Việt Nam – trung tâm nông nghiệp Lúa nước & kỹ thuật Đá cổ xưa
VÔ ĐỀ SÁNG CHỦ NHẬT 1/3/2020
https://youtu.be/HJxjPdTo9D0
Dòng sông Cửu Long làm sao cứu, sự ngu dốt của CSVN
CT ĐẶC BIỆT THỨ BẢY 14/3/2020
https://youtu.be/kkWUgK2KTbU
I- NƯỚC BÁCH VIỆT VÀ SỰ BẮT ĐẦU LẬP QUỐC CỦA TÀU-HÁN-MÔNG:
Niên đại bắt đầu lập một quốc gia nhỏ của nhóm liên minh các thị tộc Mông Cổ mà họ tự đặt tên là Hán tộc (Tiền Trung Quốc) là từ thời các tộc Mông Cổ thắng Liên Minh Xích Quỉ của Lạc Long Quân và Đế Lai tại trận Trác Lộc trên sông Hoàng Hà vào khoảng năm 2870 năm Trước Công Nguyên Lãnh tụ Mông Cổ lấy hiệu là Hoàng Đế làm vua trên một diện tích nhỏ của nước Xích Thần mà Đế Minh đã để lại cho con là Đế Lai. Nhóm Mông Cổ nầy được gọi là Hán Mông. Sự hiểu biết về niên đại nầy rất quan trọng. Khi được biết ai ra đời trước, ai ra đời sau chúng ta mới dễ bàn luận đến những vấn đề liên quan giữa hai nước Hán-Mông Cổ và Việt-Bách việt.
Sự kiện nầy là cần như là chìa khóa giúp chúng mở những cánh cửa tuy không còn bí mật, nhưng sự tranh chấp giữa hai dân tộc Hoa Việt vẫn luôn âm ỉ không dứt khoát được. Nếu có thể so sánh thì chúng ta thử so sánh nước Anh – Pháp… và nước Hoa Kỳ. Tuy Hoa Kỳ đất rộng người đông, văn minh giàu mạnh hơn Anh hay Pháp, Ý hay Bỉ, nhưng Hoa Kỳ vẫn là nước sinh sau đẻ muộn hơn các nước Âu châu. Và Hoa Kỳ đã lấy văn hóa của các nước Âu châu lập quốc từ xa xưa đem phát triển thành một nền văn minh mới cho mình.
Lịch sử Trung Hoa ghi rằng vào khoảng 2870 Tr. CN dân du mục Mông Cổ mạnh mẽ nên hay đem quân đánh nước Xích Thần của Đế Lai, vua Bách Việt phương Bắc. Quân Bách Việt của Đế Lai phải ra sức đánh đuổi quân Mông Cổ qua bờ bắc sông Hoàng Hà. Để trả thù, nhiều Bộ tộc Mông Cổ hùng mạnh lên, liên minh với nhau, rồi với ngựa cao giáo dài tổ chức đánh Đế Lai.
Thủ lĩnh liên minh Bộ lạc Mông Cổ chiếm bờ nam Hoàng Hà xưng là Hoàng Đế (ngôi vị trên sông Hoàng?). Trong một tiệc Tết tại Sài Gòn, tôi được nghe một vị học giả chuyên Việt-Hán sử Hà Nội bàn về nguồn gốc chữ ‘HÁN’. Theo lời học giả thì tên các quan chức xứ Mông cổ thường kèm chữ ‘KHAN’ đi trước. Vậy theo ông, thì chữ ‘HÁN’ là do chữ KHAN mà ra. Một dịp khác, một vị uyên thâm về chữ Tàu cho tôi hay, chữ KHAN là chữ Mông cổ có nghĩa là Chủ Thị Tộc. Như vậy chữ KHAN đúng là gốc của chữ ‘HÁN’.
Sau khi xưng Hoàng Đế, vua đầu tiên của nước Hán tộc nhỏ làm vua trên đất Bách Việt. Lãnh thổ nước Xích Thần vẫn chưa mất hẳn, con Đế Lai là Đế Du Võng còn tiếp tục trị vì. Như vậy lúc bấy giờ chưa thể gọi vua Hoàng Đế của Mông Cổ là vị vua đầu tiên của Trung quốc ngày nay. Tức là nước Tàu chưa được thành lập với chiến thắng Trác Lộc mà phải đợi Tần Thủy Hoàng thâu tóm Trung Nguyên của Bách Việt Cổ vào khoảng năm 214 tr. CN thì Trung Hoa mới lập quốc. Chính những cái tên Trung Nguyên, Trung Hoa, Trung Quốc, tên ‘Chin’, tên Tàu đều có nguồn gốc từ chữ Tần. Như vậy một cách chính thức nước Tàu lập quốc tại trung tâm lục địa Bách Việt chỉ khoảng 214 Tr. CN, thì làm sao Trung Hoa có văn hiến 4000, 5000 ngàn năm.
Nền văn hiến 4000 năm là của dân tộc Việt Nam hậu duệ của Bách Việt mà Tàu dành là của họ. Cách đây không lâu tôi có xem một phim vĩ đại: «Le Premier Empereux de la Chine», câu chuyện hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Lúc đầu tôi hơi lấy làm lạ. Suy nghĩ lại, tôi thấy thế giới cũng biết rõ về lịch sử lập quốc của nước Tàu là từ đời nhà Tần chứ không phải từ vua Hoàng Đế thắng liên minh Xích Quỉ của Đế Lai và Lạc Long Quân. Ngày nay ở Sài Gòn đã có hai con đường mang tên Lạc Long Quân và Âu Cơ.
II- ANH HÙNG NÔNG NGHIỆP TIỀN SỬ:
Trong dân gian Việt Nam, mỗi lần phải nói đến chuyện gì xa xưa, người dân quê mùa nhất vẫn thường nói: «Ôi, chuyện đó xưa rồi, từ đời ông Bành Tổ lận.» Chuyện ông Bành Tổ hay Bàn Cổ là một câu chuyện của Bách Việt, Tàu thấy hay, nên dành lấy làm tổ tiên của họ (Đọc chuyện Ông Bàn Cổ của An Phong Nguyễn Văn Diễn). Từ ông Bành Tổ đến Thần Nông, không biết có bao nhiêu đời. Truyền thuyết chỉ kể Thần Nông là người dạy dân nghề trồng lúa nước có qui mô và dạy nghề chữa bệnh bằng lá cây, được dân chúng tôn vinh là ‘Thần’ nhà nông, chứ tên thật thì không còn biết đến.
Ông Thần Nông làm vua hiệu là Viêm Đế hay Đế Viêm, vua xứ nóng cũng là một. Sau vua Thần Nông là vua Phục Hy. Việc nghiệp dạy dân làm nông của vua Viêm Đế còn có sự đóng góp quan trọng của bà Nữ Oa – là vợ vua Phục Hy.
Đó là bà Nữ Oa, tục gọi là O Gái hay O Nữ, về sau Tàu nhìn là tổ tiên của họ mà đổi ra tên là Nữ Oa. Chúng ta cùng bị buộc gọi theo Tàu thành ra quen gọi là Nữ Oa mà quên tên gốc là Oa Nữ. Nữ Oa nghiên cứu thời tiết mưa nắng bốn mùa suốt trong một năm để giúp cho việc làm ruộng có bài bản, lúc nào cầy đất, lúc ngâm giống, lúc gieo, lúc cấy mạ, lúc gặt hái, lúc nghỉ ngơi. Như vậy việc làm ruộng luôn được thành công như ý, không bị những bất ngờ do thời tiết. Và cũng nhờ vậy, dân chúng thành công trong mùa màng rồi được nghỉ ngơi mà ăn mừng, sinh ra ngày lễ trọng đại của nhân gian là ngày Tết. Tài nghiên cứu của nàng Nữ Oa là tài khoa học, nhưng dân vốn tin dị đoan cho rằng nàng có quyền hô nắng hô mưa, có tài “lấy đá vá trời”.
Hai vị trên đây liên quan trực tiếp đến việc trồng lúa nước của dân Bách Việt. Họ là tổ tiên anh hùng của dân Bách Việt. Câu chuyện không hề kể về Thần Nông sinh ra từ thời nào. Nhưng chỉ nói Thần Nông là ông Tổ nhiều đời về trước của Đế Minh. Theo nghiên cứu khoa Khảo cổ học thì tuổi của Thần Nông có lẻ lến đến trên 6000 năm tuổi.
Như trên đã trình bày là Mông Cổ vượt Hoàng Giang vào quảng 2870 năm Tr. CN đánh nhau ở Trác Lộc với con cháu có đến gần 10 đời của Thần Nông thì Tàu dành Viêm Đế làm tổ tiên của nhà Hán chỉ là chuyện khôi hài. Hơn nữa dân du mục Mông Cổ sống bằng nghề săn bắn chăn nuôi thì cần Thần Nông và Nữ Oa làm gì. Nếu nói rằng Thần Nông và Nữ Oa là tổ tiên của người Trung Hoa có nguồn gốc Bách Việt thì còn hiểu được, chứ tổ tiên của người Hán Mông thì hoàn toàn sai. Việc lạm nhìn văn hóa của người Việt Cổ, tức là dân Bách Việt mà Tàu khinh bạc coi là nam man, man di, chỉ cho làm ruộng, làm lính và làm tôi đòi, thì được coi như là toàn bộ văn hóa tiền sử và sơ sử của Bách Việt đều bị Tàu chiếm, nhưng ở đây chúng tôi không đi sâu vào văn hóa toàn diện. Nếu có dịp sẽ xin trình bày thêm.
Tuy nhiên từ căn nhà của nhà nông Bách Biệt làm bằng tranh tre, có mái cong tự nhiên, trở thành một mỹ thuật xây cất của Bách Việt thì Trung Hoa rất ưa thích hơn là kiểu nhà tròn du mục của họ. Loại nhà mái cong là nhà cố định, nhà tròn là kiểu du mục, nay sống nơi nầy, mai nhổ đem cắm nơi khác dễ dàng. Hai loại nhà nầy điều là nhà tiền và sơ sử của hai dân tộc Tàu-Hán-Mông và Việt-Bách-Việt. Nhưng Tàu đã yêu thích kiểu nhà mái cong của Bách Việt nên họ đã phát triển làm nên lâu đài cung điện rất đẹp đẽ nguy nga và họ cho đó là nhà của họ mà Việt Nam bắt chước làm cung điện ở Huế. Đó chỉ mới là cái vỏ bên ngoài, còn lắm sự cố, sẽ xin bàn thêm về kỹ thuật làm giấy, làm đường, làm gốm, làm trống đồng, bói quẻ, xem tử vi v.v……
III – GIẢ THUYẾT VỀ CON RỒNG CHÁU TIÊN:
Đế Lai cháu nội Đế Minh, nối nghiệp cha là Đế Nghi. Đế-Minh là cháu ba đời của Đế-Viêm tức Thần Nông. Đế Lai xưng là thiên tử làm vua nước Xích Thần của các thị tộc Bách Việt phương Bắc nằm giữa 2 con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử. Trước đó Đế Minh đi ngao du đến núi Ngũ Lĩnh gặp một tiên nữ là bà Vụ Tiên (người đàn bà tài giỏi và đẹp nên được tặng biệt danh là Tiên Nữ), đẻ ra Lộc Tục. Như vậy Lộc-Tục là em khác mẹ của Đế Nghi, chú của Đế Lai. Đế Minh cho Lộc Tục làm vua phương nam từ Dương-Tử-Giang đến tận Việt-Thường tức Trung-Việt ngày nay (thời đó một phần Miền Trung còn là hoang dã sình lầy). Lộc-Tục làm vua các thị tộc Bách Việt phương Nam mà Đế Minh đặt tên nước là Xích-Quỉ (quỉ ở đây có nghĩ là lanh lợi, tế nhị, khéo léo, khôn ngoan), để hai anh em nương tựa nhau mà tồn tại. Lộc Tục xưng hiệu là Kinh-Dương-Vương lấy nàng Long-Nữ con Động Đình-Quân đẻ ra Sùng-Lãm tức Lạc-Long-Quân. Như vậy Lạc-Long-Quân là con Nữ-Rồng (Long Nữ) và cháu nội của Tiên nữ (Vụ-Tiên vợ Đế Minh): Phải chăng do đó mà chúng ta được gọi là con Rồng (mẹ rồng Long Nữ) cháu Tiên (bà Vụ Tiên)? Chứ không phải cha Rồng là Lạc Long Quân và mẹ tiên là Âu Cơ. Những câu chuyện như vậy dân Trung Hoa gốc Bách Việt không dám nhắc đến trước giới lãnh đạo Hán tộc, và Hán tộc cũng thấy không cần phải lạm nhìn thêm nữa.
IV – TÓM LƯỢC VỀ MỘT NỀN VĂN MINH SƠ SỬ:
Dân tộc Việt Nam (DÂN TỘC VIỆT NAM) kinh qua hơn 1200 năm bị Tàu, Tây, Nhật, cùng chiến tranh liên tục từ 1946-1984 mà vẫn tồn tại. Như vậy cũng đã nói lên sức sống kiên cường nhẫn nhục và bất khuất của dân tộc Việt Nam như thế nào. Hiện dân tộc Việt Nam đang cần tìm và nhìn lại thời quá khứ oanh liệt của tổ tiên Bách Việt để có hướng bước đi lên vững vàng cho dân Việt ngày nay và con cháu trong ngày mai.
Trong tinh thần đó chúng tôi tìm hiểu vài điểm về lịch sử hai quốc gia Hoa Việt. Trong Việt Nam Sử-lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết:
“Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao-Chỉ và Cửu-chân (2 quận lớn trong 9 quận của Việt cổ), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng, vì trước đó dân Giao Chỉ chỉ biết săn bắn và chài lưới…” (!!!)
Sử gia Đào Duy Anh cũng viết:
“Nó (Trung Hoa) làm thầy khai hóa cho ta và các dân tộc Á Đông khác.”
Sách vở của các vị sử gia trên đã dạy dân Việt học suốt bao thế kỷ. Người Việt Nam cứ theo thế mà học u học mê và tin tưởng vào lịch sử nước nhà là thật! Không hiểu vì lẽ gì mà hai ông sử gia Việt Nam đã không cố tìm hiểu, suy luận và phán đoán đầy đủ về sử liệu nước nhà. Một gương sáng mà chúng ta cần chú ý: Triều-Tiên và Trung-Hoa phản kháng 35 điểm viết sai trong lịch sử giáo khoa Nhật-Bản hiện nay. Mặc dầu hai sử gia trên đã có công viết nên lịch sử nước nhà để dạy dân. Nhưng hai ông không quan tâm biên khảo cho đúng sự thật những gì đã được ghi chép lâu đời trong những bộ sử nước ta vào những thế kỷ trước: Bộ Đại-Việt Sử-Ký do hai sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần; và bộ Sử-Ký Toàn-Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê.
Sở dĩ ngày nay chúng ta không còn một dấu tích gì về các bộ luật cổ, sử địa cổ, nghệ thuật, binh nghiệp, văn chương cổ …thời Trưng Vương vì Mã Viện đã cướp lấy đem về Tàu hoặc tiêu hủy tất cả. Một trường hợp điển hình quí báu, GS Lê Hữu Mục cho biết là Trung hoa đã cho xuất bản một quyển sách mà tác giả là Chu Văn An: đây là một trường hợp hi hữu, có lẽ người có quyển sách của Chu Văn An tưởng lầm ông An là người Tàu. Số sách cổ lớn của Việt Nam bị cướp trong 1000 năm đô hộ Tàu đã bị họ đạo văn hay bị đốt phá. Như vậy biết bao tài liệu về lịch sử, văn chương, tài liệu canh nông, thời tiết, Y thuật, tướng số, tử vi v.v….. của tổ tiên chúng ta đã bị cướp lấy đem về Tàu xử dụng và tiêu hủy. GS Lê Hữu Mục cũng cho biết là “Thơ phú, câu đối của Việt nam vào tay họ, người Tàu đạo văn rất nhiều.”
V- NGUỒN GỐC NÔNG NGHIỆP CỦA BÁCH VIỆT:
Trở lại vấn đề giữa hai sắc dân Trung Hoa gốc Mông Cổ du mục và TH gốc Bách Việt nông nghiệp sống định cư trên Hoa Lục, thì thật dễ hiểu rằng nguồn gốc nông nghiệp của Trung-Quốc là do dân Miêu tộc hay man di (tên khinh miệt mà người Hán gọi Bách Việt ở lại với Tàu) dạy cho dân Hán Mông. Dân Bách Việt vốn đã có nghề nông từ lâu đời. Và các vị Thần nông, Nữ-Oa v.v… tổ sư nghề nông là tổ tiên của Bách Việt cũng đã chết lâu đời trước trận Trác-Lộc, tức trước khi Mông Cổ đến lập nước Trung Hoa. Vậy nên Hán tộc gốc Mông Cổ hoàn toàn không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các vị Viêm đế Thần Nông và Nữ Oa… nói trên. Và dân Bách Việt cũng đã thạo thành về nông nghiệp lâu đời từ trước khi Mông Cổ đến chiếm đất đai.
Vậy cả hai dân tộc, Trung-hoa gốc nam man Bách-Việt và Việt Nam gốc nam man Bách Việt đều là dân tộc anh em đã làm nên nền nông nghiệp từ rất nhiều thiên niên kỷ trước khi Mông Cổ đến xâm lăng đất đai lập nên Trung-Quốc ngày nay. Người Hán gốc Mông Cổ cai trị Trung-hoa lâu đời, và đô hộ Việt Nam non 1000 năm, nên lòng người nam man Trung-hoa gốc Bách Việt cũng như lòng người cổ Việt Nam dần lãng quên gốc gác của mình mà tưởng rằng văn minh nông nghiệp là do Tàu Mông cổ (Hán) khai hóa (?!). Đối với dân tộc Trung-quốc thời bấy giờ, người Hán có nguồn gốc Mông Cổ là lớp quí tộc chủ nhân, lớp lãnh đạo quyền uy giàu có. Miêu tộc hay nam man Bách Việt tuy đông, chỉ được làm nghề nông, làm thợ, làm tôi tớ, làm lính và bị liệt vào hàng bần cùng, nô lệ. Như thế văn minh nông nghiệp của dân Bách Việt không phải do du mục Mông Cổ khai sáng. Đó là tàng tích công lao Bách Việt hoàn toàn. Nếu phải nói một cách công bằng thì văn minh nông nghiệp Bách Việt là tài sản chung của toàn thể Bách Việt mà Việt Nam là chủ yếu. Vậy Trung-Hoa có nông nghiệp từ thời tiền sử, sơ sử ngay từ thời vua Hoàng đế là nhờ vào dân Miêu tộc man di (tức Bách Việt) ở lại chung sống dạy cho họ.
Với Việt sử, trong hai bộ sử xưa của Việt Nam còn lại là bộ Đại Việt Sử Ký do hai sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần, và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê đã có ghi rõ ràng:
“…Trước họ Hồng Bàng (Kinh Dương vương) còn nhiều đời vua nhưng không kể đến…(đó là các vua Phục-Hy, Đế Viêm, Đế Minh, Đế Nghi v.v…)”, và rằng ” …từ họ Hồng-Bàng (2879 tr. TC) dân ta cầy cấy mà ăn, đào giếng mà uống…” rằng “Vua Kinh Dương Vương nối nghiệp con cháu Thần nông, lấy con gái vua Động Đình Quân, tỏ rõ đạo vợ chồng, nắm ngay gốc văn hóa, lấy đức mà cảm hóa dân…đó chẳng phải là phong tục thái cổ từ Viêm Đế ư? …”
Rất có thể chính Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh cho rằng những tài liệu nầy là hoang tưởng là huyễn hoặc, nên không tin mà chép lại, họ lại đi tin sử Tàu. Trong lúc đó sử gia Trần Trọng Kim viết:
“Họ Hồng Bàng có vua Kinh Dương Vương (2879-258 tr.TL) là dòng dõi Vua Thần Nông có quốc hiệu là Xích Quỉ, có con là Lạc-Long-Quân nối ngôi ( 2.804 năm tr. TC).”
Ủa, đã gọi là con cháu vua Thần nông thì tại sao không rành về nghề nông mà phải đi nhờ dân gốc Mông Cổ du mục dạy vậy (?!) Viết sử như vậy chẳng hoá ra là mâu thuẫn lắm sao? Như thế, rõ ràng hai sử gia Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh chỉ biết dựa lặt vặt từng điểm trên sử của một quốc gia đã xâm lăng nước ta lâu đời và luôn có khuynh hướng chiếm, phá hoại hay xuyên tạc sự thật văn hóa tiền sử và lịch sử của dân tộc Bách Việt.
Tuy nhiên nhờ vào di vật của tổ tiên để lại trong lòng đất, các học giả khảo cổ học ngoại quốc Pháp, Mỹ, Nhật, Liên Xô và ngay cả Trung Quốc, và Việt Nam đã chứng minh cho chúng ta và thế giới ngày càng thấy rõ sự thật: Rằng chính dân Bách Việt nông nghiệp mà chủ đạo là Việt Nam (Xích Quỉ cổ) đã ảnh hưởng giáo dục lễ nghĩa, nông nghiệp và công nghiệp cho khắp lục địa Nam-Á trước khi Mông Cổ tới nhiều nghìn năm.
Theo Việt Nam cổ Bách-Việt, thì rằng, khi dân du mục Mông Cổ đánh Liên minh Xích-Quỉ của Đế Lai và Lạc Long Quân mà chiếm bình nguyên sông Hoàng Hà thì có thể coi đó là nhà Hán Mông Cổ xâm chiếm luôn nước Xích Thần (3000 năm tr.TC) và dần dà đến chiếm nước Xích Quỉ là Bắc thuộc lần thứ nhất. Lúc Tần Thủy Hoàng chiếm nước Âu Lạc của nhà Thục là Bắc thuộc lần thứ hai, chứ không còn là thứ nhất (214 tr TC). Lúc nhà Hán dứt nhà Tần bèn chiếm lấy nước Nam-Việt của Triệu Đà (Bách Việt) chia làm quận huyện: Đó là Bắc thuộc lần thứ ba chứ không còn là lần thứ hai. Lúc nhà Đông Hán đánh chiếm nước Lĩnh-Nam của Trưng-Vương là Bắc thuộc lần thứ tư. Nhưng chính sử đã bỏ qua lý luận trên đây. Phải tính bốn lần như trên mới tỏ rõ được việc Hán Mông chiếm nước Xích Quỉ của Việt Nam mà lập nên nước Tàu vĩ đại.
Câu chuyện “Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao-Chỉ và Cửu-chân (2 quận lớn nhất được coi là kinh đô của Việt Nam cổ không còn là nước Xích Quỉ hay Lĩnh Nam của Nữ Vương Trưng Trắc), dạy dân điều lễ nghĩa, cưới vợ hỏi chồng, dùng cày bừa mà cày cấy ruộng….” là hoàn toàn sai sự thật. Đức Khổng Tử là người đã sống trước Tích Quang và Nhâm Diên hàng bao nhiêu thế kỷ, chúng ta hãy nghe những lời của ngài sau đây, khi một môn đồ xuôi nam đến đất Việt, đến xin Đức Khổng Tử chỉ dạy, ngài nói:
“Người Bách Việt miền nam (phía nam Dương Tử) có lối sống, tiếng nói, luật lệ, phong tục, tập quán, thức ăn uống riêng…” “…dân Bách-Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta trồng kê và lúa mì. Họ uống nước bằng thứ lá cây hái trong rừng gọi là trà….”
Một lần khác Đức Khổng Tử xác nhận:
“Những đạo lý (ngài) viết ra để dạy vua quan gốc Hán tộc và dân chúng đều là những điều đã có sẵn trong dân gian miền Nam từ trước (dân gian miền nam tức là nam man gốc Bách Việt) “.
Chính những đạo lý đó tộc Mông-Cổ hoàn toàn không có, vì với Mông-Cổ chỉ có đạo lý của sức mạnh. Vì thế Đức Khổng Tử mới lấy đạo lý từ dân gian Việt cổ, viết ra để dạy cho vua quan Hán là giòng dõi Hán Mông Cổ. Đức Khổng Tử còn nói rằng:
“Dân Bách Việt rất thích ca múa, vừa làm việc vừa ca vè, hát đối, nói vận (vè, thơ, ca dao), lấy lá cây mang vào người, trá hình múa hát…”.
Và Đức Khổng tử cho rằng: “xướng ca vô loài, chẳng nên ca múa như dân Nam”. Nên trong thời gian đô hộ quan Tàu cấm dân ta múa hát trong những ngày lễ lạc. Nhưng hát-bội hay hát-bộ (vừa hát vừa làm bộ điệu) gốc Bách Việt thì vua quan Tàu rất thích nên họ phát triển hát bộ (sau nầy lại truyền qua cho Việt-Nam phương thức hát bộ mới, được chế biến thêm. Miền Nam Việt Nam lại cải biến thêm thành Cải Lương, Tàu lại chế biến thành cải lương Hồ-Quảng).
VI – VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA NHÀ TRƯNG:
Sách Hậu Hán Thư quyển 14 viết:
“Dân Giao-chỉ (thủ đô của Bách Việt phương nam) biết nhiều thủ công nghiệp, luyện đúc đồng và sắt v.v…..”
Sách Cổ Kim Đồ Thư, Thảo Mộc Điếm của Trung-hoa chép:
Làm Đường Phèn: “Mã viện tâu vua Tàu, Giao-chỉ ép mía làm đường phèn: Giao chỉ có thứ mía rất ngọt, đem ép lấy nước, rồi làm thành đường phèn.”
Làm Giấy Mật Hương: “Giao chỉ làm giấy mật hương: Giấy mật hương làm bằng lá và vỏ cây mật hương trồng ở Giao-chỉ, giấy mềm, giai và thơm, ngâm nước không bở không nát”(Hình 5).
Trong quyển sách ART DE LA CHINE (Nghệ Thuật Trung Quốc) của Jean Buhot “Les Editions du Chène, Paris” xuất bản tháng Tư năm 1951, tác giả viết:
“Le papier étant inventé par la Chine dès la dynastie des Háns probablement, on peut croire qu’ils connaissaient depuis la même époque deux procédés: l’estampage et l’impression… “!!??… “Giấy đã được Tàu phát minh ra từ thời các triều Hán, chắc như vậy, và người ta có thể tin rằng cũng vào thời ấy người Tàu Hán tộc đã biết 2 kỹ thuật: rập khuôn bằng tay và in ấn.”!!??
Xem như vậy, thì thấy những sự hiểu biết của người Âu Châu về Trung-Hoa và Việt Nam vô cùng lệch lạc sai lầm.
Xin ghi thêm ở đây là việc sáng tạo ra đường và đường phèn từ cây mía và việc phát minh ra giấy là công lao và là văn hóa của Nữ Vương Trưng Trắc. Vì sao? Tàu đang cai trị Lĩnh Nam, bị con cháu Hùng Vương là Hai Bà Trưng cùng mẹ là Man Thiện Trần Thị Đoan nổi lên chống cự. Sợ yếu thế, Man Thiện bèn bàn với Trưng Trắc kết sui để liên minh với Đặng Thi Sách thuộc dòng Sơn Tinh làm kế đánh Tàu. Chứ làm sao một góa phụ đi trả thù chồng mà được một lực lượng giúp rập, đánh nhanh, thắng mau đến thế. Lại thêm nữa, Vua Trưng Trắc nhà Đông Hán tự động sử sử cho làm vua 3 năm thôi. Thắng trận 3 năm thì làm được gì chứ. Xin xem đây:
Gần đây đào được trống đồng ở Vân-Nam, khảo cổ gia Tàu cũng tuyên bố ầm ỹ là trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng sản xuất (?!). Sao họ có thể quên đất Vân-Nam Quảng-Đông Quảng-Tây lên tận Động Đình Hồ vốn là đất của nước Việt Cổ, họ cũng quên những điều đã ghi trong Hậu Hán Thư quyển 14 về việc Mã Viện phá trống đồng đúc ngựa và cột đồng theo mật lệnh của vua Hán Quang Võ. Chính vua Quang Võ nhà Đông Hán đã ra mật lệnh cho Mã Viện phải phá hủy trống đồng Bách Việt của Trưng Vương vì đó vật thần linh giúp Việt tộc chống xâm lăng. Vì thế trên đất Hoa Nam hiện tại là đất Việt cổ tìm thấy trống đồng là việc đương nhiên. Hậu Hán Thư quyển 14 chép:
“Mã Viện là người thích cưỡi ngựa giỏi, biết phân biệt ngựa tốt. Lúc ở Giao-chỉ Viện lấy được trống đồng đem đúc ngựa…” (Hình 10)
Mã Viện đã phá trống đồng để đúc cột đồng trụ để chiếm cho chắc ăn phần đất từ Động Đình Hồ trở xuống Ải Nam Quan của nước Lĩnh-Nam. Và vì sợ dân Giao Chỉ lấy cột đồng đúc trống và phá hủy biên giới do Mã Viện đề ra, để chiếm lại đất cũ của mình, nên Mã Viện ghi trên đồng trụ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” để dọa dân Việt cổ. Nhưng rồi chắc là dân ta cũng đã lén lấy đồng trụ để đúc trống vì thiếu đồng, nên đồng trụ biến mất. Ngoài ra, vì cần đồng để đúc trống nên dân Việt thường đem vàng bạc ngọc ngà hạt trai, sản phẩm quí đổi lấy tiền đồng của người Hán. Trước đó chính bà Lữ Hậu vợ vua Thái Tổ nhà Hán là Lưu Bang đã ra lệnh cấm bán, đổi chác tiền đồng cho dân Giao Chỉ. Riêng Mã Viện, từ khi thắng Trưng Vương, biết dân Giao Chỉ coi trống đồng như là một linh vật giữ nước. Mã-Viện, có kinh nghiệm về việc Trưng Vương ra trận dùng trống đồng thúc quân, thấy uy lực trống đồng của Bách Việt rất lớn, giúp họ đánh giặc rất hăng. Việc đúc ngựa, đúc đồng trụ chỉ là cái cớ để tiêu hủy linh vật của Bách Việt mà thôi. Vậy ai dám bảo trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng đúc thì thật là xuyên tạc lịch sử mỹ thuật Việt Nam một cách trắng trợn.
Xin xem nữa đây:
Dưới thời Nhà Trưng Vương, nước Lĩnh Nam đã có nhiều tài liệu lịch sử, luật pháp, nghệ thuật và văn chương v.v…. Bằng chứng là Mã Viện đã tâu với vua Quang Võ nhà Đông Hán:
“Luật của Trưng Vương có 10 điều khác với luật Tàu, cần hủy bỏ để trói buộc họ” (Hình 4).
Các sách cổ khác của Trung quốc như Giao-Châu Ký, Tam Đô Phủ, Ngô Lục Địa Lý Chí, Nam Phương Thảo Mộc Trạng đều chép đại lượt lại rằng:
“Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà mà uống…”; … “…họ biết uống nước bằng lỗ mũi…”;… họ nhuộm răng đen ăn trầu để giữ răng khỏi hư…» “… họ nuôi tằm mà dệt vải nhuộm màu bằng vỏ cây…”; “…họ dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng phơi khô làm thức ăn quí, dùng làm quà quí để đi hỏi vợ…”; … “…dùng đá màu làm men gốm…”;… “…dùng mu rùa mà bói việc tương lai …”; …”…họ dùng một khúc tre dài chừng 1 thước hơn, một dầu có trụ cao làm tay cầm, có dây buộc vào trụ nối lại đằng kia mà làm đàn gọi là độc huyền cầm…”… “…họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai trời sinh con trâu, ngày thứ ba trời sinh con cọp … (chuyện thần thoại của người Dao: gốc tích của 12 con giáp của tử vi ngày nay)“… “Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (tức thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh (lể nặn máu ra mà trị bệnh, giác bầu, châm cứu), lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh (đốt) v.v……”; … “… Họ rất quí các loài chim, biết tập chim biết nói, …”… “… họ có nuôi nhiều chim trĩ sống trên núi rất đẹp (mà sau nầy Tàu gọi là phụng hoàng)”.
VII – NGUỒN GỐC RỒNG PHỤNG VÀ MÁI NHÀ CONG:
Sử Tàu kể rằng vào thời nhà Châu, dân Bách Việt quận Việt Thường đem tặng vua nhà Châu cặp chim trĩ, sau đó nhờ Tàu dùng xe chỉ nam của Mông Cổ chỉ đường về. Tàu liền mua nhiều chim trĩ của Việt cổ để phát triển. Những ghi chép thường có tính cách kỳ thị man di. Nhưng những chuyện huyền thoại cổ của man di như chuyện ông Bàn Cổ gốc người Dao (Sách chuyện Ông Bàn Cổ của An Phong Nguyễn Văn Diễn), chuyện bà Nữ Oa biết “đội đá vá trời” tức có kinh nghiệm về thời tiết mưa gió, dạy dân theo thời tiết mà trồng trọt, Thần Nông tức Viêm Đế (vua xứ nóng Bách Việt) dạy dân làm ruộng, và chuyện vật tổ là con Rồng, chứ không phải Cọp trắng (Cọp trắng là vật tổ của dân Mông Cổ Hán tộc từ trước) thì dân Hán tộc Mông Cổ chiếm lấy làm của.
Thật ra lúc đầu người Hán không quan tâm đến những câu chuyện thêu dệt thần thoại của dân Bách-Việt. Nhưng khi họ hiểu ý nghĩa triết lý sâu xa của những câu chuyện coi ra như hoang đường như chuyện ông Bàn Cổ, thì họ, dân Hán tộc Mông-Cổ, vốn đã có chữ để ghi rất sớm (vừa qua tôi được nghe người chị dâu của tôi là Tiến sĩ Hán học tên Băng Thanh ở Hà Nội nói rằng chữ Hán không phải của dân Mông Cổ đem qua Trung Quốc, mà của chung của Bách Việt), chép ngay các câu chuyện và nhận ngay các Vị có gốc Bách Việt trên làm tổ tiên của họ. Họ cũng có lý một phần, vì dân Miêu tộc Trung-hoa có gốc Bách-Việt lai giống với Mông Cổ dần dần để trở thành dân Trung Quốc. Nhưng họ phải hiểu rằng người Việt Nam mới là con cháu chính thống của các Vị. Người Việt chẳng bao giờ dành riêng ai cho mình.
Người Tàu có văn hoá và có kiến thức vẫn biết tổ tiên của người Hán có nguồn gốc Mông-Cổ, có con vật tổ là Cọp trắng, với nhà truyền thống cổ là nhà gốc du mục hình tròn (xem “Les premières civilisations LA CHINE ANCIENNE”, trang 28-29, của ông William Watson xuất bản năm 1969 tại Grande Bretagne) (Hình 6, Bs Thanh vẽ lại hình nhà khảo cổ của ông William Watson). chứ không phải nhà hình chữ nhật cao cẳng hay không, với những nét cong cong đặc trưng của các góc mái nhà, của 2 đầu giường ngủ, 2 đầu thuyền như ngày nay. Trong lúc đó nhà cổ của Bách Việt là nhà hình chữ nhật 3 gian và 3 gian 2 chái làm bằng tranh và tre cong cho chắc chắn, dần dà sinh ra mái cong cong. (Hình 7, Bs Nguyễn Thị Thanh vẽ, phỏng theo nhà minh khí chôn theo người chết bằng đất nung thời Âu Cơ và Hùng Vương tìm thấy trong văn hóa tiền sử). Nhà hình chữ nhật của Bách Việt từ thời Âu Cơ cách đây trên 6000 năm: Những cây tre cong cong làm nhà với chiều cong đưa lên trời để căn nhà có thế vững vàng. Người Trung Hoa gốc Mông Cổ thấy nhà, giường ngủ, thuyền bè của dân Trung Hoa gốc Bách Việt có nghệ thuật tuyệt vời với dáng cong cong nên phát triển thành nhà ngói có mái cong cho cung điện triều đình và chùa chiền. Sau nầy Đại Hàn và Nhật Bản cũng bắt chước.
Từ trước đến nay, thế giới và cả người Việt Nam cũng đều lầm tưởng rằng Rồng (hiện thân của con cá sấu) và chim Phụng hoàng (chim trĩ) là vật tổ của Trung-Hoa, và mái nhà cong cong là văn hóa cổ truyền của họ. Chưa nói đến sử học hay khảo cổ học đã chứng minh được sự thật, Mông Cổ ở phương bắc không có cá sấu mà chỉ có nhiều ngựa và cọp nên họ đã chọn cọp trắng làm vật tổ. Chim trĩ từ nghìn xưa chỉ sống ở đất Việt Thường trên triền núi phía đông dãy Trường Sơn (ngay miền Quảng Trị và phía bắc Thừa Thiên).
Dầu sao thì cũng không chối cãi được là nhờ vào ảnh hưởng dân Bách Việt trên lục địa Bách Việt cổ mà Mông-Cổ đã phát triển nên một nền văn hóa lớn lao về mọi mặt sau này cho Trung-Quốc. Nhật Bản và Đại Hàn cũng nhờ ảnh hưởng văn hóa Bách-Việt qua Trung-Hoa. Trước đây thế giới, đặc biệt là người Pháp cứ cho là Việt Nam bắt chước Tàu. Chẳng hạn việc bà Daisy Lion-Goldschmidt tác giả quyển LES POTERIES ET PORCELAINES CHINOISES, trang 4, đã cho rằng dân Annam bắt chước gốm Hoa-lam của Tàu. Trong khi chính Việt Nam có gốm hoa lam trước Tàu và thợ thầy gốm giỏi Việt bị Tàu bắt đi làm gốm từ đầu thiên niên kỷ thứ I cho vua quan Tàu.
VIII – VÀI NÉT VỀ GỐM CỔ VIỆT NAM:
”Mỗi lần đi cống, đồ gốm phải 72 bộ .”
Chính Nguyễn Trãi đã viết như vậy. Tôi đã đọc được trong một quyển sách từ khi còn trẻ, nay không nhớ là sách gì. Hỏi lại dân chơi cổ ngoạn Hà Nội, họ đều công nhận có nghe kể Việt Nam phải đi cống gốm men ngọc Céladon làm thật đẹp và thật lớn. Chính có nhiều anh chàng bán đồ cổ thấy những mảnh chén gốm Céladon có đường kính đến 60cm, và dĩa có đường kính lớn đến nỗi người vào nằm được.
Không biết được mỗi ‘bộ’ đây là gồm bao nhiêu thứ và mỗi thứ bao nhiêu cái. Và mãi cho đến thời vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ, Tàu vẫn còn buộc chúng ta làm gốm đẹp, dệt lụa trắng mỗi năm đem cống Tàu (xem quyển Đại Việt Quốc Thư của vua Quang-Trung Nguyễn Huệ do Trung Tâm Học Liệu – Bộ Giáo Dục Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam cho dịch ra quốc ngữ năm 1962 và in thành sách quí giá, tài liệu hiếm quí của Triều Nguyễn Tây Sơn còn lại.).
Phải chăng vì vua, quan Trung-hoa thường thích những đồ gốm to cao lạ thường, nên vua chúa quan nước ta cho thợ làm những chén dĩa gốm nói trên để thay thế vàng bạc mà đi cống Tàu chăng? Chứ người Hoa-kiều chạy loạn qua Việt-nam sinh sống chắc chắn không đem đồ gốm to lớn như vậy. Gốm hoa lam Việt Nam có trước Tàu, người thợ làm gốm hoa lam từ rất sớm, chỉ dùng màu xanh nội địa, và cách trang trí trên gốm của Việt Nam hoàn toàn có những đặc tính độc đáo khác Tàu. Đôi khi các lò gốm Việt Nam cũng đổi chác màu xanh tươi mà các lò gốmTrung-hoa mua của Ba-Tư. Nhìn hai mầu bình gốm ngự dụng và phong cách trang trí của Tàu và ta có những nét khác biệt rất lạ lùng (xem hình 8, 9), điều nầy chứng minh sự khác biệt về tính khí, tình cảm và hoàn cảnh sống của Việt tộc và Hán tộc. Tôi không dám dài dòng ở đây; xin mời quí độc giả phán đoán.
Hình 8
Gốm hoa nâu ngự dụng triều đại Lý, Việt Nam (Hình 8):
Gốm hoa nâu:
– Bình trà gốm hoa nâu lớn có nắp. Kỹ thuật tạo gốm và trang trí nổi rất đẹp hoàn chỉnh về mọi mặt. Độc nhất ở Việt Nam và thế giới. Viện Bào Tàng Lịch Sử Hà Nội đã mượn chụp hình đưa vào sách Mỹ Thuật Thời Lý, chủ nhân bình không cho mượn nắp. Da rạn với thời gian. Trang trí 2 dãy cánh sen kép đều đặc, quá đẹp trên nắp, trên vai bình và ngay cổ chân. Một vòng chuỗi hột trên vai. Vòi bình thoát ra từ miệng một con chim két. Trang trí đặc biệt trên bình hoa nâu nầy là một con chim két đâu ngay chỗ quai cầm, yên lặng quay mặt nhìn trở ra phía lưng. Thân bình được chia làm 6 khung hình thuẫn đều nhau. Trong mỗi khung được trang trí bằng hoa và lá hoa súng, hay còn gọi là sen dại. Xung quanh đế bình, phía dưới những cánh sen kép, một chuỗi chữ I xiên đều đặn chạy tròn chân bình. Đây là bình ngự dụng của triều đình nhà Lý, Việt Nam. Kính = 20cm , Cao = 22cm.
Hình 9
Gốm ngự dụng triều nhà Minh Trung Quốc (Hình 9):
– Bình lớn tam sơn và ngũ sắc quan trọng, với 4 tầng lớp ‘Ngư, Tiều, Canh, Độc’. Phần cổ của bình có hình hơi giống hình ống hai đầu xoè ra, men ngọc rất đẹp (céladon), vết rạn men lớn. Hai bên cổ bình có 2 quai làm bằng cành mai men nâu với 2 nhánh hoa mai trắng mọc quanh cổ bình. Mặt trước bình là đỉnh núi xanh từ thân bình trồi lên. Phần thân núi nằm trên thân bình. Vai bình màu xanh da trời sáng. Phần thân bình hình ống thẳng đứng trang trí với men xanh trắng. Trên 3/4 diện tích thân bình được vẽ bức tranh sơn thuỷ, rừng và núi. Bốn chiếc thuyền ngư ông câu cá trên sông, trên rừng một tiều phu đang gánh củi, trong điếm canh 1 người đang đứng. Xa xa trên cầu một thư sinh cỡi ngựa, theo sau là người hầu gánh 1 gánh sách. Toàn bộ cảnh vật được bao vây bằng 7 đỉnh núi nổi trên mặt biển. Phần chân bình được tô màu vàng đậm, khúc giữa bóp lại được trang trí một vòng hoa văn màu nâu đậm với những hoa mai trắng và chim trắng vẻ cách điệu. Đế có men trắng rạn, chính giữa có in khuôn dấu “Đại Minh Ch’eng-Houa Niên chế “. Cao = 65cm D = 23cm.
Trở lại nông nghiệp của dân Bách Việt. Làm ruộng công cụ. Nông nghiệp đòi hỏi nhiều dụng cụ, dụng cụ đòi hỏi công nghiệp. Công nghiệp đá sản xuất công cụ cho thợ đá (để làm cày cuốc), kỹ nghệ đá; công nghiệp đồng cho thợ đồng, kỹ nghệ đồng đúc trống đồng và các thứ tiểu công nghiệp khác như nghề nuôi tằm dệt vải, làm đồ gốm của nước ta từ trước rất xa thời văn hoá Hoà Bình Bắc Sơn đã rất phát triển cho đến thời Bắc thuộc năm 111 tr TC thì bị cấm chỉ, ngưng hẳn. Như vậy nông nghiệp và công nghiệp nước ta đã phát triển xa hơn Tàu và không hề nhờ phương Bắc giáo huấn. Từ năm 111 tr.TC nước cổ Việt hoàn toàn bị Tàu thu thập thầy thợ nhân lực và công lực. Các thợ thầy giỏi và kỹ thuật cao của nước ta bị sức mạnh cướp lấy để phát triển, dành lấy làm văn hóa của mình. Trong những thời gian bị đô hộ, dân Việt cổ bị cấm tuyệt mọi sinh hoạt kỹ nghệ bản địa công khai. Vì vậy những nền văn hóa thời tiền và sơ sử Việt Nam bị ngưng hẳn từ thời Bắc thuộc, kể cả hậu Trưng Vương. Thế giới cũng hiểu rằng Trung Quốc đã ngăn chặn những nền văn minh tiền sử Việt Nam, và đã xung phong vào để tiếp nối những nền văn minh tiền sử Bách Việt. Sự kiện nầy đã được làm sáng tỏ với những bằng chứng khoa học rõ ràng (sẽ nói rõ sau).
Từ trước đến nay chúng ta chưa khẳng định được những điều nói trên mà phải chờ di vật cổ tổ tiên để lại trong lòng đất mới có đủ luận cứ thuyết phục cho chính chúng ta và thế giới. Khảo Cổ học đã nói lên cho chúng ta biết rất nhiều điều bí ẩn mà ngoại quốc đã hiểu lầm hoặc che dấu và xuyên tạc. Nhờ vậy ngày nay rất nhiều học giả Trung-hoa đã công nhận sự thật về nguồn gốc Bách Việt trong văn hóa Tàu.
Từ khi người Pháp qua cai trị nước ta, họ chiếm độc quyền khoa khảo-cổ. Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ ngoại quốc và Việt Nam đã tìm ra ở trên đất nước chúng ta từ miền Bắc đến miền Trung là đất cổ Bách Việt rất nhiều luận cứ chứng minh sự thật: Người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn minh tiền sử Việt Nam cổ liên tục nối đuôi nhau trên đất Bắc và Trung Việt. Thường khi tìm được di chỉ văn hoá ở đâu sớm nhất, người ta lấy tên địa phương mà đặt cho nền văn hóa đó. Văn hoá Việt cổ xưa nhất còn gặp nhiều di vật cách đây trung bình 30.000 năm được tìm thấy ở núi Đọ, thôn Sơn-vi tỉnh Vĩnh Phú được đặt tên là văn hóa Sơn-vi hay Tiền Hòa Bình. Nền văn hóa nầy được tìm thấy rải rác khắp miền Bắc và Bắc Trung Việt.
Tuy việc tìm thấy là ngẫu nhiên, nhưng nhờ vào sự giàu thịnh nên người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn hóa có tính cách liên tục nối tiếp nhau từ văn hoá Sơn-Vi (30.000 năm tr, TC) qua Hoà Bình (16.000 – 8.000 tr TC) đến Bắc Sơn rực rỡ, Quỳnh Văn, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Hoa lạc v.v…. dần dần đến văn hóa Đông Sơn huy hoàng có niên đại từ 1000 năm đến 111 năm tr TC là thời gian bị Bắc thuộc lần đầu. Rồi từ 111 tr TC dưới ách đô hộ của Tàu, văn hóa nước ta ngưng, chìm lỉm hẳn, không tiến và hầu như biến mất hẳn, vì sao? Hỏi tức nhiên là đã trả lời. Đến triều đại nhà Trưng, chính nữ hoàng Trưng Trắc đã làm sống lại Văn hóa Đông Sơn Phục Hưng với trống đồng dùng để thúc quân trong quân ngũ. Dư âm của các nền văn hóa trên còn âm thầm kéo dài thêm vài thế kỷ sau Bắc thuộc rồi bị Tàu thôn tính và ẵm đi luôn.
IX – TRUNG TÂM NÔNG NGHIỆP LÚA NƯỚC VÀ CÔNG NHIỆP ĐÁ:
Trong những nền văn hoá tiền sử nước ta khi nói đến văn hóa Hòa Bình (di chỉ tìm thấy ở tỉnh Hòa-bình Bắc-Việt) thì từ lâu giới khảo cổ học và khoa học thế giới đều biết rằng đó là một trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá xưa nhất thế giới. Nhưng vì sao dân ta như các sử gia Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh cứ luôn cho mình là dân man di, được Hán khai sáng, dạy cho cưới vợ hỏi chồng, dạy cho nông nghiệp…
Suốt 1000 năm cai trị, Hán lấy tài nguyên sản vật quí, và bắt thợ giỏi, gái đẹp cùng ngăn cấm dân truyền tụng văn hoá cổ, ngăn cấm dân ta phát triển kinh tế, và đập phá tất cả mọi công trình công nghệ điển hình là gốm, lò luyện kim, lò đúc đồng, trống đồng, đúc sắt của Hai Bà Trưng. Dân Việt sợ, ai có đồ gốm và đồ đồng, trống đồng thì đem chôn giấu. May thay khảo cổ học đã lấy lên từ lòng đất những sự thật về văn hóa tiền sử, sơ sử và lịch sử nước nhà.
Nghiên cứu tài liệu khảo cổ, đối chiếu với tài liệu sử học là việc làm có bằng chứng khoa học vững vàng giúp chúng ta tìm hiểu nguồn gốc văn hóa dân tộc. Lịch sử văn hóa mỹ thuật dân tộc Việt-Nam cần được soi tỏ dưới ánh sáng khoa học một cách công-minh. Khác với lịch sử, sử gia có thẩm quyền ghi chép nhiều ít theo ý mình, có thể làm méo mó sai vẹo đi những sự việc xẩy ra, văn-hoá mỹ thuật lịch-sử cần những sự thật cụ thể được chứng-minh bằng khoa-học. Lịch-sử phụ thuộc sử gia, trong lúc văn-hoá mỹ thuật lịch-sử là công trình của tiền nhân để lại một cách đích thực, hiển nhiên, không thể chối cãi hay làm méo mó sự thật được.
Văn hóa mỹ thuật lịch sử giúp tìm hiểu tâm lý, hoàn cảnh sống, nghệ thuật, trình độ tiến hóa, tâm linh, sinh hoạt gia đình làng xã, quan niệm hôn nhân. Thế cho nên văn hoá mỹ thuật khảo cổ là một khoa học lịch sử, nhất là tiền sử và sơ sử tuy vô cùng khó khăn và mù mờ nhưng cũng vô cùng sống động, quí báu và lý thú. Những cổ vật là vô tri, nhưng qua đó chúng ta có thể tìm hiểu được cách sống, tư tưởng, cá tính, tinh thần tập thể, tinh thần đoàn kết dân tộc, tình cảm, hoài bảo và tư tưởng triết thuyết trong cuộc sống vật chất và tinh thần của tiền nhân. Vì vậy chúng ta không thể nào chấp nhận lịch sử văn-hóa nước nhà qua hành động và lời lẽ khinh bạc, dìm dập, xuyên tạc của thực dân ngoại lai Tây và tay sai người Việt của chúng nó.
Trở lại các thị tộc du mục Mông Cổ, thủy tổ nhà Hán vượt sông Hoàng hà đến chiếm dần dà trung nguyên bao la rộng lớn mà lập nên nước Tàu vĩ đại. Nghề nông là do dân Bách Việt làm từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến chiếm, dân Trung hoa gốc Bách Việt tiếp tục làm nông. Vị tù trưởng Mông Cổ Hoàng Đế biến dân Bách Việt Trung-hoa thành nô lệ, chỉ được quyền tiếp tục nghề nông hay làm lính làm tôi tớ. Như vậy khi đến chiếm lục địa trung nguyên dân Mông Cổ được thừa hưởng tài sản nông nghiệp của bao nhiêu đời Bách Việt truyền lại. Tuy vậy xưa kia Hán tộc Mông Cổ rất kỳ thị, khinh miệt và đối xử tàn ác với Miêu tộc Trung-hoa, do đó mới sinh ra chế độ nô lệ man di. Dân nô lệ Bách Việt thường chỉ được sống với nghề bản xứ, trồng trọt, đánh cá hay đánh giặc. Dân Hán là dân nắm chính quyền vẫn còn nhớ, yêu thích nghề du mục xưa, nên rất ưa thích săn bắn, làm thành một thú tiêu khiển vương giả.
Sau trận Trác-Lộc, lớp Bách Việt nước Xích Thần thuộc hàng lãnh đạo vượt sông Dương Tử giữ nước Xích Quỉ. Rồi cũng lại bị nhà Hán đến cướp đất. Sau đời Trưng Vương họ còn kéo đến đô hộ tiếp. Trước sau sự đô hộ kéo dài đến non 1.000 năm. Nhà Hán vừa chiếm Việt cổ vừa thi hành ngay chính sách thực dân, thâu nạp không những của cải vật chất, đặc biệt là con người với tài nguyên trí tuệ mà họ vô cùng chú trọng. Nhà Hán đã chiếm văn hóa tiền và sơ sử của Bách Việt trên lục địa Trung Hoa từ trước. Nay lại chiếm luôn cả văn hóa sơ sử mới mẻ của nước Lĩnh-Nam của vua Trưng Vương từ Động Đình Hồ trở xuống, rồi kế đến là văn hoá Việt Nam trong Thiên niên kỷ thứ I sau CN từ ải Nam Quan trở xuống miền Bắc và miền Trung Việt Nam.
Vì thế rất dễ hiểu những gì Việt Nam có từ trước đều được vua chúa Trung-Hoa làm phát triển tối đa vang danh thế giới. Đến sau này Việt Nam lại tìm cách bắt chước, nhưng chưa được bao nhiêu, vì thường chính phủ Trung Quốc bắt buộc các chuyên gia gấu nghề một cách sắt máu. Mặt khác dân Việt khó lòng phát triển nghề của chính mình, vì thiếu khả năng kinh tế, thiếu sự giúp đỡ của nhà cầm quyền và vì những thợ giỏi bị bắt đi gần hết.
Người Trung Hoa gốc Mông-Cổ có thâm ý làm cho người Trung-hoa gốc Bách Việt và người Việt cổ quên hẳn quá khứ của giống nòi hầu dễ dàng buộc họ đồng hóa và chấp nhận rằng chính nhà Hán Mông-cổ khai hóa ra Bách Việt, ra văn hóa của họ. Sự thật người Trung-quốc gốc Mông-cổ bị đồng hóa với Bách-Việt. Chính nhà Nguyên Mông-cổ và nhà Thanh Mãn-Châu sau nầy cũng lại bị Trung-hoa gốc Bách Việt đông đúc đồng hóa luôn. Như vậy Mông cổ và Mãn Thanh đã bị man di Miêu tộc Bách việt đồng hóa thành Trung-hoa. Người Tàu Mông cổ vốn có vật tổ là cọp trắng, và nhà cổ là nhà hình tròn gốc du mục nhưng khi họ thấy vật tổ Bách Việt là rồng phụng, và nhà cổ Bách Việt mái cong cong, có nét đẹp mỹ thuật tao nhã, họ chiếm ngay văn hoá nhà cổ mái cong cong và vật tổ rồng phụng Bách Việt làm của họ và người mình không hề dám hé môi hay trăn trối gì với con cháu.
Nhân đây xin kể một trường hợp xuyên tạc, bình gốm Hoa Lam cổ Đại Việt, trưng bày ở viện bảo tàng Istanbul. Cách đây trên 50 năm Tàu và Nhựt tìm xem có thể là của họ không? Nhưng đến khi thấy niên hiệu ghi trên bình là niên hiệu vua Nhân Tôn nước Đại Việt (1450) “Thái-hòa bát niên, Bùi Thị Hy bút” (Hình 11), người Hoa bèn bảo đó là “… của một ông thầy Tàu qua Việt Nam chơi, làm để lại…”! Và họ cho Bùi Thị là một người nam, đọc là “Thái hòa bát niên Bùi Thị hí bút”. Vào thời kỳ đó người ta hoàn toàn chưa biết Việt Nam đã có lò gốm hoa lam rất sớm từ thế kỷ 8, 9, 10, 12, 13 với màu xanh bản địa chứ không nhập cảng màu xanh tươi của Ba-Tư như Trung-Hoa.
Phải mất gần 30 năm sau, khi khảo cổ học Việt Nam tìm thấy dấu tích nhiều lò nung gốm cổ hoa lam trên đất Bắc Hà từ thế kỷ VI, VII, VIII, IX, XI, XIII cùng những sản phẩm phế thải của lò và những gốm Việt Nam cổ có trang trí hoa văn giống hoa văn hoa cẩm chướng dây, hướng dương dây, hoa cúc dây bao quanh thân gốm trên độc bình ở Istanbul (Hình 12, 13, 14), mới chứng minh đích thực bình cổ danh tiếng ở bảo tàng viện Istanbul là của Việt Nam do một nữ nhân tên là Bùi Thị Hy trang trí tỉ mỉ (giới nữ chuyên nghề trang trí là nghề nhẹ tại các lò gốm) chứ không phải hí hoạ của ông thầy Tàu qua Việt Nam.
Trở lại với du mục Mông-Cổ, họ sống bằng săn-bắn và du mục. Do đó họ không thể nào là những người đã phát sinh ra nền văn-hóa nông nghiệp. Và như thế họ cũng chẳng bao giờ có họ hàng cần thiết với các vị Thần-Nông (người tài giỏi về làm ruộng), bà Nữ-Oa “đội đá vá trời” (tức là người tìm hiểu và kinh nghiệm nhiều về thời tiết giúp nhà nông làm ruộng). Dân du mục phải thường xuyên chống chọi với thú rừng, cũng như chống chọi với các đoàn du-mục khác, họ phải đấu tranh không ngừng. Vì thế họ là một chủng tộc mạnh, tài nghệ bắn cung, cưởi ngựa, đô vật, đâm chém của họ rất cao. Chính nhờ vào tài nghệ nầy mà họ đã thành công trong việc chiếm lục địa Xích Thần anh em, và nước Xích Quỉ của người Việt, và chiếm Lĩnh Nam của vua Trưng. Dòng máu du mục buộc họ luôn sẵn sàng chiến đấu, từ đó nảy sinh dòng máu xâm lăng. Vả lại khí trời miền bắc lạnh, nên bản chất họ rất khỏe, họ rất sợ khí nóng ở miền nhiệt đới nông nghiệp mà họ coi là nơi âm phong chướng khí.
Cũng vì lý do trên, người Trung-Hoa gốc Mông cổ không thể có các vị vua Thần nông “vua trồng-trọt xứ nóng” tức là vua Viêm Đế, cần thiết của nhà nông. Dân Bách-Việt hiền lành ở miền Nam lo nghề nông, không quen đánh giặc bị họ chiếm hết đất đai và văn hóa. Suốt trên hai nghìn năm chúng ta hầu như chỉ học cho biết rằng Việt Cổ là một đất nước vô văn-hóa, man di, được nhờ Tàu Mông cổ khai hóa. Dầu rằng Tàu gốc Mông cổ không chứng minh được nguồn gốc văn hóa của họ. Như thế đủ thấy ảnh hưởng của việc bị đô hộ Tàu, kể cả Tây sau nầy, là nguy hiểm như thế nào!. Chính vì vậy mà LM Triết-Gia Kim-Định đã gia-công nghiên-cứu một triết-lý An-Việt và nói đến “một nền văn hóa Việt-Nam cổ mồ côi”, mồ côi đây có nghĩa là không được thế giới trước đây nhìn nhận, hay ngay cả người đẻ ra nó cũng không dám nhìn nhận. Thật ra văn-hóa tiền-sử Việt-Nam đã bị che giấu và cướp đoạt vì sức mạnh, chứ nhất thiết chưa hẳn là không được nhìn nhận. Văn-hóa Việt cổ có mẹ đẻ từ các nền văn hóa tiền sử Việt cổ, và đã sinh đứa con khổng lồ là nền văn-hóa siêu-việt Trung-Quốc. Chính văn-hóa Trung-Quốc lúc không nhận là con đẻ của văn hóa Bách Việt, là một văn hóa mồ côi thật tình. Lúc Tưởng-Giới-Thạch ra lệnh nghiên cứu về văn hóa Trung Hoa từ ngày nay trở về trước. Nhưng khi lên đến nhà Hán và thời Khổng-Tử, các nghiên cứu gia Trung Hoa Dân Quốc đành bỏ dở vì vấp phải nguồn gốc văn hóa Bách Việt!
Với thực dân Pháp, trong vòng gần 100 năm đô hộ Việt Nam, chúng đã lấy biết bao tài sản của đất nước ta đem về cất giữ và xây dựng đất nước họ, làm giàu Viện Bảo Tàng của họ, ví dụ một dàn đàn đá hoàn chỉnh nhất, đẹp nhất, báu vật cổ hiếm quí của Việt Nam; ví dụ bốn quyển truyện Kiều viết tay, trước tác của cụ Nguyễn Du v.v… và v.v… Pháp cướp về nước làm của báu. Tương lai gần chúng ta nhất định phải đòi lại tài sản bị cướp, đòi bồi thường và đòi Pháp phải xin lỗi dân tộc Việt Nam. Như đã nói trên trong thời gian bị thực dân Pháp đô-hộ, việc khảo-cổ trên đất nước ta chỉ dành độc quyền cho người Pháp. Chuyên gia và khảo cổ gia Việt-Nam có đóng góp công lao ý kiến cũng không được ghi lại. Người Pháp mà tiêu biểu là ông Henry Mansuy với óc thực dân, khinh dân tộc bị trị, đã có những phán đoán sai lạc, tầm bạy, tầm bạ, lập luận lầm lẫn về văn hóa mỹ thuật tiền sử và lịch sử Việt Nam. Trước những khám phá về văn hóa tiền sử và lịch sử Việt Nam, ông ta luôn có thành kiến rằng, bao nhiêu nền văn hóa xa xưa của Việt-Nam cổ từ thời tiền sử vốn chỉ là:
“..Đây là hàng nhập cảng… hàng vay mượn… hàng thiên di v.v… của phương Bắc hay phương Tây đưa lại mà thôi.”
Cũng vậy, với phong cách thực dân, khi Ông H. Mansuy nhìn thấy những viên gạch lót nền nhà cổ có hoa văn đẹp (xem hình gạch lót nhà có hoa văn, đào lên từ lòng đất của các thế kỷ 10, 12, 15 (Hình 15, 16, 17), ông ta ganh tị, cay đắng, đã viết lên một cách sai lầm rằng:
“Đây là gạch nhập cảng chỉ để làm bàn thờ…. đẹp thế nầy…. không thể dùng để lót nền nhà “.
Ngày nay chúng ta đã tìm thấy nhiều lò gạch cổ sản xuất gạch có khắc hoa văn và thời đại vua chúa ở Bắc Hà (Hình 15, 16, 17), và đã đào được nhiều nền nhà lót gạch có hoa văn thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, ví dụ nền nhà có lót gạch hoa văn rất đẹp của Hưng Đạo Vương tại Vạn Kiếp. Các nhà học giả về khảo cổ học khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền văn hóa tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước. Các nền văn hoá Việt Nam mà đặc biệt là văn hóa Hòa Bình xưa nhất với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp lúa nước cũng như các nền văn hóa lịch sử sau nầy đều đã được thế giới công nhận.
Một sự kiện lịch sử vĩ đại mới xẩy ra tại Hà Nội đầu năm 2004 càng chứng minh thêm sự vững vàng về những nền văn hóa tiền sử và lịch sử của đất nước ta. Khi nhân công đào móng để xây nhà Quốc hội thì gặp ngay một di tích lịch sử có tầm quan trọng về khảo cổ học và nhất là về di tích lịch sử nước nhà lớn nhất từ xưa đến nay: Đó là sự xuất hiện một phần cung điện kinh đô Thăng Long do vua Lý Thái Tổ xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 11. Hiện các nhà khảo cổ Việt Nam tìm thấy nhiều tầng lớp văn hoá cùng những cổ vật quan trọng, những hòn gạch lớn có khắc niên hiệu các triều đại Đinh, Tiền-Lê, Lý, Hậu Lê. Họ đang bàn cãi về nhiều vấn đề, về số lớn các giếng nước hầu như còn nguyên vẹn, cùng về những di tích cung điện vua chúa, thành trì với những sân gạch và hàng cột gổ quí, có khi cách nhau đến 5 mét hoặc 6 mét mà có người cho rằng đó là công trình cuối thế kỷ 19 bằng bê tông cốt sắt của triều Nguyễn (các chúa và vua nhà Nguyễn đóng đô ở Quảng Trị rồi Thuận Hoá thì làm sao có công trình ở Thăng Long vào cuối thế kỷ 19). Ngày xưa những cây gỗ quí cao đến 8, 10 mét để cất cung điện chắc không thiếu. Người ta đã múc uống ly nước giếng trong vắt của tổ tiên 1000 năm để lại mà xúc cảm tận cả tâm can.
Các nhà khảo cổ đang bàn tán dữ dội về việc di tích tìm thấy bị chôn vùi sâu dưới lòng đất đến nhiều mét (từ 2 đến trên 3 mét?). Di tích hiện tìm thấy thuộc cung điện nào trong thành Thăng Long? Họ lấy làm lạ tại sao có những hòn gạch ngói cổ niên hiệu triều Đinh và Tiền-Lê. Theo thiển ý, thì lúc vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, cũng phải mang theo những vật liệu xây cất có sẵn ở Hoa Lư từ thời các vua trước. Và việc chôn vùi dưới đất sâu là do lũ lụt bồi đắp nhiều lần suốt gần 10 thế kỷ nay, và con người cũng đã vun thêm đất cho vững chắc để xây đường sá nhà cửa. Tôi e rằng rồi đây người ta phải hy sinh các chùa chiền, miếu vũ, cao ốc, nhà cửa dân chúng có tính cách văn hoá mới sau nầy để làm sống lại toàn thể di tích kinh thành cổ Thăng Long. Sự xuất hiện thành Thăng Long cổ như một phép lạ vĩ đại cho nền văn hoá mỹ thuật lịch sử nước nhà. Và trong tương lai thành Thăng Long cổ khi hiện nguyên hình sẽ trở nên một trung tâm lịch sử vẻ vang, một di tích văn hoá độc đáo khổng lồ, niềm hãnh diện dân tộc của chúng ta.
Có những người Việt, và ngay cả dân khoa bảng lớn đã lầm lẫn và lẩm cẩm cho rằng Việt Nam không có văn hóa mà đại diện là nhà khảo cổ Nguyễn Văn Tốt và ông bác sĩ giáo sư Đại học Mai Kim Ngọc. Tệ hơn nữa, hiện có một ít bác sĩ và khoa bảng Việt Nam tự xưng là không hiểu văn hóa là gì và cho là dân mình không có văn hóa. Bs. Vũ Đình Minh thì cho rằng văn hóa Việt Nam có chăng chỉ là cái “búi tó trên đầu ông nội ông ta” đăng trong bài “Bảo tồn Văn-hóa” của ông khoa bảng bác sĩ giáo sư Đại học Y khoa kiêm nhà văn Mai-Kim-Ngọc. Bài cũng được đăng trên nhiều báo đặc biệt là báo Y-giới. Bài viết có tính cách mĩa mai Việt Nam không có văn hóa gì để mà bảo tồn ‘hết trơn hết trọi’, hoặc giả có chăng chỉ có cái “búi tó” của ông nội ông ta mà thôi.
Nhà khảo cổ Nguyễn Văn Tốt đã đọc sách tây thực dân, sao chép lại nguyên văn tư tưởng khinh bạc dân tộc Việt Nam của bọn H. Mansuy và bà M. Colani (khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế 20) để làm ra quyển sách “Introduction à l’Art Ancien du Viêt Nam, 1er trimestre 1969”; mặc dầu lúc đó thế giới đã cải chính những xác quyết sai lạc của H. Mansuy (Gisement Préhistorique du Tonkin 909; Stations Préhistoriques dans les massifs calcaires de Bắc Sơn 1924), H. Mansuy et M. Colani (Néolithique Bacsonien Inférieur et Supérieur dans le Haut-Tonkin 1925 ) và bà M. Colani (Découverte du Paléolithique dans la Province de Hòa Bình Vol XVI 1926) rất lâu rồi. Năm 1932, Đại Hội Nghị Quốc tế các nhà khảo cổ tiền sử học Viễn đông đã khẳng định tính cách tiền phong của nền văn hóa bản địa Hòa-Bình nước ta rồi. Vấn đề thực tiễn là nền văn hóa Hòa Bình đã được thế giới công nhận rõ ràng là nơi phát xuất lúa nước và công nghiệp đá đầu tiên trên thế giới rồi. Vậy mà năm 1969 ông Trần Văn Tốt vẫn theo đúng luận điệu thực dân lạc hậu của H. Mansuy mà viết sai lạc một cách sai lạc trầm trọng về nền văn hóa Hòa Bình (cách đây từ 10000 đến 17000 năm) và văn hóa Bắc Sơn (cách đây 10000 năm đến 6000 năm) rằng:
“Người Hoà-Bình có mặt trên đất nước Việt-Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 trước TC…coi như chưa biết gì về nông nghiệp và chăn nuôi, không biết gì gốm … “…”… Đá mài đã có vào thời Bắc-Sơn, nhưng ít được xử dụng. “;…”… nghệ thuật đá mài có vai rất tiêu biểu cho văn-hóa tộc họ Auxtro asiatique, được dùng nhiều ở miền Trung Đông Dương. Người ta đã cho là những rìu mài nầy được nhập cảng từ Tây-Tạng, Giang Nam bên Tàu, vì chúng nó cũng có ở Hoa-Nam, An-Độ, Nhật-Bổn, Đại-Hàn… “; … “… và những dụng cụ đá mài hình dĩa là của văn-hóa Úc từ Tàu truyền xuống v.v… “…
Than ôi! thật vô cùng đáng trách! Thật vô cùng xấu xa, hổ nhục cho chúng ta khi thấy Nguyễn Văn Tốt chẳng những sao chép lại y-nguyên những lập luận lầm lạc, vội vàng và đầy rẫy thành kiến đầu tiên của ông H. Mansuy mà còn xuyên tạc một cách nặng nề vô lý thêm, cùng bỏ qua hoàn toàn mọi chứng minh khoa học xác đáng và mới mẻ của các ông C.O. Sauer (với nhiều sách vở ví dụ quyển Agricultural Origins and Dispersals, New York năm 952) và ông W.G. Solheim II (1960 với nhiều sách về Hoà bình sẽ kể sau), và bỏ qua mọi xác quyết của Đại hội nghị quốc tế các nhà khảo cổ Viễn đông năm 1932, không biết với mục đích gì?. Như thế phải chăng ông Tốt đã cố ý làm tay sai cho thực dân lỗi thời cho thực dân Pháp mà thế giới đã lên án, để phản bội văn hóa dân tộc, chửi lên đầu ông bà tổ tiên Việt Nam của ổng!? Ông Tốt đã theo đuôi thực dân đưa ra một thứ suy luận hàm hồ quá quắt. Vì hễ cứ thấy nơi nào có, thì tất là “nhập cảng của nơi đó”, bất chấp cả thời gian nơi nào có trước, nơi nào có sau, và bất chấp cả nơi nào có tính cách sãn xuất nghiệp vụ, và nơi nào có tính cách tiêu thụ. Vậy thì ông Tốt viết sách về văn-hóa tiền sử Việt-Nam, phải chăng là để tìm cách dìm dập thóa mạ tổ tiên mình hay và để nối giáo cho giặc chăng?
Nhà học giả C. Sauer Hoa-Kỳ đã viết nhiều về văn hoá hoà Bình trong nhiều sách ví dụ quyển ‘Đồng-Quê’. Chúng ta hãy nghe mấy dòng sôi nổi của ông C.O. Sauer viết trong quyển Agricultural Origins and Dispersals – Xuất bản ở New York 1952:
“Đúng là nông nghiệp đã tiến triển qua 2 giai đoạn, mà giai đoạn đầu là giai đoạn của văn-hóa Hòa-Bình (Bắc Việt), lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước (khoai sọ)… “…”… Tôi đã chứng minh Đông-Nam-Á là cái nôi của nền nông nghiệp xưa nhất… Và tôi cũng chứng minh rằng văn-hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này (Bắc Việt)… Tôi cũng đã chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Đông-Nam-Á… Và nơi đây là trung tâm quan trọng của thế-giới về kỹ thuật trồng trọt và cải biến cây cối bằng cách tái sinh sản thực vật “.
Đến nay tất cả các nhà khảo cổ học, sử học Hoa-kỳ như các ông C. Sauer, R. Somhein, Trương Quang Trực (Ông Trực là người Mỹ gốc Trung-hoa), ông Jorhman và học-giả Liên-Xô là ông N. Vavilow đều công nhận:
“Đông-Nam-Á mà chủ đạo là Việt-Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm sủa, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy một nơi nào khác trên thế-giới.”.
Trước đây người ta vẫn ca tụng địa điểm văn-minh tân thạch khí ở vùng Tây-Á Tiểu-Á và cho rằng đây là một xứ nông-nghiệp xưa nhất thế-giới. Vì đã có những niên đại C14 lên đến thiên niên kỷ thứ VII, thứ VI tr.TC. Việc phát hiện ra nền nông-nghiệp tại Hòa-Bình cách đây trên 10.000 đến 15000 năm đã làm cho thế giới rung chuyển, chao động. Như vậy trung tâm nông-nghiệp xưa nhất không còn là vùng Lưởng Hà mà là Đông-Nam-Á, mà chủ đạo là Việt-nam. Việt-Nam đóng vai trò quan trọng nhất vì nơi đây là điểm phát xuất chính.
Chúng ta hãy nghe lời bình luận xác đáng của ông Willhelm G. SOLHEIM II (đã viết trong nhiều sách: Southeast – Asia Vol VI 1962; Reworking Southeast – Asian Prehistory Vol WV 1969; The Hoabinhian and Island Southeast Asia 1972; An Early Agricultural 1972; Remark on the Neolithic in South China and Southeast Asia Vol IV 1973 v.v…) rằmg:
“Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên-cứu lại nhiều cứ liệu ở lục-địa Đông-Nam-Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát giác ra rằng việc thuần-thục-hóa cây trồng đầu tiên trên thế-giới đã được dân-cư Hòa-Bình (Việt Nam) hoàn thành vào khoảng 10.000 năm trước TC.”… “Rằng văn-hóa Hòa-Bình là văn-hóa bản-địa, không hề chịu ảnh-hưởng của bên ngoài, đưa tới văn-hóa Bắc-Sơn.”… “Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Đông-Nam-Á có những văn-hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài láng đầu tiên của Châu-Á, nếu không nói là đầu tiên trên thế giới và đồ gốm (Hình 18) đã được phát minh. “… “Rằng không phải là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi. Mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư-tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau nầy một số cây đã được truyền đến Ấn-Độ và Phi-Châu. Và Đông-Nam-Á còn tiếp tục là một khu-vực tiền-tiến ở Viễn-Đông cho đến khi Trung-Quốc thay thế xung lực này vào nữa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr.TC tức khoảng 1500 tr TC….”
Như đã nói trên, Trung-quốc thừa hưởng văn hóa nông nghiệp phát triển nhờ dân Bách Việt còn lại trên hoa lục. Chính nhờ sự phát triển của những sắc dân Bách Việt nầy mà Trung quốc rộng lớn có đủ tư cách thay thế xung lực phát triển nông nghiệp Đông Nam Á vào khoảng năm 1500 tr TC. Như vậy chứng tỏ chính dân Trung hoa Bách Việt khai hóa về nông nghiệp cho Tàu Hán tộc Mông Cổ chứ không phải ngược lại như Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh đã viết trong các quyển sách Chính sử giáo khoa cho con dânViệt Nam học bao lâu nay.
Chúng ta phải xúc động trước những lập luận rất vô tư, công bằng và rất khoa-học của W. G. Solheim II, cũng như rất xúc động trước nắm gạo bị cháy dở hóa thạch đã tìm thấy ở Đồng-Đậu Vĩnh-Phú có niên đại 5.500 năm tr.TC tức cách đây 7.500 năm, nắm gạo nầy đã được thử nghiệm bằng carbone 14 (Hình nắm gạo cháy). Nắm gạo cháy dở của thời phát triển trồng lúa nước nầy cũng chứng minh cho chúng ta rằng lúa nước đã được trồng từ rất lâu không ai biết được, trước lúc nắm gạo bị cháy tức là trước 7500 năm +- 300 năm lúa nước đã được trồng qui mô, như ông Sauer đã cho rằng lúa nước đi đôi với nghề đánh cá có lưới. Những sự kiện trên đây đã được công bố lên thế giới từ lâu với C.O.Sauer chẳng hạn, trong quyển “Agricultural Orgins and Dispersals, New-York- 1952 “, với Wilhelm G. Solheim trong quyển “Southeast Asia and the West. Science vol. 157, 1967, p.899 ” và còn với nhiều tác giả khác mà kẻ viết bài nầy chỉ nghe mà chưa hân hạnh có sách.
Ít nhất là 3 năm trước thời gian mà ông Trần Văn Tốt xuất bản quyển ” Introduction à l’art ancien du Việt-Nam ” bằng tiếng Pháp năm 1969. Với ông Gs. Bs. Mai Kim Ngọc, thì ông ta đã tự nhận dân VN là dân vô văn hóa; có văn hóa chăng chỉ có cái “búi tó” của ông nội Gs. Bs. Mai Kim Ngọc. Vì vậy khi đọc bài của Gs. Bs. Mai Kim Ngọc tôi thấy không có gì phải nói với người tự xưng là vô văn hóa, tuy bài của tôi đã được viết để trả lời nhưng tôi đã tự nghĩ khó được báo của Mai Kim Ngọc cho đăng. Tôi có gởi bài nầy tới ông bà chủ nhiệm chủ bút báo Văn Lang, nhưng được bà chủ bút Nguyên Hương trả lời rằng tôi đã quá hãnh diện với văn hoá tiền sử Việt Nam, bà ta không tin nên không đăng. Với ông Nguyễn Văn Tốt thì chúng tôi chỉ còn nói ngay với ông rằng, một trong các văn-hoá tiền sử Việt Nam, văn hóa Hòa-Bình của Việt Nam, không phải là đứa con nuôi, con vay mượn, con thiên di, con hoang, hay con mồ côi, nó chính là con đẻ của văn-hóa Sơn-vi kéo dài từ rất xa xưa, có thể lên đến 500.000 năm đến 15.000 năm tr TC. Thường người ta lấy một niên đại tượng trưng gần nhất là 30.000 năm làm mốc trung gian. Và để tiếp tục cuộc đời, văn hóa Hòa Bình đã dẫn đưa nhanh chóng đến một nền văn-hóa nổi danh thế giới của Việt Nam là văn-hóa Bắc-Sơn. Và từ văn hóa Bắc Sơn đến các nền văn hóa Quỳnh Văn, Bầu Tró, Hoa Lạc, Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồng Đậu v.v… và cuối cùng là Đông-Sơn.
Sự liên tục của các nền văn hóa luôn được duy trì bằng những chứng minh cụ thể. Thật vậy các nền văn-hóa Việt-Nam cổ ngày càng được tìm thấy là có những liên hệ chặt chẽ, những bước tiến mạnh mẽ, những nét phát triển huy-hoàng. Mãi cho đến thời Bắc-thuộc lần thứ nhất thì, văn hóa Đông Sơn nước ta, bắt nguồn từ thời tiền sử, bị ngưng hẳn. Chính Mông-Cổ là những người đã xâm lăng các nền văn hóa tiền sử và sơ sử Việt cổ từ trên đất Trung Nguyên cho đến Việt Nam. Họ lấy hết cả, vừa đất đai, vừa công trình, vừa sản phẩm, vừa công cụ, vừa con người, những người thợ tài giỏi, gái đẹp Việt cổ đem về Tàu để phát triển nên nền văn hoá siêu-việt của Trung-Hoa sau này. Đồng thời cướp lấy, họ phá hoại, họ cấm cản mọi sự phát triển văn hóa địa phương của kẻ bị trị trong suốt trên 1000 năm đô hộ khủng khiếp. Họ đã cố tâm cướp đoạt, hủy hoại, cấm đoán, dìm dập và dấu diếm tất cả mọi vết tích, mọi hình thức phát triển của văn-hóa lịch-sử Việt-Nam. Lòng đất đã được phơi bày mọi sự thât. Chính sách vở và các học giả Trung Hoa hiên-đại cũng đã nhìn nhận những sự thật văn hoá tiền sử trên. Văn-hóa Việt-Nam bị tê liệt, bị biến mất do xâm lăng và cướp giựt của Trung-quốc. 1000 năm quá dài, con cháu không được truyền đạt, nên dần dà người Việt-nam tự cho là mình đã được người Tàu khai hóa như các sử gia Trần Trọng Kim và Đào duy Anh nói trên, thật là hổ thẹn với tiền nhân thay!
Từ rất sớm, năm 1932, tại Đại Hội Nghị Quốc tế của các nhà khảo cổ tiền sử học Viễn đông, vấn đề văn hóa Hòa-Bình nước ta đã được xác nhận một cách khẳng định. Vấn đề thực tiễn là nền văn hóa Hòa Bình có mặt trên toàn thế giới. Nhưng điều quan trọng ở đây là nền văn hóa nầy đã được tìm thấy ở Việt Nam sớm hơn đâu cả, nghĩa là có trước những nơi khác trên thế giới và tìm thấy ở Hòa-Bình, một làng nhỏ Việt Nam, ở vào một thời gian xa xưa nhất, cách đây trên 6.000 năm, đối với các nơi khác trên thế-giới. Điều nầy có nghĩa là người Việt cổ tại Hòa-Bình Việt Nam đã làm nên nền văn hóa Hòa Bình trước nhất trong nhân loại. Nói một cách khác, người Hòa Bình trên đất Việt Nam đã có một thời văn minh xưa nhất thế-giới, đó là sự thật mà khoa khảo cổ học thế giới minh chứng và xác quyết. Thế nên khảo cổ học thế giới đã lấy tên của một làng quê Hoà-Bình, Bắc-Việt đặt tên cho nền văn hóa nầy gọi là văn hóa Hòa Bình cho toàn thế giới (xem Encyclopédie d’Archéologie).
Thế là Hòa Bình tại Việt-nam đã được coi là trung tâm văn minh tiền sử đầu tiên của nhân loại về nông nghiệp lúa nước và về công nghiệp đá. Chẳng những nền văn minh tiền sử nầy ngang hàng với Trung Mỹ và miền Lưỡng Hà về phương diện kỹ thuật, mà còn đi trước hai nơi nói trên về thời gian đến trên 3000 năm. Đó là điểm rất đáng hãnh diện: Hòa Bình đã được thế giới xác nhận là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới.
Trung tâm nông nghiệp cùng chăn nuôi đầu tiên trên thế giới tại Hoà Bình Việt Nam đã có trước vùng Lưỡng Hà đến 3000 năm. Như vậy thì còn điểm nào nghi ngờ rằng nơi nào “nhập cảng” nơi nào! Hòa-Bình, trung tâm văn-minh nông nghiệp đầu tiên của nhân loại trên thế-giới, để rồi từ đó nền văn-minh trên được lan tràn khắp vùng Đông-Nam-Á: Trung-Quốc, Nhựt-Bản, Mã -Lai, Thái-Lan, Ấn-Độ v.v…, và đi xa dần trong hàng nghìn năm. Mà ở Hòa-Bình là nơi sầm uất, giàu thịnh hơn đâu hết và đã có vị vua Viêm Đế (vua nóng tượng trưng cho mùa trồng trọt) tức là Thần-nông, người đã nghiên cứu dạy nghề nông và được tôn sùng như một vị vua, và bà Nữ-Oa là người đã nghiên cứu thời tiết nắng mưa, cùng các ngày lễ, ngày Tết phù hợp với mùa màng và sự nghỉ ngơi của người nông dân sau khi mùa đã thâu hoạch. Bà Nữ Oa đã nghiên cứu thời tiết lúc gieo, lúc cấy, lúc gặt, mà dạy dân làm ruộng không thất mùa, đầy đủ mưa và nắng đúng lúc đúng thời. Vì thế dân gian coi bà Nữ-Oa như một vị thần linh có khả năng “lấy đá vá trời “.
Văn hóa tiền sử nước ta đã thu hút thế giới vào văn hóa Hòa Bình. Một trung tâm kinh tế sản xuất lúa nước đầu tiên trên thế giới. Một trung tâm kỹ nghệ đá đầu tiên của nhân loại, trước rất xa văn hóa Lưỡng-Hà và Trung-Mỹ (Mexico hiện tại) đến cả 3 thiên niên kỷ. Bước tiến này nhảy vọt mạnh với văn hóa Hòa Bình, có lẽ một phần cũng nhờ ở biến cố thiên-nhiên là trận Đại Hồng Thủy thế giới đã xẩy ra thời văn hóa Hòa Bình. Nói chung đó chỉ là một suy luận, nhưng thực chất là đã có sự phát triển liên tục và rõ ràng từ văn hóa Sơn Vi đến Hòa Bình.
Tiềm lực của văn hóa Hòa Bình là càng ngày càng đưa con người thích nghi nhu cầu sự sống với một cố gắng như là một cuộc cách mạng. Đó là cuộc cách mạng sinh sống bằng kỹ nghệ sản xuất công cụ để bán đi khắp nơi cho thợ đá. Và dụng cụ nông nghiệp đá cho người dùng. Với nhu cầu sản xuất nông nghiệp mới nầy, tất nhiên kỹ nghệ đồ đá phải phát triển. Văn hóa Hòa Bình là văn hóa đá giữa, nên nó có một ảnh hưởng sâu rộng về nghệ thuật đá mới. Vì chính nơi đây, Hòa Bình, trên đất nước Việt cổ, là điểm phát xuất ra nhũng nền văn hoá thuộc nền cách mạng đá mới của các nước Trung quốc, Nhật Bản, Philippine, Indonêsia, Mã đảo và cả miền Địa Trung Hải v.v… Chính vì vậy, Việt Nam cổ chính là trung tâm cách mạng sản xuất công cụ đá mới cho thợ đó khắp nơi đã được thế giới khẳng định.
Có rất nhiều tầng văn hóa của các nước trên thế giới thuộc văn hóa Hòa-bình nhưng trẻ trung hơn, tức ra đời sau hơn nhiều, so với Hòa Bình, đã được nghiên cứu đến và đều được qui về văn hóa Hòa Bình. Thế giới đã khẳng định rằng trong những nền văn hóa ấy không hề có nghệ thuật chế tạo đá sỏi như ở Việt Nam. Đá sỏi hay đá cuội là lõi đá rất cứng. Với đá nầy công việc chế tạo, đẻo gọt rất khó. Nhưng không có công cụ làm bằng đá sỏi, thợ đá không làm nghề đục dẻo gọt dũa mài các loại đá khác như đá tảng, mềm hơn nó đươc. Vậy nên chỉ có thợ bậc sư mới làm nên những công cụ bằng đá sỏi, sản xuất ra đồ nghề bán cho thợ đá. Như thế thợ đá mới có công cụ chế tạo ra dụng cụ đá cho nông dân hay tiều phu, hay bất cứ ai.
Thời gian, mưa gió và ánh nắng mặt trời đã làm tan vỡ đá tảng ra, rồi bào mòn và tẩy sạch những tảng đá lớn. Hạt nhân đá còn lại có độ cứng rất cao gọi là đá sỏi hay đá cuội. Chế tạo những hòn đá cứng nầy rất khó khăn. Nhưng người ta cần những rìu đá, búa đá, dao đá bằng đá sỏi mới có thể sản xuất ra những rìu, búa, dao, cày đá v.v….. bằng đá tảng mềm hơn cho người nông dân. Đẽo gọt trên đá sỏi cứng rất khó khăn nhưng vô cùng cần thiết. Người cổ Việt đã nghiên cứu dụng cụ và kỹ thuật đẻo gọt đá sỏi như thế nào, đó là cả những bí quyết nhà nghề không phải ai cũng có thể học và làm được. Và như vậy việc sãn xuất công cụ nông nghiệp ở Hoà Bình trở nên quan trọng cho khắp các miền nông nghiệp. Vì phải có những công cụ bằng đá sỏi cứng mới có thể chế tạo ra các dụng cụ đá tảng một cách dễ dàng. Chỉ ở Hòa Bình mới có nghệ thuật chế tác đá sỏi cứng, với số lượng rất cao, dùng để bán đi khắp nơi cho thợ đá chế tạo những dụng cụ bằng đá. Thợ đá dùng công cụ đá sỏi cứng của Hoà Bình mà chế tác các dụng cụ nông nghiệp đá tảng mềm hơn đá sỏi. Khắp nơi trên địa cầu có rất nhiều học trò về chế tạo đá của các bậc thầy đá Hoà Bình Việt Nam. Như vậy rõ ràng là chỉ trong nền văn hóa Hòa bình tại Việt-nam mới có việc sản xuất công cụ đá cứng cho người thợ đá xữ dụng như là dụng cụ chế tạo đá xưa nhất thế giới.
Vậy còn ai hoài nghi Hoà Bình không phải là trung-tâm đẻ ra nghiệp vụ đá cho nhiều quốc gia trên thế giới. Văn hóa Hòa Bình là một nền Văn hóa cách mạng ra đời trước văn hóa Bắc Sơn, và như trên đã nói, lẻ dĩ nhiên trước Đông Sơn rất lâu, ít nhất đến cả từ 8.000 đến 13.000 năm. Và chính Hòa Bình là mẹ đẻ ra nền văn hóa nổi danh Bắc Sơn và sau nầy là văn hóa Đông Sơn rực rỡ huy hoàng. Văn hóa Đông Sơn kéo dài cho tới khi Tàu qua chiếm nước ta lần đầu tiên thì ngừng hẳn. Điều nầy chứng minh rõ ràng Tàu đã đến cướp mất, phá hoại, cấm chỉ sự phát triển văn hóa của nước Việt cổ. Rõ ràng cũng nhờ cướp bóc lõi cốt văn hoá Bách Việt cộng với sự giàu mạnh của cải và nhân lực mà văn hóa Trung Hoa tiến nhanh sau nầy.
Thật vậy, nhờ vào khảo cổ học mà mọi bí ẩn của tiền sử đã được làm sáng tỏ. Và thế giới đã công nhận Việt Nam, tiêu biểu là văn hóa Hoà Bình (và Bắc Sơn) mà tên tuổi đã được “thế-giới-hóa” (Encyclopédie d’Archéologie), đã được thế giới xác nhận là nơi có một nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới. Có thể vì văn hóa Hòa Bình nằm vào thời điểm của trận Đại-hồng-thủy cách đây từ 17.000 năm đến 6.000 tr.TC. Cuộc Đại Hồng Thủy nầy bao gồm cả thế giới, theo đó chắc nó ăn khớp và trùng hợp với cuộc Đại Hồng Thủy đã được diễn tả trong Cựu Kinh Ước của đạo Do Thái và Đạo Công Giáo. Vì vậy theo khoa học, rõ ràng trước và sau Đại Hồng Thủy loài người đã có mặt thậm lâu trên miền Đông Nam Á, mà quan trọng là tại Việt Nam cổ.
Sau vụ đại hồng thủy nầy, nơi trên thế giới nguy hại nhiều nhất là Lục Địa Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, cho nên mảnh đất chữ S của tổ quốc Việt Nam ngày nay thật là ốm o, mảnh dẻ quá sức. Vì một phần đất lớn của miền nầy đã sụp xuống biển, mở rộng thêm Thái-bình-dương. Xét theo thềm lục địa Đông Nam Á, các nhà khảo cổ nhận thấy Đại Hồng Thủy lên và lui rất chậm chạp, vì thế không xẩy ra tai nạn chết người tập thể. Như vậy số người đã sống trên bình nguyên Đông Nam Á cổ mà nay là biển đã di tản nguyên vẹn ra khắp các lục địa Đông Nam Á, và Úc Châu. Có lẽ đó là lý do chính của sự hỗn hợp nhiều chủng tộc trên miền Đông Nam Á. Phần đất còn sót lại sau Đại-hồng-thủy trở nên quá ít đối với số dân sống bằng hái lượm trước kia. Do đó vấn đề cần thiết cho sự sinh sống của người Đông Nam Á mà trong đó người Bách Việt cổ là căn bản, là đi tìm thức ăn mới. Người Bách Việt cổ đã di tản lên chốn cao nguyên tức là lục địa Bách Việt cổ mà nay là Trung Hoa và đồng bằng Bắc Việt và thẳng đến miền duyên hải Trung Việt (vùng Quảng Trị Quảng-Hóa tức là Thừa-Thiên). Người Việt cổ bắt buộc phải nghĩ đến cách làm tăng số lượng thực phẩm cần thiết để sinh sống mà trước đây họ chỉ cần tìm thấy dễ dàng trong thiên-nhiên. Đây có lẽ là nguyên nhân phát triển nghề nông của các chủng Bách Việt di tản đến Đông Nam Á mà chủ yếu là Việt Nam cổ.
X – THAY LỜI KẾT:
Trên đây tôi đã dẫn những cứ liệu lịch sử về văn hóa Hòa Bình với mục đích xóa tan những luận điệu và nhận xét sai lạc của thực dân Tây, Tàu và những người Việt phản văn hoá; đồng thời cũng để trình bày một cách tương đối sơ lược, một khía cạnh nào đó sự nghiệp lớn lao của tổ tiên chúng ta. Hiện tại thế giới đã công nhận rằng nước Việt Nam chúng ta đã có một nền nông nghiệp lúa nước và một nền công nghiệp đá đã từng phát triển rực rỡ và xưa nhất thế giới.
Vậy mà bao nhiêu trăm năm nay đất nước chúng ta phải trải qua biết bao gian truân, đói khó, xâm lăng, huynh đệ tương tàn. Đến nỗi con cháu mờ mịt cả mắt mũi không còn thấy gì về tiền nhân, không còn biết gì đến công lao sự nghiệp của tổ tiên. Đồng thời con cháu cũng đã để ngoại bang hiểu lầm về sự nghiệp của các Vị Tiền Bối. Hiện tại dân Việt phải đói khổ, nghèo nàn, đau thương, chậm tiến một cách man rợ. Thật là một điều vô cùng phi lý và tủi hổ cho thân phận con người Việt Nam ngày nay, tất cả cùng chỉ vì xâm lăng Tàu đặc biệt là từ sau thời Vua Trưng. Thôi thì, tục ngữ ta vốn có câu “Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời”. Ngày xưa Việt Nam vượt hẳn các nước Đông Nam Á và nhiều nước khác trên thế giới, vinh thật là vinh. Ngày nay chúng ta trở lại thua kém tất cả thì nỗi nhục ấy quả nhiên thật là nhục. Chung quy cũng vì bị đô hộ và chiến tranh quá nhiều và cũng do lòng người tham ô nhũng nhiễu trải qua mọi thời đại và gần đây là từ thời Việt Nam Cộng Sản cho đến ngày nay.
Vậy, chúng ta chỉ còn cầu mong hết nhục và ắt sẽ có ngày vinh quang. Chúng ta hãy đầy lòng tin tưởng cho ngày mai. Sau cơn sáng trời lại mưa, thì ắt sau cơn mưa trời lại sáng. Chúng ta phải tin tưởng như vậy. Chúng ta sẽ không tự mãn, tự hả hê trước những thành tựu về tiền tài, học hành thi cử hay nghề nghiệp của chúng ta và của con em trên đất khách. Vì đó chỉ là chuyện đương nhiên, mà trái lại chúng ta phải tự kiểm điểm những thiếu sót, những mất mát lớn lao của chúng ta và của các thế hệ trẻ về phương diện văn hóa dân tộc. Chúng ta phải có bổn phận vun trồng mầm móng văn hóa Bách Việt nước nhà lên trong lòng chúng ta và trong lòng non con cháu chúng ta ở hải ngoại. Đó tất nhiên phải là điều khó khăn, chúng ta có thể bỏ công lao mồ hôi nước mắt, nghị lực thời gian làm việc hữu ích cho hậu duệ chúng ta; hơn là ngày đêm làm những hành động tiêu cực. Những hành động đó chẳng những đã biến dần dân lưu vong thành một sắc dân xem chừng như mất gốc. Chúng còn biến một số người Việt lưu vong đông đúc, tuy có nhiều tiền bạc, khoa bảng, bằng cấp, nhiều chức tước, địa vị cao giống như những gì mà người Trung-Hoa đặt cho dân tộc ta trước đây vậy.
Nhà triết gia Nhật đã nói: “Mỗi người Việt là mỗi viên ngọc quí, nhưng nhiều người Việt hợp lại thì thành bùn thối. Mỗi người Nhật chỉ là một hột cát, nhưng nhiều người Nhật hợp lại thì trở nên thành quách kiên cố.” Thật là xấu hổ cho người Việt. Các dân tộc khác như Trung-hoa, Nhật-bản, Do-Thái… họ có tình đoàn kết dân tộc, bỏ qua dễ dàng hận thù cá nhân, tập thể, để bảo tồn và xây dựng văn hóa dân tộc. Họ ra sức đi tiền phong trong tinh thần đoàn kết dân tộc, trong tinh thần vì quyền lợi chung, trong hy sinh nhẫn nhục cá nhân vô cùng khó khăn vất vả trong mọi trạng huống cho kỳ đạt mục đích: ví dụ dân Nhật Bản sau chiến tranh khủng khiếp với 2 trái bom nguyên tử; ví dụ dân tộc Do Thái. Và họ đã thành công. Các dân tộc ấy là những tấm gương sáng giúp chúng ta trong mọi nỗ lực đoàn kết, đại đoàn kết trong công bằng nhân ái, trong lòng tôn trọng quyền làm người tự do. Biết sống có tình có nghĩa có lý, biết coi thường danh lợi vật chất riêng tư, biết làm phát triển văn minh tinh thần, tức văn hóa truyền thống dân tộc.
Mới đây, sau 100 năm bị đô hộ, sau nửa thế kỷ chiến tranh, người Việt trong cũng như ngoài nước, hầu như quên đường lối sống vương đạo của tiền nhân, khiến cho sự phát triển văn hoá trì trệ rất đáng trách. Sự đoàn kết dân tộc là một tiềm năng sức mạnh vô biên. Một dân tộc không biết đoàn kết, không biết sống làm việc vì quyền lợi chung là một dân tộc tự hoại. Đoàn kết là sức mạnh cho tất cả, sức mạnh làm cho ngoại xâm khiếp sợ, kính nể, làm cho đất nước phát triển, toàn dân phát triển, mỗi một người cho tất cả, tất cả vì mỗi người. Đoàn kết là kho tàng tài sản tinh thần và vật chất vô cùng quí báu mà mà không tốn tiền, không hao tổn tài nguyên. Đoàn kết là không gieo trồng mà chỉ có gặt hái. Nguyện cầu Tổ Tiên dân tộc Việt Nam, những vị đã biết đoàn kết để làm nên sự nghiệp cao cả cho đất nước, giúp cho con cháu biết giá trị của sự đoàn kết và biết đoàn kết lại.
Như một phép mầu, chính Tổ Tiên Việt Nam đã soi sáng cho trí tuệ chúng ta nhìn thấy tài sản của tiền nhân để lại cho con cháu qua những sự thành tựu của họ trong tình nghĩa, vị tha và đoàn kết để thành công trong một nền văn hóa ưu việt, sống động. Đó là văn hoá tinh thần sinh vật chất của tổ tiên. Chắc chắn Tổ tiên đã làm rạng ngời nó trong nhiều tâm can người Việt, đã làm sống lại bừng bừng thật sự văn hóa trong nhiều trái tim rướm máu của người Việt, trong tinh thần dân tộc biết tìm đến đoàn kết dân tộc. Chắc chắn Tổ Tiên Việt Nam đang và sẽ luôn trỗi dậy trong tiềm thức, trí tuệ, trong từng tế bào của nhiều người Việt để phát thành âm hưởng qua không biết bao nhiêu hình thức xây dựng.
Niềm tin chắc chắn sẽ trở nên hiện thực trong một ngày mai gần gũi, cũng phải do ở những hành động sâu ẩn trong ưu tư hoài bão, tài sản văn hóa dân tộc của mỗi một người trong chúng ta. Để cầu chúc cho bước tiến văn hóa ở tương lai gần của dân Việt, chúng tôi xin kính hiến chút tình cảm lên trước bao công lao khó nhọc của Tổ Tiên chúng ta suốt từ thời tiền và sơ sử đến nay qua câu nói của nhà văn hào Jean Valery:
“Hỡi tâm hồn cao cả, đã đến lúc mà người cần được mặc
chiếc áo xinh đẹp xứng đáng với cơ thể người”
Nguyễn Thị Thanh
Montréal tháng Mười 1992
Bài được đăng lên truclamyentu.info.
Được biên tập lại bởi blog Lược Sử Tộc Việt.
Nguồn: https://luocsutocviet.wordpress.com/2018/05/30/079-viet-nam-trung-tam-nong-nghiep-lua-nuoc-ky-thuat-da-co-xua/ Lược Sử Tộc Việt
Trang blog tập hợp tất cả những bài nghiên cứu giá trị nhất về Tộc-Việt (Bách-Việt), thời kỳ tiền-Việt và nền văn minh Việt cổ. Trên con thuyền về với Cội Nguồn.
478. 🌟 Bách Việt và cơ sở thống nhất của cộng đồng Bách Việt
Dân tộc Việt ngày nay, là dân tộc duy nhất còn giữ gìn được tên Việt trong tên của dân tộc mình, nhưng, ở một giai đoạn xa xưa trước đó, “Việt” là một khái niệm bao trùm và rộng lớn hơn thế, được sử dụng cho toàn thể nhóm dân cư cùng một nguồn gốc sinh sống trong vùng Nam Dương Tử và miền Bắc Việt Nam. Có người cho rằng, cộng đồng Việt là một cộng đồng rời rạc, phân lập, là một khái niệm mơ hồ được sử dụng cho toàn bộ các nhóm dân cư phi Hán ở vùng Nam Dương Tử, phần nhiều là sự suy đoán dựa vào khái niệm Bách Việt. Nhưng, lịch sử và cội nguồn của người Bách Việt lại không chứng tỏ rằng họ là một cộng đồng phân lập, không liên quan tới nhau, mà còn là một chủng tộc, một văn hóa thống nhất, và có thể là cùng một dân tộc, một quốc gia.
Qua bài viết này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo cứu, phân tích từng yếu tố để chứng minh người Việt là một cộng đồng thống nhất, liên hệ với nhau chặt chẽ. Họ tồn tại, phát triển trong một cộng đồng chung trong một thời gian rất dài, có ý thức mạnh mẽ về tính thống nhất văn hoá, dân tộc và chủng tộc, trước khi áp lực của người Hoa Hán bắt đầu dồn xuống phương Nam, khiến văn minh Việt sụp đổ, lãnh thổ, văn hóa và con người Việt dần tan rã, lịch sử về một cội nguồn chung của cộng đồng Việt trở nên nhạt nhòa và gần như biến mất. Những lớp bụi phủ lên quá khứ Bách Việt, những hiểu lầm về cộng đồng này hẳn cũng đã tới lúc được làm rõ.
I. Nguồn gốc của nhận định về sự phân lập của cộng đồng Bách Việt
Người Việt và người Hoa Hạ có địa bàn sinh sống tiếp giáp nhau, nên đã có những giao tiếp, va chạm với nhau từ rất sớm. Từ thời vua Nghiêu, Thuấn cách ngày nay hơn 4000 năm, người Việt phương Nam và người Hoa Hạ phương Bắc đã bắt đầu thông giao. Tới thời nhà Thương, thì hai nhóm bắt đầu có sự xung đột lãnh thổ. Cũng bởi sự tiếp xúc từ rất xa xưa và thường xuyên, mà người Việt được người Hoa Hạ ghi lại khá nhiều trong sách sử của mình. Trong các giai đoạn Hạ – Thương – Chu, thì cộng đồng Việt được người Hoa Hạ gọi bằng những cái tên gắn liền với tên Việt tự xưng của người Việt, mỗi thời gọi mỗi khác: đời Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Lạc Việt 骆越 [1]. Có thể thấy những cái tên gắn liền với Việt này sử dụng để chỉ toàn bộ cộng đồng Việt, không thể hiện ý niệm về sự phân lập.
Nhưng tới thời nhà Tần, sách Lã Thị Xuân Thu đã bắt đầu nhắc tới khái niệm “Bách Việt”: “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là phía nam đất Hán là đất Bách Việt. Cộng đồng Việt từ sách này trở đi, được nhận định như một cộng đồng phân lập, thiếu sự gắn kết, là một khái niệm được người Hoa Hạ sử dụng bao trùm cho các nhóm người không liên quan tới nhau ở vùng Hoa Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là những suy diễn dựa trên khái niệm Bách Việt, cũng như sự tan rã của quốc gia Văn Lang giai đoạn Sở – Tần xâm lược đất Việt, khiến cho hiện trạng của cộng đồng Bách Việt lúc đó là nhiều tiểu quốc, nhiều nhóm dân cư, cùng với sự tràn xuống của văn hóa phương Bắc theo bước chân xâm lược cũng làm tan rã tính thống nhất về văn hóa của cộng đồng Việt, làm ảnh hưởng tới nhận định về cộng đồng này của nhiều người. Tuy nhiên, trước đó, người Việt vùng Nam Dương Tử và Việt Nam là một cộng đồng, thuộc một quốc gia, cùng một nền văn hóa, và có thể là cùng một dân tộc. Chúng tôi sẽ tuần tự triển khai từng bước, để chứng minh rằng người Việt là một cộng đồng thống nhất và gắn bó, liên hệ với nhau chặt chẽ.
• Tuy nhiên do tính quen thuộc và phổ biến của khái niệm Bách Việt, chúng tôi vẫn sử dụng nó trong cả bài viết của mình để bạn đọc dễ hình dung. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đề xuất sử dụng khái niệm Tộc Việt cho toàn thể cộng đồng Việt, bao gồm cả giai đoạn Xích Quỷ, Văn Lang, và sử dụng khái niệm Bách Việt cho giai đoạn hậu Văn Lang.
II. Cơ sở thống nhất của cộng đồng Bách Việt
1. Cơ sở thống nhất từ gen và nhân chủng
a. Người Bách Việt có nguồn gốc từ Việt Nam. Và người từ Việt Nam có nguồn gốc từ châu Phi
Các nghiên cứu gen từ những năm cuối của thế kỷ trước cho tới nay, đã xác định cơ bản được nguồn gốc của người Việt: họ là hậu duệ của những người rời khỏi châu Phi, tới Đông Nam Á qua con đường phía Nam, chia thành hai đợt vào khoảng 6-40000 năm trước ngày nay, đợt di cư thứ hai chiếm khoảng 20-30% gen của người tối cổ [2][3]. Giống người lúc ấy là người Australoid da đen. Họ sinh sống lâu dài trong vùng Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, và những đợt biển tiến, biển lùi đã tác động trực tiếp tới đời sống của họ, dẫn tới sự di cư lên xuống của họ ở vùng Đông Á. Trong đợt băng hà lớn cuối cùng [4], cách ngày nay hơn 20.000 năm, thì nước biển xuống thấp cực đại, làm lộ ra vùng đồng bằng sông Hồng nối liền với đảo Hải Nam, tạo thành thềm lục địa kéo dài dọc bờ biển Nam Trung Hoa tới miền Bắc Việt Nam.
Địa bàn sinh sống chính của các cư dân cổ là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông châu Giang, khi đó còn nối liền với nhau. Họ đã sinh sống ở đây được khoảng 5.000-6.000 năm, phát triển nông nghiệp lúa nước (nghiên cứu gen lúa đã chứng minh về sự thuần hóa lúa nước ở thềm lục địa này [5]), tăng trưởng nhanh chóng dân số hơn trước so với đời sống săn bắt hái lượm, tới hơn 12.000 năm trước đây, thì nước biển bắt đầu dâng trở lại, khiến cho đất đai dần dần chìm xuống biển, những di sản của họ ở những vùng này cũng biến mất. Sự kiện này buộc họ phải di cư lên phía Bắc [6], họ đã di cư rất xa lên miền Bắc với dấu tích của người Hoabinhian được phát hiện tại Nhật Bản [7], Triều Tiên [8], sinh sống cả tại vùng đồng bằng Hoàng Hà, nhưng nhóm cốt yếu của người Việt là hạ lưu Dương Tử và hồ Động Đình. Người tiền Việt ở Hoa Nam đã phát triển đời sống văn minh lúa nước [9], còn ở Hoa Bắc, thì họ trồng cả lúa và kê [10]. Người tiền Việt ở Hoa Nam đã tạo nên những nền văn hóa tiền sử rất phát triển: Cao Miếu, Hà Mẫu Độ, Lăng Gia Than, còn ở Hoa Bắc thì là các văn hóa: Hồng Sơn, Đại Vấn Khẩu, Ngưỡng Thiều.
Hai nhóm Hoa Bắc và Hoa Nam đã hợp nhất với nhau để hình thành Tộc Việt ở vùng Động Đình và hạ lưu Dương Tử, hình thành nên các đại văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tới thời điểm đó, thì Hoa Bắc vẫn còn một lượng nhất định người tiền Việt sinh sống, nhưng sự xâm nhập của người du mục từ Bắc Á đã đem theo kỹ nghệ luyện kim, xe ngựa, cừu của Trung Á tràn vào Hoa Bắc và làm biến đổi một phần gen và văn hóa Hoa Bắc [12], dần dần hình thành tộc người Hoa Hạ.
Tới khoảng hơn 4000 năm trước ngày nay, thì người Việt cổ bắt đầu di cư về phía Nam [13], về Việt Nam và tản ra Đông Nam Á, trong đó bộ phận chính đã trở về Việt Nam, đây là người Việt nói tiếng Nam Á, là cốt lõi, kết hợp với người Hoabinhian ở lại sau đợt biển tiến, để từ đó dần hình thành nên người Việt Nam. Họ là những người xây dựng và phát triển các nền văn hóa cổ từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn. Các giai đoạn sau, thì người Việt liên tục phát triển ở vùng Hoa Nam, vẫn luôn có người sinh sống trong địa bàn của quốc gia Văn Lang. Cộng đồng Việt dần dần phát triển và hình thành nền văn hóa trống đồng, sau này chính là biểu trưng quan trọng nhất cho văn hóa chung của Tộc Việt.
b. Gen người Bách Việt là thống nhất với nhau
Các công trình nghiên cứu gen đều đã chứng minh về một cội nguồn chung của những nhóm người có gốc Bách Việt, với sự tương đồng gen hoàn toàn của người Việt Nam với nhóm Thái, và sự gần gũi của hai nhóm với người Hoa Nam mặc dù họ đã pha trộn với người Hoa Bắc di cư xuống.
Công trình nghiên cứu gen của nhóm các nhà khoa học Viện Pháp Á bao gồm Bs Trần Đại Sỹ (Việt Nam), Gs Tarentino (Ý), và Gs Varcilla Pascale (Pháp) tiến hành khảo sát, nghiên cứu những bộ xương cổ, đồng thời kiểm tra máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam, đối chiếu với các dòng họ Hoa Bắc, cũng như tiến hành khảo sát y phục, mồ mả, nhóm nghiên cứu đã đi đến kết luận: cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Dương Tử tới miền Trung Việt Nam, Lào, Thái đều cùng một chủng tộc, huyết thống, hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán Hoa Bắc.
Công trình nghiên cứu gen của người Việt do Vinmec tiến hành, với sự chủ trì của Gs Nguyễn Thanh Liêm, cũng ghi nhận kết quả tương tự như của nhóm nghiên cứu Viện Pháp Á, khẳng định cơ sở cùng một nguồn gốc chủng tộc của của các nhóm dân cư Việt, Hoa Nam, Thái, Lào…
Ngoài ra, công trình nghiên cứu gen của Đài Loan cũng đã xác nhận rằng người Mân Nam và Hakka có nguồn gốc gần gũi với người Việt, Thái, hoàn toàn khác với người Bắc Á, mặc dù họ đã có sự pha trộn với người Hán Hoa Bắc di cư xuống:
Công trình của Gs Lâm Mã Lý nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm ở nhiễm sắc thể 6 qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.
Gen người Việt thống nhất với nhau, còn về mặt nhân chủng học, thì người Bách Việt phương Nam và hậu duệ của họ, tất cả đều thuộc chủng Mongoloid, chủng này được chứng minh có nguồn gốc hoàn toàn từ phương Nam, là những người di cư từ Đông Nam Á lên, công trình đầu tiên của nhóm Gs. J. Y. Chu đã khởi đầu cho nhận thức này, sau đó được công trình của tổ chức HUGO xác nhận:
Tổ chức bộ gien người HUGO (Human Genome Organisation) đã công bố công trình mang tính bước ngoặt Vẽ bản đồ đa dạng di truyền người châu Á trên tạp chí Science danh tiếng ngày 11/12/2009. Nghiên cứu chi tiết trên 64.794 kiểu biến thiên hình thái gien của 1928 người thuộc 73 sắc dân khắp châu Á và 2 sắc dân ngoài châu Á (để so sánh), các nhà khoa học quốc tế của HUGO kết luận, hơn 90% thể đơn bội gien người Đông Á tìm thấy ở người Đông Nam Á hoặc người Nam Trung Á, và sự đa dạng giảm dần từ phía Nam lên phía Bắc. Ngoài ra, 50% thể đơn bội chỉ tìm thấy ở người Đông Nam Á và 5% chỉ tìm thấy ở người Nam Trung Á cho thấy, người Đông Nam Á là nguồn gốc chính của người Đông Á. Công trình này là một bước tiến lớn so với công trình của Chu và đồng sự 11 năm trước, khi định lượng hóa được phần đóng góp của dòng gien Đông Nam Á đối với vốn gien tại Đông Á (khoảng 80 – 90%). [Đỗ Kiên Cường]
– Người Bách Việt cũng có sự thống nhất về chỉ số sọ và kiểu răng:
Các nhà khoa học Khảo Tiền sử thuộc trường Viễn Đông Bác cổ đã đo chỉ số sọ trung bình của người Việt là 82,13. Dung lượng sọ Việt là 1341,48 và tính cách sọ Việt Brachycephal nghĩa là Sọ tròn trong khi chỉ số sọ của người Hán ở Hoa Bắc là 76,51 và thuộc loại sọ dài có dung lượng sọ là 1440. Chỉ số sọ trung bình của dân Hoa Nam và Hoa Đông là 81,22 và thuộc loại sọ tròn. Theo khoa Nhân chủng học thì cư dân Hoa Bắc và Hoa Nam là hai chủng tộc khác nhau vì sọ của 2 nhóm cư dân này cách biệt trên 2 chỉ số có nghĩa là thuộc 2 chủng khác nhau. Người Hoa Bắc có chỉ số sọ 76,56 gần gũi với sọ cổ người Cam Túc tức người Hán cổ (76,70). Sọ người Hán và sọ Việt cách nhau hơn 5 chỉ số (5,57) và giữa người Hoa Nam và Hoa Bắc tuy cũng gọi là người Trung Quốc nhưng rất khác biệt nhau vì chỉ số sọ cách nhau hơn 4 chỉ số (81-76,56=4,44). Như vậy Hán tộc và Việt tộc thuộc 2 nhân chủng khác nhau và sọ người Hoa Nam và Người Việt cách biệt không quá 2 đơn vị nghĩa là cùng một chủng tộc, mặc dù Hoa Nam đã có sự pha trộn với người Hoa Bắc. [Phạm Trần Anh]
Khảo cổ cũng phát hiện răng kiểu Sundadont phổ biến khắp Đông Nam Á xưa được cho là có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực Nam Dương Tử – Bắc Đông Dương, hoàn toàn khác với kiểu Sinodont Mongoloid phương Bắc [Turner, C.G. 1989], thậm chí còn được cho là tổ tiên của kiểu răng Sinodont phương Bắc. Có thể thấy, cách phân nhóm này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu di truyền học của Bowles (1977) [dẫn trong Luca Cavalli-Sforza L. 1994: 223], thể hiện rõ nét chất Mongoloid phương Nam của Bách Việt cổ. [Nguyễn Ngọc Thơ]
– Về hệ ngữ, thì Bách Việt (Tộc Việt) bao gồm các hệ ngữ: Nam Á, Tai-Kadai, Nam Đảo, các hệ ngữ này phát triển từ cùng một gốc là hệ ngữ Proto-Austric (khái niệm của Benedict) của người Hoabinhian, trong đó nhóm Nam Đảo tách ra khỏi Tộc Việt sớm nhất, đi xuống vùng Đa Đảo, nhóm Nam Á là nhóm Việt sống vùng dọc sông Dương Tử, Động Đình, bờ biển Hoa Nam tới miền Bắc Việt Nam (đây là nhóm cốt yếu của tộc Việt), còn nhóm Tai-Kadai là nhóm trên núi, sống sâu trong vùng nội địa Hoa Nam. Hai nhóm ngôn ngữ tuy có phần khác nhau, nhưng vẫn cơ bản hiểu được nhau. Và khác hệ ngữ vẫn cùng một dân tộc không phải là hiếm trên thế giới, có vài trường hợp như ở Ý và ở Ấn Độ, các nhóm dân nói thứ tiếng khác nhau vẫn là cùng một dân tộc. Tính thống nhất không bị ảnh hưởng bởi sự khác biệt hệ ngữ. [14]
2. Cơ sở thống nhất từ trống đồng
Trống đồng có vùng phủ rộng khắp Việt Nam, Hoa Nam và Đông Nam Á. Trống không phải là đồ vật bình thường, mà là vật có tính thiêng, vật thờ trời, biểu trưng cho quyền lực chính thống của người Việt. Kết cấu, hình dạng hoàn toàn tương đồng với nhau ở toàn vùng Bách Việt, các trống đều cùng một motif hoa văn trang trí.
Quyền lực được thể hiện rất rõ ràng trên những chiếc trống, với những chiếc to, đẹp tinh xảo nhất tập trung ở miền Bắc Việt Nam, nơi đây cũng được các nhà khảo cổ cho rằng là nơi tập trung quyền lực, nơi những chiếc trống được truyền đi các nơi khác [Loofa-Wissowa], các vùng Bách Việt khác thì trống thường nhỏ hơn, tượng trưng cho quyền lực thấp hơn.
Bên cạnh đó, trống còn là vật biểu trưng tôn giáo, nằm trong hệ “tôn giáo trống” của người Việt, đó là tôn giáo thờ Trời, với hoạt động tế trời được tiến hành với sự tham gia của toàn dân, [Pearson và Quaritch-Wales, dẫn lại trong Tạ Đức, tr.253], thay vì là quyền lợi dành riêng cho vua và quý tộc như Hoa Bắc.
Thành phần chất liệu của trống đồng ở Hoa Nam, Việt Nam, Lào, Thái là gần giống nhau:
Ðồng | 53% |
Thiếc | 15-16% |
Chì | 17-19% |
Sắt | 4% |
Một ít vàng bạc |
Trống đồng Việt Nam, Quý Châu, Thượng Hải, Vân Nam, Quảng Tây
Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc đã từng tranh cãi về nguồn gốc của trống đồng, nhưng cuộc tranh cãi cơ bản là không cần thiết, vì trống được tạo ra và sử dụng cùng bởi một tộc người. Sự xuất hiện của trống gần trùng khớp với địa bàn Bách Việt chứng minh cho chúng ta thấy tính đồng nhất của văn hóa Việt.
3. Văn hóa của người Bách Việt
Văn hóa Bách Việt có tính thống nhất, nó được các nhà nghiên cứu xếp vào cơ tầng văn hóa Đông Nam Á. Dấu ấn vẫn còn đậm nét ở vùng miền Bắc Việt Nam, Hoa Nam và vùng Đông Nam Á, địa bàn nơi người Bách Việt sinh sống và di cư tới.
Người Bách Việt xưa được nhận diện thông qua hàng loạt các dấu hiệu quan trọng trong dân tộc học, khảo cổ học như:
Trong văn hóa tinh thần: huyền thoại mang nét lưỡng hợp, nguyên lý Mẹ, thờ tổ tiên, tín ngưỡng đa thần, dùng thuyền rồng tế bái thủy thần, dùng kê bốc, xà bốc..;
Trong văn hóa tổ chức xã hội: tổ chức đời sống theo thôn làng, liên làng rồi lên nhà nước, làm nông nghiệp lúa nước, coi trọng vai trò phụ nữ..;
Trong văn hóa vật chất: cắt tóc xăm mình, búi tóc, ở nhà sàn, thức ăn thiên về thủy sản, phụ nữ mặc váy, nhuộm răng đen, thạo dùng thuyền và giỏi đi biển, chế tác đồ sứ mang hoa văn kỷ hà (geometric pottery, 几何 印纹陶), sử dụng bôn có nấc (rìu có mấu, stepped adze, 有段石锛) và bôn có tay cầm (rìu có vai, shouldered adze, 有肩石锛), sính trân châu (vùng Hợp Phố – Lôi Châu ở Lĩnh Nam, khác với truyền thống sính kim ngọc phương Bắc), tả nhậm… [Nguyễn Ngọc Thơ] [16]
Tác giả Joseph Needham, trong tác phẩm Science and Civilization in China, đã tóm lược 25 đặc điểm đặc trưng cơ bản nhất của văn hóa Bách Việt [17]:
1 – Văn hóa biển và sông nước
2 – Kỹ thuật đóng tầu dài
3 – Đặc điểm nhà làng để cho dân tụ tập sinh hoạt
4 – Tục đua thuyền
5 – Huyền thoại con rồng
6 – Thờ phụng loài rắn
7 – Tục linh thiêng hóa ngọn núi
8 – Đặc thù về giống chó
9 – Văn minh trống đồng
10 – Thuật dùng nỏ bắn bằng tên
11 – Phép làm quần áo bằng vỏ cây
12 – Tục xâm mình
13 – Đốt rừng làm rẫy
14 – Hội về mùa xuân và mùa thu cho trai gái vui chơi để tự do lựa vợ kén chồng
15 – Văn minh trồng lúa nước
16 – Thuật đào mương dẫn nước
17 – Thuật làm nương rẫy
18 – Phép thuần hóa trâu để cầy
19 – Tục thờ cúng ông bà
20 – Tục giết heo để cúng bái
21 – Tục cầu tự
22 – Thuật làm khí giới có chất độc
23 – Thuật trồng cây tre và sử dụng dụng cụ bằng tre
24 – Kỹ thuật đúc sắt
25- Kỹ thuật làm sơn mài
Jeffrey Barlow cũng nhắc đến ý kiến của các học giả Trung Hoa hiện đại nói về đặc trưng của văn hóa Bách Việt. Yu Tianjin và đồng nghiệp nêu 9 đặc trưng của văn hóa Bách Việt là:
1 – Tục cắt tóc ngắn và xâm mình
2 – Kỹ thuật làm nhà sàn
3 – Tục mặc quần ngắn hay váy ngắn, đội khăn
4 – Sử dụng trai, sò và các động vật lưỡng tính (vừa ở trên cạn vừa ở dưới nước) làm thực phẩm chính
5 – Nhổ răng (?)
6 – Truyền thống đàn ông tham dự vào tiến trình sinh nở và săn sóc hài nhi để đàn bà được sớm ra làm đồng
7- Đúc trống đồng và sử dụng trống trong những dịp cúng tế
8 – Tục bói bằng xương, đặc biệt xương gà
9 – Tín ngưỡng vật tổ, đặc biệt đối với chim, rắn
Chen Guoqiang và đồng nghiệp thêm vào bảng trên 4 đặc trưng văn hóa sau:
1 – Tục mai táng theo thế bó gối
2 – Chuyên sử dụng thuyền bè và giỏi hải chiến
3 – Sản xuất gốm và sứ theo dạng hình học
4 – Có kỹ thuật dệt vải phát triển [18]
Đặc điểm của văn hóa Bách Việt thống nhất trong toàn vùng Việt. Người Hoa Nam ngày nay, mặc dù đã bị đồng hóa, tự nhận mình là người Hán, nhưng đặc điểm văn hóa của họ vẫn rất đậm nét dấu ấn của văn hóa Bách Việt [Nguyễn Ngọc Thơ]. Những đặc điểm của văn hóa Bách Việt cổ cũng được người Việt ngày nay và các dân tộc thiểu số anh em giữ gìn trong suốt hơn 2000 năm kể từ ngày cộng đồng Việt tan rã, tới ngày nay chúng ta vẫn có thể nhận thấy được sự tương đồng trong văn hóa của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng Bách Việt.
Văn hóa Bách Việt cổ được giới hạn trong vùng Nam Dương Tử tới miền Bắc Việt Nam, nhưng vùng ảnh hưởng của nó thì lại rộng hơn thế. Văn hóa Bách Việt ảnh hưởng sâu rộng tới cả vùng Nam Đảo, ở đây là hệ ngữ di cư từ Đài Loan, Hoa Nam, nên có nhiều nét chung với cộng đồng Bách Việt. Trống đồng cũng được truyền trực tiếp từ văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam tới vùng này.
Học giả Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền sử” đã ghi nhận như sau: “Tất cả miền đất mênh mông từ Thái Bình Dương trở lên đến Hoa Nam Trung Quốc đều có cùng một nền văn hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có cùng nghệ thuật như miền sông Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn hóa gắn liền với môi trường sinh sống của thực vật và động vật từ trầu cau, cây dâu đến heo, gà, công. Các phong tục tập quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình, cà răng đến lễ hội mừng nước, đua thuyền, vai trò quan trọng của trống đồng và cồng chiêng trong các lễ hội dân gian. Đó là khu vực văn hóa Trống đồng của cộng đồng Bách Việt từ Nam Trung Quốc, Đài Loan, Hải Nam tới Đông Dương gồm Việt, Miên, Lào, Thái Lan xuống tới bán đảo Mallacca, Mã Lai (Malaysia), Nam Dương (Indonesia), Phi Luật Tân (Philippine), Guinée, quần đảo Micronesia và Pâques”.
Tuy nhiên họ đã hợp chủng với người Australoid bản địa đông hơn để hình thành người Nam Đảo ngày nay, nên họ chỉ còn lưu giữ văn hóa Bách Việt cổ, không thể nói rằng cùng một nền văn hóa với người Việt.
– Sự thống nhất của văn hóa Bách Việt trong thực tế khảo cổ học:
Về mặt văn hóa tinh thần, người Bách Việt thống nhất trong đa dạng. Còn trong thực tế khảo cổ học, mặc dù người Trung Quốc rất hạn chế khai quật các di chỉ tại vùng Hoa Nam, nhưng sự thống nhất của văn hóa Việt cũng được thể hiện tương đối rõ ràng qua những di vật khảo cổ đã được khai quật.
– Bài Đông Quân của Khuất Nguyên, được ghi lại vào khoảng thế kỷ 3 TCN, nằm trong tập Cửu Ca, bộ Sở Từ, theo phát hiện của Lăng Thuần Thanh (Ling Shun Sheng), giáo sư đại học Đài Loan, thì nó giống hệt với những hình ảnh được khắc họa trên trống Đông Sơn của người Lạc Việt. Văn hóa đất Hồ Nam cho tới thời của Khuất Nguyên, vẫn là văn hóa của người Việt, nơi đó cũng là nơi của người Lạc Việt sinh sống, giống hệt với văn hóa của người Lạc Việt ở đất Việt Nam.
Rìu lưỡi hài của vùng Hồ Nam (hiện được lưu giữ tại bảo tàng tỉnh Hồ Nam) và của văn hóa Đông Sơn Lạc Việt (nằm trong bộ sưu tập của Kiều Quang Chẩn).
Hai cán dao găm, một của văn hóa Đông Sơn Lạc Việt, và một của vùng Hồ Nam. [Nguồn: bảo tàng tỉnh Hồ Nam]
– Đó là phía Bắc, còn ở phía Tây Nam, vùng Vân Nam phía Tây nước Văn Lang, chúng ta cũng để ý tới văn hóa Điền Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì văn hóa Điền Việt là ruột thịt với văn hóa Đông Sơn của người Lạc Việt, tức là cùng một nền văn hóa:
Học giả Mỹ Chiou Peng (2008 a: 34) về Điền Việt và Đông Sơn: “Những tư liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ qua khẳng định những hiện vật tương đồng từ vùng Đông Sơn và Vân Nam thuộc về hai nền văn hóa anh em trong một vùng văn hóa của người Việt ở bán đảo Đông Dương và Tây Nam Trung Quốc”. Nhà khảo cổ học Việt Nam Chử Văn Tần (1980/2003) đã xác định một loạt các yếu tố tương đồng Điền – Đông Sơn, ngoài trống đồng còn có lưỡi cày hay cuốc hình tim, lưỡi liềm, dao gặt, bàn chải bầu dục, dao găm, kiếm ngắn, rìu lưỡi cân hoa văn hình vảy cá, muôi hình quả bầu, tên đồng mặt cắt tam giác .v.v.
Dao găm Điền Việt [nguồn] và dao găm Đông Sơn [Bst Kiều Quang Chẩn].
– Bên cạnh đó, văn hóa Điền và văn hóa Đông Sơn còn chia sẻ đặc điểm chung với các văn hóa cùng thời ở Hồ Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quí Châu một loạt các lễ khí như qua ngắn có hình người – ếch, dao găm cán hình người, rìu hình hia, chuông tai dê, chiêng, nồi hình trống. [Tạ Đức]
Rìu cân xòe được phát hiện tại huyện Chủng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc và rìu cân xòe Đông Sơn trong bộ sưu tập của Kiều Quang Chẩn.
Mộ thân cây khoét rỗng, hay mộ hình thuyền tại Phúc Kiến và Đông Sơn.
– Về phía Bắc Quảng Tây, giáp Hồ Nam, thuộc vùng tâm của đất Việt tại Hoa Nam: tại di chỉ núi Ngân Sơn Lĩnh, huyện Bình Lạc, tỉnh Quảng Tây, giáp với vùng Hồ Nam, là nơi phát hiện ra một khu mộ với 165 ngôi mộ, với 110 ngôi mộ cùng thời Đông Sơn. Trong số 1044 hiện vật khai quật được, có nhiều hiện vật có dấu ấn Đông Sơn đậm nét: những dao găm cán chắn tay ngang, giáo lưỡi hình tam giác, lưỡi hình lá, nhóm rìu xoè cân (hơn 10 chiếc), nhóm rìu hình lưỡi xéo với đầy đủ các tiểu loại tìm thấy ở rìu lưỡi xoè và lưỡi xéo Đông Sơn. Ở đây cũng tìm thấy công cụ lao động bằng sắt, cũng như khuyên tai 4 mấu bằng đá ngọc giống với các văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn. [Trình Năng Chung]
– Tại vùng Nam Ninh, giáp biên giới với Việt Nam, cũng có sự tương đồng với di vật của văn hóa Đông Sơn: Tại thôn An Đẳng Ương thuộc thôn Mã Đầu, huyện Vũ Minh, thành phố Nam Ninh, gần với biên giới Việt Nam, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật 86 ngôi mộ, trong số các di vật đồng, thì nhóm rìu lưỡi xoè cân có số lượng lớn nhất, tiếp đến là nhóm mũi tên, nhóm giáo đồng và rìu lưỡi xéo gót tròn mang đặc trưng Đông Sơn. Ngoài ra còn 5 chiếc chuông hình thang cân, 10 chiếc vòng tay bằng đồng có khắc hoa văn chữ S, đặc trưng của Đông Sơn. Ngoài ra thì còn tìm thấy cuốc sắt giống với di vật Đông Sơn, trang sức bằng đá gồm vòng tai với mặt cắt hình thang và khuyên tai 4 mấu. [Trình Năng Chung]
Qua những dẫn chứng ở trên, ở từng vùng Bách Việt, có thể thấy cộng đồng Bách Việt không chỉ thống nhất về mặt văn hóa tinh thần, mà còn tương đồng về mặt văn hóa vật chất, với biểu hiện là di vật khảo cổ, với nhiều di vật đồng nhất với nhau trên diện rộng. Nhìn một cách toàn thể, kết hợp với những chiếc trống đồng, thì chúng ta cũng có thể thấy được sự thống nhất trong đa dạng về mặt văn hóa của cộng đồng Bách Việt.
III. Nguồn gốc, ý nghĩa và lịch sử của tên “Việt”
1. Nguồn gốc và ý nghĩa của tên “Việt”:
Tên Việt linh thiêng của cộng đồng Việt, có nguồn gốc từ xa xưa, bắt nguồn từ hình ảnh chiếc rìu của văn hóa Đại Vấn Khẩu và Lương Chử, sau đó được cư dân văn hóa Thạch Gia Hà kế thừa, phát triển thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu, đội mũ lông chim (số 15, hình dưới) trên bình gốm trong ngôi mộ của một thủ lĩnh văn hóa Thạch Gia Hà (hình ảnh này được kế thừa trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, rất phổ biến hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu tương tự văn hóa Thạch Gia Hà). Chữ Việt được phát triển lên từ hình ảnh đó. Ý nghĩa biểu tượng người cầm rìu ngọc là vượt lên trên (người khác), giống với ý nghĩa chữ Việt (vượt) ngày nay chúng ta đang dùng. Tên “Việt” theo nghĩa thông thường là tộc những người sử dụng rìu lễ khí và biểu thị quyền lực, nghĩa bóng là vượt qua.
Chữ Việt từ đó gắn liền với cộng đồng Bách Việt qua hơn 2000 năm lịch sử, sau đó được kế thừa và giữ gìn cho tới ngày nay bởi người Việt ở miền Bắc Việt Nam. Đó là tên gọi phát triển có hệ thống, tính kế thừa từ di sản xa xưa của người Việt, không phải là tên mà người Hán áp đặt lên toàn bộ cộng đồng Việt phương Nam.
2. Lịch sử của tên gọi Việt
Người Việt có tên gọi Việt thống nhất trong hơn 4000 năm lịch sử, nhưng qua từng giai đoạn khác nhau, tên gọi của người Việt lại có sự thay đổi về tên đệm, cả trong tên tự xưng và tên được người Hoa Hạ gọi, hai cách gọi này được thể hiện khá rõ trong cổ sử Trung Hoa:
a. Các tên tự xưng:
– Đầu tiên là Việt Thường, được sử dụng trong giai đoạn hơn 4000 năm trước, với đoạn sử được ghi lại trong Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”. Đây là tên tự xưng đầu tiên của người Việt, tên Việt Thường được sử dụng để gọi sứ giả của đất Việt tới thông giao với vua Nghiêu.
– Sau là Lạc Việt, được sử dụng bắt đầu từ giai đoạn nhà Chu, với đoạn sử trong sách Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 519 – 581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu”. tới thời Chu thì danh xưng bắt đầu chuyển sang Lạc Việt. [25]
b. Các tên được gọi bởi người Hoa Hạ:
– Nhà Hạ gọi cộng đồng người Việt là Vu Việt 于越.
– Nhà Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越.
– Tới thời Chu thì tên Dương Việt 扬越 được người Hoa Hạ sử dụng để gọi cộng đồng Việt, tên Dương Việt được sử dụng tới thời nhà Sở (400BC): Cuốn Chiến Quốc Sách có ghi sự kiện Ngô Khởi “Nam công Dương Việt” (tấn công Dương Việt phía Nam) thời Sở Điệu Vương (楚悼王) (đây là đoạn sử ghi lại thời điểm Sở đánh xuống phía Tây của đất Việt).
Các tên gọi trên đều thể hiện sự thống nhất của cộng đồng Việt, đều được dùng để chỉ một cộng đồng chung rộng lớn.
– Tới thời Tần, bắt đầu xuất hiện tên gọi Bách Việt, với ý nghĩa thể hiện sự phân lập của cộng đồng người Việt, được ghi đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu: “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là “phía nam đất Hán là đất Bách Việt.”
Như chúng tôi đã chứng minh, thì người Việt không phân lập, mà họ là cộng đồng cùng một chủng tộc, một văn hóa, và họ cũng cùng một quốc gia, đó chính là quốc gia của các vua Hùng.
IV. Quốc gia của người Bách Việt
1. Quốc gia của người Bách Việt
Cơ sở về gen như chúng tôi chứng minh ở trên, thì đã vững vàng, đủ chứng tỏ rằng người Bách Việt xưa kia là một chủng tộc lớn sinh sống khớp với địa bàn của quốc gia Văn Lang, hậu duệ của họ ngày nay đều sinh sống hoặc có nguồn gốc từ địa bàn đó. Họ cùng một văn hóa, có thể cùng một dân tộc, và người Việt từng có một quốc gia chung, là quốc gia của vua Hùng, điều này được ghi nhận trong sách sử của cả Việt Nam và Trung Quốc.
Về sách sử Việt Nam, thì điều này được ghi lại trong sách Lĩnh Nam Chích Quái và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
Lĩnh Nam Chích Quái chép lại như sau:
“Cháu ba đời vua Thần Nông là Đế Minh đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh, gặp nàng vụ tiên (nàng tiên đẹp, cần mẫn, nết na), lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục có thánh đức, Đế Minh muốn truyền ngôi. Lộc Tục cung khiêm, không dám nhận. Đế Minh bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đế Lai làm vua phương Bắc, phong Lộc Tục làm vua phương Nam. Lộc Tục xưng là Kinh Dương vương (vua châu Kinh và châu Dương), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Nước Xích Quỷ bắc giáp Động Đình hồ, nam giáp nước Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục, đông giáp bể Nam Hải. Vua lên ngôi năm Nhâm Tuất (2879 trước kỷ nguyên Tây lịch).
Kinh Dương vương kết hôn với nàng Long Nữ con gái vua xứ Động Đình sinh ra Sùng Lãm.
Sùng Lãm nối ngôi, xưng Lạc Long Quân, kết hôn cùng nàng Âu Cơ, con gái vua Đế Lai, sinh được trăm trứng, nở thành trăm con trai. Một hôm Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ: “Ta là dòng dõi rồng, nàng là dòng dõi tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm trai, nàng hãy dẫn 50 con lên núi, ta dẫn 50 con xuống miền Nam Hải. Dù ở đâu cũng không được bỏ nhau.”
Con trưởng được dựng làm vua, đổi quốc hiệu là Văn Lang, xưng là Hùng vương, đóng đô ỡ Châu Phong. Các vua nối tiếp đều xưng là Hùng vương, truyền được 18 đời, đến năm Quý Mão (258 trước kỷ nguyên Tây lịch) thì mất về nhà Thục.
Một trăm con trai của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ là tổ của Bách Việt.”
Về địa giới nước Văn Lang, do được kế thừa từ quốc gia Xích Quỷ, nên địa giới cũng tương tự như vậy:
“Vua Kinh Dương lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra thái tử Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm lại kết hôn với công chúa Âu Cơ con vua Đế Lai. Khi vua Kinh Dương băng hà thái tử Sùng Lãm lên nối ngôi vua tức vua Lạc Long, đổi tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang Bắc tới hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông.”
Về sách sử Trung Quốc, thì có sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801) đã ghi lại: “Từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam, ngang với đời Đường Ngu và Tam Đại là (một) nước man di.” (Tự Lĩnh nhi nam đương Đường Ngu Tam Đại vi man di chi quốc)
Sách được viết vào thời Đường, cách sử Việt được ghi lại vào thời Trần hơn 500 năm, cũng xác nhận về sự tồn tại của một nước của người Việt, ngang với Đường Ngu, chứng tỏ cộng đồng Việt đã có một quốc gia thống nhất ngay từ thời điểm hơn 4200 năm trước. Biên giới của người Việt còn lên tới hồ Động Đình chứ không chỉ tới Ngũ Lĩnh, đồng nhất với địa danh Giao Chỉ, và cũng phù hợp với các văn hoá Lương Chử, Thạch Gia Hà, tại các văn hoá này, các nhà nghiên cứu đã chứng minh sự xuất hiện của một nhà nước có văn tự.
Địa giới của nước Văn Lang có thể còn rộng hơn trong sử sách ghi lại, với những bằng chứng được nêu ra sau đây, do tác giả Phan Anh Dũng khảo cứu và tổng hợp:
– Mặt phía Đông giáp biển Đông Hải, và nam giáp nước Hồ Tôn thì coi như đã rõ ràng.
– Về mặt phía Bắc, địa giới được xác định tới hồ Động Đình. Theo Lăng Thuần Thanh, thì vùng Hồ Nam, ngay phía dưới hồ Động Đình là đất của người Lạc Việt, khi ông xác định những hoạt động của người vùng này được ghi lại trong bài Đông Quân của Khuất Nguyên giống hệt với những họa tiết được khắc họa trên trống đồng Ngọc Lũ của người Lạc Việt. Thế nhưng, người Việt có thể còn sinh sống xa hơn hồ Động Đình:
Theo sách Hậu Hán Thư, truyện Tang Cung, thì người Lạc Việt từng cư trú ở tận huyện Trung Lư, thủ phủ là Tương Dương – Phàn Thành, thuộc tỉnh Hồ Bắc, chứ không chỉ tới hồ Động Đình: “Năm thứ 11 (đời Hán Quang Võ, tức năm 35, trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 5 năm) Tang Cung đem binh đến huyện Trung Lư (sau là huyện Nam Chương thủ phủ là Tương-Phàn Thị tức Tương Dương và Phàn Thành), đóng đồn (trên đất cư trú của người) Lạc Việt. Lúc đó Công Tôn Thuật (thế lực cát cứ đang chiếm đất Thục) sai tướng Điền Nhung, Nhiệm Mãn ra cự địch với Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành ở Kinh môn, Bành nhiều lần đánh mà không thắng (sau Bành bị quân thích khách của Thục giết!), người Việt do đó muốn làm phản theo Thục, Cung binh ít, không đủ lực lượng khống chế.”
– Về mặt phía Tây giáp Ba Thục, thì Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, vùng đất xưa của Ba Thục, có tỉ lệ gen M88 là 11,8% (theo Xue, 2006), tức khoảng 1,18 triệu trong số 10 triệu người Thành Đô có gốc gác M88, M88 là nhóm gen (haplogroup) đặc trưng của người Việt (Kinh). Có nghĩa địa bàn sinh sống của người Bách Việt còn tràn sang cả phần đất Ba Thục, không chỉ ở vùng giáp ranh với Ba Thục.
Nếu lấy kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang để định hướng thì Ba Thục lại ở hướng Bắc, nên khi nói phía Tây giáp Ba Thục, thì khi đó đất trung tâm của người Lạc Việt có thể là vùng hồ Động Đình, như vậy sự định hướng sẽ hợp lý và chính xác hơn. Trung tâm của người Việt thời kỳ đó theo huyền sử và khảo cổ học cũng chính là hồ Động Đình, là nơi có văn hóa Thạch Gia Hà, văn hóa thời đá mới rất rực rỡ của tộc Việt, niên đại của văn hóa Thạch Gia Hà cũng gần trùng với mốc thành lập của quốc gia Văn Lang trong huyền sử. Giới hạn phía Tây của văn hóa Thạch Gia Hà cũng giáp với vùng Tứ Xuyên ngày nay.
Qua đây chúng ta có thể thấy được cơ sở thực tế của địa giới được ghi trong huyền sử của dân tộc Việt.
– Giao Chỉ ứng với địa giới thực tế của quốc gia Văn Lang trong từng thời kỳ:
Giao Chỉ là một địa danh gắn với cộng đồng người Việt rất lâu dài, chúng tôi nhận thấy rằng Giao Chỉ cũng là một khái niệm thể hiện sự thay đổi lãnh thổ của quốc gia Văn Lang trong từng thời kỳ.
Giao Chỉ lần đầu tiên được ghi lại qua danh từ “Nam Giao” trong các sách Thượng Thư, thiên Nghiêu Điển và Sử Ký, mục Đế Nghiêu, xuất hiện vào thời vua Nghiêu (2356-2255 TCN), theo Tư Mã Trinh thì Nam Giao cũng là Giao Chỉ.
Hàn Phi Tử thiên Thập quá: “Ngày xưa vua Nghiêu có thiên hạ, ăn bằng bát đất (quỷ), uống bằng liễn đất (hình), địa giới phương nam đến đất Giao Chỉ, phương Bắc đến đất U Đô, phương đông, phương tây đến tận nơi mặt trời lặn mọc, tất thảy đều phục tùng.”
Khi đó, nhà Hạ của Nghiêu, Thuấn có lãnh thổ nằm ở vùng Hoa Bắc, đất Giao Chỉ được ghi lại trong sách Hàn Phi Tử khi đó tiếp giáp vùng của nhà Hạ kéo dài tới vùng Động Đình, Dương Tử. Lãnh thổ của đất Việt thời kỳ đó cũng tương ứng với Giao Chỉ, miền Bắc cũng tới hồ Động Đình.
Tuy nhiên giai đoạn nhà Thương, thì người Việt mất đất Dương Tử, Động Đình (Hồ Bắc) vào tay nhà Thương, tới thời Chu, thì đất Việt là phần lãnh thổ còn lại ngoại trừ các vùng đã mất.
Dư địa chí của Cố Dã Vương đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu”.
Tới thời nhà Tần, thì đất Việt chỉ còn lại vùng Lưỡng Quảng, miền Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam, Giao Chỉ: Tần thời viết Tây Âu, thể hiện sự thu hẹp tương ứng của khái niệm Giao Chỉ với lãnh thổ của nước Văn Lang, khi đó là nước Tây Âu, đó là nước mà An Dương Vương đã lập nên sau khi giành ngôi của vị vua Hùng cuối cùng.
Tới khi nhà Tần chiếm được Lưỡng Quảng, đất Việt chỉ còn lại vùng miền Bắc Việt Nam, thì khái niệm Giao Chỉ cũng bị thu hẹp lại, được dùng để chỉ vùng miền Bắc Việt Nam. Sau đó Triệu Đà, quan đô hộ nhà Tần lập nên quốc gia Nam Việt, lập ra quận Giao Chỉ tương ứng với miền Bắc.
Tới thời nhà Hán, thì Giao Chỉ được dùng với 2 khái niệm: Giao Chỉ bộ, chỉ toàn bộ vùng đất Tây Âu cũ (Lưỡng Quảng, miền Bắc Việt Nam, Hải Nam), Giao Chỉ quận, dùng để chỉ các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng.
Có thể thấy khái niệm Giao Chỉ được sử dụng tương đồng với sự thay đổi địa giới của quốc gia Văn Lang. Phải chăng Giao Chỉ là khái niệm tương đương với vùng đất, và có ý nghĩa nào đó quan trọng với người Việt?
– Huyền sử Hồng Bàng và nhà nước của người Việt cổ trên cơ sở thực tế khảo cổ học
Huyền sử Hồng Bàng không đơn thuần chỉ là huyền thoại, mà còn là bản sử ghi lại giai đoạn văn hiến đầu tiên của người Việt. Không gian diễn ra của nó là vùng Động Đình, Dương Tử, đây cũng là nơi có hai đại văn hóa thời đá mới: Lương Chử, Thạch Gia Hà, và đây chính là cơ sở để có thể khẳng định được: huyền sử Hồng Bàng là sự thật!
Tại vùng văn hóa Lương Chử ở hạ lưu sông Dương Tử, các nhà khảo cổ thế giới đã chứng minh là nơi có thể có nhà nước sớm nhất ở Đông Á, có xã hội phân tầng phức tạp với ít nhất 4 tầng lớp [26][27], có hệ thống thủy lợi sớm nhất thế giới với hệ thống đập, đê, mương dẫn nước, cung điện [28]. Cùng với đó là một hệ thống ký hiệu phức tạp và một số đã trở thành chữ viết dù công việc khảo cổ mới thực hiện được khoảng 10% [29]. Nơi đây có thể chính là kinh đô của quốc gia Xích Quỷ của Kinh Dương Vương, bởi thời điểm thành lập quốc gia Xích Quỷ của Kinh Dương Vương là vào khoảng 4879 năm cách ngày nay, còn niên đại của văn hóa Lương Chử là vào khoảng 5400 – 4250 cách ngày nay. Gần như trùng khớp với thời điểm thành lập của quốc gia Xích Quỷ.
Sau đó, thì trung tâm của Tộc Việt lại được chuyển về vùng Động Đình, với văn hóa Thạch Gia Hà, nơi đây cũng chính là nơi là Kinh Dương Vương đã gặp Long Nữ, con gái vua Động Đình, sinh ra Sùng Lãm. Thời điểm của văn hóa Thạch Gia Hà ứng với quốc gia Văn Lang của Lạc Long Quân. Mốc thành lập của quốc gia Văn Lang có thể sau quốc gia Xích Quỷ một thời gian không dài. Mốc niên đại của văn hóa Thạch Gia Hà vào khoảng 4500-4000 cách ngày nay, rất phù hợp với tiến trình phát triển được ghi lại trong huyền sử Việt.
Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Thạch Gia Hà có một hệ thống chính trị và một ý thức hệ để có thể tổ chức được các khu định cư quy mô lớn và ràng buộc các cộng đồng dân cư với nhau [30]. Một số học giả cho rằng Thạch Gia Hà có thể được coi là một nhà nước cổ đại do cấu trúc chính trị xã hội tương đối tiên tiến của nó [30][31]. Văn hóa Thạch Gia Hà cũng có xã hội phức tạp hơn và phát triển hơn các văn hóa cùng thời ở phía Bắc [31]. Như vậy việc gọi Văn Lang là một “nước” như huyền sử đã ghi lại, là phù hợp với thực tế khảo cổ học.
Tại văn hóa Thạch Gia Hà, hình tượng Rồng – Phượng, hay chính là hình tượng Rồng – Tiên được huyền sử ghi lại, được khắc họa trên những mảnh ngọc tròn chế tác tinh xảo. Người Việt xăm mình hình rồng, đội mũ lông chim chính là sự hóa trang thành Tiên – Rồng, trong nền văn hóa lưỡng hợp siêu nhiên của người Việt.
Ngọc Phượng Hoàng cổ nhất Đông Á, và ngọc Rồng tại văn hóa Thạch Gia Hà. (Nguồn)
Họ Hồng Bàng trong huyền sử của người Việt có gốc tích và sự phát triển như thế.
Vào khoảng hơn 4000 năm, thì các cư dân của các văn hóa này đã di cư về Việt Nam và Đông Nam Á, trong đó nhóm quan trọng nhất đã trở về Việt Nam, quyền lực chính trị, văn hóa và tâm linh cũng dịch chuyển theo. Quốc gia của người Việt vẫn liên tục duy trì và phát triển, lãnh thổ vẫn nguyên vẹn, chỉ trung tâm là có sự thay đổi, và sau đó, bắt đầu diễn ra những giai đoạn chiến tranh và mất đất.
– Vậy quốc gia của người Việt mất dần lãnh thổ của mình vào những thời điểm nào?
Chúng tôi cho rằng bắt đầu từ thời điểm giặc Ân (Thương), cách ngày nay 3000 năm, được nhắc trong truyền thuyết, đánh chiếm đất của người Việt, chiếm được vùng Động Đình, hạ lưu Dương Tử, lúc đó đất phía Bắc bắt đầu mất về tay người phương Bắc, các vùng đất này được phân phong, trở thành các quốc gia Sở, Ngô, Ư Việt là chư hầu của Hoa Bắc.
Thời kỳ nước Sở cũng đã tiến hành lấn chiếm dần dần đất Việt, trong đó bao gồm cả đất Điền Việt. Sau đó tới thời Tần, vào khoảng 2200 năm trước, đã tổ chức một cuộc xâm lược quy mô vào đất còn lại của người Việt, khiến người Việt chỉ còn lại duy nhất đất Bắc Việt Nam. Và tại các vùng đất nhà Tần chiếm được, sau khi nước Tần sụp đổ, đã được Triệu Đà lập nên quốc gia Nam Việt trên nền tảng văn hóa Việt cổ. Sau đó, Triệu Đà cũng đã dùng mưu chiếm nốt phần đất còn lại của quốc gia Văn Lang là miền Bắc Việt Nam (thời điểm đó là Tây Âu Lạc). Đất Việt gần như mất hẳn từ đó.
Bảng phân tích thời điểm thành lập của các quốc gia Hoa Nam.
Tên nước | Thời điểm thành lập |
Các quốc gia lập bởi chư hầu Thương – Chu | |
Ngô Việt | 1200 TCN |
Sở | 1030 TCN |
Ư Việt | 1000 TCN |
Các quốc gia hậu duệ Ư Việt | |
Đông Âu | 191 TCN |
Mân Việt | 334 TCN |
Các quốc gia tách khỏi đất Việt thời Sở – Tần | |
Tây Âu (Văn Lang) | 257 TCN |
Âu Lạc | 218 TCN |
Điền Việt (Sở) | ~ 200 TCN |
Dạ Lang (Sở) | ~ 200 TCN |
Nam Việt (Tần) | 204 TCN |
Phân tích quá trình mất đất của người Việt: Các vùng đất ở cực Bắc đất Việt, bị chiếm bởi các nhà Thương, Chu và được phong cho quý tộc các triều đại này (~1000 TCN), sau đó trở thành các quốc gia chư hầu của nhà Chu: Sở, Ngô, Ư Việt. Các quốc gia như Đông Âu, Mân Việt được thành lập bởi hậu duệ Ư Việt (~3-200 TCN). Sau đó Sở chiếm Điền Việt, Dạ Lang (~200 TCN). Đất Văn Lang khi đó còn lại vùng Lưỡng Quảng, Hải Nam và miền Bắc Việt Nam. An Dương Vương, một thủ lĩnh trên đất của các vua Hùng, đã giành ngôi và đổi tên nước thành Tây Âu Lạc (257 TCN). Tần đánh xuống Tây Âu Lạc, khiến đất của người Việt chỉ còn lại vùng miền Bắc Việt Nam (Âu Lạc). Tại đất nhà Tần chiếm được, Triệu Đà lập nên quốc gia Nam Việt (204 TCN). Cuối cùng quốc gia Âu Lạc cũng mất về tay Nam Việt.
2. Cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng đánh chiếm lại đất của các vua Hùng xưa
Vào khoảng năm 43 TCN, 68 năm sau khi nhà Nam Việt sụp đổ, đất Việt bị sáp nhập vào đế quốc Hán, thì ở miền Bắc Việt Nam, chị em họ Trưng, những nữ nhi hậu duệ của vua Hùng, đã tổ chức một cuộc chiến quy mô, tập hợp, phát động một cuộc khởi nghĩa giành lại giang sơn. Cuộc khởi nghĩa của bà nhanh chóng nhận được sử hưởng ứng của người dân toàn vùng Lĩnh Nam, giành thắng lợi diện rộng, đánh đuổi quân Hán khỏi bờ cõi. Cuộc khởi nghĩa này đã để lại những dấu tích rất rõ ràng ở toàn vùng Lĩnh Nam, với những đền thờ hai bà Trưng và các tướng lĩnh:
– Đại Việt sử ký toàn thư kỷ Thuộc Đông Hán có ghi chép rằng: “Người địa phương (Quảng Đông) thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).”
– Quận Khúc Giang thuộc địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông, còn đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng là Đàm Ngọc Nga.
– Tại Quảng Đông cũng có nhiều đền thờ Thánh Thiên.
– Tại vùng biển Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam có nhiều đền thờ nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng công chúa.
– Nhà báo Phạm Hồng từng cho biết ông đã thấy nhiều đền thờ Trưng Trắc, Trưng Nhị ở Quảng Tây. Nơi đây cũng có nhiều đền thờ nữ Đại tướng quân Thánh Thiên.
– Tại Hồ Nam cũng có di tích thờ hai bà Trưng, do sứ giả Việt Nguyễn Thực ghi lại trong bài thơ “Nam hoàn chí Ngũ Lĩnh”.
Cuộc khởi nghĩa đã đánh đuổi quân Hán tới tận hồ Động Đình, các trận đánh cũng diễn ra trong địa bàn rộng lớn của nước Văn Lang cổ, là một dấu tích quan trọng chứng tỏ sự thống nhất trong mặt ý thức, dân tộc, đó là nền tảng để hai bà Trưng có thể tạo nên một cuộc khởi nghĩa của sức ảnh hưởng rộng lớn như vậy, nhận được sự hưởng ứng của người dân toàn vùng Lĩnh Nam. Tiếng nói của hai bà Trưng, hay sự tập trung của những nữ tướng ở vùng miền Bắc Việt Nam, cũng là dấu tích để chứng minh tính trung tâm của vùng miền Bắc Việt Nam, từ trung tâm đó, tiếng nói quyết định được phát đi để cuộc khởi nghĩa có sức lan tỏa mạnh tới các vùng khác. Cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi vẻ vang, hai bà đã giành lại được độc lập cho người Việt, lập nên quốc gia Lĩnh Nam, trong địa bàn của vùng Lĩnh Nam, một bộ phận của nước Văn Lang cổ. Nhưng nước Lĩnh Nam chỉ tồn tại được 3 năm, trước khi một lần nữa thất bại trước sức mạnh vó ngựa của người Hán, đất Việt rơi vào 900 năm Bắc thuộc trước khi người Việt giành lại được độc lập cho vùng miền Bắc Việt Nam vào năm 931 SCN.
V. Người Việt là hậu duệ chính thống của Bách Việt
Người Việt (Kinh) ngày nay là hậu duệ chính thống của Tộc Việt hay Bách Việt, họ là những người có nguồn gốc từ Việt Nam di lên, trở về Việt Nam, và người Việt sau đó cũng đã đón nhận những dòng di cư trở về của cư dân Tộc Việt các ngữ hệ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai, hòa hợp để dần dần hình thành nên người Việt Nam ngày nay. Dấu vết ngôn ngữ học thể hiện rõ điều đó:
Về mặt cấu trúc ngôn ngữ, thì ngôn ngữ của người Việt là phức hợp của các hệ ngữ Nam Á, Tai-Kadai và Nam Đảo, chứng tỏ cho sự hòa hợp của nhiều nhóm người trở về Việt Nam trong nhiều giai đoạn khác nhau, với cốt lõi là nhóm Nam Á trở về khoảng hơn 4000 năm trước đây, và chúng tôi cho rằng, tiếng Việt có thể là ngôn ngữ cổ xưa của châu Á, do dòng lịch sử phát triển một cách liên tục và lâu dài (là dân tộc cổ nhất), mặc dù đã biến đổi nhiều qua trường thiên lịch sử.
Trong ngôn ngữ Việt có dấu vết của những từ gốc Ngô Việt: Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo… [32]
Về mặt khảo cổ học, thì dòng di cư của người Ngô Việt, hay các vùng đất khác thuộc đất của người Việt như Quý Châu, Hồ Nam đã đem theo những di vật đặc trưng của mình xuống vùng miền Bắc Việt Nam, hòa hợp với người Lạc Việt đã ở đó từ trước. Dòng di cư này diễn ra một cách liên tục và mạnh mẽ. [33]
Trong lịch sử, cũng có những dòng họ hoàng tộc Việt Nam có gốc Chiết Giang, Phúc Kiến như các họ Lý, Trần, đây là những vùng đất cổ của người Bách Việt, di cư tới Việt Nam trong khoảng thời Bắc thuộc.
Vào thời Hán, thì dân số của vùng đồng bằng sông Hồng áp đảo so với vùng Lĩnh Nam, chúng tôi cho rằng đây là biểu hiện rõ ràng cho tập trung về phương Nam của người Bách Việt: “Theo cuốn Tiền Hán Thư, vào tk. II trCN, toàn quận Giao Chỉ có 92.440 hộ và 746.237 người, nhiều hơn tổng số dân 4 quận vùng Lưỡng Quảng (Hợp Phố, Hải Nam, Uất Lâm, Thương Ngô) cộng lại (71.805 hộ và 390.555 người). Hai quận Cửu Chân và Nhật Nam có 235.508 người.”
Người Việt (Kinh) ngày nay là đại diện chính thống của Bách Việt, là những người duy nhất còn giữ chữ “Việt” trong tên gọi dân tộc và đất nước của mình, họ cũng là những người giữ gìn văn hóa, lịch sử truyền thống của tộc Việt hay Bách Việt cổ xưa, cùng với những nhóm dân cư hậu duệ Bách Việt khác như Hán Hoa Nam, người Choang, Bố Y, Thái Lan, Thái Việt Nam, Mường, Nùng, Tày… tuy nhiên đa phần đều chỉ còn giữ gìn văn hoá, mà không còn tự nhận mình là Việt. Là những người kế thừa và giữ gìn truyền thống, lịch sử của cộng đồng Bách Việt, chúng ta có quyền, và có trách nhiệm đối với cộng đồng Bách Việt cổ xưa, trong đó bao gồm cả trách nhiệm chứng minh những di sản của cộng đồng này đã dựng xây nên trong thời gian tồn tại.
VI. Kết luận
Qua sự chứng minh tuần tự từng yếu tố, chúng tôi cho rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định rằng Bách Việt, hay tộc Việt, là một cộng đồng thống nhất về văn hóa, về chủng tộc, họ chung sống dưới một quốc gia thống nhất, quốc gia của các vua Hùng, không phải là cộng đồng phân lập như đã từng bị hiểu nhầm.
Sự thăng trầm của lịch sử Việt khiến cho những hiểu biết về cộng đồng Bách Việt trở nên sai lệch, nhưng những nghiên cứu khoa học, khảo cổ, văn hoá, ngôn ngữ đã cùng góp phần chứng minh cho nguồn gốc tính thống nhất của cộng đồng này. Họ là những người xây dựng nên những nền văn hoá lớn ở Đông Á, là những người thuần hoá lúa nước, phát triển kỹ thuật luyện đồng, cũng như có một nền văn hoá đáng tự hào, có sức ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Tuy nền văn hoá cổ đó gần như đã biến mất, nhưng sự thật của lịch sử đã sáng tỏ nhờ những khám phá thông qua các phương tiện khoa học.
Các dân tộc ngày nay đều là đồng bào, sinh ra từ một bọc, ý nghĩa của từ đồng bào là có cơ sở thực tế, dựa trên tính thống nhất từng có giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam ngày nay. Ý thức về cội nguồn, truyền thống lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc là một sự kế thừa truyền thống cổ xưa. Hậu duệ, là chúng ta ngày nay, hãy cùng nhau phát huy những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa chung xa xưa đó. Biết, hiểu, ý thức về cội nguồn chung của tộc Việt là một điều quan trọng, không phải để đòi lại đất đai đã mất, mà để trân trọng giá trị cổ truyền, tôn trọng nền văn minh cổ xưa mà Tổ Tiên chúng ta đã dựng xây nên. Đó là nền tảng và cơ sở quan trọng từ quá khứ, để có thể kiến tạo một tương lai mới rực rỡ hơn.
Tác giả: Nhóm Lược Sử Tộc Việt
Các trang copy vui lòng ghi rõ nguồn Lược Sử Tộc Việt.
Chú dẫn:
[1] Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt – Trần Gia Ninh
[2] Chu JY, et al (1998), Genetic relationship of populations in China, Proceedings of National Academy of Sciences USA, 95(20): 11763-11768
[3] The HUGO Pan-Asian SNP Consortium (2009), Mapping human genetic diversity in Asia, Science, 326(5959): 1541-1545
[4] Pedro A Soares, et tl (2008), Climate Change and Postglacial Human Dispersals in Southeast Asia
https://www.researchgate.net/publication/5492339_Climate_Change_and_Postglacial_Human_Dispersals_in_Southeast_Asia
[5] Huang X, et al (2012), A map of rice genome variation reveals the origin of cultivated rice. Nature, 490(7421): 497-501
[6] Hua Zhong, Hong Shi, Xue-Bin Qi, et al. (2010). Extended Y chromosome investigation suggests postglacial migrations of modern humans into East Asia via the northern route. Molecular biology and evolution;28(1):717-27.
Chuan‐Chao WANG, Shi Yan, Zhen‐Dong QIN, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611. Journal of Systematics and Evolution;51(3):280-6.
[7] Takeuchi F, Katsuya T, Kimura R, Nabika T, Isomura M, Ohkubo T, et al. (2017) The fine- scale genetic structure and evolution of the Japanese population. PLoS ONE 12(11): e0185487
[8] Genome Research Finds Roots of Korean Ancestry in Vietnam
http://koreabizwire.com/genome-research-finds-roots-of-korean-ancestry-in-vietnam/75133
[9] Fuller DQ, Qin L (2010), Declining oaks, increasing artistry, and cultivating rice: The environmental and social context of the emergence of farming in the Lower Yangtze Region, Environmental Archaeology, 15(2): 139-159
[10] Zhang Juzhong, Wang Xiangkun (1998). Notes on the recent discovery of ancient cultivated rice at Jiahu, Henan Province: a new theory concerning the origin of Oryza japonica in China. Antiquity;72(278):897-901.
[11] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history
[12] Preliminary Research on Hereditary Features of Yinxu Population https://www.academia.edu/5297877/2013_AAPA_poster-_Preliminary_Research_on_Hereditary_Features_of_Yinxu_Population
[13] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451.
[14] Keyes CF. The dialectics of ethnic change. Ethnic change. 1981;30:4-52.
[15] Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University
[16] Luận văn tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong quan hệ với văn hóa Việt Nam truyền thống – Nguyễn Ngọc Thơ, 2011.
[17] Cung Đình Thanh, “Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam”, Tập San Tư Tưởng số 3, ngày 15/7/1999, trg 11 – 16. Joseph Needham, Science and Civilization in China – Tome I : Introduction – Cambridge, England, 1956.
[18] Jeffrey Barlow, The Zhuang : Ethnogenesis, Pacific University, http://mcel.pacificuedu/as/resources/zhaung/zhuangintrohtm
[19] Paola Demattè (2010). The Origins of Chinese Writing: the Neolithic Evidence. Cambridge Archaeological Journal;20(2):211-28.
[20] Chunfeng Zhang (2019). On determining the nature of Liangzhu 良渚 symbols. Journal of Chinese Writing Systems;3(2):121-8.
[21] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 戉. https://hanziyuan.net/#%E6%88%89.
[22] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 越. https://hanziyuan.net/#越.
[23] Đội khảo cổ Thạch Gia Hà 石家河考古队 (1999). Tiêu Gia Ốc Tích 肖家屋脊: Nhà xuất bản Văn Vật 文物出版社.
[24] Nguyễn Văn Huyên, Vinh Hoàng (1975). Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam. Hà Nội.
[25] Chứng minh tính toàn thể của danh xưng Lạc Việt:
Khởi đầu từ sách Lã Thị Xuân Thu ghi: “Quế Dương Chiêu Dao sơn đích quế; Việt Lạc (cổ quốc) đích hương khuẩn; lí ngư hòa vị ngư nhục tố đích tương; Đại Hạ (cổ quốc) quốc đích diêm”. Cao Dụ chú Lạc Việt = “Việt Lạc: quốc danh. Khuẩn: măng trúc”, Đàm Thánh Mẫn giải thích Việt Lạc cũng là Lạc Việt, do thứ tự cú pháp tiếng Việt đặt ngược với tiếng Hán mà ra.”, chúng tôi nhận thấy có cơ sở để nói rằng người Việt từng đều tự nhận mình là Lạc Việt. Có thể các tác giả của Lã Thị Xuân Thu thấy một vùng rộng lớn toàn Lạc Việt nên họ nghĩ đó là quốc danh. Thêm nữa đoạn văn trên là ở Thiên Bản Vị trong Lã Thị Xuân Thu quyển 14 (《吕氏春秋》的第l4卷《本味篇》) , tra kỹ lai lịch thì đoạn văn này là lời Y Doãn nói với vua Thang, được các tác giả Lã Thị Xuân Thu, môn khách của Lã Bất Vi, ghi lại, như thế thì “mức độ cổ” của tên gọi “Việt Lạc” có thể từ trước đời Thành Thang (1600BC)?
Ngoài ra còn nhiều dẫn chứng khác có thể chứng minh cho ý tưởng này của chúng tôi:
Tại Hồ Nam, theo Lăng Thuần Thanh, thì là nơi sinh sống của người Lạc Việt, khi ông xác định bài Đông Quân được Khuất Nguyên ghi lại, tương đồng hoàn toàn với hoa văn trên trống đồng của người Lạc Việt.
– Hồ Bắc cũng là nơi sinh sống của người Lạc Việt, trong Hậu Hán Thư ghi: “Năm thứ 11 (đời Hán Quang Võ, tức năm 35, trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 5 năm) Tang Cung đem binh đến huyện Trung Lư (sau là huyện Nam Chương thủ phủ là Tương-Phàn Thị tức Tương Dương và Phàn Thành), đóng đồn (trên đất cư trú của người) Lạc Việt. Lúc đó Công Tôn Thuật (thế lực cát cứ đang chiếm đất Thục) sai tướng Điền Nhung, Nhiệm Mãn ra cự địch với Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành ở Kinh môn, Bành nhiều lần đánh mà không thắng (sau Bành bị quân thích khách của Thục giết!), người Việt do đó muốn làm phản theo Thục, Cung binh ít, không đủ lực lượng khống chế.”
– Hiện tại, người Tráng (Choang), hay người Bố Y trong vùng miền Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn tự nhận mình là Lạc Việt. Đây là dấu tích khá quan trọng để có thể nhận thấy độ phủ của danh xưng Lạc Việt.
– Trong Hậu Hán Thư thế kỷ thứ V trong Mã Viện liệt truyện ghi: “Viện hiếu kỵ, thiện biệt danh mã, ư Giao Chỉ đắc Lạc Việt đồng cổ, nãi chú vi thức, hoàn thượng chi”. Tức là Mã Viện thích ngựa, giỏi phân biệt ngựa hay; tại Giao Chỉ lấy được trống đồng của dân Lạc Việt. Trống đồng là tài sản chung của người Việt thuộc quốc gia Văn Lang, Giao Chỉ ở đây là Giao Chỉ bộ, việc sử Hán ghi lại việc Mã Viện thu trống của người Lạc Việt, phải chăng muốn đề cập tới tất cả đều là người Lạc Việt?
– Ngoài ra còn một đoạn sử khác được ghi lại trong sách “Giao Châu Ngoại Vực Ký”: “Xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất có Lạc điền [雒田; ruộng lạc], ruộng ấy theo triều thuỷ lên xuống, dân khẩn thực [墾食] ruộng ấy, nên gọi là “Lạc dân” [雒民]. Lập ra “Lạc vương” [雒王], “Lạc hầu” [雒侯], coi giữ các quận huyện. Nhiều huyện có “Lạc tướng” [雒將], các Lạc tướng có ấn đồng và dây thao xanh. Sau Thục vương tử mang 3 vạn binh đến đánh lạc vương, lạc hầu, thu phục các lạc tướng. Thục vương tử sau đó xưng An Dương vương.” Giao Chỉ là đất của người Lạc Việt, ở đây là Giao Chỉ bộ vì chưa phân quận huyện, ít nhất bao gồm Lưỡng Quảng, Hải Nam, miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Bên cạnh đó, chữ Lạc gắn với hầu hết các danh vị: “Lạc dân” (Lạc Việt), “Lạc Vương”, “Lạc hầu”, có thể thể hiện sự gắn bó của danh xưng Lạc Việt của người dân Việt vùng Nam Dương Tử.
– Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 519—581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu”, thời Chu, Giao Chỉ, khi đó là Giao Chỉ bộ như đã nói ở trên, được sử dụng để chỉ toàn bộ vùng đất Văn Lang, và cũng được gọi là Lạc Việt.
– Các cách gọi như Mân Việt, Âu Việt, Điền Việt… đều là những cách gọi xuất hiện và được ghi lại muộn trong lịch sử, khi lãnh thổ Giao Chỉ dần thu hẹp lại, các tiểu quốc Ngô Việt, Ư Việt, Đông Âu, Âu Việt (Chiết Giang), Điền Việt, Tây Âu… được thành lập, tất cả đều là quốc danh và dần dần được gắn vào tộc danh.
Từ những dẫn chứng trên, chúng tôi cho rằng đủ để chứng tỏ người Việt đã từng tự xưng mình là Lạc Việt, cũng như nhận là Việt Thường hai giai đoạn lịch sử trước và sau nhà Chu.
[26] Colin Renfrew, Bin Liu (2018). The emergence of complex society in China: the case of Liangzhu. Antiquity;92(364):975-90.
https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/emergence-of-complex-society-in-china-the-case-of-liangzhu/
[27] Tống Kiến 宋建 (2017). Liangzhu – một quốc gia cổ đại phức tạp bị chi phối bởi thần quyền 良渚——神权主导的复合型古国. 东南文化;(1):6-15.
[28] Bin Liu, Ningyuan Wang, Minghui Chen, et al. (2017). Earliest hydraulic enterprise in China, 5,100 years ago. Proceedings of the National Academy of Sciences; 114(52):13637-42.
https://www.pnas.org/content/114/52/13637
[29] Chunfeng Zhang (2019). On determining the nature of Liangzhu 良渚 symbols. Journal of Chinese Writing Systems;3(2):121-8.
https://www.researchgate.net/publication/332595714_On_determining_the_nature_of_Liangzhu_liangzhu_symbols
[30] Li Liu, Xingcan Chen (2012). The archaeology of China: from the late Paleolithic to the early Bronze Age: Cambridge University Press.
[31] Chi Hung 洪曉純 Zhang, Hsiao-Chun (2009). The Neolithic of Southern China–Origin, Development, and Dispersal. Asian Perspectives;47.
[32] Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
[33] Bách Việt và quá trình Nam tiến của người Bách Việt – Kiều Quang Chẩn.
Nhà Hán đế quốc Hán, triều Hán ra đời sau khi Nhà Tần bị tiêu diệt.
Các tên gọi phổ như Hán tộc "Hànzú",
Hán nhân "Hànrén",
Hán tự "Hànzì",
Hán ngữ "Hànyǔ"
Được khai sinh bởi những người Sở cũ, đó là Lưu Bang và Hàn Tín.