Ngày 11/11/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2079/QĐ-UBND công nhận Khu lưu niệm Giáo sư Ca Văn Thỉnh ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc là Di tích lịch sử - văn hóa.
Giáo sư Ca Văn Thỉnh, bút hiệu là Ngạc Xuyên (lấy tên con rạch quê nhà – Rạch Cá Sấu), sinh ngày 21/3/1902 trong một gia đình nông dân ở làng Thành Hóa, nay là xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
Cha ông là ông Ca Văn Gần (sinh năm 1878), mẹ là bà Huỳnh Thị Xuyến (sinh năm 1878).
Ông là con thứ 4 trong gia đình có 7 người.
Ông được thân sinh cho đi học trường tiểu học ở tỉnh. Năm 17 tuổi, ông thi đậu bằng Thành chung nhận được học bổng, lên Sài Gòn học Trường Trung cấp Sư phạm.
Từ đây, ông tham gia hoạt động phong trào “Thanh niên cao vọng” trong giới sinh viên, học sinh, có dịp tiếp xúc và nghe những buổi diễn thuyết và đọc báo Cái Chuông rè (La Cloche Fêlée) do chí sĩ Nguyễn An Ninh sáng lập.
Ngôi nhà thờ Giáo sư Ca Văn Thỉnh ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc.
Những năm 1925- 1927, ông học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương tại Hà Nội (École Normaled’ Hanoi).
Thời sinh viên, Ca Văn Thỉnh cùng với các bạn như Đặng Thái Mai, Phạm Thiều, Tôn Quang Phiệt hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Hà Nội và trong giai đoạn nầy, ông cho ra đời vở cải lương “Bầu nhiệt huyết” lấy bút hiệu là Ngạc Xuyên.
Đây là vở cải lương nói về Nguyễn Trãi nhưng bị thực dân Pháp cấm diễn.
Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm năm 1928, ông được bổ nhiệm làm Đốc học tỉnh Bến Tre.
Giai đoạn 1928 -1945,
Ca Văn Thỉnh sống tại Bến Tre vừa dạy học vừa tham gia các hoạt động đảng cộng sản.
Tháng 3/1945, khi Nhật lật đổ Pháp, Ca Văn Thỉnh lên Sài Gòn gặp mặt thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong các tỉnh dự lễ tuyên thệ ở Vườn Ông Thượng (nay là công viên Tao Đàn) do Phạm Ngọc Thạch chủ trì.
Tháng 6/1945, với sự đề cử của Phạm Ngọc Thạch và Kha Vạn Cân, ông được cử làm Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong trong Mặt trận Việt Minh tỉnh Bến Tre.
Ngày 25/8/1945, cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Bến Tre thành công, ông trở thành Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh.
Ngày 20/3/1946, ông được lãnh đạo Khu 8 cử ra Miền Bắc báo cáo với Hồ và Chính phủ tình hình sau Hiệp định Sơ bộ và xin chi viện vũ khí cho chiến trường Miền Nam. Phái đoàn miền Nam ra đi trên chiếc tàu đánh cá nghi trang, từ cửa biển Bến Tre ra Phú Yên, rồi từ Phú Yên, họ đi xe lửa ra Hà Nội.
Trong đoàn có: Trưởng đoàn là Đào Văn Trường, Khu trưởng Khu 8 (nguyên là một cán bộ lãnh đạo khởi nghĩa Bắc Sơn vừa được Trung ương bổ sung).
Thành viên gồm: Ca Văn Thỉnh - Ủy viên Ủy ban kháng chiến kiêm Hành chính tỉnh Bến Tre; bà Lê Thị Tài - Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh; bà Nguyễn Thị Định - Ủy viên Ban chấp hành Hội Phụ nữ tỉnh, người trẻ nhất đoàn; bác sĩ Trần Hữu Nghiệp; Tư Minh, cán bộ của Ủy ban tỉnh. Khi đoàn đi nửa đường thì gặp bão, bà Lê Thị Tài trở chứng đau tim buộc đoàn phải ghé Phan Rang để bà ở lại, sau đó đoàn đến Phú Yên và tiếp tục lên đường ra Bắc, gặp Hồ.
Ngày 15/9/1946, Ca Văn Thỉnh được hai ông Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp giới thiệu kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tại nhà ông Đặng Thái Mai.
Ông được Hồ bổ nhiệm làm Quyền Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và được phong Giáo sư cùng với Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo...
Tháng 12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Ca Văn Thỉnh xin trở lại miền Nam kháng chiến, đến Phú Yên, ông làm cán bộ Ủy ban kháng chiến Miền Nam, sau đó đến Ninh Thuận làm Ủy viên Mặt trận Việt Minh – Liên Việt kiêm hiệu trưởng Trường Kháng chiến Thái Văn Lung.
Năm 1952, ông về trong miền Nam, đảm nhận chức Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, kiêm Ủy viên Ủy ban Liên Việt Nam Bộ. Năm 1954, sau khi tập kết ra Bắc, Ca Văn Thỉnh phụ trách Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao. Tháng 1/1956, ông được cử làm Tổng Lãnh sự ở Indonesia, thuộc thế hệ cán bộ ngoại giao đầu tiên, đại diện cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7/1962, ông được cử làm Đại diện thương mại, đại diện cho Chính phủ ta tại Campuchia. Một thời gian sau, ông được nâng từ Đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên cấp Đại sứ. Ngày 14/10/1966, Ca Văn Thỉnh nhận nhiệm vụ tiếp quản Viện Viễn Đông Bác Cổ, là Giám đốc Thư viện Khoa học Trung ương. Sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm (30/4/1975), ông được cử làm Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Miền Nam, đại diện Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trong suốt cuộc đời, ông đã đóng góp rất lớn vào việc nghiên cứu Văn hóa việt cộng và chủ nghĩa Việt cộng trong mặt trận du kích miền nam.
Với bút hiệu Ngạc Xuyên ông bắt đầu giới thiệu các báo chí cách mạng. Khi tập kết ra Bắc, ông giới thiệu thơ văn trên các báo Văn Nghệ, Tạp chí Văn học...
Mộ Giáo sư Ca Văn Thỉnh và bà Lê Thị Tài.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cho đến khi nghỉ hưu, Ca Văn Thỉnh đã có nhiều cống hiến cho cộng sản... Do đó, ông đã được Đảng và Nhà Nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng I, Huân chương kháng chiến hạng I, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng I, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc.
Vợ ông, bà Lê Thị Tài, sinh ngày 01/07/1907 tại xã An Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (nay là Phường 2 – Thành phố Bến Tre), giáo viên Pháp Văn trường trung học tỉnh, mất ngày 08/04/1990.
Từ năm 1945, bà giữ chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ cứu quốc Bến Tre. Tháng 3/1946, bà cũng có mặt trên chuyến tàu ra Bắc xin vũ khí chi viện cho chiến trường Miền Nam nhưng do sức khỏe, bà phải quay về. Khi tập kết ra Bắc năm 1954, bà được kết nạp vào Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Bà sinh 06 người con:
Ca Lê Dân,
Ca Lê Du,
Ca Lê Thuần,
Ca Lê Hồng,
Ca Lê Hiến,
Ca Lê Thắng.
Trong đó, có nhiều tài năng đóng góp lớn cho nền văn học nghệ thuật nước nhà như:
Phó giáo sư nhạc sĩ Ca Lê Thuần,
Nghệ sĩ - Nhà giáo Ca Lê Hồng,
nhà thơ – Anh hùng LLVTND Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân),
Họa sĩ Ca Lê Thắng.
Ngôi nhà thờ hiện nay được xây dựng chính tại nền ngôi nhà xưa của dòng họ. Ngôi nhà được xây dựng bằng chất liệu hiện đại, sơn màu xanh xám, tô đá rửa, cao khoảng 5m, cột, kèo bằng bê-tông cốt thép. Đòn tay, rui, mè bằng gỗ căm xe. Mái lợp ngói Tây. Nền nhà cao 0,3 m, lát gạch men màu xanh trắng. Bên trong ngôi nhà được thiết kế một gian trung tâm dùng để đặt tủ thờ bằng gỗ, cẩn ốc giả xà cừ.
Phía trên tủ thờ, trên hết là ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
dưới là bức họa ông Ca Văn Gần và bà Huỳnh Thị Xuyến - song thân của Giáo sư.
Phía dưới là di ảnh Giáo sư Ca Văn Thỉnh và vợ là bà Lê Thị Tài.
Chính giữa nhà đặt một bàn dài bằng gỗ giản dị, mang lại cảm giác ấm cúng, gần gũi.
Bên phải là tủ thờ Ca Lê Hiến (nhà thơ Lê Anh Xuân).
Khu mộ của Giáo sư Ca Văn Thỉnh được con cháu trong gia đình tu sửa vào năm 2003.
Khu mộ có diện tích 74,25 (m2), theo dạng hình chữ nhật. Khu mộ gồm có 04 ngôi mộ, nằm xoay đầu về hướng Tây. Từ ngoài vào, bên trái là mộ Giáo sư Ca Văn Thỉnh và bà Lê Thị Tài đều ốp đá granite xám trắng. Bia mộ được làm bằng đá, trên hết là phù điêu bằng đồng phác họa chân dung vợ chồng Giáo sư Ca Văn Thỉnh. Phía bên phải là mộ của bà Ca Thị Thoại cùng chồng là Đặng Văn Tỷ được thiết kế giống như mộ Giáo sư nhưng không có phù điêu và chỉ gắn gạch giả đá trên mộ. Bao bọc xung quanh khu mộ là các loại cây cảnh như mai chiếu thủy, mai vàng kết hợp với sứ trắng, và một chậu hoa quỳnh (đây là loài hoa Giáo sư thích nhất) được sắp đặt khéo léo, hài hòa, với thiết kế đơn giản nhưng tinh tế, kết hợp với vật liệu xây dựng đẹp trong một không gian thoáng đãng, gần gũi với cảnh quan thiên nhiên tạo cho khuôn viên một vẻ đẹp trang nghiêm, tôn kính.
Khu lưu niệm Giáo sư Ca Văn Thỉnh là nơi lưu niệm nhà hoạt động cách mạng, nhà giáo ưu tú, nhà nghiên cứu văn hóa và sử học của Nam bộ - người đã cống hiến cả cuộc đời cho quê hương, cho đất nước. Ông đã khơi dậy những giá trị chân chính trong truyền thống văn học yêu nước chống ngoại xâm của vùng đất phương Nam. Chính nhờ những nghiên cứu của ông mà nhiều tư liệu văn học và lịch sử vô giá của đất Nam Bộ đã trở thành di sản của văn hóa dân tộc. Giáo sư là đảng viên Cộng sản chân chính. Cuộc đời ông là một tấm gương sáng về tinh thần phục vụ nhân dân, một nhân cách sống đẹp, nhân hậu, giàu tâm quyết. Hằng năm vào ngày 13 tháng 08 (âm lịch), gia đình tổ chức lễ giỗ cho Giáo sư Ca Văn Thỉnh.
Chú thích:
Xin mời bấm vào các Links dưới để biết cuộc đời cặp vợ chồng Việt cộng Ca Văn Thỉnh và Lê Thị Tài, là cha mẹ của những tên Việt cộng Ca Lê Du, Ca Lê Thuần, Ca Lê Hồng, Ca Lê Hiến, và cũng là họ hàng với gia đình Trúc Hồ, giám đốc tập đoàn SBTN, Asia:
http://nhavantphcm.com.vn/tac-
pham-chon-loc/tieu-thuyet/
tieu-thuyet-ngac-xuyen-hien-
nhan-ky-1.htm
l
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/tieu-thuyet/tieu-thuyet-ngac-xuyen-hien-nhan-ky-2.html
http://nhavantphcm.com.vn/tac-
pham-chon-loc/tieu-thuyet/
tieu-thuyet-ngac-xuyen-hien-
nhan-ky-3.html
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/tieu-thuyet/tieu-thuyet-ngac-xuyen-hien-nhan-ky-4.html
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/tieu-thuyet/tieu-thuyet-ngac-xuyen-hien-nhan-ky-5.html
Chú thích:
Trích một đoạn ngắn trong kỳ 1 của quyển tiểu thuyết viết về Việt cộng Ca Văn Thỉnh "Ngạc Xuyên Hiền Nhân" do Nhà Văn Hồ Chí Minh xuất bản, chứng minh sự gia nhập đảng cộng sản Việt Nam của vợ chồng Ca Văn Thỉnh và Lê Thị Tài, họ hàng với gia đình Trúc Hồ, giám đốc tập đoàn SBTN và Asia.
``````````````````````````````````````````````````
Năm sau, 1930.
Ca Văn Thỉnh đưa cô giáo Lê Thị Tài
Về Cái Sấu - Tân Thành Bình giới thiệu với song thân và xin làm lễ thành hôn. Cả nhà tụ họp, mỗi người mỗi góc độ thầm bình phẩm… Chắc là cũng so sánh giữa cô giáo Tài với cô Ba Th, con hội đồng H. Bình phẩm thầm… ai nghe được, chớ vẻ hài lòng của cha mẹ cùng anh chị em biểu hiện ra nét mặt rạng rỡ thì dễ thấy. Nhứt là hai cô em gái tươi cười hớn hở, mau lẹ hơn hết là cô Út Thoại quấn quýt chị dâu tương lai. Bởi cô giáo Lê Thị Tài vốn con nhà nghèo lớn lên, từng trải bao gian lao khổ hạnh cho nên không hề kiểu cách, từ phong độ chân tình bình dị, nói năng ngọt ngào, đến dáng đi tướng đứng tề chỉnh khoan thai. So bề bóng sắc chị Tư với Ba Th. thì bên tám lạng, người nửa cân. Nhưng nết na thì chị Tư mình hiền lành dễ thương ăn bứt! Cô Út nhạy miệng cười ngoỏn ngoẻn nói vậy.
-------------------------------------------
Trong dịp nầy Đốc Thỉnh và Tư Minh, nhỏ hơn Thỉnh hơn một con giáp song là bạn vong niên gần gũi mến mộ nhau.
Tư Minh còn tục danh Minh ruồi do có nốt ruồi dưới càm. Một thể hình đề đạm, săn gân bắp; phong thái linh hoạt trí lự với vầng trán vuông và rộng với đôi mắt hiền và sáng. Làm việc ở Tòa Bố, nhưng Tư Minh chán ngán nghề công chức trẻ, đam mê hoạt động thể thao, tham gia câu lạc bộ bơi thuyền (Périssoire), do chánh án tòa án tỉnh thành lập. Do đó Tư Minh kết thân với Huỳnh Kỳ Thanh, cán bộ “bí mật”, lớn hơn Tư Minh nhiều tuổi, trước làm ở hãng phim Đông Dương (Indochine Film).
Để chuẩn bị thi đấu với Vĩnh Long, hai anh em thường đi tập bơi với chiếc thuyền hai chỗ ngồi trên sông Bến Tre ra vàm sông Hàm Luông.
Tin cậy nhau, Hai Thanh cho Tư Minh mượn cuốn “Tìm hiểu Chủ nghĩa Cộng Sản” bằng tiếng Pháp của tác giả Politzer. Cùng với vài nguồn tìm hiểu khác về Đảng Cộng Sản, Tư Minh tâm tình bộc bạch những điều bí mật với Đốc Thỉnh:
– Anh Tư có biết Nguyễn Ái Quốc là ai chưa?
– Làm sao mà biết được?
– Là lãnh tụ Đông Dương Cộng Sản Đảng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ảnh Người.
– Chuyện quốc cấm! Ảnh ở đâu có chú cho mình coi với?
– Coi lén! Hôm phiên trực chủ nhật, tôi mở tủ tài liệu mật, gặp ba cuốn sách tiếng Pháp của Sở mật thám; tài liệu về Đảng Cộng sản Đông Dương, Quốc Dân đảng và các đảng phái chánh trị khác. Tôi đọc tài liệu và coi ảnh Nguyễn Ái Quốc trong đó rồi cất lại chỗ cũ. Đây là một chính Đảng đấu tranh cho dân tộc, cho giai cấp cần lao. Anh sao, chớ tôi mong gặp Đảng quá!
Lòng mừng thầm, Thỉnh nghĩ Tư Minh dám nói với mình điều đó tất có thể có cơ sở để bắt liên lạc hoạt động cách mạng, ướm hẹn:
– Nếu chừng nào gặp Đảng, chú cho tôi hay với!
– Anh Tư còn phải dặn!
Thư ký Tòa Bố, Tư Minh có nhiệm vụ thống kê, nhận thấy nền giáo dục của tỉnh Bến Tre phát triển khá nhanh, anh thầm trọng nể công lao đầy trách nhiệm của đốc học Ca Văn Thỉnh và cô giáo Lê Thị Tài…
Qua Tư Minh, dẫn chứng vài con số:
Cả tỉnh gồm 92 làng, có 104 trường sơ cấp công lập, phân bổ làng nào cũng có trường, từ một đến hai, ba lớp.
Như trường Chợ Xép - Tân Thành Bình có đến năm lớp (từ Enfantin đến Supérieur).
Ngoài ra còn 11 trường tiểu học và ba trường dạy nghề tại thị xã, có lớp dạy nữ công gia chánh. Môn nầy có công lao của cô giáo Lê Thị Tài.
Về tư thục có 41 trường của các tôn giáo, năm trường của Hoa kiều, hai trường trung học và 92 lớp truyền bá Quốc ngữ. Cả công lập và tư thục gồm 165 trường lớn nhỏ.
Vì vậy thầy cô giáo rất đông, tinh thần yêu nước rất cao; nơi nào cũng có tổ chức Thanh niên học đường. (Nhờ cơ sở, môi trường thuận lợi nầy, về sau,
Đốc Thỉnh và Tư Minh hoạt động phong trào Thanh niên Tiền phong sôi nổi…).
Ngoài những thống kê về con số, Tư Minh còn cảm nhận Đốc Thỉnh lấy Đức dạy học trò, khéo lồng vào bài giảng những câu chuyện về truyền thống yêu nước, về những tấm gương các vị hiền thần tiền bối trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh…. Đó là tính cách, cũng như “giáo đức” được kế thừa từ người thầy đầu tiên là Võ Văn Thơm. Cho đến việc giáo dục con cháu trong gia đình, Đốc Thỉnh cũng lấy Đức làm trọng. Ông là người cha rất nghiêm, không hề đánh con, chỉ trừng mắt thôi là các con đủ sợ. Hồi nầy ông bà đã sinh được năm con: Ca Lê, Ca Lê Du (gái), Ca Lê Thuần (trai), Ca Lê Hồng (gái), Ca Lê Hiến (trai mới mấy tháng tuổi).
Cho đến khi trưởng thành, các con hằng ghi lòng tạc dạ những câu mà Ca Lê Thuần khái quát đặc sắc về cha mình:
“Dù làm gì làm, dù tài gì tài, phải lấy đạo đức làm gốc.Cái ĐỨC còn là nhân cách sống; phải có trên có dưới, có trước có sau. Anh chị em, vợ chồng phải đoàn kết yêu thương nhau. Cố gắng giữ sao đừng để họ CA mình bị mang điều tiếng. Dù đi đâu, dù chọn nghề gì, các con tự do phát triển, nhưng phải giữ truyền thống Nam Bộ, truyền thống quê hương Bến Tre mình. Làm sao nêu được đặc trưng của một vùng đất mới của cả nước; hay nói cách khác là cái Hào khí Đồng Nai - mà bấy giờ người ta ít biết đến, trái lại còn xuyên tạc gọi “Nam - Kỳ - Quốc!” theo mưu đồ chia để trị của thực dân Pháp.”…
Quan hệ tình bạn vong niên với Tư Minh, tạo môi trường thuận lợi cho Đốc Thỉnh tiếp cận với chủ thuyết cộng sản
qua tài liệu và sách; bắt liên lạc với cán bộ bí mật của Đảng; kiến thức được nâng lên, lý tưởng cách mạng được củng cố.
Sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời, tỉnh đến các huyện và một số xã có tổ chức Chi bộ Đảng, trong đó có xã Tân Thành Bình, Thỉnh mừng lắm, báo với Kim rằng sẽ có cơ hội gần Đảng.
Nhớ lại thầy giáo Võ Văn Thơm từng nêu cao truyền thống yêu nước chống Pháp của xã Tân Thành Bình; bản thân thầy đã sớm tham gia cách mạng. Được sự khuyến khích của thầy, các học trò cũ như Ngô Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Diệp, cũng như con gái thầy là Võ Thị Vân đã gia nhập Đảng Cộng Sản. Nguyễn Văn Diệp là chắt ngoại của nghĩa quân Trần Văn Đinh, dân quen gọi là Hương Đinh.
Nhân một vài lần về thăm trường Chợ Xép, Đốc Thỉnh đến hầu chuyện ông Hương Đinh, tuổi đã gần chín mươi, râu tóc bạc trắng mà vẫn còn khỏe mạnh…
Đảng lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ một số điểm thành công, nhưng toàn cục diễn ra thất bại. Giặc Pháp ném bom cù lao Năm Thôn và Chợ Giữa - Vĩnh Kim. Chú ruột của Lê Thị Tài là Lê Văn Của tham gia khởi nghĩa ở đây, bị giặc Pháp bắt tra tấn đến chết. Chứng kiến cảnh bắt bớ, tù đày, sát hại dã man, gây ấn tượng mạnh đối với Thỉnh và Tư Minh. Lòng tha thiết muốn gặp Đảng càng thôi thúc. Kịp thời (1941) Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh gọi tắt Việt Minh ra đời; hai anh em tìm tổ chức, gia nhập hoạt động phong trào Thanh Niên Tiền phong…
☛ Vào cuối 1944, Bến Tre đã thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm đại biểu các quận do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư.
☛ Đến đầu 1945 tại thị xã lại thành lập một Tỉnh ủy lâm thời nữa, do Đỗ Văn Khuyến từ nhà tù Bà Rá trở về làm Bí thư.
☛ Tháng 4 - 1945, hai Tỉnh ủy lâm thời được hợp nhứt do Nguyễn Tẩu làm Bí thư.
Bến Tre chịu ảnh hưởng mật thiết từ Sài Gòn qua các phong trào sinh viên yêu nước, hiểu biết nhau cùng thời hoạt động ở các trường:
Pétrus Ký, Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh và cả trường nữ Áo Tím…
Tư Minh trẻ trai, dân thể thao giỏi đạp xe thường xuyên lên Sài Gòn bắt liên lạc, về báo tình hình: Sinh viên Sài Gòn bấy giờ dấy lên với các hình thức: lập đoàn ca hát, đoàn cắm trại và các câu lạc bộ… Hiệu quả hoạt động sôi nổi.
Xứ ủy công nhận tổ chức Thanh Niên Tiền Phong nằm trong Mặt trận Việt Minh, cử ra một Đảng đoàn phụ trách, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm Bí thư, Huỳnh Văn Tiểng và Nguyễn Văn Thủ làm Ủy viên.
Thanh Niên Tiền Phong chính thức ra đời vào tháng 5 năm 1945; với một Hội đồng quản trị gồm có các Ban chuyên môn, liên danh những trí thức tên tuổi như:
nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,
nhạc sĩ Trần Văn Khê,
dược sĩ Trần Kim Quang,
kỹ sư Kha Vạn Cân,
họa sĩ Hồ Văn Lái,
kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát…
Chủ tịch Hội đồng là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Đoàn kỳ là cờ vàng, sao đỏ.
Đoàn ca là bài Lên Đàng của Lưu Hữu Phước và Huỳnh Văn Tiểng.
Đồng phục: quần sort xanh, áo sơ-mi trắng cụt tay, dép cao su quai chéo, mũ bành rộng vành.
Vũ trang: dao găm và cuộn dây thừng mang thắt lưng.
(Về sau, khi chuẩn bị khởi nghĩa mới trang bị tầm vông vạt nhọn).
Trụ sở đặt tại số 14 đường Charner (nay là Nguyễn Huệ). Trung tâm huấn luyện lấy cơ sở của Jeunes Campeur ở đường Pellerin.
Thanh niên Tiền phong Bến Tre ngấm ngầm hoạt động theo hình mẫu Sài Gòn. Có mấy lần Hai Thanh và Võ Tấn Nhứt (là Tỉnh ủy viên), trong tổ chuyên trách công tác Thanh niên Tiền phong cùng Tư Minh vầy đoàn xe đạp lên Sài Gòn gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Thủ lĩnh Thanh niên Tiền Phong Miền Nam, phản ảnh các mặt tình hình chánh quyền, thái độ quân Nhật, kết quả vận động tập hợp các đoàn thể quần chúng và xin ý kiến cho ra đời lực lượng Thanh niên Tiền phong tỉnh Bến Tre. Sau đó Tư Minh được kết nạp đảng viên Đảng Cộng Sản do Hai Thanh và Hai Nhứt giới thiệu. Tư Minh không quên lời hứa với Đốc Thỉnh, gợi ý với Hai Thanh, được trả lời rồi sẽ tiếp xúc đối tượng phát triển.
Đến tháng 6 -1945, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cùng kỹ sư Kha Vạn Cân xuống Bến Tre, liên lạc với lãnh đạo Tỉnh ủy, hợp nhất tổ chức Thanh niên Tiền phong và đề cử Đốc học Ca Văn Thỉnh làm Thủ lĩnh. Trong nội ô thị xã tổ chức nhiều “Cụm”… dưới sự chỉ huy của Tráng trưởng. Tư Minh làm Tráng trưởng, cùng với các Tráng trưởng khác lãnh đạo các cụm trong nội ô thị xã. Nhiệm vụ cấp thời là phát động cuộc mết tinh ra mắt Thanh niên Tiền phong.
Buổi mết tinh diễn ra tại sân vận động của thị xã, đông nghẹt hằng ngàn người. Trên hàng ghế Chủ tịch đoàn có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kỹ sư Kha Vạn Cân cùng cán bộ tỉnh là Tiến sĩ Phạm Văn Bạch, Võ Tấn Nhứt, Nguyễn Văn Cái… Tư Minh được Thủ lĩnh Ca Văn Thỉnh phân công thay mặt lực lượng lên phát biểu. Trước đám đông ngợp người, Tư Minh run quá, nhưng nói một hồi bắt trớn giọng rất hùng hồn và lời lẽ có phần bồng bột.
Cùng với Sài Gòn, ngày 25 tháng 8 năm 1945, Thanh niên Tiền phong Bến Tre đã phối hợp các lực lượng cách mạng Mặt trận Việt Minh nổi dậy cướp chánh quyền trong toàn tỉnh.
Tiến sĩ Luật - Cử nhân văn học Phạm Văn Bạch, nguyên Chánh án Tòa án tỉnh Bến Tre được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh; Nguyễn Văn Cái, Phó chủ tịch; Ca Văn Thỉnh ủy viên… Tư Minh làm Tổng thư ký, nhưng anh xin được tiếp tục công tác thanh niên.
Ngày 26 - 8 - 1945 Ủy ban Nhân dân tỉnh - chánh quyền cách mạng đầu tiên ra mắt đồng bào.
Ca Văn Thỉnh - Ủy viên Ủy ban Nhân dân tỉnh kiêm thủ lĩnh Thanh Niên Tiền Phong cùng với Tráng trưởng Tư Minh chỉ huy lực lượng Thanh niên Tiền phong thị xã bung ra mạnh mẽ, đảm nhận canh gác, giữ gìn an ninh trật tự; thay thế cảnh sát cũ biến mất trong lúc quân Nhật co cụm nơi trú đóng. Huy hiệu Thanh niên Tiền phong:
vòng tròn vàng - sao đỏ được phóng đại treo lên đầu nhà lồng chợ Bến Tre.
_____________________________________
[1]
Phạm Văn Bách sinh 1910, quê Trà Vinh, du học Pháp, đậu tiến sĩ luật và cử nhân văn học; hoạt động trong đoàn Thanh niên Cộng sản Pháp, ủng hộ Cách mạng tháng 10 Nga; Chủ tịch tỉnh Bến Tre đến 10.1945 là Chủ
tịch UBHC miền nam đầu tiên.
[2] Tư Minh, sau tên Mười Phi rồi Thăng Long, qua nhiều chức vụ:
- Tráng trưởng Thanh Niên Tiền Phong,
- Phó Giám Đốc trường Quân Chính Đồ Chiểu,
- Cán bộ UBKC/HC tỉnh.
Tư Minh cùng Ca Văn Thỉnh vượt biển ra Bắc. Tư Minh ốm nặng nằm lại dọc đường.
[3] Hòa Bình là Thứ Trưởng Bộ Ngoại Thương…
Chú thích:
Một số tài liệu tiêu biểu về sự liên hệ giữa Trúc Hồ, tập đoàn SBTN, Asia với Việt cộng. Xin bấm các Links trên cùng của bài viết để coi đầy đủ chi tiết.
Xin mời quý vị bấm vào Link Audio dưới đây để nghe ông Trúc Hồ tự thú là ông Trúc Hồ đã từng về Việt Nam nhiều lần:
AUDIO: Ông Trúc Hồ xác nhận đã về Việt Nam nhiều lần. (dài 15 giây)
Nguyên văn toàn bộ Video Trúc Hồ tuyên bố trên đài SBTN tuyên truyền cho Việt cộng (dài 1 giờ)
Nguyên văn toàn bộ Video Trúc Hồ tuyên bố "bưng bô" Việt cộng tại nhà hàng Fortune tại Hoa Thịnh Đốn vào tối 5 tháng 3 năm 2012 nhằm tường trình kết quả nộp Thỉnh Nguyện Thư cho Tòa Bạch Ốc:
Trong cuốn phim ông Trúc Hồ, luật sư Đỗ Phủ, ông Võ Thành Nhân nói chuyện trên đài truyền hình SBTN vào ngày 6 tháng 3 năm 2012 để tường trình kết quả ngày trao kiến nghị cho Tòa Bạch Ốc ngày 5 tháng 3 năm 2012, ông Trúc Hồ đã tuyên bố một số điều bưng bô cho Việt cộng, tuyên truyền có lợi cho cộng sản Việt Nam, đâm sau lưng cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại và phản quốc như sau:
“…Hồ (Trúc Hồ) nghĩ là sau cái ngày 8 tháng 3 này, như anh Phủ nói Tòa Bạch Ốc formally trả lời chúng ta, tiếng Việt gọi là họ chính thức gởi thư phúc đáp lại những nguyện vọng của chúng ta, và họ muốn chúng ta giúp cho trong vấn đề làm việc với chính quyền cộng sản Việt Nam. Chúng ta phải nên nhớ Việt Nam chúng ta bây giờ là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, là một nước có thành viên trong Liên Hiệp Quốc, họ là một quốc gia có nhiều hợp tác với nhiều quốc gia khác, chúng ta phải tôn trọng cái sự đó. Người Việt Nam mà muốn cho người Việt Nam chúng ta có quyền căn bản làm người thì chúng ta nên dùng cái số cử tri của chúng ta làm việc với Tổng Thống nước Mỹ và nước Việt Nam của chúng ta gần nhau hơn thay vì là xa nhau. Nếu mà Tổng Thống, cơ quan lập pháp của Mỹ mà làm việc với lại chính phủ ở Việt Nam mà có thể ngồi gần được với nhau, bên Việt Nam chấp nhận sẽ thả những tù nhân gọi là nhân quyền, lương tâm, không còn đàn áp chính trị. Bên Việt Nam những nhà lãnh đạo sáng suốt đi lại với tự do, đừng nên đi với lại chế độ chính nghĩa độc tài cộng sản như Trung quốc. Nếu mà người lãnh đạo Việt Nam của chúng ta mà đi với nhà lãnh đạo độc tài của Trung quốc thì không sớm thì muộn thì đất nước chúng ta sẽ bị mất.”
“Cho nên với bổn phận của người dân Hoa Kỳ cũng như là một người Việt Nam, Trúc Hồ nghĩ là chúng ta nên thông minh, sáng suốt và đặt cái quyền lợi của người Việt Nam trong nước trên tất cả mọi quyền lợi khác. Chúng ta tạo dựng sức mạnh để giúp chính quyền Hoa Kỳ mang chính quyền Việt Nam gần lại với tự do, và sự giúp đở đó cần những cái ý kiến của những người dân Hoa Kỳ gốc Việt, cái đó rất cần thiết.”
“Chúng ta phải nên giúp những người lãnh đạo Hoa Kỳ, Tổng Thống Obama làm việc với Bộ Ngoại Giao và làm việc với chính quyền cộng sản, làm sao mà họ gần với mình, làm sao họ gần với mình cho người Việt Nam chúng ta bớt khổ.”
“Chúng ta không có đòi hỏi nhiều, chúng ta chỉ xin là quyền căn bản làm người thôi, cái quyền đó nước Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc thì chắc chắn là họ phải chấp nhận theo cái gọi là Bản Tuyên Ngôn, Hiến Chương Về Nhân Quyền mà đã ký năm 1948, chắc chắn họ phải bắt buộc.”
“Chúng ta đừng đẩy nhưng người lãnh đạo Việt Nam đi vào, đi về phía Trung quốc, mà chúng ta những người Việt Nam ở trên thế giới này, chúng ta phải tạo sức mạnh ở Hoa Kỳ, ở Úc Châu, ở Canada, ở Liên Hiệp Châu Âu, mình phải làm sao mình vận động những người lãnh đạo của từng nước, quốc gia mình ở, làm sao cho những người lãnh đạo của từng nước quốc gia mình ở, làm sao mình vận động những người lãnh đạo ở Việt Nam họ đi gần với phía của tự do, dân chủ càng sớm thì nước Việt Nam mình, những người dân càng tốt đẹp hơn.”
VIDEO: Xin kéo mũi tên tới chỗ 22:57 để nghe Trúc Hồ nói phần trên:
“Đã đến lúc Quốc Hội phải là người Hoa Kỳ thật sự, đã đến lúc Quốc Hội phải giúp đở nước Việt Nam của chúng ta. Chuyện quan trọng đầu tiên Quốc Hội cần phải làm giúp chúng ta là cái gì? Chúng ta không bao giờ kêu gọi lật đổ chế độ (cộng sản) hay là bạo động hay là gì hết, cái đó hoàn toàn sai. Trong thế giới chúng ta đang sống bây giờ, chúng ta tất cả mọi thứ chúng ta đều nên hành động một cách nói chuyện với nhau. Nước Việt Nam chúng ta quá nhiều chiến tranh, chúng ta không nên kêu gọi chiến tranh, không nên kêu gọi hận thù, mà chúng ta phải nên mang tình yêu xóa tan hận thù. Chúng ta là những người Việt đã từng bị nạn nhân của nhiều chuyện, nhưng mà thôi, chúng ta đã vượt qua tất cả rồi, chúng ta phải hãnh diện chúng ta đã vượt qua cái sự chết, và chúng ta đã sống lại, và chúng ta sống lại để giúp người chứ chúng ta không phải sống để mà moi cái này, móc cái kia, để mà nói người này nói người kia cái nọ.”
“Rất nhiều nỗi oan ức của 3 miền luôn chứ không phải một miền đâu. Đã đến lúc chúng ta phải mang tình thương, mang tình yêu để xây dựng lại một nước Việt Nam, và chúng ta không nhân danh ai, chúng ta không nhân danh hội đoàn, chúng ta không nhân danh đảng phái mà chúng ta nhân danh Việt Nam, chúng tôi là người Việt Nam và những người ở Hoa Kỳ, nhân danh chúng tôi là những người Hoa Kỳ mà gốc Việt, còn ở bên Châu Âu, những người ở Úc Châu, bên Canada và ngay cả tuổi trẻ Việt Nam” …(ngưng trích)
VIDEO: Xin kéo mũi tên tới chỗ 40:50 để nghe Trúc Hồ nói phần trên:
Không phải ông Trúc Hồ tuyên bố những câu “chói tai, thân cộng” một các “vô tình” hay “lầm lỡ,” trái lại ông Trúc Hồ lặp đi lặp lại cái thông điệp “bưng bô” Việt cộng và tuyên truyền làm lợi cho cộng sản Việt Nam nhiều lần và tại nhiều địa điểm khác nhau, mà điển hình thêm một lần nữa vào buổi tiệc tại nhà hàng Fortune ở Hoa Thịnh Đốn tối ngày 5 tháng 3 năm 2012 tường trình kết quả trao Thỉnh Nguyện Thư cho Tòa Bạch Ốc vào sáng cùng ngày, thì ông Trúc Hồ cũng đã tuyên bố một cách láu cá và trắng trợn bợ đít Việt cộng như sau:
“Trong năm nay chúng ta không kêu gọi gì hết, chúng ta chưa bao giờ kêu gọi bạo động, chúng ta chưa bao giờ kêu gọi lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”
“Và Quân Đội Nhân Dân, những người lính, những người mà Hồ kính phục, kính nể, phải làm thiên chức của người lính là phải bảo vệ quê hương đất nước của mình”…(ngưng trích)
VIDEO: Xin kéo mũi tên tới chỗ 21:49 để nghe Trúc Hồ nói phần trên:
Còn đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ và hải ngoại thì ông Trúc Hồ đã tỏ ra ngạo mạn, xấc xược, hổn láo và khinh rẻ cộng đồng một cách trắng trợn khi ông Trúc Hồ trả lời cuộc phỏng vấn của nữ xướng ngôn viên Diễm Thi đài Á Châu Tự Do RFA ngày 8 tháng 3 năm 2012 rằng:
“Ba mươi mấy năm qua chúng ta đã thấy gì? Chúng ta không thấy gì hết! Chúng ta chỉ thấy chúng ta biểu tình và chúng ta đi về”…(ngưng trích)
VIDEO: Xin kéo mũi tên tới chỗ 04:37 để nghe Trúc Hồ nói phần trên:
Như vậy nghĩa là sao? Phải chăng ông Trúc Hồ muốn nhục mạ, khinh thường và vô hiệu hóa sự dấn thân đấu tranh không mệt mỏi của tập thể người Việt tỵ nạn tại hải ngoại trong suốt 37 năm qua, và chỉ có Trúc Hồ, tập đoàn SBTN và Asia Entertainment mới có đủ tư cách, tâm huyết và khả năng giúp dân cứu nước hay sao? Thật là một câu tuyên bố vô lễ và kiêu ngạo lố lăng vô cùng. Một điểm vô cùng oái ăm và khốn nạn là lời tuyên bố ngông cuồng và xuẩn động này đã được đài phát thanh về quốc nội, cũng như đăng tải chính thức trên mạng RFA, khiến cho đồng bào trong nước vô cùng bối rối và sửng sờ, thất vọng khi được nghe chính miệng một nhân vật “Quốc Gia cở bự” Trúc Hồ “phán” một câu “xanh dờn” như vậy. Thử hỏi đồng bào trong nước khi nghe xong thì làm sao họ có thể đặt nhiều hy vọng và niềm tin về sức mạnh của cộng đồng người Việt hải ngoại trong việc hỗ trợ họ đấu tranh trong quốc nội được?
Đài truyền hình SBTN về Vệt Nam làm phóng sự từ Bắc tới Nam mà không bị Việt cộng ngăn chận.
1) Sự kiện Trúc Hồ và tập đoàn SBTN có liên hệ với Việt cộng trong vấn đề truyền thông và liên hệ tổ chức kinh tài Việt cộng. Mời quý vị theo dõi một số hình ảnh dưới đây, chứng minh rằng Trúc Hồ và tập đoàn SBTN có sự móc nối với Việt cộng để ê kíp SBTN được phép tự tung tự tác tại Việt Nam, đi thong dong từ Bắc chí Nam, thâu nhiều phim phóng sự, đặc biệt bộ phim dài và công phu với nhan đề là "Hành Trình Xuyên Việt." Tôi không chủ trương phân tích về nghệ thuật trong bài viết này, mà tôi chỉ muốn chứng minh cuốn phim "Hành Trình Xuyên Việt" được đài truyền hình SBTN chiếu liên tục và rộng rãi tại Hoa Kỳ có mục đích tuyên truyền cho tổ chức kinh tài Việt cộng, vì trên màn ảnh được chiếu hàng chữ Trúc Hồ là "Nhà Sản Xuất," và muốn biết chi tiết thì liên lạc www.SBTN.tv và
http://vietnamcloseup.com/
Điều mà tôi muốn nhấn mạnh và lưu ý ở đây là Trúc Hồ và tập đoàn SBTN giới thiệu đến khán thính giả tại Hoa Kỳ cái website http://vietnamcloseup.com/, mà đây chính là tổ chức kinh tài Việt cộng, chuyên đảm trích các dịch vụ thương mại, hàng không, và du lịch tại Việt Nam.
|
Mời quý vị bấm vào Link website này để thấy sự thật: http://vietnamcloseup.com/
Sự kiện này đã chứng minh rõ ràng và thực tế rằng Trúc Hồ và tập đoàn SBTN có liên hệ tổ chức kinh tài Việt cộng.
|
2)
Trong phần tin tức buổi trưa ngày 13 tháng 10 năm 2010, Đài truyền hình SBTN do Trúc Hồ làm Tổng Giám Đốc chiếu toàn bộ cuốn phim do phóng viên Thanh Toàn của đài SBTN quay Hội Nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng Các Nước Asean Mở Rộng tại Hà Nội, Việt Nam.
Mời quý vị bấm vào Link để xem chi tiết:
Mời quý vị bấm vào 2 Links dưới để xem toàn bộ cuốn phim "Chuyện Chưa Ai Biết" do phóng viên Thanh Toàn quay 3 ngày Hội Nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng do Việt cộng tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam, được đài SBTN chiếu rộng rãi tại Hoa kỳ và hải ngoại:
div style="font-size:13px">
http://www.youtube.com/watch?v=pctnRB1yyTc( Preview)
phần 1
3)
Thanh Toàn là phóng viên chính thức của đài truyền hình SBTN về Việt Nam quay phim và làm phóng sự cho đài truyền hình SBTN tại Mỹ:
VIDEO:
Xin bấm vào các Links dưới để xem phóng viên Thanh Toàn của đài truyền hình SBTN do nhạc sĩ Trúc Hồ làm tổng giám đốc, đang ở thường trực tại Việt Nam để phỏng vấn và làm "Ký Sự Truyền Hình" gởi thường xuyên về đài SBTN ở Mỹ. Tại sao cộng sản đồng ý để đài "chống cộng" SBTN của Trúc Hồ được tự do hoạt động tại Việt Nam? Rõ ràng là giữa Trúc Hồ và cộng sản Việt Nam có liên hệ mật thiết và có trao đổi điều kiện lẫn nhau.
Thanh Toàn SBTN tường trình từ về cơn mưa Việt Nam
ĐÀI TRUYỀN HÌNH HAI MANG: SINH BẮC TỬ NAM.
- Dân Chì -
Theo kinh nghiệm lịch sử, không có phe thù nghịch nào chấp nhận bất cứ cái gì từ phía bên kia. Thời đệ nhị thế chiến, đài phát thanh nổi tiếng BBC, không thể gởi thông tín viên của đài, công khai hoạt động ở nước Đức hay cả những vùng do quân Quốc Xã chiếm đóng, tất nhiên là các nhân viên đài BBC, nếu có mặt, cũng cần phải lẫn tránh tối đa tất cả những gì có quan hệ đến Quốc Xã, nhất là tổ chức tình báo Gestapo.
Trái lại ở Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn,
Canberra
... cũng không chấp nhận bất cứ cơ quan thông tin nào của Quốc Xã hay Nhật Hoàng, được tự do hoạt động như là các cơ quan truyền thông của họ. Nên nhớ là sau trận Nhật dội bom Trân Châu Cảng năm 1941, làm chết 2, 700 người, bị thương hàng ngàn người khác, thì tin tức tình báo cho biết là không quân Nhật có khả năng tấn công nước Mỹ, nên tại thành phố Nữu Ước, hàng chục ngàn cư dân Mỹ gốc Nhật đã bị tập trung, giải về các trại tạm cư ở Cali...phòng bịnh hơn trị bịnh.
Thời chiến tranh lạnh, các nước Cộng Sản Nga, Tàu, Đông Âu....không thể cho và lợi dụng sự tự do truyền thông để gởi các đại diện truyền thông nhà nước sang cộng sản, thu lượm tin tức và hoạt động công khai trong lòng địch. Trái lại, các nước Cộng Sản càng gắt gao và lưu ý hơn, họ sẵn sàng bắt bớ những ai hoạt động đưa tin sang các cơ quan truyền thông tây phương, không bao giờ cho phép đại diện các cơ quan truyền thông tay phương được hoạt động, ngay cả đài phát thanh Âu Châu Tự Do, cũng bị phá sóng tối đa.
Ngày nay, tại nước ngoài, đài truyền hình SBTN do nhóm Trúc Hồ, Nguyễn Nam Lộc, Nguyễn Nam Khánh.... và những thế lực bên trong đã thành công trong việc tạo được thế hòa hợp hòa giải truyền thông hai chiều, hai bên đều có lợi. Điều nầy đã xảy ra khá lâu, là một chuyện bất thường, cần phải lưu ý để tránh thiệt hại cho người quốc gia.
Đài truyền hình SBTN có công quyên góp tiền của người Việt hảo tâm nước ngoài, chuyển về nước làm từ thiện
hàng chục năm qua, con số tiền nầy không phải là nhỏ. Người làm công việc từ thiện có chính sách nầy là Trúc Giang, cha của Trúc Hồ.
Đài truyền hình SBTN được hoạt động công khai tại Việt Nam,
dù nhiều người tưởng đài nầy chống cộng, lập trường quốc gia rõ ràng qua các chương trình nói chung chung, tố tham nhũng, dân oan, nhân quyền, ca tụng các nhà dân chủ, mà sau nầy họ không chủ trương lật đổ Cộng Sản qua biểu tình tại gia, lật đổ cộng sản làm xáo trộn xã hội... đây là những điều đảng cùng nhà nước Việt Nam
xem
là nhàm chán, thế giới và người Việt nói quá nhiều, nói thêm nữa cũng không thiệt hại gì. Đài có đặc phái viên, đại diện là đứa con trai lớn của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, có phỏng vấn trong nước, quay
phim
và gởi ra nước ngoài dễ dàng... chả lẽ ngày nay đảng và nhà nước đã mở nới rộng, cho phép truyền thông tự do? Nhưng các bloggers như Điếu Cày, Người Buông Gió... lại bị đàn áp thẳng tay, họ đâu có phản động bằng đài truyền hình SBTN?
Nhìn đa số các thương gia quay về làm ăn như vua chả giò Trịnh Vĩnh Bình, Úc Kiều Nguyễn Trung Trực, Nhật kiều Nguyễn An Trung, Mỹ kiều Trần Trường.... đã bị trấn lột sau thời gian làm ăn, phả bỏ của chạy lấy người. Nhưng bên cạnh đó, rất hiếm gương thành công, làm giàu tại Việt Nam, lâu dài như nữ thương gia Nancy Bùi, Katrina Hoàng Oanh...không phải tự nhiên thành công, trong một chế độ chủ trương trước sau như một: thà giết lầm hơn tha lầm. Như thế, vài gương thành công nêu trên phải có thể lệ và điều kiện áp dụng..
Đài truyền hình được một số người cho là chống cộng lớn nhất nước ngoài của người Việt tỵ nạn chủ trương SBTN, có được hoạt động công khai, thông tín viên, đại diện đài, đại diện từ thiện, tất là điều khác thường.
Trong lúc những tờ báo điện, giấy nào chống cộng mạnh, hay những người nổi tiếng, kiên trì...chắc là không bao giờ được đảng, nhà nước cho về, trừ trường hợp đổi màu, đón gió, xin xỏ như Nguyễn Cao Kỳ và gia đình, Phạm Duy, Nguyễn Phương Hùng, hay về xin in sách và hội ngộ với Nguyễn Cao Kỳ như là nhà văn Đặng Văn Nhăm, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc....
Dân biểu Mỹ là bà Loretta Sanchez hay vài nghị viện Âu Châu... cũng đã bị nhà nước Việt Nam từ chối nhập cảnh, dù đây là các nhà chính trị của các nước có bang giao với Hà Nội.
Nhưng đài truyền hình SBTN là đặc biệt và khác thường, cần phải lưu ý để không lầm lẫn nữa. Chế độ độc tài ở Việt Nam có thể cho là: họ đã có tự do truyền thông, bằng chứng là cho phép đài truyền hình phản động SBTN có đại diện tại Việt nam, như là những cam kết với các nước tây phương để nhận buôn bán, viện trợ. Từ đó họ đòi hỏi các nước tây phương làm như họ qua cái gương của đài truyền hình SBTN của nhóm Trúc Hồ, Trúc Giang, Nguyễn Nam Lộc, Nguyễn Nam Khánh...và những thế lực bên trong. Có thể là họ đưa đại diện bộ thông tin văn hóa, các thông tín viên, nhà báo quốc doanh sang hoạt động công khai ở các cộng đồng tỵ nạn, qua tiền đề từ đài truyền hình SBTN.
Đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam không làm cái gì mà không có ý đồ, mục đích yêu cầu. Việc họ cho phép đài truyền hình SBTN và đại diện đài từ thiện Trúc Giang, là có lý do, và cũng như điều kiện hay sự quan hệ giữa hai bên. Vụ nhạc sĩ trẻ trong nước là Việt Khang bỗng bị bắt và người tiên phong kêu gọi cứu là Trúc Hồ, lời lẽ rất là tích cực, kèm theo vận động chữ ký, nhưng sự vụ nầy có nhiều nghi vấn.
Trong khi bị giam cầm, nhà nước và công an rất cần những tin tức về Việt Khang, thì đài truyền hình SBTN là nơi đưa hình anh nhạc sĩ mặc áo thung của tổ chức phản động nước ngoài là Tuổi Trẻ Yêu nước. Đó có phải làm hại người ta không? Công an chỉ cần thu thập những lời tự khai của các nhân sự, tổ chức trên đài truyền hình SBTN và vài tờ báo của Việt Tân, khỏi cần phải mất nhiều thời giờ, cũng đủ để kết án nặng qua tội danh cấu kết với các thế lực phản động nước ngoài, âm mưu lật đổ nhà nước.
Người Việt hải ngoại cần phải cẩn thận đài truyền hình SBTN, đây là cơ quan truyền thông hai mang, đáng nghi ngờ, phòng bịnh hơn trị bịnh. Những kinh nghiệm xương máu về sự gian manh của Cộng Sản, không cho phép nạn nhân CS tin tưởng một cách mù quáng đài truyền hình nầy.
Sau khi Việt gian Trúc Hồ bị cộng đồng khinh rẻ, lên án, tẩy chay, thì tập đoàn ASIA, SBTN bèn tìm ra một kế hoạch "giải vậy" bằng cách "bơm" vợ của Trúc Hồ là nữ xướng ngôn viên Nguyễn Khoa Diệu Quyên thật "kêu" nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của tập đoàn ASIA, SBTN. Bám víu vào "hào quang" Nguyễn Khoa Diệu Quyên là "cháu" của Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nên tập đoàn ASIA, SBTN ngay cả Nguyễn Khoa Diệu Quyên luôn nắm mọi cơ hội khoe khoang về cái sự liên hệ "gia phả" đó nhằm chứng minh lập trường Quốc Gia. Bằng chứng là trong các dịp lễ giỗ Tướng Nguyễn Khoa Nam hay ra mắt sách về cuộc đời Tướng Nguyễn Khoa Nam thì Nguyễn Khoa Diệu Quyên và thân phụ là Nguyễn Khoa Khương luôn đứng ra cộng tác tổ chức cũng như đóng vai MC và đại diện gia tộc "Nguyễn Khoa" để đọc diễn văn, diễn từ, cảm tạ v.v...
*************************************************
HÌNH ẢNH BUỔI LỄ RA MẮT TÁC PHẨM "NGUYỄN KHOA NAM" TẠI MIỀN NAM VÀ BẮC CALIFORNIA
Phần cảm tạ của ông Nguyễn Khoa Khương, trưởng tộc Nguyễn Khoa miền Nam California
Vợ chồng tác giả Nguiye64n Mạnh trí và cô Nguyễn Khoa Diệu Quyên, Trung Tâm Asia
Nêu Cao Tinh Thần Nguyễn Khoa Nam
Ông Nguyễn Khoa Khương, thân phụ của MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên SBTN đọc diễn văn:
Kính thưa Quý Đồng Hương,
Tôi không muốn đi sâu vào cái việc nội bộ của gia tộc "Nguyễn Khoa," và tôi cũng muốn minh xác cho rõ ràng tôi chẳng có ý xúc phạm hay "kéo" Tướng Nguyễn Khoa Nam vào bài viết của tôi, vì với tư cách là người con dân nước Việt Nam Cộng Hòa, tôi luôn kính trọng và biết ơn tất cà sự hy sinh của các chiến sĩ Quân Lực VNCH, và tôi kính phục những chiến sĩ VNCH đã vị quốc vong thân trong đó có 5 vị tướng lãnh VNCH đã tuẫn tiết trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà Tướng Nguyễn Khoa Nam cũng là người đã anh hùng tuẫn tiết vì không chấp nhận đầu hàng giặc cộng. Lý do mà tôi nêu ra vấn đề trên là vì tôi rất bất mãn và phẫn nộ khi nhìn thấy vợ chồng Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn ASIA, SBTN luôn lợi dụng danh nghĩa và uy tín của Tướng Nguyễn Khoa Nam để làm "bùa hộ mạng" và làm "lá chắn" nhằm bảo vệ, che chở cho hành vi thân cộng của vợ chồng Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn ASIA, SBTN.
Không cần trình bày dông dài, chắc hẳn quý vị từng đọc nhiều bài viết của các "Fans" Trúc Hồ, ASIA, SBTN cho rằng tôi cho Việt gian Trúc Hồ thân cộng là sai vì Trúc Hồ là "cháu rễ" của Tướng Nguyễn Khoa Nam, là chồng của MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên thì không thể nào theo Việt cộng được.
Tôi cho đó là một sự lý luận và ngụy biện vô ý thức và thiếu chính xác, vì Tướng Nguyễn Khoa Nam có riêng lập trường Quốc gia và vị thế chống cộng triệt để của ông ta, không ai có thể "nhập nhằng" sự liên hệ gia tộc để kéo Tướng Nguyễn Khoa Nam vào sự tranh chấp chính trị trong cộng đồng tỵ nạn hiện tại.
Sự thân cộng và nối giáo cho giặc của vợ chồng Việt gian Trúc Hồ-Diệu Quyên và tập đoàn ASIA, SBTN thì chính bọn chúng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc, cộng đồng chứ không dính dáng gì đến Tướng Nguyễn Khoa Nam cả. Tướng Nguyễn Khoa Nam hoàn toàn "vô tội".
Điều chính yếu mà tôi muốn nêu ra đây là lâu nay vợ chồng Việt gian Trúc Hồ - Diệu Quyên và tập đoàn ASIA, SBTN chỉ đề cập và lợi dụng tên tuổi của Tướng
Nguyễn Khoa Nam là người trong gia tộc "Nguyễn Khoa," nhưng bọn chúng không hề nhắc tới chuyện Nguyễn Khoa Diệu Quyên cũng lại có một người chú trong gia tộc.
"Nguyễn Khoa" là Nguyễn Khoa Điềm, một tên cộng sản cao cấp, từng giữ các chức vụ cao cấp cộng sản Việt Nam, như trong cái tiểu sử do Việt cộng viết sau đây:
6)
Kính thưa Quý Đồng Hương,
Theo tôi cái việc Việt gian Trúc Hồ chỉ là một nhạc sĩ trình độ bình thường, vô danh tiểu tốt mà được cất nhắc lên chức tổng giám đốc cao cấp của tập đoàn ASIA, SBTN
không phải là một sự ngẫu nhiên, mà trái lại là do sự dàn xếp và chỉ đạo của Việt cộng, vì một lý do đơn giản là vì cả hai vợ chồng Việt gian Trúc Hồ-Diệu Quyên.
có dây mơ rễ má với cán bộ cao cấp Việt cộng, được hai cái "dù" cộng sản to tổ bố che chở, bảo kê. Phía Trúc Hồ tức Trương Anh Hùng thì có Ca Lê Thuần,
còn bên Nguyễn Khoa Diệu Quyên thì có Nguyễn Khoa Điềm, chính nhờ vậy mà Trúc Hồ mới được nắm vị thế cao cấp như vậy.
Mời quý vị coi sơ qua cái gia phả của vợ chồng Trúc Hồ - Diệu Quyên sau đây.
Trong những bài viết kế tiếp tôi sẽ trình bày chi tiết rõ ràng về việc bọn chúng thông đồng và cấu kết ra sao trong việc
dùng hệ thống truyền thông, ca nhạc ASIA, SBTN để làm cái loa tuyên truyền cho cộng sản tại hải ngoại.
Hình dưới: Mặt mũi Trúc Hồ trong trại tỵ nạn, vài tháng trước khi qua Mỹ định cư.
Chú thích:
Xin mời bấm vào các Links dưới để biết cuộc đời cặp vợ chồng Việt cộng
Ca Văn Thỉnh và Lê Thị Tài, là cha mẹ của những tên Việt cộng Ca Lê Du, Ca Lê Thuần,
Ca Lê Hồng, Ca Lê Hiến, và cũng là họ hàng với gia đình Trúc Hồ, giám đốc tập đoàn
SBTN, Asia:
http://nhavantphcm.com.vn/tac-
pham-chon-loc/tieu-thuyet/
tieu -thuyet-ngac-xuyen-hien-
nhan- ky-5.html
Chú thích:
Trích một đoạn ngắn trong kỳ 1 của quyển tiểu thuyết viết về Việt cộng Ca Văn Thỉnh "Ngạc Xuyên hiền nhân" do Nhà Văn Hồ Chí Minh xuất bản, chứng minh sự gia nhập đảng cộng sản Việt Nam của vợ chồng Ca Văn Thỉnh và Lê Thị Tài, họ hàng với gia đình Trúc Hồ, giám đốc tập đoàn SBTN và Asia.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Ca Văn Thỉnh đưa cô giáo Lê Thị Tài
về Cái Sấu - Tân Thành Bình giới thiệu với song thân và xin làm lễ thành hôn. Cả nhà tụ họp, mỗi người mỗi góc độ.
------------------------------ -------------
Trong dịp nầy
Đốc Thỉnh
và Tư Minh, nhỏ hơn Thỉnh hơn một con giáp song là bạn vong niên gần gũi mến mộ nhau. Tư Minh còn tục danh Minh ruồi do có nốt ruồi dưới càm. Một thể hình đề đạm, săn gân bắp; phong thái linh hoạt trí lự với vầng trán vuông và rộng với đôi mắt hiền và sáng. Làm việc ở Tòa bố, nhưng Tư Minh chán ngán nghề công chức trẻ, đam mê hoạt động thể thao, tham gia câu lạc bộ bơi thuyền (Périssoire), do chánh án tòa án tỉnh thành lập. Do đó Tư Minh kết thân với Huỳnh Kỳ Thanh, cán bộ “bí mật”, lớn hơn Tư Minh nhiều tuổi, trước làm ở hãng phim Đông Dương. (Indochine Film). Để chuẩn bị thi đấu với Vĩnh Long, hai anh em thường đi tập bơi với chiếc thuyền hai chỗ ngồi trên sông Bến Tre ra vàm sông Hàm Luông.
Tin cậy nhau, Hai Thanh cho Tư Minh mượn cuốn “
Tìm hiểu Chủ nghĩa Cộng Sản
” bằng tiếng Pháp của tác giả Politzer với vài nguồn tìm hiểu khác về Đảng Cộng Sản, Tư Minh tâm tình bộc bạch những điều bí mật với
Đốc Thỉnh:
– Anh Tư có biết Nguyễn Ái Quốc là ai chưa?
– Làm sao mà biết được.
– Là lãnh tụ Đảng Cộng Sản Đông Dương. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ảnh Người.
– Chuyện quốc cấm! Ảnh ở đâu có chú cho mình coi với?
– Coi lén! Hôm phiên trực chủ nhật, tôi mở tủ tài liệu mật, gặp ba cuốn sách tiếng Pháp của Sở Mật Thám; tài liệu về Đảng Cộng Sản Đông Dương, Quốc Dân đảng và các đảng phái chánh trị khác. Tôi đọc tài liệu và coi ảnh Nguyễn Ái Quốc trong đó rồi cất lại chỗ cũ. Đây là một chính Đảng đấu tranh cho dân tộc, cho giai cấp cần lao. Anh sao, chớ tôi mong gặp Đảng quá!
Lòng mừng thầm, Thỉnh nghĩ Tư Minh dám nói với mình điều đó tất có thể có cơ sở để bắt liên lạc hoạt động cách mạng, ướm hẹn:
– Nếu chừng nào gặp Đảng, chú cho tôi hay với!
– Anh Tư còn phải dặn!
Thư ký Tòa bố, Tư Minh có nhiệm vụ thống kê, nhận thấy nền giáo dục của tỉnh Bến Tre phát triển khá nhanh, anh thầm trọng nể công lao đầy trách nhiệm của Đốc học Ca Văn Thỉnh và cô giáo Lê Thị Tài…
Qua Tư Minh, dẫn chứng vài con số:
Cả tỉnh gồm 92 làng, có 104 trường sơ cấp công lập, phân bổ làng nào cũng có trường, từ một đến hai, ba lớp. Như trường Chợ Xép - Tân Thành Bình có đến năm lớp (từ Enfantin đến Supérieur). Ngoài ra còn 11 trường tiểu học và 3 trường dạy nghề tại thị xã, có lớp dạy nữ công gia chánh. Môn nầy Lê Thị Tài.
Về tư thục có:
41 trường của các tôn giáo,
5 trường của Hoa kiều,
2 trường trung học và
92 lớp truyền bá Quốc ngữ.
Cả công lập và tư thục gồm 165 trường lớn nhỏ. Vì vậy thầy cô giáo rất đông, tinh thần yêu nước rất cao; nơi nào cũng có tổ chức Thanh niên học đường.
(Nhờ cơ sở, môi trường thuận lợi nầy, về sau, Đốc Thỉnh và Tư Minh hoạt động phong trào Thanh niên Tiền phong sôi nổi.
Hồi nầy ông bà đã sinh được năm con:
Ca Lê, Ca Lê Du (gái), Ca Lê Thuần (trai), Ca Lê Hồng (gái), Ca Lê Hiến (trai mới mấy tháng tuổi).
Quan hệ tình bạn vong niên với Tư Minh, tạo môi trường thuận lợi choĐốc Thỉnh tiếp cận chủ thuyết cộng sản qua tài liệu và sách; bắt liên lạc với
cán bộ bí mật của Đảng; kiến thức được nâng lên, lý tưởng cách mạng được củng cố. Sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời, từ tỉnh đến các huyện và một số xã có tổ chức Chi bộ Đảng, trong đó có xã Tân Thành Bình, Thỉnh mừng lắm, báo với Kim rằng sẽ có cơ hội gần Đảng. Nhớ lại thầy giáo Võ Văn Thơm từng nêu cao truyền thống yêu nước chống Pháp của xã Tân Thành Bình; bản thân thầy đã sớm tham gia cách mạng. Được sự khuyến khích của thầy, các học trò cũ như Ngô Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Diệp, cũng như con gái thầy là Võ Thị Vân đã gia nhập Đảng Cộng Sản. Nguyễn Văn Diệp là chắt ngoại của nghiã quân Trần Văn Đinh, dân quen gọi là Hương Đinh. Nhân một vài lần về thăm trường Chợ Xép, Đốc Thỉnh đến hầu chuyện ông Hương Đinh, tuổi đã gần chín mươi, râu tóc bạc trắng mà vẫn còn khỏe mạnh…
Đảng lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ một số điểm thành công, nhưng toàn cục diễn ra thất bại. Giặc Pháp ném bom cù lao Năm Thôn và Chợ Giữa - Vĩnh Kim. Chú ruột của Lê Thị Tài là Lê Văn Của tham gia khởi nghĩa ở đây, bị giặc Pháp bắt tra tấn đến chết. Chứng kiến cảnh bắt bớ, tù đày, sát hại dã man, gây ấn tượng mạnh đối với Thỉnh và Tư Minh. Lòng tha thiết muốn gặp Đảng càng thôi thúc.
Kịp thời (1941) Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh gọi tắt Việt Minh ra đời; hai anh em tìm tổ chức, gia nhập hoạt động phong trào Thanh Niên Tiền phong…
Vào cuối 1944, Bến Tre đã thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm đại biểu các quận do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư. Đến đầu 1945 tại thị xã lại thành lập một Tỉnh ủy lâm thời nữa, do Đỗ Văn Khuyến từ nhà tù Bà Rá trở về làm Bí thư. Tháng 4 - 1945, hai Tỉnh ủy lâm thời được hợp nhứt do Nguyễn Tẩu làm Bí thư. Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh và cả trường nữ Áo Tím, Tư Minh trẻ trai, thể thao giỏi đạp xe thường xuyên lên Sài Gòn bắt liên lạc, về báo tình hình: Sinh viên Sài Gòn bấy giờ dấy lên với các hình thức: lập đoàn ca hát, đoàn cắm trại và các câu lạc bộ… Hiệu quả hoạt động sôi nổi.
Xứ ủy công nhận tổ chức Thanh Niên Tiền Phong nằm trong Mặt trận Việt Minh, cử ra một Đảng đoàn phụ trách, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm Bí thư, Huỳnh Văn Tiểng và Nguyễn Văn Thủ làm Ủy viên. Thanh Niên Tiền Phong chính thức ra đời vào tháng 5 năm 1945; với Chủ tịch Hội đồng là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Đoàn kỳ là cờ vàng, sao đỏ.
Đoàn ca là bài Lên Đàng của Lưu Hữu Phước và Huỳnh Văn Tiểng. Trang phục thống nhứt: quần sort xanh, áo sơ-mi trắng cụt tay, dép cao su quai tréo, mũ bàng rộng vành. Vũ trang: dao găm và cuộn dây thừng mang thắt lưng. (Về sau, khi chuẩn bị khởi nghĩa mới trang bị tầm vông vạt nhọn). Trụ sở đặt tại số 14 đường Charner (nay là Nguyễn Huệ). Trung tâm huấn luyện lấy cơ sở của Jeunes Campeur ở đường Pellerin.
Thanh niên Tiền phong Bến Tre ngấm ngầm hoạt động giả dạng theo hình mẫu của thanh niên trong Sài Gòn. Có mấy lần Hai Thanh và Võ Tấn Nhứt (là Tỉnh ủy viên), trong tổ chuyên trách công tác Thanh niên Tiền phong cùng Tư Minh vầy đoàn xe đạp lên Sài Gòn gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong miền Nam, phản ảnh các mặt tình hình chánh quyền, thái độ quân Nhật, kết quả vận động tập hợp các đoàn thể quần chúng và xin ý kiến cho ra đời lực lượng Thanh niên Tiền phong tỉnh Bến Tre. Sau đó Tư Minh được kết nạp đảng viên Đảng Cộng Sản do Hai Thanh và Hai Nhứt giới thiệu. Tư Minh không quên lời hứa với Đốc Thỉnh, gợi ý với Hai Thanh, được trả lời rồi sẽ tiếp xúc đối tượng phát triển.
Đến tháng 6 - 1945, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cùng kỹ sư Kha Vạn Cân xuống Bến Tre, liên lạc với lãnh đạo Tỉnh ủy, hợp nhất tổ chức Thanh niên Tiền phong và đề cử Ca Văn Thỉnh làm Thủ lĩnh. Trong nội ô thị xã tổ chức nhiều “Cụm”… dưới sự chỉ huy của Tráng Trưởng Tư Minh làm Tráng trưởng, cùng với các Tráng trưởng khác lãnh đạo các cụm trong nội ô thị xã. Nhiệm vụ cấp thời là phát động cuộc mết tinh ra mắt Thanh niên Tiền phong.
Buổi mết tinh diễn ra tại sân vận động của thị xã, đông nghẹt hằng ngàn người. Trên hàng ghế Chủ tịch đoàn có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kỹ sư Kha Vạn Cân cùng cán bộ tỉnh là Tiến sĩ Phạm Văn Bạch, Võ Tấn Nhứt, Nguyễn Văn Cái, Tư Minh được Thủ lĩnh Ca Văn Thỉnh phân công thay mặt lực lượng lên phát biểu. Trước đám đông ngợp người, Tư Minh run quá, nhưng nói một hồi bắt trớn giọng rất hùng hồn và lời lẽ có phần bồng bột.
Cùng với Sài Gòn, ngày 25 tháng 8 năm 1945, Thanh niên Tiền phong Bến Tre đã phối hợp các lực lượng cách mạng Mặt trận Việt Minh nổi dậy cướp chánh quyền trong toàn tỉnh.
Luật - Cử nhân văn học Phạm Văn Bạch, nguyên Chánh án Tòa án tỉnh Bến Tre được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh; Nguyễn Văn Cái, Phó chủ tịch Ca Văn Thỉnh ủy viên… Tư Minh làm Tổng thư ký, nhưng anh xin được tiếp tục công tác thanh niên.
Ngày 26 - 8 - 1945, Ủy ban Nhân dân tỉnh - chánh quyền cách mạng đầu tiên ra mắt đồng bào.
Ca Văn Thỉnh - Ủy viên Ủy ban Nhân dân tỉnh kiêm Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong cùng với Tráng trưởng Tư Minh chỉ huy lực lượng Thanh niên Tiền phong thị xã bung ra mạnh mẽ, đảm nhận canh gác, giữ gìn an ninh trật tự; thay thế cảnh sát cũ biến mất trong lúc quân Nhật co cụm nơi trú đóng. Huy hiệu Thanh niên Tiền phong:
vòng tròn vàng - sao đỏ.
Được phóng đại treo lên đầu nhà lồng chợ Bến Tre.
______________________________ _______
[1]
Phạm Văn Bành sinh 1910, quê Trà Vinh, du học Pháp, đậu tiến sĩ luật và cử nhân văn học; hoạt động trong đoàn Thanh niên Cộng sản Pháp, ủng hộ Cách mạng tháng 10 Nga; Chủ tịch tỉnh Bến Tre đến 10. 1945.
[2]
Tư Minh, sau tên Mười Phi rồi Thăng Long, qua nhiều chức vụ: Tráng trưởng TNTP, Phó Giám đốc trường Quân chính Đồ Chiểu, cán bộ UBKC/HC tỉnh, cùng Ca Văn Thỉnh vượt biển ra Bắc, ốm nặng nằm lại dọc đường Hòa Bình là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương.
https://tinparis.net/thoisu13/2013_12_10_VCTrucHoDapLoiSongNui_NgoKy.html
|
No comments:
Post a Comment