghi chú: Cao Văn Viên: sách đã dẫn, trang 201-202).

Dường như ngày hôm đó Hà Nội vẫn không nhận được báo cáo nào của Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ Chí Minh về những tổn thất do bom CBU gây ra và Hà Nội chỉ biết được tin nầy qua một hãng thông tấn của Pháp. Ngay hôm đó, Võ Nguyên Giáp đã nhân danh Bộ Chính Trị gởi cho “anh Sáu” (Lê Đức Thọ), “anh Bảy” (Phạm Hùng) “anh Tuấn (Văn Tiến Dũng), “anh Tấn” (Lê Trọng Tấn) và “anh Tư Nguyễn” (Trần Văn Trà) bức điện văn mang số 94B ngày 23 tháng 4 năm 1975:

“1- Tin AFP chiều 23-4 cho biết địch dùng loại bom ngạt đầu tiên thả ở khu vực giữa Biên Hòa và Xuân Lộc bằng 5 máy bay C-130 và có hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang trên trận địa. Có thể chúng đã dùng loại bom ngạt CBU-55 mà tên Uâyen (Tướng Weyand) đã đề nghị; cũng có thể chúng tung tin để uy hiếp ta, thúc ép ta đi vào thương lượng. Trong trường hợp nào ta cũng phải thực sự đề phòng.

2- Các anh cho kiểm tra nắm được tin gì cụ thể thì điện ngay cho biết. Cần nhắc lại và phổ biến rộng rãi những chỉ thị phòng độc phòng hóa cho bộ đội. Cần chuẩn bị thêm những phương tiện gì thì điện ngay cho biết.

3- Anh ba (Lê Duẩn) và Thường Vụ quân Ủy Trung Ương có ý kiến cách đối phó hiệu quả nhất là:

a/ Thực hiện chủ trương của Bộ chính Trị, phát động sớm cuộc tiến công làm cho hình thái bộ đội ta và địch ở vào thế tiếp cận xen kẽ. Đối với các đơn vị tập kết ở xa địch thì cần ngụy trang tốt nơi trú quân và có biện pháp phòng độc phòng hóa nghiêm ngặt.

b/ Để bảo đảm hành động nhanh chóng và chắc thắng thì biện pháp tốt nhất là cho khai triển ngay các trận địa pháo 1130 và D.74 (nếu cần thì dùng một lực lượng bao vây các vị trí của địch để mở đường cho pháo), đánh mạnh vào Tân Sơn Nhất và các mục tiêu nội đô từ phía Bắc và Tây Bắc cũng như từ phía Nam Nhuận Trạch (Nhơn Trạch). Như vậy vừa gây tổn thương nặng cho không quân địch hiện là chỗ dựa chủ yếu của chúng, vừa gây rối loạn trong hàng ngũ địch ở nội đô và làm suy sụp hơn nữa tinh thần chiến đấu của chúng, tạo điều kiện thuận lợi để ta tấn công vào nội đô, tiêu diệt và làm tan rã địch.

c/ Đối với các sân bay quan trọng khác như Cần Thơ, Vũng Tàu v.v… cần chỉ thị cho các bộ đội dùng các loại hỏa lực (pháo, cối) và đặc công đánh phá mạnh.

4- Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời đã lên tiếng tố cáo dư luận quốc tế. Ta cũng đã đề nghị các tổ chức quốc tế lên tiếng tố cáo mạnh mẽ.

5- Nhận được điện anh trả lời ngay.”

Văn (ghi chú: Văn Kiện đảng, trang 305-306)
Tuy nhiên dù có bom CBU nhưng một Sư Đoàn 18 không thể nào chống cự được với một lực lượng địch đông gấp bội, sau 13 ngày anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của quân CSBV, các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã “được hoạch định và thi hành rất hay” và khi các đơn vị nầy về đến Biên Hòa thì chỉ bị thiệt hại chừng 30 phần trăm quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng đông gấp bốn năm lần.

Kế Hoạch Mérillon.

Tại Paris, Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing tin rằng chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam của Việt Cộng có thể có hy vọng đóng một vai trò nào đó trong tình hình chính trị tại Việt Nam và do đó cần phải duy trì sự hiện diện của ngưới Pháp Tại Miền Nam. TT Giscard d’estaing cho mời Nghị sĩ Paul d’Ormano, đại diện Pháp quốc tại hải ngoại đến phủ tổng thống. Nghị sĩ Paul d’Ormano vốn trước kia là chủ đồn điền tại Đông Dương và ông ta dự định sang viếng thăm Việt Nam, do đó TT Pháp đã yêu cầu ông nghị sĩ d’Ormano kêu gọi Pháp kiều nên ở lại Việt Nam, đừng có bỏ chạy và TT d’Estaing cũng sẽ ra lệnh cho các viên chức người Pháp cũng phải ở lại. TT Giscard d’Estaing cũng liên lạc trực tiếp nhiều lần bằng điện thoại với ĐS Mérillon tại Sài Gòn để chỉ thị cho tòa đại sứ Pháp xúc tiến kế hoạch thành lập một chính phủ liên hiệp giữa phe Mặt Trận Giải Phóng với những thành phần không cộng sản tại Sài Gòn càng sớm càng tốt để thương thuyết với CSBV.

Về phía ĐS Pháp tại Sài Gòn, ông Mérillon chủ trương thành lập một Miền Nam Việt Nam trung lập với đại diện của phe Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, phe quốc gia và “phe hòa hợp hòa giải” của Dương Văn Minh.

Trong cuốn hồi ký sau nầy, ông tiết lộ rằng Trung Cộng đã ủng hộ giải pháp nầy của người Pháp. Ông cho biết Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã đánh điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là Trung Cộng sẵn sàng hợp tác với Pháp để “xây dựng một chính thể trung lập tại miền nam nếu có thành phần MTGPMN tham dự”. Đại Sứ Mériloon cũng cho biết hầu hết các quốc gia Á Châu, ngoại trừ Nam Dương, đều ủng hộ việc thành lập một nước Việt Nam đình chiến trong trung lập hơn là một nước Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của Hà Nội. ĐS Mérillon cho biết sở dĩ Nam Dương chống lại giải pháp trung lập nầy vì Nam Dương hận Trung Cộng đã đạo diễn vụ đảo chánh hụt tại quốc gia nầy năm 1965 nhưng ông tiết lộ rằng năm 1978, TT Nam Dương Suharto có gởi cho ông một bức thư tỏ sự hối tiếc là vào năm 1975 chính phủ Nam Dương đã có nhận xét sai lầm về tình hình chính trị tại Đông Dương và đã không ủng hộ kế hoạch của ĐS Pháp tại Sài Gòn.

Theo ĐS Mérillon thì Chu Ân Lai đã đưa ra một danh sách gồm có Trương Như Tảng, Nguyễn Thị Bình, Đinh Bá Thi, Thiếu Tướng Lê Quang Ba và Trung Tướng Trần Văn Trà làm nòng cốt cho thành phần thân Trung Cộng trong chính phủ trung lập tại Miền Nam để chống lại phe thân Nga do Lê Duẩn cầm đầu tại Hà Nội. ĐS Mérillon nói rằng Trung cộng “tha thiết muốn cứu sống Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để xây dựng ảnh hưởng của họ tại Đông Dương” và phe quốc gia thì cũng muốn cứu Miền Nam không để cho rơi vào tay Cộng Sản Hà Nội, như vậy thì cả hai quan niệm nầy đều cùng có một mục đích và còn có thể dàn xếp được.

Sáng ngày 22 tháng 4, ĐS Mérillon mời Dương Văn Minh đến tòa đại sứ Pháp ở đường Hồng Thập Tự để thảo luận về giải pháp trung lập. Đại Tướng Minh đến gặp ĐS Pháp cùng một phái đoàn đông đảo gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu và, theo lời Mérillon, “nhiều nhân vật đang tập sự làm chính trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ” như Huỳnh Tấn Mẫm, bà Ngô Bá Thành, Ni sư huỳnh Liên, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Cứ v.v…

Đại Sứ Mérillon nhận xét rằng “tôi thấy ông Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy, Bắc Việt chưa biết đến họ, còn công lao của họ đối với Bắc Việt thì cũng chỉ có việc chửi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà thôi”. Đại Sứ Mérillon nói rằng: “Huỳnh tấn Mẫm và Ni sư Huỳnh Liên ai cũng thao thao bất tuyệt ca tụng hòa bình, ca tụng Việt cộng/Cộng sản Việt Nam vì đánh hơi kẻ thắng là ai rồi. Riêng Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu thì có vẻ già giặn hơn, ông đặt chữ “nếu” ở mỗi mệnh đề, chẳng hạn như ông nói: “Nếu chính phủ tương lai mà do ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay của dân tộc Việt Nam”. Tôi nói với họ rằng “không ai có thể chối cãi được công lao của quý vị trong thiện chí nổ lực thành lập tân chính phủ, tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hà Nội, nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian chứ không đóng vai trò chủ động”.

ĐS Mérillon nói rằng sau đó ông đã lễ phép mời mọi người ra về chỉ giữ Tướng Minh ở lại. Trước khi ra về, ông Mẫu nói nhỏ riêng với ĐS Pháp bằng tiếng La Tinh, (có lẽ ông không muốn người khác nghe), rằng ông ta muốn được đi Pháp nếu chính phủ của ông không được Hà Nội công nhận.

ĐS Mérillon nói khi ông trở vào thì Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi chờ với “nét mặt sung mãn, tự hào như kẻ đang nắm vững thời cuộc” và ông đã mời ông Minh dùng cơm trưa để cùng bàn luận.

Theo kế hoạch của ĐS Mérillon thì ông Minh sẽ đứng ra lập chính phủ với hai thành phần đồng đều: phe hòa hợp hòa giải của ông cùng với phe MTGP và trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu châu cùng các nước phi liên kết thừa nhận tân chính phủ Việt Nam và như vậy thì có thể làm chậm lại đà tiến quân của CSBV. Sau đó, ông Minh sẽ cố gắng chỉnh đốn lại hàng ngũ quân đội để mặc cả thế đứng cho phe quốc gia. Tân chính phủ của ông Minh và MTGP sẽ tuyên bố sẵn sàng thiết lập bang giao với Trung cộng và các nước XHCN kể cả Liên Xô. Trung quốc đã liên lạc với Pháp sẽ cử ngay đại sứ đến Sài Gòn trong vòng 24 tiếng đồng hồ và sẽ viện trợ cho chính phủ Sài Gòn 420 triệu mỹ kim là số tiền mà họ hứa hẹn sẽ viện trợ cho Hà Nội. Sau đó, với sự sắp xếp của Pháp và áp lực của Trung Cộng, tân chính phủ sẽ đòi Hà Nội phải thi hành Hiệp Định Paris 1973.

ĐS Mérillon cho ông Minh biết nước Pháp sẽ viện trợ cho tân chính phủ 300 triệu đồng Francs và đồng thời cũng sẽ vận động các quốc gia Âu châu khác môt ngân khoản độ 290 triệu mỹ kim nữa qua các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế và nhân đạo. Như vậy thì tổng số tiền viện trợ quốc tế cho Miền Nam Việt Nam cũng không kém viện trợ của Hoa Kỳ trước đây là bao nhiêu và chính phủ trung lập có thể tồn tại được. ĐS Pháp cũng cho biết rằng Nguyễn Thị Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẽ với người Pháp, bằng chứng là sau nầy, 17 ngày sau khi CSBV cưỡng chiếm Miền Nam, bà ta đã tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc là Miền Nam “sẽ ở trong tình trạng trung lập trong vòng 5 năm trước khi tiến tới việc thống nhất với Miền Bắc” và có lẽ đây là một trong những lý do khiến bà ta bị thất sủng sau nầy.

Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi yên nghe ĐS Mérillon trình bày kế hoạch của Pháp và nói với ĐS Mérillon rằng ông ta sẵn sàng thực hiện mọi điều trong kế hoạch nầy, ông chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất sau đây:
“Thưa ông ĐS, dưới hình thức nào tôi sẽ thay thế ông Trần Văn Hương để thành lập nội các mới thương thuyết với phía bên kia?”.
Ông Mérillon trả lời rằng:
“Thưa Đại Tướng, hôm qua tôi có thảo luận với Cụ Trần văn Hương và Cụ đã đồng ý rằng sẽ trao quyền cho Đại Tướng nếu Đại Tướng có kế hoạch không để mất Sài Gòn”.

Những người thân cận với Cụ Trần Văn Hương cho biết rằng sự thật thì tân TT Trần Văn hương sau khi nhận chức đã không hề nghĩ đến việc trao lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn minh chức vụ tổng thống nầy. Quan niệm của vị tân tổng thống 71 tuổi nầy là phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ phần còn lại của Miền Nam và nếu thương thuyết thì ít ra cũng phải ở trong tư thế mà đối phương có thể chấp nhận. Cụ cũng có ý kiến nếu cần thì sẽ mời ông Dương Văn minh giữ chức vụ thủ tướng với nhiều quyền hạn để thương thuyết với phe Cộng sản.

ĐS Mérillon cho biết rằng: “Khi chúng tôi giới thiệu Tướng Dương Văn Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam, Cụ Trần Văn Hương sửng sốt và tỏ lời phiền trách: “Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Nó là học trò tôi, tôi biết biết nó quá mà! Nó không phải là hạng người dùng được trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Tôi sẽ trao quyền lãnh đạo cho nó nhưng nó phải hứa với tôi là đừng để Sài Gòn thua Cộng Sản”.

Theo hồi ký của ĐS Mérillon thì:

“Chúng tôi giải thích với Cụ Hương là Bắc Việt rất sợ MTGP Miền Nam đoạt chiến thắng, công khai ra mặt nắm chính quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ để mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cái cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội VNCH chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoản mà thôi.

“Cụ Trần Văn Hương thông cảm, nhưng thở dài và kèm theo những lời tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đè bẹp tinh thần chống Cộng sắt đá của Cụ. Cụ Trần Văn Hương chủ trương nếu cần thì cứ bỏ ngỏ thành phố Sài Gòn, rút lực lượng về Miền Tây rồi tổng động viên nhân lực, vật lực còn lại để tiếp tục chiến đấu chống lại Cộng Sản. Giải pháp nầy thì sẽ tiếp tục đổ máu nhưng ít ra thì Việt Nam Cộng Hòa cũng không thua một cách quá mất mặt”.

Mười năm sau, Đại Sứ Mérillon đã viết trong hồi ký của ông rằng:

“Bây giờ tôi mới thấy kế hoạch của Cụ Hương là đúng, nếu lúc đó các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, ở lại yểm trợ cho Cụ thì có thể gỡ gạc được phần nào thể diện cho người quốc gia Miền Nam”.

“Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói vào năm 1975: “Ông Đại Sứ à, tôi đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề ở lại đây và mất theo nước mình” (ghi chú: Jean Marie Mérillon: Saigon Et Moi, Paris, 1985).

Trong ngày 22 tháng 4, Lê Duẩn đã gởi điện văn cho Văn tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Lê Trọng Tấn cho biết ý kiến của Bộ chính Trị nói rằng sau khi TT Thiệu từ chức thì dường như quân đội Miền Nam đang: “điều chỉnh sự bố trí lực lượng để lộ ý định giữ cho được hành lang đường số 4 từ Sài gòn đến Cần Thơ” và ra lệnh phải đối phó kịp thời.

__________________________________________________ _______________________________________



Thứ Tư 23.04.1975

Hai ngày sau khi ông Thiệu từ chức, tại Washington DC, Đại Sứ Liên xô Dobrynin đến trao cho Ngoại Trưởng Henry Kissinger một bản thông điệp của Tổng bí thư cộng sản Liên Xô Breznev, trong đó, theo diễn dịch của Ngoại trưởng Hoa Kỳ , thì không những “phía Việt Nam (tức Hà Nội) bảo đảm với Mạc Tư Khoa rằng họ không có ý định thiết lập những chướng ngại cho sự di tản của người Mỹ, họ còn cho thấy rằng họ không có sự ham muốn hạ nhục Hoa Kỳ, và rất sẵn sàng thi hành bản hiệp định Paris”. Trong phần tái bút, Brezhnev còn bày tỏ sự hy vọng rằng “Hoa Kỳ sẽ không có hành động nào để cho tình hình tại Đông Dương trở nên trầm trọng hơn”. Ngoại trưởng Kissinger đã cho chuyển nguyên văn bức thông điệp nầy sang Sài Gòn cho ĐS Martin, kèm theo lời bình luận của Kissinger. ĐS Martin nói rằng chưa bao giờ ông ngoại trưởng lại gởi cho ông đại sứ một văn thư có tính cách tối quan trọng như vậy” (ghi chú: Frank Snepp: sách đã dẫn, trang 417).

Trong ngày 23-4, Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đệ đơn từ chức lên TT Trần Văn Hương và tân TT đã yêu cầu nội các Nguyễn Bá Cẩn xử lý thường vụ cho đến khi có chính phủ mới. Vào thời điểm nầy, dư luận ở Sài Gòn ai cũng biết rằng - các thế lực ngoại quốc muốn ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống hay thủ tướng toàn quyền, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương lại muốn mời Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thành lập chính phủ.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là lãnh tụ của phong Trào quốc Gia Cấp Tiến tức Đảng Tân Đại Việt, ông là người rất có uy tín trong giới trí thức cũng như ở trong giới quần chúng ở Miền Nam. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là người đã được Cụ Trần Văn Hương dành cho cảm tình rất sâu đậm từ khi ông còn trẻ tuổi, khi ông đang hoạt động trong tổ chức Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn của ông Đỗ Văn Năng, một cơ quan ngoại vi của Đại Việt Quốc Dân Đảng vào hồi cuối thập niên 1940 và trong giai đoạn nầy Cụ Hương sống trong nhà ông Năng ở đường Bà Huyện Thanh Quan gần vườn Tao Đàn.
Trong lúc đó, về phía quân đội thì lại có một nhóm sĩ quan bất mãn với đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Theo Trần Văn Đôn thì lúc 11 giờ sáng ngày 23-4, Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Đại Tá Nguyễn Huy Lợi, Đại Tá Vũ Quang và Đại Tá Trần Ngọc Huyến đã đến nhà ông và yêu cầu chỉ định người khác thay thế Đại Tướng Viên vì ông nầy “không đủ khả năng, không làm đúng bổn phận,làm việc không hữu hiệu”. Ông Trần Văn Đôn lúc đó là Xử lý Thường Vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng đã trả lời rằng “tình hình đã thay đổi, tự nhiên rồi cũng có người thay thế ông Viên”. Thực ra thì ông Trần Văn Đôn đã biết rõ rằng Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không phục vụ với bất cứ tư cách nào trong một chính phủ do Dương Văn minh lãnh đạo.

TT Trần Văn Hương Cử Tướng Phan Hòa Hiệp Đi Hà Nội.

Trong Decent Interval, Frank Snepp nói rằng:

“Trong khi quân đội CSBV đang chuẩn bị và thao dượt cho hành động cuối cùng của họ là tấn công chiếm Sài Gòn thì ông Tổng Thống già Trần Văn Hương cũng tìm cách tiếp xúc kín với phái đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất trong ngày hôm nay và ông đề nghị gởi một người trung gian đi Hà Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của Ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ”. (*141: Frank Snepp: sách đã dẫn, trang 433).

Tác giả Nguyễn Khắc Ngữ cũng có đề cập đến việc nầy như sau:

“Thu xếp với Dương Văn Minh không xong, cụ Trần Văn Hương liền tích tự mình lo việc điều đình với Việt cộng. Với sự giúp đỡ của Toà Đại sứ Hoa Kỳ, Trần Văn Hương đã cử một vị tổng trưởng đi theo cbuyến bay liên lạc của Hoa Kỳ hàng tuần đi Hà Nội để xin điều đinh nhưng Hà Nội đã không chịu bằng cách không cho chiếc máy bay trên hạ cánh cho đến khi vị tổng trưởng kia rời máy bay.” (*142: Nguyễn Khắc Ngữ: sđd, trang 344).

Các tác giả của bộ The Vietnam Experience cũng có đề cập đến vai trò của ông Tổng Trưởng nay như sau:

“Ông Hương cũng không tin việc Cộng sản Hà Nội sẵn sàng chịu thương thuyết với. Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi sẽ chỉ tin vào việc đó sau khi tôi có đủ bằng chứng.” Ông Huơng cũng đưa ra một đề nghị hoà bình của ông, đó là đề nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội Đồng Quốc Gia Hoà giải, loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trong 9 ngày và đề nghị gởi Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp Tổng Trưởng thông tin trong nội các Nguyễn Bá Cẩn làm đặc sứ đại diện cho miền Nam đi Hà Nội. Cộng sản bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemlptuously), nhất là đề nghị về ngưng bắn.” (*143:Thevietnam Experence. sđd, trang 142).

Trong một cuộc tiếp xúc với Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp, cựu Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, đồng thời cũng là cựu Trưởng phái Đoàn Việt Nam Cộng Hòa trong Ủy Ban Liên Hợp Bốn Bên hồi năm 1973, Tướng Hiệp đã cho người viết biết một vài chi tiết khá lý thú về chuyện này.

Tướng Phan Hòa Hiệp nói rằng vào khoảng hai ngày sau khi TT Trần Văn Hương nhận chức (23 tháng 4), ông trở về nhà vào lúc đã khuya và được bà Hiệp cho biết là Văn Phòng TT Trần Văn Hương đã gọi điện thoại nhiều lần vì TT Hương muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến phủ Tổng Thống và sau đó đã được nói chuyện với TT Trần Văn Hương. TT Hương đã nói với Tướng Hiệp rằng Cụ muốn tìm một đường dây để đề nghị thẳng với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Cụ nói rằng chuyện thương thuyết này cần phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua Phái Đoàn Cộng sản Bắc Việt trong ủy Ban Liên Hợp Bốn Bên là nhanh nhất, do đó Cụ chỉ thị cho Tướng Phan Hòa Hiệp liên lạc với Phái Đoàn Bắc Việt để thăm dò và nếu họ chấp thuận thì Tướng Hiệp có thể đi ra Hà Nội, với tư cách là một nhân viên trong chính phủ (cabinet member) và đại diện cho chính phủ để mở đầu cho sự thương thuyết.

Tướng Hiệp nói rằng ông liên lạc với Phái đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm sau, 24 tháng 3 năm 1975, sẽ có một chuyến phi cơ C-13O đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài Gòn để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về Sài Gòn vào buổi tối hôm đó (đây là chuyến bay liên lạc cuối cùng giữa Sài Gòn với Hà nội). Tướng Hiệp vào phi trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt và nói thêm với họ rằng nếu Hà Nội đồng ý thì ông sẵn sàng đi Hà Nội. Đại diện của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên vì từ khi có những chuyến bay liên lạc Hà Nội-Sài Gòn sau Hiệp định Paris, có nhiều sĩ quan trong QLVNCH đã bay ra Hà Nội nhưng Tướng Hiệp thì dù có được mời, ông không bao giờ nhận lời. Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhứt vào buổi tối thì cho ông biết kết quả.

Tướng Phan Hòa Hiệp nói với người viết rằng tối hôm đó ông suy nghĩ cặn kẽ và ông thấy rằng trong trường hợp mà ông được Cộng sản cho phép ra Hà Nội, rất có thề là khi ra đến ngoài đó thì ông cũng có thể bị Cộng sản bắt giữ, tuy nhiên nếu có điều kiện thuận lợi thì ông cũng cứ đi vì đó là thi hành một nhiệm vụ mà Tổng Thống Trần Văn Hương giao phó. Sáng hôm sau ông yêu cầu người Mỹ di tản gia đình ông sang Phi Luật Tân vì trong trường hợp nếu Việt cộng Bắc Việt chấp thuận đề nghị của TT Hương thì ông sẽ đi Hà Nội và nếu mà ông bị bắt thì ít ra gia đình của ông cũng đã được an toàn. Tướng Hiệp nói rằng chiều hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trong ủy Ban Liên Hợp Bốn Bên từ Hà Nội trở về và cho ông biết rằng Hà Nội bác bỏ đề nghị thương thuyết của TT Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội còn nói thêm rằng Hà Nội đòi chính quyền Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện. (*144: Mạn đàm với cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp tại Anaheim, California, ngày 4 tháng 1 năm 2003).

Đó là nổ lực duy nhất mà chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cố gắng tìm cách gửi đại diện ra Hà Nội để thăm dò nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này là tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cũng cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn còn có thể dàn xếp để cho hai phe Sài Gòn và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào đó. Tuy nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là Đại sứ Martin cũng không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker) cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ý định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói chuyện với nhau, dù lúc đó đã là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Bỏ Chạy,” tác giả cho biết rằng: “Ở phi trường về (sau khi đưa cựu Tổng thống Thiệu lên phi cơ đi Đài Loan,) Đại sứ Martin cùng Đại sứ Jean Marie Méllon lại tiếp tục công việc sắp xếp giải pháp chính trị. Ông Martin gửi cho Kissinger một điện văn cho biết vẫn còn có thể điều đình giữa chính phủ Sài Gòn và Việt Cộng:
“Ngày 26 tháng 4, Kissinger gửi mật điện gạt đi liền:

-“Ông đại sứ đã hiểu lầm ý kiến của tôi về các cuộc điều đình với Việt Cộng. Tôi đã không nói đến dàn xếp giữa chính phủ Sài Gòn và Việt Cộng mà nói đến đến thương lượng giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng. Tôi muốn bất cứ cuộc thảo luận nào giữa Hoa Kỳ và Việt cộng cũng phải được diễn ra tại Paris.

“Vào giờ chót, Kissinger vẫn không muốn cho hai miền Bắc và Nam Việt Nam trực tiếp điều đình với nhau mà không có sự kiểm soát của ông (*145:Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 216.) .

Cũng trong ngày này, theo Frank Snepp thì cũng có một màn hỏa mù khác xảy ra. Frank Snepp nói rằng:

“... sáng sớm ngày hôm đó, Đại Tá Harry Summers, Phó Trưởng Phái đoàn Hoa Kỳ trong ủy Ban Liên Hợp 4 Bên tại Tân Sơn Nhứt đã đáp chuyến phi cơ liên lạc cuối cùng từ Sài Gòn đi Hà Nội, có lẽ đó là chuyến bay mà Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp nói đến trong đoạn trên. Trong chuyến bay này, một đại diện của Bắc Việt đã đến ngồi cạnh Đại Tá Summers và nói nhỏ với ông về một vài đề nghị riêng. Sau khi về đến Sài Gòn, Đại Tá Summers đã phúc trình rằng người tiếp xúc với ông đã đưa ra ba “điều bình luận” (comments) đáng chú trọng, đó là:
(l) ủy Ban Liên Hợp 4 Bên trong đó có cả Phái đoàn Hoa Kỳ gồm 15 người phải ở lại Miền Nam Việt Nam dù bất cứ chuyện gì xảy ra;
(2) Phòng Tùy Viên Quân sự của Hoa Kỳ (DAO) phải triệt thoái hoàn toàn và
(3) Tòa Đại sứ Hoa Kỳ phải thương thuyết với “tân chính phủ’ về tương lai của sứ quán.

Sau khi Đại sứ Graham Martin đọc bản thông điệp của Tổng Bí Thư Brezhnev, xem báo cáo này của Đại Tá Harry Summers cùng với báo cáo của Đại sứ Hung Gia Lợi trong Ủy Ban Quốc Tế là ông Đại sứ Toth, ông tin tưởng một cách lạc quan rằng cuộc vận động giữa Ngoại Trưởng Kissinger với lãnh tụ Liên Xô Brezhnev đã mang lại kết quả và ông hy vọng rằng Hà Nội sẽ không có ý làm nhục Hoa Kỳ mà sẽ tiến tới một giải pháp chính trị. (* 146 Frank Snepp: sđd, trang 432).

Đó là giải pháp của Đại Sứ Pháp Merillon: TT Trần Văn Hương phải từ chức và trao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh.


Cách gọi của Việt cộng tại miền bắc sào huyệt chúng ở là mật khu "A";
sào huyệt của chúng tại Miền nam là mật khu "B" (từ B1 đến B5);
Lào là mật khu "C";
Kampuchia là mật khu "K";
Thêm Thái lan là mật khu chiến trường "T" hay "X" (Xiêm)

No comments:

Post a Comment

"Saigonaises" Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn

Du khách ngoại quốc và dân "Saigonaises" còn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ chí Minh. 1 Vì sao? Tro...