HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH - PHẦN 1
1.
Cuộc Họp Đầu Tiên
Vào một buổi tối cuối Xuân 1959, trời thật nhiều gió. Những hàng
me trên đường “16” vật vờ, nghiêng ngã theo từng đợt gió mạnh. Từng đám lá me
khô nhỏ dảy dụa cuốn đuổi nhau như đám ong vàng, gây nên những tiếng xào xạc,
trên mặt đường.
Buổi tối đó là ngày thường nên khu nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng
Cha Cả Tân Sơn Nhất Sài Gòn rất vắng vẻ. Xa xa một vài ánh điện từ ngoài đường
Trương Minh Ký hắt vào, càng làm cho khu vực nhà thờ mập mờ, chỗ sáng chỗ tối.
Nhìn sang phía bên kia nhà thờ, tôi thấy thấp thoáng trong một
góc tối mấy người cũng có vẻ như chúng tôi, nghĩa là cùng chờ giờ hẹn với một
người.
Mãi 8 giờ 15, từ đầu đường “16”, một chiếc xe “díp” thường dân
đi tới và từ từ đỗ lại, trong bóng tối của một cây me bên đường, cách xa nhà
thờ một khoảng.
Một bóng người bước xuống và đi về phía nhà thờ. Chúng tôi chả
ai nói ra, nhưng cùng hiểu đó là người chúng tôi đang đợi. Lẩn trong bóng tối,
chúng tôi chỉ thấy người đó mặc áo blouson xám, đội mũ “phớt”. Ông ta đi vào
khu buồng cha Khuê phía đầu nhà thờ.
Chừng 10 phút sau, một chú bé giúp lễ ra sân mời chúng tôi vào.
Cha Khuê không giới thiệu, nên chúng tôi chỉ biết gật đầu chào. Sau khi ông ta
nói với Cha Khuê, xin mượn một phòng học ở trên lầu, ông quay lại phía chúng
tôi với giọng Huế nặng chình chịch:
- Mời tất cả các anh em lên trên gác!
Chúng tôi nhìn nhau, chẳng ai nói một lời lục tục bước theo ông
lên trên lầu.
Trong phòng, chúng tôi gồm 8 người, kể cả ông chú họ tôi. Chính
tôi lúc này cũng không hiểu vì sao chú tôi cũng vào ấy ngồi. Hầu hết chúng tôi
đều ở lứa tuổi thanh niên; chú tôi trông riêng biệt hẳn không những về tuổi
tác, mà còn vì dáng dấp phong độ như một “chính khách” nữa. Chính sự hiện diện
của chú tôi, cũng đang làm cho ông người Huế không ít băn khoăn. Ông nhìn chú
tôi, nửa như muốn hỏi, nửa như e ngại đắn đo. Có lẽ chú tôi cũng thấy vậy, nên
ông đã đứng dậy, rồi cùng ông người Huế đưa nhau ra chỗ ban công nói gì với
nhau một lúc. Sau đó, chú tôi xuống lầu.
Tôi nhớ lại hơn một tuần trước, thằng em trai đi phố về, gọi tôi
rối rít:
- Chú Thường gọi anh ra gặp cô chú có việc cần.
Ông Thường là một người từ trước tới giờ tôi vẫn kính nể, ông
những ông là bậc cha chú, mà vì kiến thức uyên bác trong nhiều lãnh vực, và sự
giao thiệp rộng rãi của ông trong xã hội. Vì vậy, tôi đã vội vàng ra nhà chú tôi
ngay.
Một giọng the thé của xướng ngôn viên miền Bắc, tuyên bố về phiên tòa xử vụ C- 47. Nghe loáng thoáng, chiếc phi cơ hoạt động tình báo đã xâm nhập bầu trời miền Bắc. Bị bắn rơi tháng 7 năm 1961 ở Cồn Thơi, Ninh Bình, nhiều người đã chết v.v… Còn mấy người sống sót bị thương nặng. Điệp viên Đinh Như Khoa bị 15 năm tù (mới chạm vào đất liền đã bị bắn rơi, chưa hoạt động gì,) phi công phụ Phan Thanh Vân bị 7 năm tù.
Sau những phút ân cần thăm hỏi thằng cháu về học hành, thi cử,
mắt ông sáng thêm ra nhìn tôi, nói:
- Hiện nay, Phủ Tổng Thống tổ chức một lớp học đặc biệt chỉ dành
cho mươi người. Những người phải được bảo đảm với Phủ Tổng Thống bởi những
người có thế lực. Vậy nếu cháu thích, chú sẽ giới thiệu cho.
Những năm tháng mài đũng quần trên ghế nhà trường, kết hợp với
thực tiễn cuộc sống đã dần hình thành trong tôi một nhân sinh và thế giới quan.
Một người con trai được sinh ra trong đời này, lớn lên, lấy vợ, đẻ con, già,
bệnh rồi … chết. Như vậy đi không rồi cũng trở về … không; có khác gì con người
chỉ là cái mắc áo, và là cái nơi để hàng ngày đổ cơm vào? Tư tưởng hào hùng đầy
lửa sống của cụ Nguyễn Công Trứ đã cuốn hút, thấm đậm vào tâm hồn non trẻ của tôi;
đã luồn lách vào từng tế bào của trái tim nóng hổi; để rung lên những điệu nhạc
tang bồng vẫy vùng ngang dọc của người con trai. Cho nên, mới nghe chú nói, tôi
đã vồ vập nhận lời ngay, và nhờ chú tôi giới thiệu.
Ngày hôm sau, chú đã dẫn tôi sang gặp linh mục Mai Ngọc Khuê để
giới thiệu tôi với người.
Cha Khuê đã hỏi nhiều về thân thế, gia đình, quá trình cuộc
sống, và một số quan điểm của tôi đối với xã hội, đối với quê hương dân tộc.
Người rất chú ý, khi chú tôi giới thiệu từ bé tôi đã có nhiều
năm luyện tập võ thuật. Cuối cùng người tỏ ra hài lòng nhìn tôi vừa gật gù:
- Như vậy là một thanh niên văn võ toàn tài.
Câu khen quá đáng của người đã làm tôi đỏ mặt. Khi từ giã cha
Khuê, trên đường về nhà, tôi hỏi chú tôi có biết gì về lớp học đặc biệt này hay
không?
Thực ra, chú chỉ là một người quen thân với Cha Khuê qua nhiều
lần trao đổi về chính trị, thời cuộc… chứ về lớp học này, chú chẳng biết gì hơn
những điều tôi nghe Cha Khuê nói.
Khi chú tôi đã xuống dưới lầu, ông người Huế trở lại lớp học.
Ông quay nhìn tôi, nở một nụ cười thiện cảm trong lúc tay ông mở chiếc cặp đen
để trên bàn. Sau đó, ngững lên nhìn tất cả chúng tôi, nét mặt nghiêm trang, ông
nói rành rọt:
- Các anh là những người được giới thiệu bảo đảm để theo lớp học
này. Tôi rất hân hoan, tin tưởng, vậy trước hết các anh hãy điền, ghi vào tập
lý lịch sau đây.
Ông vừa giơ một tập giấy, vừa nói nội dung và cách thức ghi chép
vào những chỗ trống theo câu hỏi. Tập lý lịch in sẵn này cũng như nhiều tập lý
lịch khác, ngoài phần đề cập về bản thân và cuộc sống, còn thêm hai mục:
- Quan điểm tư tưởng, hoài bão. – Kể 3 người bạn thân nhất, ghi
rõ tên tuổi và địa chỉ.
Gần 1 giờ sau, khi chúng tôi làm xong thủ tục lý lịch, ông căn
dặn mấy việc:
- Trở về nhà, chỉ được nói với gia đình, bạn bè là chuẩn bị để
đi dự một lớp huấn luyện, về thanh niên Cộng Hòa.
- Mỗi người hãy chờ ở nhà! Ông sẽ đến tiếp xúc riêng từng người
theo địa chỉ trong bản lý lịch. Nếu có việc gì cần kíp phải đi đâu, viết giấy ghi
rõ nơi đến và khi nào trở về, để lại dặn người nhà.
- Lúc đầu phải nhờ người giới thiệu là trung gian; nhưng bây giờ
tuyệt đối không nói là nhận được hay không. Nếu người giới thiệu có hỏi, chỉ
nói vẫn chờ, chưa thấy gọi.
Khi chúng tôi ra về, đã 10 giờ 30 tối. Chú tôi đã về nhà. Cha
Khuê đã vào phòng đọc kinh. Đến lượt tôi chào ông người Huế, ông tiến lại bên
tôi, nói:
- Bình, tí nữa theo tôi ra xe nói chuyện nhé!
Hơi ngạc nhiên, nhưng tôi chợt hiểu. Hẳn là Cha Khuê, hoặc chú
tôi đã có lời nhắn nhủ.
Lúc ra tới đướng 16, ông đi thong thả bên tôi, đặt tay lên vai
tôi ra chiều thân mật, ông hỏi tôi về cuộc sống, về học hành, v.v… Cuối cùng,
ông nói:
- Tôi rất mến và tin tưởng ở Bình. Do đó, tôi muốn Bình giới
thiệu cho tôi một người bạn thân, đồng chí hướng như Bình.
Là một thanh niên hãy còn nhiều bồng bột; nghe ông nói tôi thấy
lòng tự hào và nghĩ ngay tới Nguyễn Vĩnh Lý, một người bạn rất thân học ở
Chasselop Laubat. Anh vừa đậu phần I Tú Tài Pháp, anh cũng có một số hoài bão,
ước mơ như tôi.
Sau khi ông ghi xong số nhà, đường phố của Lý do tôi nói, ông
lại đặt tay lên vai tôi, giọng tình cảm dịu dàng:
- Tôi sẽ tiếp xúc với Lý, bây giờ Bình về, chúng ta sẽ gặp lại.
Trên đường về nhà và cả đêm hôm đó trước khi đi ngủ, tôi miên
man suy nghĩ về diễn tiến của buổi tối ở nhà thờ Tân Sa Châu. Mặc dù chưa biết
chút gì về lớp học, nhưng những hiện tượng mà tôi đã nhìn và nghe cả buổi tối
hôm trước, đã làm tôi triền miên tưởng tượng viễn ảnh của một ngày mai, trong
giấc ngủ muộn.
Sáng hôm sau, tôi phóng xe sang nhà Lý ở khu Đa Kao Cầu Bông rất
sớm. Tôi kể cho Lý nghe về sự việc tối trước và nói đã giới thiệu với ông đó
rồi. Lý rất mửng rỡ và hỏi liên tiếp những câu mà tôi cũng mù tịt:
- Lớp này là lớp gì? Học ở đâu và học gì? Thời gian bao lâu? Học
xong, làm gì?
Tuy vậy Lý rất vui và tin tưởng tôi nên Lý sẽ chờ ông người Huế
đó đến gặp. Tôi dặn Lý:
- Mày tiếp xúc với ông ấy, thử moi thêm, may ra biết rõ hơn.
Chừng 10 ngày sau, Lý xuống nhà cho biết: Đã gặp và hoàn tất lý
lịch. Lý có hỏi tên, được ông bảo cứ gọi ông là Hương (tôi cho là tên giả).
Ngoài ra Lý không biết gì hơn những điều tôi đã biết.
Chúng tôi phải chờ hơn một tháng trời. Có lẻ đây là thời gian
sắp xếp chuẩn bị lớp học. Cũng có thể có những người đã bí mật đến xóm giềng,
thẩm tra về từng người của chúng tôi. Một hôm, Lý xuống nhà tối với một vẻ phấn
khởi:
- Ông Hương bảo tối nay mày đến nhà tao ngủ, 8 giờ sáng mai (tức
là ngày 28 tháng 4), ông sẽ đến đón đi tham dự lớp học. Phải chuẩn bị quần áo,
sinh hoạt trong một tuần.
Chúng tôi, hai đứa xốn xang bàn tán rất nhiều nhưng vẫn chẳng
hiểu được gì hơn. Đêm hôm ngủ ở nhà Lý, hai anh em nằm bên nhau trong căn gác
hẹp, nhỏ to rì rầm rồi đi dần vào giấc ngủ nhiều mộng mơ, về ngày mai của cuộc
đời.
2.
Cuốn Sổ Tay Tai Hại…
Sáng hôm sau, trời Sài Gòn thật đẹp. Một vài vầng mây trắng
lững lờ trên nền trời xanh nhạt.
Đúng 8 giờ, ông Hương
đậu xe ở một góc phố, đi bộ lại (đó là cách thận trọng thường xuyên của ông
ta). Chúng tôi đã nhìn thấy, mỗi người một túi xách ra xe. Một cái bắt tay, vài
nụ cười, không một lời nói, chúng tôi cùng lên xe.
Xe ra khu Bạch Đằng,
đón một người cuối đường Hai Bà Trưng, quẹo về Trương Minh Giảng, lên khu Vườn
Lài đón thêm hai người nữa. Không kể ông Hương, xe đã năm người, như vậy là hết
chỗ.
Trong khi xe lao về
phía Chợ Lớn, cả năm chúng tôi không biết xe sẽ đi về đâu.
Khi xe ra tới đầu Quốc
Lộ số 4 đường xuống Mỹ Tho, một trong ba người kia tỏ vẻ hiểu biết nói nhỏ:
- Chắc đến trường Cây
Mai.
Tôi chẳng biết trường
Cây Mai dạy cái gì nên đưa mắt hỏi, anh đó khẻ giải thích:
- Đào tạo tình báo cảnh
sát.
Thực tế không phải vậy,
khi đi tới ngã tư Phú Lâm, xe đi chậm lại, rẽ vào chiếc cổng có hai cánh cửa
sắt đóng im ỉm mang số: 365.
Như đừng chờ sẵn ở phía
trong, một người quần áo bà ba nâu vội vàng ra mở cổng. Xe đi thẳng vào, đến
cửa một ngôi nhà to thì ngừng lại. Chúng tôi xuống xe theo ông Hương lên gác.
Trên lầu đã có chín
người nữa, trong đó, một người đã lớn tuổi vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi,
làm tôi chú ý nhiều hơn vì hâu hết chúng tôi từ hai mươi đến hai mươi lăm.
Trong căn nhà rộng có
nhiều buồng nhỏ, nhưng một phòng thật to, có lẽ là phòng khách đã kê sẵn 14
chiếc giường vải, có mùng, chăn, gối của quân đội thứ tự theo từng giường. Điều
này nói lên số người đã được đón đủ.
Một người mặc pyjama
xanh nhạt, đeo kính trắng, chừng ba mươi tuổi, từ dưới nhà lên. Ông Hương quay
lại phía chúng tôi giới thiệu:
- Đây là ông Lâm Giám
thị, một người sẽ thường xuyên ở với các anh em, khi có điều gì cần thiết, các
anh đến gặp ông sẽ được giải quyết.
Ông Lâm mỉm cười và bắt
tay mọi người, ông cũng là người miền Trung. Sau đó, lại có hai người mặc đồ
nâu nữa từ dưới nhà lên. Ông Hương cho biết họ sẽ phục vụ chúng tôi về cơm
nước. Tất cả ba người này nói tiếng miền Trung.
Theo ông Hương và ông
Lâm, đây là một lớp học tập thể. Bất cứ tập thể nào cũng có nội quy để ổn định
trật tự. Vậy, trước hết chúng tôi phải tự đặt bí danh, và từ nay, trong mọi
sinh hoạt học tập cũng như ăn ở, chúng tôi sẽ bắt buộc gọi nhau theo bí danh
đó. Tôi là J. hay John. Lý là K. hay Karl. Giới hạn tối đa việc ra ngoài phố.
Ra ngoài, nếu gặp ai hỏi, chỉ trả lời, chúng tôi là một số sinh viên Kinh Tế và
Chính Trị, vì muốn tìm hiểu chủ nghĩa nhân vị, nên mượn căn nhà này để nghiên
cứu học hành trong mấy tháng Hè.
Đây là một ngôi nhà hai
tầng, rất kiên cố, có nhiều phòng. Chung quanh có tường xây, dây thép gai bao
bọc.
Theo dân chúng ở chung
quanh, ngôi nhà này trước đây thuộc Phòng Nhì của Pháp, nay thuộc về Phủ Tổng
Thống. Cuối cùng, ông Hương nhìn chúng tôi, gợi ý:
- Để thuận tiện trong
sinh hoạt, có lẽ các anh nên chọn bầu ra một người trưởng toán.
Chúng tôi toàn những
người chẳng hề biết nhau. (Điều này ông Hương biết nên đã có dụng ý). Làm sao
biết được đạo đức và khả năng của nhau, cho nên tất yếu đều nhìn về người lớn
tuổi nhất. Ông Hương đồng ý ngay. Anh đó tên Đạo.
Qua những bữa cơm, và
trong tủ lạnh luôn luôn có đầy đủ nước ngọt, bia, chanh, đường để giải khát
thoải mái, tất cả chúng tôi đều phấn chấn tin tưởng vào viễn ảnh ngày mai của
lớp học.
Tối hôm đó tôi xuống
buồng của giám thị, theo lời hẹn của ông ta. Ngay buối nói chuyện đầu này, ông
đã có vẻ có cảm tình với tôi như một người em, tên ông là Cao Đình Tiệu, tu
xuất, vào quân đội. Qua ông, tôi đã biết được nhiều chuyện chung quanh lớp học.
Sáng hôm sau, cà mười
bốn người chúng tôi lên một chiếc xe “Dodge 4” mui phủ kín mít. Xe đi lên phía
Sài Gòn, nhưng chẳng ai biết sẽ đi về đâu. Cuối cùng, xe đi thẳng vào một tòa
nhà to lớn chẳng khác gì một tòa lâu đài, có hai cổng to hai bên để xe ra vào,
không có lính gác. Trong sân, vài con ngỗng kêu í ới, sân có trồng cỏ và hoa,
êm đềm như một tư gia. Đó là căn nhà số 2 đường Jacques Rousseau. Sau này, tôi
biết là nhà của Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tham mưu trưởng Quân đội Quốc
Gia thời 1954 về trước.
Chúng tôi được hướng
dẫn vào một phòng phía bên phải. Trong phòng, đã có mặt ông Hương và mấy người
lạ đóng bộ đàng hoàng. Họ chạy lăng xăng chuẩn bị bàn ghế, cờ quạt. Vách tường,
cửa của văn phòng đều được bọc da, để ngăn cản âm thanh với bên ngoài. Trên
cao, giữa tường, treo một lá cờ Tổ Quốc lớn, và ảnh cụ Ngô, phía trên đình
hương trầm nghi ngút. Bên cạnh, phía dưới, có máy ghi âm. Chúng tôi 14 người
ngồi mấy hàng ghế phía cuối.
Đúng 9 giờ, một người
đi vào. Có tiếng hô nghiêm, chúng tôi đứng dậy. Người đó bước lên bục. Sau khi
làm thủ tục chào cờ hát quốc ca, mặc niệm, ông ta với cặp mắt như tỏa ánh sáng
sau đôi kính trắng thật dầy, và bằng giọng Huế ấm và nặng, ông vừa tha thiết
nhắn nhủ, vừa nghiêm nghị ra lệnh. Nội dung:
- Các anh là những
thanh niên, sẽ trở thành rường cột của Tổ Quốc trong tương lai. Bởi thế, hãy ra
sức cố gắng học tập, công tác, để không phụ lòng tin tưởng và thương yêu của
Tổng Thống. Lúc này, đang đi công cán đặc biệt, nên Tổng Thống không kịp ra dự
buổi khai giảng lớp học hôm nay. v.v..
Ba mươi phút sau, người
đó về ngay.
Chiều hôm đó, ông Minh
(Phó giám đốc lớp học) giảng về Chủ nghĩa Nhân Vị.
Giờ sau, ông Hương
giảng về Chủ nghĩa Cộng Sản.
Lần đầu tiên chúng tôi
được nhìn hai tấm nình to tướng khổ 40×60 phân của Engels và Karl Max. Ông lướt
qua những nét chính vể Chủ nghĩa Cộng Sản với những diễn tiến theo thời gian từ
Đệ Nhất Quốc Tế đến Đệ Ngũ là Tito Nam Tư, (dĩ nhiên là đứng từ goc độ của thế
giới tự do để nhìn về Chủ nghĩa Cộng Sản). Ông Tạo, Chủ sự Phòng Thương Mại,
giảng về Kinh Tế và Xã Hội. Ông Đức giảng về tự do và con người, v.v…
Tất cả chỉ là mở ra một
bức tranh khái niệm về từng lãnh vực. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải làm bài với
những đề tài như:
- Con người và Xã Hội.
– Chủ nghĩa Cộng Sản và con người. – Nền Kinh Tế chỉ huy và tự phát. v.v…
Chúng tôi được tha hồ
tham khảo sách báo ngoài xã hội. Phải nói, lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, tại
sao lại cho chúng tôi học những món như vậy. Phải hơn một tháng sau, tôi mới
hiểu rõ.
Hằng ngày đi học bằng
xe bít bùng, bọc kín như bưng… Tôi để ý, thường thấy những chiếc xe du lịch ra
vào đậu trong sân số 2 Jean Jacques Rousseau, lại phải lấy vải bịt số xe. Những
người trên xe hầu hết là ngoại quốc, nam cũng như nữ. Thái độ của họ tỏ ra
nhanh nhẹn và cũng kín đáo khác thường.
Trong những giờ giải
lao, chúng tôi lang thang ngoài sân, khi gần ra phía cổng thì bị giảng viên gọi
vào. Họ nói:
- Các anh không nên ra
ngoài đó, có thể bị chụp ảnh.
Những điều như vậy,
càng gợi trí tò mò của tôi. Tôi suy đoán, có thể không chừng đây là một chỗ tới
lui của nhiều tay điệp viên quốc tế chứ không chơi đâu, do đó, tôi tìm mọi cách
để mong biết được tên thật của các giảng viên. Tôi hiểu họ dùng toàn tên giả.
Thí dụ: Ông Minh giảng về Chủ nghĩa Nhân Vị lại có cái thắt lưng mang chữ K.
Hoặc ông Đức, có lần thoáng trong lần giải lao, ông Minh lại gọi là ông Thái.
Tôi muốn biết rõ tên thật và chức vụ thực của họ. Phần khác, tôi còn ghi tất cả
những số xe, bất kể loại gì ra vào ngôi nhà số 2 này. Tôi cho rằng rồi đây ở
Sài Gòn, hay ở đâu, nếu tôi gặp những chiếc xe đó, địa điểm và chủ nhân ấy đều
có dính dáng đến tình báo. Điều đáng trách của tôi, là ghi tất cả tên cũng như
số xe vào một cuốn sổ tay, mà tôi thường bỏ trong người.
Trong những buổi lên
lớp cũng như những bài làm ở nhà, nhiều lần tôi được khen là có những ý kiến
sâu sắc; nhất là ông Hương, Giám đốc, càng tỏ ra thân mật quý mến tôi hơn.
Hàng tuần, trưa thứ Bảy,
chúng tôi được nghỉ học, về nhà. Tối Chủ Nhật trở lại.
Qua chuyện trò sinh
hoạt, sau nửa tháng, tôi đã biết trong số 14 người này có nhiều anh đã có phần
I, phần II Tú Tài. Đa số là con ông cháu cha, con cháu Tỉnh Trưởng, Chủ sự,v.v…
Vì vậy, tôi và Lý càng hoan hỉ tin tưởng vào tương lai của mỗi người.
Học được hơn nửa tháng,
một hôm, tôi không thấy cuốn sổ tay nhỏ của tôi đâu, tôi thắc mắc tìm hoài mọi
chỗ, hỏi cả Lý, cũng không thấy. Tôi cho là, có thể nhiều lần đi trên xe, xe
vừa đông lại vừa xóc, cuốn sổ rơi xuống đường rồi chăng, chứ tôi đã tìm hết mọi
chỗ rồi. Tôi cũng đã hỏi toàn thể anh em, nhưng không một ai biết. Mãi rồi cuốn
sổ tay đó cũng đi vào lãng quên.
Một buổi tối, sau khi
học và làm bài vở xong, tôi chợt nhớ tới cuốn sổ tay, tôi quyết định mở va li
tìm hết lại một lần nữa may ra thấy chăng. Lục lọi, tìm mãi cũng không thấy.
Tôi chợt nhìn thấy gần nửa bánh pháo “Đại Quang” ở trong góc va li, thứ pháo nổ
xác tan nhỏ như vảy ốc. Bánh pháo này hồi Tết còn thừa, tôi định để dành cho
Tết sang năm.
Sẵn tinh nghịch ngợm
ngang tàng, tôi rút ra một chiếc pháo trước mặt Lý và mấy anh em còn thức.
Miệng đang ngậm điếu thuốc, tôi bình thản từ từ đưa ngòi pháo vò đầu điếu thuốc
đang cháy; khi ngòi đã xì lửa, tôi vẫn lạnh lùng nhìn chiếc ngòi xì dần rồi nổ
ngay ở tay, ngang ngay trước mặt tôi chừng hai mươi phân, chỉ vì tính ngông
cuồng tỏ với mọi người là mình gan lì.
Mọi người ngồi đó không
ai nghĩ là tôi dám đốt pháo như vậy, mà chỉ cho tôi đùa bỡn, nên không kip có ý
kiến can ngăn.
Tiếng nổ dữ dội, âm
vang trong ngôi nhà như tiếng lựu đạn khiến mọi người xanh mặt, kể cả tôi! Anh
em đứng cả dậy. Ba người bếp ở dưới nhà cũng hộc tốc chạy lên, mặt mày nhớn
nhác. Sau khi biết nội vụ mấy người làm bếp và tất cả anh em giúp tôi nhặt từng
mảnh pháo vụn. Giám thị Lâm hôm đó tình cờ lại đi chơi vắng. Lúc đó đã 10 giờ
tối.
Tôi liếc nhìn xuống
đường chỗ ngã tư Phú Lâm, thấy một người quân cảnh và hai cảnh sát, đều ngước
nhìn lên lầu tòa nhà 365, rồi một người lây xe gắn máy chạy về phía Sài Gòn.
Tôi xuống nước năn nỉ
ba người bếp và các anh em đừng để sự việc này cho ban Giám Đốc biết.
Dọn xong, tất cả đều đi
ngủ lại. Riêng tôi nằm bồn chồn lo lắng. Tôi cảm thấy sự việc sẽ không đơn
giản. Tôi không yên lòng, với tay sang lay Lý dậy, thì thầm:
- Tao thấy sự việc này
sẽ không phải lộ từ phía dưới lên, mà có khi từ phía trên xuống.
Lý trấn an tôi:
- Không sao đâu, hãy đi
ngủ đi!
Tôi nằm, tuy có lo
lắng, nhưng tuổi trẻ, nên dễ đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Tôi đang say mê ngủ, ai
đó đến lay người tôi, tôi mở mắt: Cao Đình Tiệu. Ông nhớn nhác, mắt không kính,
tóc rối bù, chắc cũng bị đánh thức dậy, ông nói hổn hển:
- Dậy, mặc quần áo
xuống ngay dưới nhà gặp ông Hương!
Thật là chết! Tôi ngồi
bật dậy. Xuống đến lưng cầu thang, đã nhìn thấy ông Hương, ông Minh, quần áo
lôi thôi, dáng vẻ còn ngái ngủ. Lúc đó đã 2 giờ đêm.
Tôi hồi hộp nhìn các
ông ấy. Điều làm tôi buồn khổ, hổ thẹn nhiều là ông Hương, ông Minh, ông Tiệu,
nghĩa là cả Ban Giám Đốc, cũng như giám thị, trước đây đề cao và quý tôi nhất,
cho nên tôi chỉ biết cúi đầu.
Chắc hẳn ông Hương đã
hỏi ba người bếp chi tiết sự việc rồi. Ông Tiệu không biết gì vì đi chơi. Câu
đầu tiên ông Hương hỏi tôi:
- Bình có biết hôm nay
là ngày gì không?
Tôi tường ý của ông
muốn hỏi như vậy để tôi phải trả lời. Hôm nay là ngày tôi đã gây ra một việc
đáng tiếc, nên cứ cúi đầu, ngồi im.
Có lẽ ông Hương (45
tuổi) đã hiểu cái bồng bột quá trớn của một người thanh niên, ông nói luôn:
- Hôm nay là ngày 15
tháng 5, sinh nhật của Karl Marx. (Thảo nào ngã tư Phú Lâm được tăng cường thêm
hai cảnh sát và một quân cảnh). Ông Hương nói tiếp:
- Bình có biết việc
Bình làm đã chấn động nhiều cơ quan, kể cả Phủ Tổng Thống không?
Vì là ngày sinh nhật
của Karl Marx, nên các cơ quan an ninh tăng cường hoạt động để ngăn chận, những
manh nha của Cộng Sản. Khi nghe tiếng nổ, nếu ở một chỗ bình thường, cảnh binh
chỉ việc vào điều tra tìm hiểu; và thấy do đốt pháo thì chỉ phạt 20 đồng theo
quy định hồi ấy.
Ở đây, tiếng nổ lại
phát ra từ ngôi nhà 365. Cảnh sát nũng như quân cảnh đều hiểu ngôi nhà đó thuộc
trung ương, nên không dám vào khám xét. Nhưng vì sự việc xảy ra trong khu vực
trực tiếp trách nhiệm của họ, nên bắt buộc họ trình báo cáo cấp trên. Đồn
trưởng báo Quận, Quận hỏi ý kiến Nha Giám Đốc. Nha Giám Đốc cho căn nhà đó là
của An ninh Quân đội, thuộc Phủ Tổng Thống. Lời tường trình được báo về cấp cao
nhất, và cuối cùng truyền ngược xuống Ban Giám Đốc lớp học.
Mặt của ông Hương,
Minh, Tiệu như bàn tay bà già. Mặt tôi có lẽ dài ra gấp rưỡi ngày thường.
Ông Hương chậm rãi nói:
- Không thể dùng quyền
để ém nhẹm vụ này, vì như vậy càng làm cho các cơ quan khác nghi ngờ. Cho nên,
ngày mai cảnh sát sẽ vào đây lập biên bản. Vậy, hãy nói với họ đây là một số
sinh viên, học tập Chủ nghĩa Nhân Vị trong dịp Hè. Một người trong lúc vui chơi
đã nghịch, gấp một chiếc pháo giấy đập mạnh bằng tay, vì ở trong tòa nhà, nên
nó đã vang to như vậy.
Ông Hương bắt ông Tiệu
lấy giấy gấp thành một cái pháo, mà học sinh vẫn chơi. Tôi phải thực tập, cũng
nổ. Nhưng làm sao bằng pháo thật!
Đến đây, tôi cũng suy
nghĩ. Tại sao ông Hương không nói thẳng với cảnh sát là tôi nổ pháo, mà phải làm
trò như thế, cảnh sát tin sao được. Tôi cho rằng, có lẽ một phần ông Hương muốn
cho đỡ khuyết điểm cho tôi với trên, phần khác cho chính ông ta (tại sao lại
tuyển mộ một học viên có những hành động nhố nhăng như thế).
Sáng hôm sau, một xe
“díp” cảnh sát chở ba người, kể cả Đồn trưởng, vào gặp ông Tiệu và tôi. Thái độ
cảnh sát rất nhã nhặn, dè dặt, và tỏ ý, đây chỉ là nguyên tắc, vì vậy, họ cũng
không bắt tôi phải đập pháo giấy. Nghĩa là họ không tin, nhưng việc phải làm,
cho nên họ ghi đầy đủ sự việc theo lời khai vào sổ trực.
Ông Tiệu còn nhăn nhó
nói:
- Địa điểm học này đã
bị lộ, có thể sẽ phải chuyển đi nơi khác.
Sóng gió lại bình lặng!
Chúng tôi lại tiếp tục học hành. Tuy vậy, từ đấy tôi rất ngượng nên thường
tránh mặt, không muốn gặp ông Hương và ông Minh nữa.
Hơn một tuần sau, vào
lúc 7 giờ tối, một anh bếp gọi tôi xuống gặp ông Giám thị. Khi xuống tới buồng
ông Cao Đình Tiệu, tối thấy trên bàn một chai rượu mạnh. Mặt ông đỏ gay và thật
buồn. Thấy tôi, ông hất hàm ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Rồi quay mặt nhìn ra
cửa sổ, chậm rãi:
- Bình có một quyển sổ
tay nhỏ phải không?
Thoáng nghe tim thót
lại, tôi gật đầu lo lắng nhìn ông.
- Bình có biết quyển sổ
đó hiện nay đang ở đâu không?
Tôi nói trong đắn đo,
dè dặt:
- Đã mất hơn nữa tháng
nay và tìm mãi không thấy.
Ông quay ngoắt lại,
nhìn thẳng vào mặt tôi, dõng dạc:
- Hiện giờ, nó đang nằm
trên Phủ Tổng Thống!
Ôi chao, sao tôi có
nhiều việc thế này! Lòng tôi hoang mang, hoảng sợ nhìn ông. Ông hỏi tiếp:
- Ai là người giới
thiệu và bảo lãnh Bình vào lớp học này?
- Cha Mai Ngọc Khuê.
Mặt ông buồn thiu, thổ
lộ:
- Tôi không có em trai,
từ ngày tôi gần Bình, tôi rất mến và coi Bình như em trai của tôi. Chiều nay
tôi đã tham dự một cuộc họp hai tiếng đồng hồ. Tôi đã vận dụng nhiều lý luận để
binh vực cho Bình, nhưng địa vị và quyền của tôi chỉ có giới hạn. Cuộc họp đã
quyết định xong vể Bình rồi. Họ sẽ giao Bình sang An Ninh Quân Đội, Bình sẽ bị
sát hạch, khai thác, có khi bị tra khảo nữa. Vậy ngay bây giờ, Bình vể khẩn
khoản nói với Cha Khuê, may ra uy tín của người sẽ cứu được Bình.
Ông còn hỏi:
- Có tiền đi tắc xi
không?
Ông mở ví móc đưa tôi
50 đồng.
Tôi như ngồi trên lửa,
khua tay rối rít cám ơn nói là đã có tiền rồi. Tôi đứng lên chuẩn bị đi ngay
sang khu Lăng Cha Cả, ông còn kéo tay tôi lại:
- Tại sao Bình ghi hơn
chục cái số xe để làm gì? Cả tên thật và chức vụ của các giảng viên nữa?
Mặt tôi buồn rười rượi.
Tôi thú thật với anh là vì tò mò. Anh giục tôi đi ngay, về thú thực hết với cha
Khuê. Trên đường về, tôi nghĩ ngay tới Đạo, ngưởi Trưởng toán. Mục đích ở trên
đưa nó vào để theo dõi chúng tôi về tư tưởng. Nghĩ cho cùng, tôi chỉ giận mình
ngu xuẩn, nhố nhăng, không thể trách Đạo được vì đó là nhiệm vụ của anh ta.
Những năm tháng sau
này, nhiều khi suy nghĩ lại sự việc trên, tôi thấy, trong cuộc đời, chuyện may
rủi không một ai dám phủ nhận, nhưng cũng phải thừa nhận là “bản tính tạo nên
cuộc đời”. Thực tế, tính một người ưa động, coi thường nguy hiểm, thích đấm đá,
dao búa, buôn lậu, hoặc hoạt động chính trị, làm cách mạng, v.v… Đời người ấy,
nói chung, sẽ nổi chìm bất thường. Ngược lại, một người sợ chuyện nguy hiểm,
rụt rè trước những việc mới lạ, cá biệt không kể, nói chung, đời người đó trôi
đều phẳng lặng. Cho nên, bản tính của tôi đã như thế, tôi phải gánh lấy hậu quả
tất yếu, kêu trời làm chi!
Về gặp Cha Khuê. Trước
đây người vồn vã vui tươi với tôi, bây giờ, sau khi tôi trình bày sự việc, mặt
người thật lạnh lùng xa lạ. Người chỉ nói một câu: “Làm như vậy đấy!” Tôi thật
buồn và thẹn. Nếu không vì chuyện cấp bách, tôi chẳng đến người làm chi nữa.
Trở về, hôm sau tôi vẫn
tiếp tục đi học ở số 2 Jean Jacques Rousseau, nhưng là những ngày đầy lo âu,
nghe ngóng.
Buổi học cuối tháng đó,
chúng tôi đến lớp nhưng không học. Chúng tôi được lệnh ngồi chờ. Từng người
được gọi vào một căn buồng phía trái để làm việc, khá lâu. Mỗi khi một người mở
cửa buồng bước ra, tôi hỏi, họ đều lắc đầu. Mãi tới lúc Lý ra, tôi hỏi, hắn chỉ
vắn tắt:
- Lấy tiền, và viết
giấy cam đoan, ông ấy dặn tao tuyệt đối không nói gì với người khác.
Gần về cuối, tôi mới
được gọi. Gặp ông Hương, tôi ngượng ngùng, nhưng ông lờ đi. Nội dung sinh hoạt riêng
từng người là:
- Ký vào mấy tờ giấy và
lĩnh 2,500đ.00 một tháng (học, được nuôi ăn ở lịch sự, lại còn có lương!) – Một
tờ cam đoan đã đánh máy sẳn. Tuyệt đối không kể một sự việc gì vể lớp học cho
một ai khác, kể cả gia đình. Nếu vi phạm, sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. –
Về nhà chờ, khi nào có người tới đón, sẽ đi học tiếp tục.
Sau đó, chúng tôi ra
về. Tôi những tưởng tai qua nạn khỏi, nhưng không phải vậy. Thỉnh thoảng, tôi
vẫn đến nhà Lý chơi để xem tình huống gọi, đón như thế nào. Một hôm, tôi đến
nhà Lý như mọi lần, được người nhà Lý cho biết, sáng sớm đã có người đến đón Lý
đi rồi. Thôi, thế là tôi đã bị thải. Để cho sáng tỏ hơn , tôi phải liều. Tôi
vội vàng phóng xe xuống 365. Lúc đó đã là giờ trưa, rất im vắng. Tôi lên tuột
trên gác thấy Lý và 9 người nữa đang ngủ. Tôi lay vai Lý dậy, rồi chúng tôi
cùng xuống dưới nhà. Lý nói, mặt buồn buồn:
- Ông Hương đến đón tao
đi ngay, nên không kịp viết giấy để lại cho mày. Tao có hỏi ông Hương về mày.
Ông trả lời “Hãy biết phận mình thôi”.
Tôi thấy Lý cũng không
biết gì hơn, tôi hẹn Lý cuối tuần về sẽ nói chuyện. Tôi vào buồng anh Tiệu, anh
cho biết: “Không gọi, có nghĩa là loại rồi” và “Lớp học bây giờ chỉ còn mười
người!”
Như vậy là tôi đã hiểu.
Mục đích của một tháng học đó chỉ là để tìm hiểu và để lọc người. Trừ anh Đạo
trưởng toán có nhiệm vụ riêng không kể, 3 người đã bị loại.
Ruột tôi thật là héo
úa! Anh Tiệu thây tôi buồn, anh đặt tay lên vai tôi, vừa như tâm tình vừa như
an ủi:
- Dù học lớp này hay
không, Bình hãy đến với tôi. Nhưng không nên đến đây nữa. Bây giờ là giao thiệp
giữa cá nhân tôi và Bình.
Anh cho tôi số nhà
riêng và hẹn gặp vào những ngày cuối tuần.
Trên đường về nhà, tâm
tư tôi nặng chĩu trái sầu. Tôi nghĩ đến lời anh Tiệu khi nãy: “Trong lớp học
đó, Bình được Ban Giám Đốc khen ngợi là trội nhiều mặt, tháo vát, nhanh nhẹn,
nhưng …”
Vâng, trong cuộc sống
con người, chữ “nhưng” và chữ “nếu”, hai chữ quái quỷ này có lúc làm cho con
người sung sướng ngất ngây bao nhiêu, thì nhiều khi chúng cũng làm cho người ta
đau khổ chất chồng, đầy máu và nước mắt bấy nhiêu. Đôi khi tàn lụi cả cuộc đời
cũng vì chúng.
3.
Vào Ngành Tình Báo…
Tôi về nhà nằm buồn mấy ngày. Lại đúng vào mấy ngày mưa.
Mưa thật nhiều, mịt mờ cả đường phố. Tôi nằm nghe mưa rơi trên mái nhà, những
hạt mưa rơi xối xả âm vang như tiếng cười đùa trêu chọc. Nhưng, có lúc lại như
tiếng reo hò, hối hả thúc giục người con trai không thể nằm buồn tiêu cực trong
cuộc sống, phải dậy và nổ lực với những khó khăn trước mặt! Thế là tôi ngồi bật
dậy và nỗi buồn của tôi đã như áng mây, trôi về phương trời xa mất hút…
Ít ngày sau, tôi được
biết Bộ Tổng Tham Mưu thông báo thi tuyển vào lớp Sĩ quan trừ bị Thủ Đức khóa
11. Tôi nộp đơn, ngoài những thủ tục cần thiết, tôi còn nộp kèm theo giấy chứng
chỉ của trường Cao Đẳng Quân Sự (giai đoạn đó, học sinh đệ nhị cấp, đều phải
qua lớp huấn luyện quân sự này) chứng nhận tôi là Chuẩn Úy trừ bị.
Do một số tin tức tôi
thâu lượm được, không kể Cần Thơ và Huế, riêng Sài Gòn đã có hơn 1.000 người
xin dự thi, trong khi tôi được nghe đồn, khóa Thủ Đức 11 này đặc biệt sẽ lấy
800, vì nhu cầu tình hình chính trị đòi hỏi. Dù thế nào, tôi vẫn phải đem sách
vở ra miệt mài học lại. Tuy tôi cũng tự tin vào khả năng của mình.
Một ngày cuối tuần, tôi
đến Tiệu chơi, anh hỏi tôi:
- Bình có thích hoạt
động tình báo không? Với khả năng như Bình, nếu Bình thích, tôi sẽ giới thiệu
qua ngành quốc ngoại, vì tôi có quen biết.
Vừa qua, tôi đã nếm mùi
vị tí chút về tình báo, nên tôi gật đầu. Tôi cho anh địa chỉ nhà tôi, và sẽ chờ
người đến gặp.
Qua những buổi trao đổi
với Cao Đình Tiệu, tôi đã hiểu tình báo quốc ngoại ở đây là tình báo ngoài miền
Bắc. Lúc đó, quan điểm tư tưởng của tôi thật là đơn thuần. Con người của tôi tự
bản tính không sợ những chuyện nguy hiểm, nên luôn luôn ôm ấp một hoài bão,
phải làm được một cái gì đó hữu ích cho cuộc đời này, mặc dù tôi chưa hề định
hướng việc đó là việc gì. Lý tưởng chống Cộng Sản của tôi, lúc đó vẫn còn lẩn
quất chưa rõ mầm. Tôi chưa ý thức được vì sao, tôi một người con trai Việt lại
phải ra miền Bắc, vào đất kẻ thù để chống Cộng Sản. Lỗi này là do những người
lãnh đạo chế độ miền Nam đã hời hợt sao nhãng, việc giáo dục trong học đường
đối với thanh thiếu niên về vấn đề Cộng Sản.
Hơn một tháng sau, đến
ngày thi tuyển vào trường Thủ Đức. Sau mấy ngày thi, bài vở so với mọi người
chung quanh, tôi làm được, nhờ hai bài toán Hình, Đại thì một bài trúng tủ.
Thầy Phú đã ra trước đây ở trường Hưng Đạo. Còn bài
Việt, tôi hơi vững dạ,
vì trong các môn học, môn Việt Văn của tôi vẫn thường có chỗ đứng tạm được. Dù
vậy, khi chưa công bố, ai dám cho là mình đã qua. Chính vì thế, trong khi chờ
đợi kết quả tôi vẫn cần phải lo chuyện khác nữa.
Tôi thi được hơn mười
ngày, một hôm có một người chừng ba mươi lăm tuổi tìm tới nhà. Lại là người
Trung nữa! Sao trên trung ương nhiều người miền Trung thế? Ông ta tự giới thiệu
tên là Cẩn, Ngọc Cẩn, mặc thường phục. Ông ta nói:
- Được ông Lâm (tên giả
của Cao Đình Tiệu ở lớp học) giới thiệu và nói nhiều về anh. Hôm nay, tôi đến
gặp anh. Chúng ta sẽ trao đổi vài câu chuyện.
Câu chuyện xoay quanh
mấy vấn đề quan điểm, hoải bão, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân
tộc, Tổ Quốc v.v…
Buổi nói chuyện kéo dài
chừng hai tiếng đồng hồ; Sau đó, ông Cẩn hẹn buổi khác sẽ đến.
Ông đến gặp tôi hai ba
lần nữa. Một hôm, ông mang theo một tập lý lịch, bảo tôi ghi điền vào chỗ trống
theo yêu cầu. So với tập lý lịch làm ở nhà thờ cha Khuê, lần này thêm một vài
chi tiết nữa. Riêng chỗ bạn thân phải 5 người.
Lúc ra về, ông nhìn
tôi, tình cảm:
- Trong khi chờ đợi sự
sắp xếp ở trên, tôi hàng ngày cũng rỗi, vậy thỉnh thoảng anh em mình đi chơi
phố hỉ?
Tôi đồng ý. Chúng tôi
có lúc ra bờ sông ngồi chơi, có khi vào quán uống. Một hôm, ông đến bằng xe
Lambretta, chở tới vài khu trung tâm Sài Gòn chơi. Trong khi đi đường, ông hỏi
chuyện về nhiều lảnh vực khác nhau. Một lần đang đèo đi chơi, bất chợt ông nói:
- Quên, có chút việc
chúng mình phải sang khu Cầu Cống Khánh Hội.
Khi sang tới đó, ông
lái xe vào sâu mãi trong một ngỏ hẻm, qua nhiều ngóc ngách ngang dọc, rồi ông
để tôi đứng ở ngoài chờ. Ông vào một căn nhà, chừng 5 phút ông trở ra.
Khi trở về Sài Gòn,
chúng tôi vào nhà hàng Thanh Thế uống nước. Lúc tôi và ông đang cầm ly uống,
chiếc mũ của ông để trên bàn, bất ngờ rơi xuống nền gạch chỗ giữa ông và tôi.
Ông nhìn tôi, và tôi
cũng nhìn ông, cùng đang cầm ly nước. Tôi vẫn thong thả uống và từ từ đặt ly
nước xuống bàn. Tôi tiếp tục nói hết câu chuyện và ung dung dụi tàn thuốc lá,
rối mới cuối xuống nhặt mũ lên bàn cho ông. Tôi nghĩ, mũ của ông rơi đã rơi
rồi, chẳng cần phải vội vàng nhặt ngay, kẻo nó bị hư hỏng hơn. Cho nên, tôi vẫn
đường hoàng làm xong việc tôi đang làm giở.
Phải nói, lúc đó tôi
chưa biết là ông thử sự bình tĩnh của tôi. Lần thứ hai, tôi đã thấy dụng ý của
ông.
Một lần đang ăn uống,
ông rót bia rồi, còn già nửa chai ông đặt ghé lên chiếc khăn lau tay để trên
bàn. Lát sau, như vô tình, ông rút chiếc khăn để lau miệng, chai bia tất yếu
nghiêng đổ. Phản xạ cấp thời, tôi chộp lấy được.
Một lần khác, chúng tôi
đang ngồi ở Hòa Hưng, như chợt nhớ ra điều gì, ông quay lại tôi:
- Nhờ Bình một chút,
tôi ngồi ở đây chờ, Bình lấy xe tôi xuống chỗ công “piscine” Cộng Hòa mua hộ
tôi 5 bao thuốc Pall Mall với một bao Capstan, họ bán phía trong cổng ấy.
Trên đường đi, tôi thấy
vô lý, từ Hòa Hưng xuống Ông Tạ có biết bao nhiêu hàng thuốc lá, tại sao lại
xuống mãi hồ bơi Cộng Hòa? Dù suy nghĩ như vậy, nhưng tôi vẫn đến chỗ đó mua
cho ông. Khi ông và tôi trở về, ông làm như băn khoăn hỏi:
- Mai Bình có rỗi
không?
Nhìn ông tôi dè dặt:
- Tôi chưa biết rõ,
nhưng ông cần cái gì ông cứ nói.
Ông rút trong túi áo ra
một lá thư dán kín, bì thư để trống trơn, đưa cho tôi ông căn dặn:
- Ngày mai, Bình có
solex, hãy đưa hộ tôi lá thư này cho cái nhà mà hôm nọ Bình với tôi đến, ở
trong chợ Cầu Cống đó.
Đã gần nửa tháng rồi,
vô tình ai để ý làm gì, nhưng do cá tính hay để ý của tôi, tôi đã nhớ. Hôm ấy,
tôi thấy ông Cẩn vào một ngôi nhà, tôi nghĩ ông là một người làm tình báo của
chính quyền. Như vậy, ngôi nhà đó có dính dáng ít nhiều đến tình báo; nếu
không, ít ra chủ nhân cũng quen biết thân thuộc đến đời riêng của ông Cẩn, nên
tôi chú ý hơn. Vì vậy, hôm sau tôi đáp ứng được việc ông nhờ, không khó khăn gì
cả.
Tóm lại, thời gian đó,
có thể ông đã thử thách tôi nhiều, nhưng tôi chỉ thấy được 4 lần:
- Về đức tính bình
tĩnh. – Về tính chấp hành kỷ luật nghiêm chỉnh. – Về trí nhớ cần thiết để hoạt
động. – Về phản xạ bén nhậy, chính xác khi sự việc xẩy ra bất ngờ.
Về việc mua thuốc lá,
nếu ông muốn kiểm tra, chỉ cần trở lại chỗ bán thuốc lá ở hồ bơi Cộng Hòa, hỏi
người bán hàng.
Một vài phương pháp thử
thách như trên, chưa đủ xác định khả năng của một con người. Vì vậy, sau này
trong quá trình đào tạo, huấn luyện, còn nhiều thử thách khác nữa.
Sau đó, cứ dăm ba ngày,
lại một lần ông Cẩn đến đón tôi đi chơi cho tới một hôm, sau buôi đi chơi về,
ông thân mật dặn dò:
- Kỳ này, tôi có một số
công việc bận, vậy Bình về nhà hãy đợi chờ nhé!
4.
Nghiệp Dĩ…
Tôi về nhà nằm chờ đợi. Hàng ngày, tôi vẫn lấy sách vở ra
miệt mài xem lại để sang năm, bằng mọi giá tôi phải lấy xong phần I Tú Tài. Tôi
đã ăn vỏ chuối 2 năm rồi! Chỉ vì sự suy nghĩ của tôi chưa đủ chín chắn, còn ham
chơi. Chỉ có những quyết tâm nửa vời, thiếu hẳn ý chí kiên nhẫn, cho nên, tôi
đã phải trả một giá đích đáng cho sự học vấn của tôi. Tôi nhớ lại những năm
tháng trước đây, vì hoàn cảnh cuộc sống, vì đất nước chia đôi, tôi di cư vào
miền Nam và gián đoạn việc học hành.
Trước kia, tôi đã biết
nghề kim hoàn từ hàng Bạc, Hà Nội. Vào Nam, do gia đình và họ hàng giúp đỡ,
cuối 1956 tôi đã mở hiệu bán vàng bạc “Bảo Tín” ở chợ Cây Điệp. Khách hàng là
quân nhân trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và mấy làng người miền Nam
quanh vùng. Sau gần một năm, càng ngày cửa tiệm càng phát đạt, dù người chủ
tuổi đời chỉ mới mười tám, mười chín (bố mẹ và các em tôi ở cùng nhà). Khi ấy,
đồng tiền đối với tôi thật dễ dàng. Thỉnh thoảng, một vài người bạn từ Sài Gòn
xuống chơi, nói chuyện về các giáo sư, về học hành, về xã hội… Với đầu óc còn
quá non dại, tôi nhìn cuộc đời cũng quá đơn giản. Vì thế, tôi cũng đi vào cái
chung của mọi người là coi thường những gì mình đang có, và hướng tìm về những
cái mình chưa có. Nghĩa là, trong tôi đang dần hình thành những suy nghĩ về
cuộc sống của con người trong xã hội.
Khi ấy, tôi nghĩ thật
đơn giản. Xã hội và con người mỗi ngày mỗi tiến bộ. Vậy, một thanh niên sống
trong thời đại đó, ít nhất phải có một kiến thức nhất định nào đó để hiểu biết
được , ít ra là khái niệm, về tất cả lãnh vực trong thời đại mà mình đang sống.
Hãy tạm thời lấy sự học
vấn làm ý niệm đo lường. Những năm 50 trước đây, chỉ cần mức độ là Trung Học Đệ
Nhất Cấp là tạm đủ, cho kiến thức của một con người. Nhưng, thập niên 60 phải
cần có Tú Tài; chứ Trung Học Đệ Nhất Cấp đã là lạc hậu rồi, không theo kịp đà
tiến triển chung của xã hội. Và tới thập niên 70, nếu không đáp ứng được yêu
cầu tương đối ấy, người thanh niên sẽ không đủ kiến thức để hiểu biết, dù không
cần quán triệt, những sự việc xã hội xẩy ra chung quanh mình.
Vậy, bây giờ tôi có
tiền để làm gì, khi đầu óc tôi còn mơ hồ về chuyện đất nước và thế giới. Hơn
nữa, con người được sinh ra trên thế giới này, phải ít nhất biết một số nơi
danh tiếng của nó. Nếu không, thì cũng sẽ chỉ sống một cuộc đời tầm thường,
thiếu thốn, chưa đủ ý nghĩa của cuộc sống.
Từ những suy nghĩ lẩm
cẩm ngây thơ trên, tôi quyết định thôi hiệu vàng. Bố mẹ cũng như họ hàng, trước
đây ca ngợi tôi bao nhiêu, bây giờ trách móc tôi bấy nhiêu. Tôi còn nghĩ rất
đơn giản là, bây giờ mình còn trẻ hãy gắng học đã, rồi phải đi đây đó để biết
nhiều về thế giới này. Đến khi nào ba, bốn mươi tuổi, lúc đó lại trở về mở hiệu
vàng (vì ít ra mình đã có kinh nghiệm về mở hiệu vàng rồi). Thật là những suy
nghĩ ấu trĩ! Chuyện đời không đơn giản như suy nghĩ của một cậu thanh niên mới
lớn.
Sau đó, tôi đến ở Trại
Học Sinh Di Cư Phú Thọ, Chợ Lớn (Pavie La Mothe) và tiếp tục đi học. (Bao nhiêu
kỷ niệm, bạn bè ở trại học sinh này! Sau 30 mươi năm, không biết bây giờ số
phận của mỗi người như thế nào?).
Tôi ngồi nhà học và chờ
ông Cẩn mãi, đã hai, ba tháng rồi mà chẳng thấy ông đến. Vì thế, tôi không còn
tin tưởng mấy vể chuyện tình báo ngoại quốc. Tôi nghĩ rằng, trong khi chờ đợi,
nếu Thủ Đức có trước thì đi Thủ Đức. Nghĩa là, cái nào có trước tôi sẽ đi cái
đó. Cuối 1960, tôi nhận được giấy báo trúng tuyển Thủ Đức và hẹn ngày đi khám
sức khoẻ.
Thôi, giã từ tình báo
miền Bắc! Tôi sẽ đi theo đường binh nghiệp! Về lãnh vực này, tôi cũng có một số
khả năng. Sau mấy ngày đi khám sức khoẻ ở bịnh viện Cộng Hòa, rồi đến ngày nhập
trường. Hơn một tuần lễ với bao nhiêu sự việc, người mới, sinh hoạt mới của đời
quân ngũ! Bỗng một hôm, tôi được gọi lên văn phòng chỉ huy.
Tôi vừa đi vừa băn
khoăn không hiểu có chuyện gì. Khi tôi vừa bước chân vào cửa phòng, tôi giật
mình ngạc nhiên: Ông Cẩn đang ngồi ở một chiếc ghế, đăm đăm nhìn tôi. Hôm nay,
ông mặc quân phục, mang lon Đại úy. Chẳng biết ông Cẩn đã chuẩn bị trước với
nơi đây như thế nào, ông dẫn tôi sang một phòng trống. Khi tôi vửa ngồi vào
ghế, ông cau có, hỏi giật giọng:
- Sao Bình lại đi Thủ
Đức? Không thể được!
Ông lặp đi, lặp lại
hai, ba lần câu “Không thể được”.
Tôi hơi ngượng ngùng
trả lời:
- Vì chờ ông lâu quá!
Hơn nữa, tôi nghĩ rằng, tôi vào Thủ Đức thì cũng là phục vụ dân tộc, Tổ Quốc
vậy.
Tay ông khoáng lên lia
lịa, ông nói một thôi một hồi:
- Không thể được! Không
trẻ con như thế được! Thủ Đức thì hàng trăm người có thể vào, còn việc này,
không phải ai cũng được. Bình có biết là từ 4 tháng nay, đã bao nhiêu người
phải bận rộn về việc này không? Kế hoạch đã đặt xong, nhà cửa đã mướn, mọi việc
chuẩn bị đã sẵn sàng. Trên Phủ Tổng Thống đã quyết định có lệnh lấy Bình về
bằng bất cứ giá nào.
Tôi vô cùng bối rối,
lúng túng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi, vì ngay trong thâm tâm tôi cũng
ưa đời binh nghiệp. Cuối cùng, tôi mạnh bạo nói:
- Thôi, hay ông để theo
quân đội cũng thế!
Ông ta mở mắt to nhìn tôi,
vừa như ngạc nhiên về thái độ từ khước của tôi, vừa như bất mãn khó chịu. Cuối
cùng, mắt ông dịu xuống, ông nói một cách cởi mở:
- Bình muốn có lon à!
Được, nếu Bình muốn, về Sài Gòn sẽ có. Bình cũng sẽ là quân đội vậy.
Có lẽ lúc ấy ông sợ
hỏng kế hoạch, sẽ bẽ mặt với câp trên, nên ông xuống nước hết mình với tôi. Và,
chẳng biết ông Cẩn có lệnh can thiệp như thế nào, ngay hôm đó, tôi đã phải theo
ông về Sài Gòn. Tôi vội vàng từ giã mấy người bạn mới lý do “Bố sắp chết nên
được phép về ngay”.
Sau này với những năm
tháng đau thương chất chồng, nhiều lúc tôi ngồi nghĩ lại, nếu lúc ấy tôi cương
quyết ở lại Thủ Đức – “Lại chữ nếu quái ác” – có lẽ cuộc đời tôi sẽ thay đổi
hoàn toàn trong tương lai. Sai một ly đi một dặm! Những giai đoạn đầu của cuộc
đời, ở những chỗ rẽ, nếu chỉ cần xê dịch khác một chút, kết quả sau này sẽ khác
nhau một trời một vực. Âu cũng là do nghiệp chướng của đời tôi.
5.
Huấn Luyện Tình Báo…
Ngay tối hôm đó, tôi về tới Thành Đô. Nhìn cảnh phố phường
đầy mầu sắc, lòng tôi vẫn vời vợi, bâng khuâng với nhiều nẻo đi của cuộc đời.
Hồn tôi đang chìm ngập trong nỗi ngơ ngác đầy vơi thì xe ngừng lại ở một góc
đường Võ Tánh. Ông Cẩn móc túi lấy chùm chìa khóa trao tôi, thân mật dặn dò:
- Đây là chìa khóa đã
ghi sẵn số phòng ở tầng ba, số 8 đường Nguyễn Văn Tráng.
Trước khi chia tay ông
còn căn dặn thêm:
- Nhớ đừng về nhà, sáng
mai tôi đến sẽ nói chuyện.
Sau một lúc lò dò tìm
kiếm, tôi đã đến được căn phòng đó. Trong phòng đã có sẵn một chiếc radio
transitor với một số sách báo ngoại ngữ, cũng như Việt ngữ.
Sáng hôm sau ông Cẩn
đến. Nội dung những điều ông căn dặn hướng dẫn:
- Tôi sẽ đóng vai trò
là một sinh viên Văn Khoa, gia đình tôi thuộc loại khá giả, từ Bắc di cư vào
miền Trung. Tôi vào Sài Gòn trọ học. Đó là đối với tất cả người chung quanh, kể
cả với người quản lý building.
- Còn riêng với gia
đình, một tháng chỉ nên về một hoặc hai lần. Nói là: Khi lên tới trường Thủ
Đức, họ khám sức khoẻ lại, thấy có bệnh yếu tim, nên không thể theo học quân sự
được. Hiện nay, đã chuyển sang ngành công tác xã hội, phải đi học tập một thời
gian.
- Ít đi ra phố, chỉ ra
khi đi ăn cơm. Hàng ngày, sẽ có người đến huấn luyện. Chiều Thứ Bẩy và Chủ Nhật
nghỉ.
- Trong thời gian huấn
luyện, mỗi tháng tôi sẽ được lãnh 2500 đồng. (Lại cũng giống như số lương ở số
2 Jean Jacques Rousseau!).
Thời gian đầu, chính
ông Cẩn, sáng cũng như chiều, mang tài liệu sách vở đến giảng dậy cho tôi.
Lúc đầu, ông đưa tài
liệu ra giảng cho tôi về:
* Thế nào là một tổ
chức bí mật. Lãnh đạo những tổ chức này, có khi do một cá nhân, một tập thể,
hoặc một quốc gia. * Xác định bạn và thù. Những người cùng chung một công tác
là bạn.
Ngoài ra, tất cả là
thù; kể cả bố mẹ, vợ con, anh em, bè bạn và các cơ quan khác như cảnh sát, công
an, an ninh quân đội. v.v… (Theo ý nghĩa ngăn cách, bí mật).
Tôi rất ngạc nhiên về
điểm này. Ông Cẩn giải thích, đại ý:
- Về lãnh vực tình báo
trên thế giới, từ xa xưa cho tới bây giờ, biết bao sự việc lắt léo ly kỳ đã xảy
ra. Trong hòa bình cũng như lúc chiến tranh, có khi hai quốc gia chống nhau,
hoặc có khi hai khối quốc gia chống nhau. Bên nước này, cũng như bên kia đều
đầy dẫy những nhân viên tình báo của đối phương. Những nhân viên này, tùy theo
điều kiện và nhiệm vụ, có thể ở mọi nơi, mọi lãnh vực, thậm chí đôi khi còn nằm
ngay trong chính quyền trung ương của nước sở tại. Nhiệm vụ của họ có nhiều
khía cạnh khác nhau, nhưng có một cái chung là tìm tòi, nghe ngóng để biết
trước được những âm mưu, ý đồ về tình báo của nước nọ đối với nước kia, ngõ hầu
có những biện pháp thích ứng để ngăn chận, hoặc lợi dụng, có khi tiêu diệt.
Vậy, điều quan trọng là người điệp viên cần phải biết những ai là nhân viên
tình báo của đối phương, nhất là những nhân viên bí mật.
Thời đại ngày nay là
thế giới tự do và Cộng Sản. Một thí dụ:
- Một người đang được
bí mật đào tạo huấn luyện để nhận một nhiệm vụ bí mật vào đất địch, phá một
công xưởng sản xuất vũ khí chẳng hạn.
Anh này có vợ, vì anh
là tình báo nên đi về thất thường, nguyên tắc không được nói với vợ, nên anh
này thường nói dối quanh. Người vợ càng nghi ngờ có lẽ chồng đã đi với cô này,
cô nọ, cho nên đã làm cho anh ta nhiều lần khốn đốn. Anh này vì chưa đủ ý thức
về bí mật, an ninh công tác nên có ý nghĩ:
- Tuy nguyên tắc là như
thế, nhưng vợ của mình, đấu gối tay ấp trọn cuộc đời với nhau, chẳng lẽ lại hại
nhau, chẳng lẽ vợ mình lại là Cộng Sản ư?
Và một đêm, anh đã thú
thực với vợ, không quên căn dặn vợ là tuyệt đối không được nói với bất cứ ai.
Người vợ lại có một người mẹ, thỉnh thoảng nàng hay sang nhà mẹ chơi. Bà mẹ
thường bảo:
- Này, cái thằng chồng
của mày độ này nó làm ăn cái gì mà tao thấy nó đi suốt ngày, có khi cà đêm nữa?
Mày ngốc, mày không để ý theo dõi xem thế nào, biết đâu nó chẳng mèo chuột,
v.v…
Người vợ tuy đã nghe
chồng dặn kỹ, nhưng lại nghĩ:
- Mẹ đẻ ra mình chứ ai,
chẳng lẽ mẹ lại hại vợ chồng mình? Mà mẹ mình là Cộng Sản hay sao?
Và, rồi một hôm nào đó
nàng đã nói thực với mẹ, cũng không quên căn dặn mẹ: Đừng, chớ có nói chuyện
này với một ai mẹ nhé!
Bà mẹ lại có một người
bạn chí thân. Trong một lần nào đó, bà bạn hỏi thăm về thằng con rể của bà bạn
mình. Bà mẹ không được học về nguyên tắc bí mật, nên muốn khoe với bà bạn thân:
- Ấy, chẳng hiểu nó làm
cái gì bí mật lắm, ở mãi trên Phủ Tổng Thống cơ! v.v…
Bà bạn chí thân này lại
có chồng, có con thân mật ruột thịt khác. Cứ như thế, đến lúc nào đó, tình báo
của đối phương sẽ đánh hơi thấy (cái này nó thính lắm) truy nguyên ra được tông
tích và hành tung của anh chàng không kín miệng. Nếu anh đó, dùng bất cứ hình
thức nào để xâm nhập đất địch, nếu không hai năm mươi thì cũng vào trong ấp mà
nằm.
Như vậy, nguyên nhân vì
đâu mà anh ta bị như thế? Rõ ràng, xuất phát từ vấn đề người vợ, khiến anh ta
đã thất bại.
Hơn nữa, người ta đánh
giá một công tác, thường chỉ căn cứ vào thành công hay thất bại mà thôi. Còn
nguyên nhân tại sao, lý do thế nào, xét sau. Bất kể nguyên nhân ra sao, do đối
phương ngăn chận không thể thực hiện được công tác, hoặc tư tưởng của nhân
viên muốn lẩn trốn không dám thi hành công tác, v.v… dù nguyên nhân khách quan
hay chủ quan thì cũng dẫn đến chung một kết quả là công tác đó bị thất bại,
không thực hiện được.
Qua thí dụ trên, về một
khía cạnh nào đó, người vợ cũng như là một kẻ thù, một đối phương vậy.
Từ những vấn đề trình
bày ở trên, tôi nhớ lại trước đây khi xem những phim tình báo gián điệp của Thế
Chiến I và II, những tiểu thuyết tình báo trong đó có Z 28 chẳng hạn. v.v… Tôi
cho rằng những điệp viên quái kiệt đã được đào tạo ở những trường điệp báo khét
tiếng như: Hắc Long, Intelligent Service, Gestapo, CIA hay KGB, v,v… đều bắn
các loại súng như máy, cưỡi ngựa như gió, sử dụng máy bay, xe hơi một cách điêu
luyện tinh vi. Tôi thật ấu trĩ! Từ những nguyên tắc bí mật và ngăn cách, chẳng
có một trường nào công khai đào tạo điệp viên cả. Nếu có một trường như vậy,
chẳng khác gì những điệp viên ấy đã tự trình bầy với đối phương, thưa các ông:
“Chúng tôi đang ở trong bụi rậm này!” Cho nên thực tế, có nhiều vấn đề chẳng
giống như tiểu thuyết và phim ảnh.
Trở lại Ngọc Cẩn. Sau
đó, tôi tiếp tục được giảng dạy nghiên cứu và mổ xẻ các loại nhân viên: Nhân
viên giữ nhà an toàn, nhân viên trung gian, nhân viên đi hoạt động bí mật, nhân
viên liên lạc, nhân viên công khai và bán công khai, nhân viên nhị trùng hay
hai mang, v.v…
Trong khoảng bốn tháng,
ông Cẩn đến với tôi hàng ngày như vậy. Tôi nhớ một hôm, vào cuối tháng 4 –
1960, ông Cẩn vào phòng tôi với một người nữa. Ông này cao, lớn con, đầy phong
độ. Ông Cẩn quay lại tôi, rồi nhìn về phía người cao lớn vừa như dặn dò bàn
giao, vừa như giới thiệu:
- Tôi bận một số công
tác đặc biệt khác, nên đây là ông Phan, Ông cũng như tôi, người của Cục, ông sẽ
thay tôi phụ trách Bình. Tôi bắt tay và nhìn ông Phan. Ngay từ buổi đầu, chỉ
vài câu chuyện trao đổi, tôi đã thấy ông dễ mến vì thái độ cởi mở. Qua tiếng
nói, tôi hiểu ông là người miền Nam.
Sau đó, ông Cẩn thân
mật bắt tay từ giã chúng tôi.
Còn lại một mình ông
Phan và tôi. Qua ánh mắt và nét mặt, ông nhìn tôi như muốn trao cho tôi nhiều
thiện cảm. Đúng như tôi nhận xét về ông từ lúc đầu, ông Phan thật xuề xòa và tỏ
ra là một người rất phóng khoáng. Nghe ông nói chuyện, tôi có cảm tưởng như đã
quen ông thân mật từ lâu rồi.
Ông Phan đến tủ sách
của tôi, lật xem vài quyển, rồi quay lại nói:
- Từ nay, tôi sẽ tiếp
tục đào tạo và huấn luyện Bình.
Rồi ông quay hẳn lại,
đến bàn ngồi trước mặt tôi, giọng đầy gần gũi, thân mật:
- Bình có biết không?
Trong Cục tôi nghe nói, Bình là một nhân viên mới có nhiều khả năng, tôi đã tìm
mọi cách để xem hồ sơ của Bình, mặc dù theo nguyên tắc ngăn cách thì thật khó.
Tôi thấy rằng, nếu trao cho Bình một công tác khác thì hơn. Bình làm công tác
này hơi…phí.
(Phải nói, lúc đó tôi
không hiểu câu nói này của Phan, mãi về sau, khi ra miền Bắc rồi tôi mới hiểu)
Phan nói tiếp:
- Vì thế, trong những
ngày tới, tôi sẽ bàn với Bình sau. Bây giờ, Bình hãy tiếp tục học hành, nghiên
cứu. Nhưng, ở đây lâu không tiện. Vậy ngày mai, tôi sẽ đem xe đến chuyển Bình
về Kỳ Đồng.
Về building Kỳ Đồng,
tôi tiếp tục học các môn:
- Các loại chữ bí mật.
– Cách viết thư bí mật. – Mật mã. – An ninh cá nhân và công tác. – Hộp thư
sống, chết. – Hội kiến. – Vỏ học. – Tuyên truyền, phản tuyên truyền. – Cách lấy
tin tức, moi tin. – Ngăn cách. – Đánh giá nguồn tin.
Mỗi môn đều phải nghiên
cứu, mổ xẻ từng chi tiết lắt léo nhất, đồng thời thực tập nhiều lần. Phan cũng
thử thách tôi liên tục, lợi dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện để biết rõ về khà
năng cũng như khuyết điểm của tôi.
Càng ngày, Phan càng có
thiện cảm với tôi hơn, thường gọi “toa” xưng “moa”. Có những buổi sau giờ học,
Phan và tôi bên nhau chuyện trò tâm tình. Từ đấy, tôi biết được ít nhiều về
Phan. Phan đã có 15 năm nghiệp vụ tình báo. Trước đây, Phan đã ở Phòng Nhì của
Pháp nhiều năm. Theo Phan nói, 1952, Phan đã bị Cộng Sản ám sát ở Cân Thơ. Tên
Cộng Sản đặc công bắn Phan từ khoảng cách 25 mét nhưng rất chính xác. Y đã ghim
viên đạn vào ngực phía trái, chỗ trái tim của Phan. Phan có vạch ngực cho tôi
xem vết sẹo. Phan may mắn thoát chết là do hộp thuốc lá bằng kim loại đắt tiền
ở túi áo ngực. Dù vậy, viên đạn cũng găm vào ngực Phan, tuy không vào sâu. Tất
nhiên, tên Cộng Sản đó bị bắt. Rồi, tính quân tử và lòng hào hiệp của Phan đã
lôi cuốn được trái tim của tên Cộng Sản ấy. Chính Phan đã bảo đảm và lãnh tên
đó từ trong tù ra. Cho tới khi Phan đến huấn luyện cho tôi, tên đó vẫn là tay
chân đắc lực của Phan.
Theo nguyên tắc, Phan
không được kể những chuyện như vậy với tôi, nhất là về đời tư của mình. Nhưng,
vì Phan là người cởi mở, và là người Nam, nên nói chung đã không quá kín đáo
như người Trung hay Bắc.
Một buổi vào đầu tháng
10 – 1960, Phan đến nói với tôi:
- Hiện nay trong vùng
bưng biền, tụi Cộng Sản đang chuẩn bị thành lập một “mặt trận”, rồi có thể sẽ
tiến tới thành lập một chính phủ lâm thời. Do đấy, tôi
muốn chuẩn bị cho Bình
đóng vai là một sinh viên bất mãn với chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Một
mặt Bình sẽ tiếp tục đi học ở trong trường, lớp, Bình sẽ tổ chức ra một số vụ
chống đối, để dẫn bắt mối với một sớ phần tử thực của Cộng Sản ở trong sinh
viên và học sinh. Mặt khác, chính quyền sẽ tạo nên một cú bao vây, rượt bắt.
Bình sẽ nhân thế đó, chạy vào bưng, v.v…
Sau khi nói xong, Phan
hỏi ý kiến tôi.
Tôi hiểu, nói chung,
vào “vùng giải phóng” thì ít nguy hiểm hơn ra ngoài Bắc. Nhưng đối với tôi, vấn
đề nguy hiểm nhiều hay ít không phải là điều đầu tiên tôi quan tâm. Điều tôi
nghĩ đến trước hết là công tác ấy có hào hứng và kỳ thú hay không. Vì thế, tôi
chậm rãi trả lời:
- Tùy sự quyết định ở
trên.
Có thể Phan thấy sự trả
lời của tôi không dứt khoát, hoặc có những tính toán thay đổi trong Cục, hay
tình hình diễn biến có khác; những ngày sau đó, không thấy Phan nhắc nhở gì về
vấn đề vào bưng nữa.
Hàng ngày, Phan vẫn đến
tiếp tục giảng dậy cho tôi. Một thời gian sau, tôi lại được chuyển về building
ông Thọ.
Một mặt, tôi vẫn theo
học, mặt khác, tôi xem lại bài vở nộp đơn thi Tú Tài I. Chính Phan cũng khuyến
khích tôi.
Một hôm, Phan dẫn đến
hai người Mỹ, giới thiệu tên là Brown và Dale, để huấn luyện thêm một số môn
khác. Cả hai đều mặc thường phục, ông Brown đeo kính trắng. Tuy mỗi người dạy
những môn khác nhau, nhưng hai người hay thường xuyên đi cùng.
Thế là từ đấy ba người,
Phan Brown và Dale liên tục giảng dạy cho tôi về các môn:
- Phương pháp tổ chức.
– Điện đài. – Theo dõi và chống theo dõi. – Phương pháp tuyển mộ. – Huấn luyện,
đào tạo nhân viên. – Vũ khí, mìn. – Tự mưu sinh (núi, rừng, biển).
- Phân tách tâm lý, khả
năng từng dạng người trong xã hội. – Phương pháp hình thành một mạng lưới hoạt
động bí mật.
Thời gian này thực vất
vả. Lý thuyết rồi thực hành. Tiếng Anh của tôi viết hay đọc thì còn được chút
ít, nghe và nói thì thật là cập quạng, nên Phan thường xuyên phải thông dịch vì
có rất nhiều từ chuyên môn.
Một điều thật phấn chấn
cho tôi, kỳ thi Tú Tài phần I năm đó tôi lại đậu. Vì thế, Phan và hai người Mỹ
dự tính một công tác dài hạn rất chi tiết để tôi vào miền Bắc hoạt động. Nội
dung, kế hoạch tổng quát:
Cộng sản miền Bắc
thường ve vãn, mồi chài, lôi kéo những sinh viên du học tốt nghiệp ở ngoại quốc
về miển Bắc xã hội chủ nghĩa để xây dựng (!) đất nước, tổ quốc, v.v…
Do đấy, tôi sẽ nhận một
học bổng đi du học Hồng Kông, hay Singagore về Điện hay Hóa theo năng khiếu của
tôi. Khi tốt nghiệp rồi, Cộng Sản sẽ tìm đến. Lúc ấy, tùy theo hoàn cảnh thích
ứng mà theo họ về miền Bắc; rồi từ đấy, sẽ bí mật hoạt động cho Sài Gòn.
Tôi thấy công tác này
quá lâu dài, có khi hàng chục năm, cho nên tôi không tỏ ý thích lắm, tôi cũng
nói thẳng ý nghĩ đó với Phan. Thực ra, lúc đó tôi không biết, hoặc cũng chẳng
chú ý đến việc lợi dụng cơ hội để đi du học trước đã, để dù có thế nào thì cũng
có một mảnh bằng. Phan thấy thái độ ơ hờ của tôi như vậy nên lại thôi.
6.
Công Tác “Columbus”…
Thời gian trôi qua, thấm thoát đã lại tới tháng Tám, cái
tháng của Sài Gòn nắng thật nhiều. Tôi lại được chuyển về số 62 đường Trần Hưng
Đạo.
Đây là một phòng rất
rộng, có hai buồng, với đầy đủ tiện nghi của một khu có nhiều người ngoại quốc
ở. Như vậy mới tạo vẻ bình thường, khi có những người Mỹ thường xuyên ra vào
phòng của tôi.
Thời gian này, vừa tiếp
tục đào tạo huấn luyện tôi, vừa chuẩn bị kế hoạch công tác tung ra Hà Nội.
Công tác trực tiếp ra
Hà Nội:
Bí danh công tác:
COLUMBUS Bí danh từ khi tôi vào ngành: X20. Thời hạn: 25 ngày (công tác ngắn
hạn). Nội dung:
Chính:
1. Tài liệu X cho Z5
(Hoàng Đình Thọ). 2. Tài liệu M cho … (theo quy ước). 3. Mang 3 tâm thư bằng
máu của linh mục Hoàng Quỳnh cho các linh mục A, B, C. 4. Tuyển mộ huấn luyện.
Phụ:
Theo dõi với khả năng
và điều kiện tối đa những hiện tượng:
- 6 Cầu Gỗ, 1 Đường
Thành, 27 Hàng Đường.
- MIG 15, 19
- Về chính trị, văn
hóa, kinh tế, quân sự, tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội v.v…
Vỏ bọc:
- Học sinh lớp 10 Phổ
Thông Vĩnh Linh, đau tim ra Hà Nội
- Chữa bệnh.
- Buôn lậu.
- Mang thư của sư bà
Đàm Hướng chùa Phước Hải về sư Tuệ Chiếu với Thẩm Hoàng Tín.
- Theo dõi sư đoàn 308,
phòng thủ Thủ Đô Hà Nội do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm sư trưởng.
Giai đoạn chuẩn bị:
- Một kế hoạch nghiên
cứu tỉ mỉ thấu đáo, phòng hờ mọi tình huống, suốt hơn một năm trường cho tới
tháng 4/1962. – Hết thực tập lại nghiên cứu. Brown, Dale, Phan và tôi thường
xuyên làm việc, theo phương châm: Càng học tập, nghiên cứu kỹ lưỡng trong “giai
đoạn chuẩn bị” thì đường vào đất địch càng rộng, càng bằng phẳng.
Chi tiết toàn bộ công
tác:
Bí danh X20 (ngay khi
là nhân viên chính thức của Cục họ đã đặt bì danh cho tôi là X20, và bây giờ,
trong công tác COLUMBUS, vẫn duy trì bí danh đó).
Nhiệm vụ chính:
1- Tài liệu X cho Z5
Hoàng Đình Thọ.
Vì là đích danh, nên
tôi đã được cầm tấm hình bán thân (4×6) của ông Thọ một tuần lễ, thỉnh thoảng
lấy ra xem cho quen mặt và ghi dần vào tiềm thức của tôi.
Theo tin tức của Cục
cho: Lúc đó, Hoàng Đình Thọ là bác sĩ Nội Khoa bệnh viện Phủ Doãn cũ (bây giờ
đổi lại là Việt Đức).
Khi về tới Hà Nội, có
giấy giới thiệu để khám bệnh tim. Tìm thời cơ thuận tiện để trao “tài liệu X”
cho Thọ.
Mật khẩu: “Nhờ bác sĩ
chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi”. Đúng 12 chữ.
Trả lời: “Tôi chỉ chữa
tim nhịp đập một trăm ba mươi”. Đúng 10 chữ.
Tài liệu X: bọc ny lông
đen, dầy 2 ly, dài 4 phân rưỡi, rộng 2 phân. Kín, không thấm nước. Tôi không
được phép biết gì về tài liệu này.
Nếu Hoàng Đình Thọ
không còn làm ở bệnh viện Việt Đức. Hủy tài liệu ngay.
2- Tài liệu M theo quy
ước.
Giờ và ngày quy định:
Từ 8 giờ đến 10 giờ
sáng (2 tiếng). Ngày 16 và 18 (phòng hờ nếu trục trặc ngày16 thì ngày18).
Địa điểm: Trên cầu Thê
Húc (cầu bằng gỗ) của đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm.
Tôi quần xanh, áo trắng
xắn tay, đi dép Thái Lan, đội mũ xanh công nhân. Tay cầm tờ báo Quân Đội Nhân
Dân.
Đối tượng: (Bất cứ ai)
mặc quần ka-ki xám, áo nâu, dép Bình Trị Thiên (dép râu). Tay cầm 3 quyển vở
học trò.
- Khi tôi nhìn thấy bất
cứ ai vào giờ ấy, ngày ấy, trên cầu Thê Húc. Chờ người ấy nhìn thấy, tôi đang
cầm tờ báo gấp đôi, bây giờ tôi gấp thành tám.
- Người ấy trả lời bằng
cách: Chuyển 3 quyển vở từ tay này sang tay kia. (Luôn luôn ở cách xa ít nhất
10 mét). Sau đó, tôi cứ đi, chính tôi phải chủ động tìm một địa điểm thuận tiện
như công viên chẳng hạn. Tìm ghế đá, hoặc chỗ ngồi nào đó để đối tượng, từ xa
50 mét trở lên, có thể dễ dàng quan sát được tôi.
Tôi sẽ ngồi bình thường
ở một cái ghế xi măng nào đó. Mở báo xem, che trên hai đùi, rồi (tùy cơ ứng
biến) chờ đối tượng nhìn thấy. Gãi khuỷu tay, tuy gãi nhưng một ngón tay chỉ
thẳng vào chỗ bỏ tài liệu. “Gãi” là dấu hiệu đã bỏ tài liệu, bây giờ là chỉ
chỗ.
Khi thấy đối tượng “gãi
đầu”, tức là đối tượng đã nhìn thấy. Chừng 5, 10 phút sau, với một thái độ bình
thường, tự nhiên đứng dậy đi (nếu có đuôi, dẫn đuôi đi). Nhưng phải kín đáo,
dùng phương pháp nghiệp vụ quan sát, kiểm tra khi đối tượng lại lấy tài liệu.
Chỗ để tài liệu tùy theo cái kẹt hay cái góc nào mà người ta vô tình không thể
nhìn thấy nhưng phải tạo thuận tiện cho người ấy.
Tài liệu M:
Bọc ny lông nâu, dầy 3
ly, dài 4 phân, rộng 3 phân; kín, không thấm nước. Cũng như tài liệu X, tôi
không được phép biết gì về tài liệu này.
Về mục tài liệu M này,
tôi phải nhắc đi nhắc lại. Học thuộc lòng những mật khẩu, và những quy ước phải
thực tập nhiều lần. Bây giờ đã 23 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ.
Tôi nhớ thời gian này,
những lúc tâm sự hoặc đi chơi với Phan (theo đúng nguyên tắc, tôi không bao giờ
được đi với Phan ngoài phố, vì Phan đã bị lộ, là một cán bộ của cơ quan tình
báo miền Nam, tôi mà đi với Phan thì cũng gần như bị lộ). Lúc đó, tôi là một
thanh niên mới vào nghề, làm sao tôi có ý thức quán thấu mọi mặt, vậy lỗi này
do Phan). Phan nói, trong cơ quan hiện nay, đang hình thành hai phe:
a) Gồm Cục Trưởng và đa
số: Quan niệm tình báo theo lối cổ, bào thủ, rập theo nguyên tắc cứng ngắc. Thí
dụ: Sai một người đi chợ mua một ký táo chẳng hạn. Phải dặn: Lấy xe đạp đi, lúc
đi phải đi sát lề phía phải đường đi, phải đi từ từ, chú ý xe cộ ở ngã ba, ngã
tư, khi quẹo, nhớ phải giơ tay làm hiệu. Khi đến chợ, khóa xe thế nào, gửi ở
đâu, vào chợ thì mua loại táo nào, mặc cả ra sao, cách thức chọn táo; cũng như
trên đường vể v.v…
b) Gồm Cục Phó và một
số ít người, trong đó có Phan là người điển hình. Quan niệm, tình báo phải sống
động linh hoạt, khích lệ cho nhân viên có óc sáng tạo, bén nhậy trong mọi tình
huống. Cũng là sai một người ra chợ mua một ký táo, chỉ cần dặn: Nhớ mua, mặc
cả táo ngon, đi đường phải cẩn thận. Nhưng, với khả năng khôn khéo sẵn có của
anh, tôi tin rằng anh sẽ mua được táo ngon và rẻ.
Theo tôi nghe và nhận
định: Tuy tôi chẳng phải là loại người ba phải, tôi thấy cả hai quan niệm trên
đều có cái ưu và khuyết. Vậy cần trộn lẫn, rồi nhặt những cái ưu ra dùng, không
cần biết của phe nào cả. Đó cũng chỉ là ý nghĩ của tôi, chứ không dám phát biểu
với Phan. Tôi chỉ hỏi: Vậy hiện nay, kết quả phe nào có ưu thế? Phan nói: Thực
tế bây giờ đánh giá bằng những kết quả của công tác; theo lối cổ điển thì thành
công nhiều hay ngược lại, từ đấy phe này sẽ phải theo phe kia.
Do quan niệm trên, Phan
nhiều lần giảng dậy cho tôi rất phiến diện, hời hợt. Vì thế, nhiều vấn đề tôi
cần sáng tỏ, rõ ràng thì lại phải yêu cầu.
Chẳng bù với Ngọc Cẩn,
hoặc sau này là Hoàng Công An, lại quá ư chi tiết, nhàm chán, đôi khi thành lẩn
thẩn. Riêng Brown và Dale, thì tôi hiểu là của CIA, tụi tôi chưa hiểu lắm, vì
trình độ Anh văn của tôi. Nhưng qua một số hiện tượng, phong cách, thái độ của
họ, tôi thừa nhận họ có nhiều cái đúng. Nghĩa là, cái nào họ cần chi tiết, thì
rất tỉ mỉ từng ngóc ngách một, đoạn nào không cần thiết thì họ cũng phiến diện,
khái quát.
Trong thời gian học tập
và chuẩn bị công tác này, tôi được cung cấp một radio transitor với cả ống
nghe. Tôi được toàn quyền nghe đài miền Bắc, và có rất nhiều sách báo của miền
Bắc gồm đủ loại: tuần báo, nguyệt san, nhật báo, sách vở v.v… Mục đích là để
tôi quen sự sinh hoạt, cũng như ngôn từ của Cộng Sản miền Bắc.
Vào khoảng tháng
9/1961, một hôm Phan dẫn một người đeo kính trắng đến giới thiệu là ông Hoàng
Công An. Vì Phan có một số công tác đặc biệt không ở Sài Gòn, nên ông An sẽ
thay Phan phụ trách tôi. Ông An là người miền Trung.
Qua sự huấn luyện và
học tập, và kinh nghiệm từ số 2 Jean Jacques Rousseau, tôi đã hiểu đầy đủ về sự
tò mò tìm hiểu những điều mình không cần biết, một nguyên tắc ngay trong cuộc
sống, thường thường đã là không tốt rồi và bất lợi rồi. Vì vậy, ngay những
người đến giảng dạy huấn luyện cho tôi gần 2 năm trời, tôi chẳng, hoặc không
cần biết tên thật của họ, chức vụ của họ. Họ ở đâu đến, xong họ đi đâu, tôi
không biết.
3) Mang 3 tâm thư của
linh mục Hoàng Quỳnh.
Đây là một vấn đề phức
tạp và nghiêm trọng. Nó có liên quan ảnh hưởng đến toàn bộ Thiên Chúa Giáo miền
Bắc. Có lẽ vì vậy mà Cục đưa Hoàng Công An, một tu sĩ gần thành linh mục, đến
phụ trách tôi.
Nội dung: Tôi sẽ mang
tâm thư của cha Hoàng Quỳnh cho:
- Linh mục A ở nhà thờ
X (Hà Nội).
- Linh mục B ở nhà thờ
Y (Hà Nội).
- Linh mục C cũng ở nhà
thờ Y (Hà Nội).
Tôi đã được xem 3 bản
giấy đánh máy, nói rõ về thân thế đặc tính của từng linh mục trên, kèm theo 3
tấm hình bán thân (4×6).
a) Linh mục A.
Đã có bằng tiến sĩ ở
Pháp. Tháo vát, cương quyết, tinh thần chống Cộng Sản rất cao. Có nhiều thành
tích và uy tín với giáo dân. Lời hẹn ước xưa với cha Quỳnh. Do tình trạng thiếu
linh mục nên linh mục A còn phải phụ trách thêm Phúc Xá Thượng và Phúc Xá Hạ
nữa.
Yêu cầu của cấp trên
nói rõ:
Sau khi Cha A xem xong
thư của Cha Quỳnh, đồng ý tự nguyện hoạt động cho thế giới tự do, điều đó là
thành công nhất. Khi đó, tôi sẽ nằm luôn tại nhà xứ trong một nơi an toàn, theo
sự sắp xếp của Cha A. Hàng ngày, chính tôi sẽ huấn luyện cho người những nét
chính yếu, cơ bản về hoạt đống tình báo. Trong vòng 10 ngày, phải xác minh được
tinh thần, năng khiếu, hoàn cảnh, điều kiện của người. Giao mật khẩu và mật vật
là nửa đồng bạc 1 đồng miền Bắc xé đôi: một nửa giao cho người, một nửa tôi sẽ
mang về miền Nam. Sau này, bất cứ thời gian nào đó, hoặc nơi chốn nào, có một
người nào đó, đến gặp Cha, nói đúng mật khẩu và đưa mật vật, người đó chính là
đại diện của Sài Gòn, và sẽ cung cấp những nhu cầu cần thiết cũng như nhiệm vụ
cho Cha.
Rồi năm 1973, Mỹ đã rút quân ra khỏi miền Nam, ngưng viện trợ cho VNCH, không can thiệp vào chuyện nội bộ của VN nửa... thì năm 1975 họ giải phóng Miền Nam khỏi cái gì?
Nếu vì một lý do nào
đó, Cha vẫn có tinh thần chống Cộng Sản, nhưng lại không đồng ý hoạt động trực
tiếp cho Sài Gòn, yêu cầu Cha giới thiệu người tin cẩn, thân tín nhất, có khả
năng và tinh thần. Lúc đó, tôi sẽ trực tiếp gặp riêng, rồi tùy theo hoàn cảnh
và điều kiện của người đó, sẽ quyết định nơi huấn luyện. Nếu không có điều kiện
thuận lợi, yêu cầu Cha giúp đỡ rồi cũng bí mật nằm im 10 ngày để huấn luyện.
Tuyển mộ nhân viên:
Không phân biệt tuổi tác, thành phần, nữ hay nam, nếu là người của chính quyền
địch thì càng tốt. Tìm hiểu kỹ thân thế, quan hệ họ hàng, hoàn cảnh, điều kiện
sống của người nhân viên mới đó. Cân nhắc xác đáng, phù hợp để cho họ hai địa
chỉ ở Pháp và Campuchia để liên lạc.
Địa chỉ ở Pháp: Paul Lạng,
14 rue du Four, Paris 6è, France. Cung cấp cho nhân viên đó rõ thực tế: Paul
Lạng, 42 tuổi. Pháp lai có vợ là Marie Nguyễn cũng là Pháp lai. Trước năm 1954
ở Sài gòn. Đầu năm 1954 cùng vợ và 5 con gái về Pháp trên chuyến tàu Espérance.
Hiện y đang làm chủ một hiệu giặt ủi máy lớn ở cùng địa chỉ.
Địa chỉ ở Kamphuchea
(tên và địa chỉ đánh máy thiếu)… Phnom Penh, 28 tuổi là nhân viên làm trong
maternité. Vợ là người miền Nam, quốc tịch Kampuchea, có đứa con trai 4 tuổi.
Lý do phải tương đối
hợp lý về quan hệ họ hàng cũng như quan hệ xã hội để nhân viên mới đó giao
thiệp thư từ với 2 địa chỉ nói trên: có thể là anh em chú bác bạn bè v.v….
thỉnh thoảng vẫn thư từ thăm hỏi sức khoẻ của nhau từ trước. Có thư từ giao
thiêp một thời gian sau đó lẫn vào những lá thư sẽ có những câu hỏi an ninh thí
dụ như:
1) Anh dạo này có khoẻ
không? – Trả lời vẫn khoẻ, là bị theo dõi. Trả lời ốm bịnh là vẫn bình thường,
không ai theo dõi cả.
2) Anh có ước mong có
tiền để mua một chiếc xe đạp mới không? – Trả lời không thích tự do.
3) Anh có thích nhạc
Phạm Duy không? – Không thích là bị theo dõi. Thích nghe là tự do.
4) Anh thích ăn thịt gà
không? – Trả lời thích là bị theo dõi. Không thích là tự do.
5) Người dân dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, sống có thoải mái không? Thoải mái là bị theo dõi. Không
thoải mái là tự do.
Ngoài ra, còn hai quy
định nữa trong những thư viết cho hai địa chỉ trên để báo cho Sài Gòn biết là
mình đang bị công an cưỡng bức ngồi viết thư:
1) Đầu lá thư viết ngày
tháng, nếu không để chữ “Ngày” là bị theo dõi. Thí dụ: 20-10-1963: bị theo dõi.
Ngày 20-10-1963: không bị theo dõi.
2) Tuy có viết ngày hay
không, mà dưới niên hiệu năm không có “dấu chấm” là bị theo dõi. Có “dấu chấm”
là tự do. Thí dụ: 20-10-1963: bị theo dõi; 20-10-1963.: tự do.
Bắt nhân viên đó học
thuộc lòng. Cần nhớ nguyên tắc 5 câu hỏi trên là: Hợp lý: bị theo dõi. Không
hợp lý: tự do.
Bởi vì, nếu không có ai
để ý theo dõi, hoặc ngồi trong phòng: công an dí súng bắt viết báo cho Sài Gòn,
thì viết ngược cũng không thành vấn đề.
Quy ước có hàng nghìn
kiểu, chỉ có trời biết, nhưng với điều kiện phải nhớ, không được lẫn lộn.
b) Linh mục B.
Là một người rất trầm
tĩnh, ít nói. Làm việc hết khả năng, dù gặp trở ngại cũng tìm mọi cách để hoàn
thành công việc. Có óc tổ chức. Còn nặng về tôn giáo hơn xã hội. Theo Cục cho
biết cha B vẫn ở trong nhà thờ Y.
c) Linh mục C.
Cũng ở nhà thờ Y, Hà
Nội. Cha năm nay đã già. Tuy vậy, tinh thần của ông rất cao. Ông rất có uy tín
với giáo dân Hà Nội, cũng nhưn hàng giáo phẩm Việt Nam.
Theo ý của Cục:
- Cần nhất là linh mục
A. Nếu vì lý do nào đó mà người không còn ở nhà thờ X; hoặc lý do nào khác mà
người từ chối thì hãy tới linh mục B.
Nếu vì lý do nào đó mà
không thể được linh mục B, thì mới tới linh mục C.
Theo Hoàng Công An cho
biết. Ba linh mục trên, không những cùng hàng giáo phẩm thờ Chúa, chăn chiên
như linh mục Hoàng Quỳnh, mà còn là những người thân, những đồng chí đã có
nhiều hẹn ước khi cha Hoàng Quỳnh từ giã theo đàn chiên di cư vào Nam. Tuy vậy,
đã 8 năm rồi, dưới chế độ Cộng Sản tàn bạo, chẳng hiểu tinh thần của các người
bây giờ thế nào. Hơn nữa, sức khoẻ cũng là một vấn để đối với ba linh mục kể
trên.
Riêng tôi, tôi đã suy
nghĩ nhiều: Tôi thấy và hiểu rằng công tác này quá nặng nề và nghiêm trọng, đòi
hỏi phải một người có khà năng 10 mà tôi chỉ có 2, nghĩa là không có trâu thì
phải bắt nghé đi cầy. Vì thế, tôi đã mạnh dạn nói ý này với An.
An nói:
- Trên Cục đã nghiên
cứu về vấn, đề này rất kỹ, nhất là về tôn giáo. Không phải ai cũng giao được
công tác này, bởi vì, nếu thất bại, Cộng Sản sẽ lấy đó để hạ uy tín của công
giáo và tăng cường kìm kẹp giáo dân cũng như các hàng giáo phẩm hơn nữa. Không
những thế, công tác còn đòi hỏi rất nhiều mặt, nhất là địa bàn hoạt động lại là
thủ đô của Cộng Sản. Bình yên tâm, Cục đã cân nhắc, tìm tòi nhiều, cuối cùng
mới quyết định Bình đấy chứ.
Dù An nói sao, tôi vẫn
tự nghĩ thầm. Những người đầy đủ khả năng thì không ai dám đi, vì đầy nguy
hiểm, chết chóc trước mắt. Vì thế, trong số những người liều bất tử, dù không
đủ yêu cầu thì cũng đành chọn vậy.
Tuy trong lòng tôi đầy
vơi nghĩ suy như vậy. Nhưng nhìn lại, thế của tôi đã ngồi lên lưng cọp rồi.
Quan điểm của tôi là đã trót ngồi lên lưng ông Ba Mươi, phải thúc gót thêm cho
ông phóng mạnh, rồi muốn ra sao thì ra.
Một hôm, Hoàng Công An
đến nói với tôi:
Theo ý cha Hoàng Quỳnh,
trước khi người viết thư, người yêu cầu được gặp chính người lãnh sứ mạng đặc
biệt đó ra Hà Nội. Cục đã chấp nhận. Vậy, sáng mai, 9 giờ tôi đến, chúng ta
cùng đi.
Tôi hỏi đi đâu, có xa
không?
An nói:
- Ở xứ Bình An, bên
Bình Xuyên.
Tôi nhớ lại ngày xưa,
ngày tôi còn là cậu bé, cha Hoàng Quỳnh là trưởng đoàn võ: Đinh Bộ Lĩnh mà tôi
là một võ sinh tí hon theo đoàn đi các nơi biểu diễn những bài song kiếm hoặc
Mai Hoa Quyền trêm một võ đài. Chắc giờ đây tôi có nói ra thì cha mới nhớ được,
vì tôi lúc này đã lớn rồi. Bởi thế, tôi đã định, nếu khi gặp, cha không nhận ra
thì tôi cũng không nhắc lại.
Hôm sau An đến, chúng
tôi cùng đi xe tới xứ Bình An. Tôi và An ngồi chờ cha ờ phòng khách. Một lát
sau, cha ra. Ôi, mới hơn 10 năm trời mà khi tôi nhìn thấy người, tôi rất ngỡ
ngàng. Da mặt người đã nhăn nheo, tóc người đã điểm sương. Chỉ còn dáng dấp
quen thuộc, nhanh nhẹn của người thì vẫn như ngày nào.
Hơn một giờ chuyện trò,
Cha thường nhìn tôi, nói: “Dũng cảm nhỉ!”. Lúc tiễn An và tôi ra cổng, cha nói:
- Cha rất cảm phục con.
Trước ngày con đi, cha muốn ăn cơm với con một bữa, để thỏa lòng cha, gọi là
trách nhiệm của một người tiễn đưa một tráng sĩ mang tinh thần oanh liệt của
Phạm Hồng Thái, con có đồng ý không?
Tôi không dám trả lời
và nhìn sang An. An nói:
- Con xin lĩnh ý cha.
Con về xin ý kiến, rồi sẽ điện đến cha ngay.
Trên đường về, An nói:
- Chưa chắc cấp trên đã
đồng ý, vì Bình còn nhiều việc lắm.
Tôi biết uy tín của cha
Quỳnh không phải là nhỏ. Người đã làm cho Hồ Chí Minh bẽ mặt một lần, khi người
còn là Phó Chủ Tịch Mặt Trận “Liên Tôn Diệt Cộng” hiển hách năm nào ở ngoài
Bắc, mà sư Tuệ Chiếu là Chủ Tịch; cái thời cáo Hồ còn bịp bợm ve vãn, mua chuộc,
quỳ gối trước Đức cha Lê Hữu Từ xin chịu rửa tội nhập đạo.
4. Tuyển mộ huấn luyện:
Nếu do lòng nhiệt tình
và ý thức dân tộc nên các cha đồng ý, tối sẽ huấn luyện. Nếu không, xin các cha
giới thiệu những người tin cẩn và thân tín, lúc đó, chính tôi sẽ tuyển mộ và
huấn luyện họ. Đối với tôi, điều này không khó khăn gì lắm. Ban đầu, chỉ cần
nói những nét cơ bản về nghiệp vụ. Điều khó khăn là tìm biết được khả năng và
bản tính của mỗi người, phát hiện ngay được cái ưu, cái khuyết của họ.
Tuy tôi cũng đã được
học tập gần 2 năm, Dale, Brown và An vẫn nhấn mạnh:
- Bản tính con người ta
vô cùng phức tạp, có rất nhiều vấn đề khác biệt. Nhưng nói chung, con người gồm
ba loại:
a)Loại bộp chộp, ruột
để ngoài da. Vui, buồn hay có vấn đề gì, chung quanh ai cũng biết. Loại ngưòi
này ta ít phải quan tâm.
b)Loại thâm trầm, ít
nói. Họ ghét hay họ yêu mình, họ đồng ý hay không đồng ý việc mình làm, thái độ
của họ không thay đổi. Loại người này, khi sống gần, ta phải luôn luôn cảnh
giác, giữ ý và coi chừng. Nếu họ bắt đầu có hành động hay thái độ gì không bình
thường, ta đã chuẩn bị đối phó. Nhưng họ không nguy hiểm bằng loại thứ ba.
c)Loại người này, họ
vẫn cười nói với mình, đôi khi lại tỏ ra thắm thiết thân mật hơn, ta có khó
khăn gì họ sẵn sàng giúp đỡ, chia xẻ. Khi họ chiếm được lòng tin của ta, bất
ngờ cho một mũi dao vào tim ta. Loại này thường làm mất cảm giác của ta. Gây
cho ta sự chủ quan rồi hại ta v.v…
Tóm lại: Để có thể phân
loại được bản tính của đối tượng, ta phải có sự nhận xét tinh tế và bén nhậy.
Dù đối tượng nói gì, nấp dưới bất cứ hình thức nào, ta vẫn phải nhìn rõ bản
chất, nghĩa là con người thực của họ. v.v… Người đi tuyển mộ phải biết.
Bản tính con người khó
thay đổi. Vì vậy, trong giai đoạn thử thách, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cho
phép có thể ngắn dài, nếu thấy người mình định tuyển mộ có những khuyết điểm về
cơ bản thuộc bản chất, ta phải loại bỏ ngay. Khác với các lãnh vực khác còn có
thể sửa chữa được, bản chất thì không.
Một người có tính huênh
hoang, có thể đã bị đời đập cho méo mặt vì cái tính huyên hoang, khoác lác này,
cũng chỉ chừa được ít ngày, rồi sau đó, đâu lại hoàn đấy.
Một người có tính tự ái
cao, thì suốt đời cũng không thể bỏ được tính đó. Chính vì tính tự ái này, họ
đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thăng tiến, lỡ lầm nhiều chuyện tình cảm, để phải ân hận
lâu dài.
Ông bà ta đã chẳng từng
nói: “Cái nết đánh chết không chừa”. Phương tây cũng có những câu chuyện về
“Ông vua và chiếc tai Lừa”, hoặc “Con mèo và ông quan đại thần”… Ông cha đã dậy
con cháu là chúng ta: Giang sơn dễ đổi, bản tính khó chừa!
7.
Những Chuyện Tình Báo…
Nhiệm vụ phụ :
Ngoài những nhiệm vụ chính mà tôi phải đem hết nghị lực,
khả năng để phải thực hiện bằng được, trong quá trình sống và di chuyển ở Hà
Nội, tôi phải để ý tới những hiện tượng dưới con mắt nghiệp vụ những số nhà sau
đây:
- Số 6 phố Cầu Gỗ.
- Số 1 phố Đường Thành.
- Số 27 phố hàng Đường
Theo nguồn tin tình
báo, ba nơi này thường xuyên đào tạo, huấn luyện gián điệp rồi tung vào miền
Nam hoạt động. Tình báo miền Nam đã bắt được hai vụ nổi tiếng, và Cục đã cho
tôi biết chi tiết để rút ra nhiều kinh nghiệm như một bài học. Dưới đây là hai
vụ điển hình. Tất nhiên còn nhiều vụ khác nữa:
1. Khoảng 1957, do nhân
dân bí mật tố cáo, tình báo miền Nam đã bố trí bắt được một nhân vật có hạng về
tình báo của miền Bắc. Khi đem về khai thác, điều tra. Sau hơn một năm trời,
dùng mọi khả năng của những nhà chuyên môn, ta cũng đành chịu khuất phục trước
sự kiên trì, lì lợm của y.
Nếu ở trong tay công an
dưới chính quyền miền Bắc, nhận tội hay không, tội nhân cũng cứ bị tù cho tới
khi nào cơ thể không chịu được nổi, hoặc cho tới già, rồi về với ông vải, thì
thôi.
Nhưng chính quyền miền
Nam, nếu thiếu chứng cớ cụ thể, chỉ giam tội nhân tới một mức quy định, rồi
cũng phải thả ra. (Cụ thể như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình v.v…)
Anh ta, trước sau chỉ
một mực chối lá vô tội. Ta đã dùng nhiều biện pháp tinh vi hơn như: Khổ nhục,
tra tấn, dụ dỗ, khích lệ v.v… cũng đều vô hiệu. Việc này đã làm điên đầu những
người có trách nhiệm của Cục tình báo miền Nam.
Sau nhiều phiên họp gay
cấn, chính ông Cục Trưởng đã đưa ra một kế hoạch, và ông xin chịu trách nhiệm
thực hiện kế hoạch đó.
Vào một buổi cuối Đông,
bầu trời Huế xám xịt, những cơn gió mùa Đông Bắc về muộn mang theo những trận
mưa rả rích, nhạt nhòa … Từ cổng nhà lao Thừa Thiên, hai chiếc xe Dodge 4 phủ
mui kín mít, lao về quốc lộ 1 hướng về Nam, chuyển tù vào Sài Gòn.
Xe trước, băng sau chở
4 phạm nhân bị khóa tay, trong đó có tên Cộng Sản lì lợm nói trên, và hai người
mặc quân phục có vũ trang áp tải. Băng trên, ngoài tài xế, còn có một trung úy
và một hạ sĩ. Ông hạ sĩ này chính là ông Cục Trưởng mà tên Cộng Sản đó chẳng lạ
gì.
Xe sau, chở một thiếu
úy và nửa tiểu đội, tất cả đều mặc quân phục và có vũ trang. Hai chiếc xe theo
nhau chạy mãi vào đêm tối. Hơn 4 tiếng đồng hồ sau, lúc đó khoảng 11 giờ khuya,
giữa quãng đường dài vắng vẻ, hai bên là triền rừng; bất chợt hai loạt trung
liên nổ ròn rã phía trước xe. Đạn réo lên ngay phía trên mui. Ngay lúc đó, tài
xế và mọi người đều đã nhìn rõ một chướng ngại vật là một thân cây to nằm chặn
ngang đường. Biết là đã lọt vào ổ phục kích, các quân nhân trên hai xe vội vàng
nhẩy xuống đường, tìm địa thế cấp thời để chống trả.
Nhưng, tất cả đã nằm gọn
trong vòng vây, với đầy mũi súng tua tủa của đoàn quân phục kích. Chỉ sau 10
phút, tất cả quân nhân trên hai xe đều bị tước hết vũ khí, bị trói gô và bắt
ngồi tập trung vào một chỗ. Một người, có lẽ là chỉ huy đoàn quân phục kích, ra
lệnh lục soát trên hai xe, tịch thu một số đồ cần thiết, trong đó có cả giấy
tờ, hồ sơ, v.v…
Riêng 4 phạm nhân, tay
vẫn bị khóa, bị dẫn xuống bắt ngồi cùng với đám quân nhân, sau khi biết họ đều
là tù hình sự can tội an cướp hoặc giết người.
Người chỉ huy đoàn quân
phục kích nhìn những quân nhân đang bị trói, dõng dạc tuyên bố:
- Các anh là ngụy quân,
lầm đường lạc lối, làm tay sai cho đế quốc Mỹ bắn lại nhân dân, làm hại đồng
bào, lẽ ra chúng tôi bắn bỏ hết. Nhưng, theo chính sách khoan hồng của đảng
(lúc đó chưa có Mặt Trận Giải Phong Miền Nam), chúng tôi sẽ tha hết, kể cả 4
phạm nhân hình sự. Các anh hãy trở về cải tà quy chính. Riêng hai tên sĩ quan,
vì đã có nhiều nợ máu với nhân dân, chúng tôi phải mang vào bưng xử lý.
Rồi người đó ra lệnh
cởi trói cho hết các quân nhân, còn bắt đưa chìa khóa mở còng cho 4 người tù.
Giữa lúc đó, tên tù Cộng Sản lì lợm, đứng bật dậy, rút ở trong ve áo ra một
miếng vải đỏ hình vuông mỗi bề 4 phân, ở giữa có hai ngôi sao vàng nằm trên sọc
trắng. Y đưa cho tên chỉ huy đoàn quân phục kích xem và nói:
- Các đồng chí, tôi là
Trưởng K 10 nội thành Sài Gòn, thuộc cục R. Hôm nay, vô tình các đồng chí đã
lập được một kỳ công vô cùng to lớn. Các đồng chí hãy trói ngay tên hạ sĩ kia,
nó chính là tên Cục Trưởng Trung Ương tình báo của Sài Gòn.
Cả đoàn quân phục kích
sáng mắt hân hoan. Bốn, năm mũi súng đều chĩa vào ông hạ sĩ và trói nghiến lại.
Thay vì đưa vào bưng,
người chỉ huy mặc áo bà ba đen ra lệnh tất cả lên xe trở về miền … sông Hương,
núi Ngự.
2. Sự việc xẩy ra vào
năm 1959 ở ngôi nhà, hình như mang số 126 hay 128 (tôi không nhớ rõ), đường
Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Ngôi nhà này có cửa
sắt, tuy ở mặt phố nhưng không bao giờ thấy mở, trừ đôi lúc có người ra vào.
Chủ ngôi nhà là một quả phụ, gần 60 tuổi. Trước đây, bà có một người em trai ở
cùng. Ông này học hành đã thành đạt, nên hiện đang làm việc trong Phủ Tồng
Thống. Người ta chẳng biết ông làm gì, chỉ nghe đồn ông rất có uy thế, thường
gần gũi với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Có thể do đòi hỏi của công việc, hoặc vì
lý do nào khác, ông đã được cấp một căn biệt thự ở đường Công Lý, gần dinh Độc
Lập, để đi vể được thuận tiện. Và vì vậy, ngôi nhà ở Phan Đình Phùng càng vắng
vẻ đìu hiu. Ngoài bà Hân là chủ nhà, trong nhà chỉ còn một bà giúp việc cũng họ
gần xa với gia đình bà Hân.
Những người mới đến ở
dãy phố này không biết chồng con bà ra sao, chứ những người đã ở lâu gần đó đều
hiểu hoàn cảnh gia đình bà. Bà Hân rất hiền lành phúc hậu, bà thường hay đi
chùa đền để niệm phật ăn chay và làm việc phúc đức. Theo câu chuyện bà kể lại
với những người quen biết, vợ chồng bà đều là con những gia đình giàu có thế
phiệt trước đây ở Huế. Bà hiếm hoi, chỉ sinh được một cậu con trai duy nhất,
đúng vào lúc xẩy ra những biến cố lớn lao của đất nước 1945. Khi Việt Minh cướp
chính quyền, ông Hân là một thành phần đảng phái, ông đã hiểu rõ sự hiểm độc
của Việt Minh nên cương quyết không hợp tác trong Chính Phủ Liên Hợp của cáo Hồ
bịp bợm. Ông đã bị chúng bí mật thủ tiêu ngay thời gian ấy. Giữa cảnh hỗn loạn
Nhật, Pháp, Anh, Tàu, và Việt Minh thời đó, dân chúng đã phải trôi dạt, đẩy đưa
khắp nơi, và bà đã thất lạc đứa con trai yêu quý, niềm an ủi độc nhất của đời
bà. Sau đó, theo giòng đời, bà đã trôi dạt về Sài Gòn với người em trai nói
trên.
Do của cải trước đây để
lại, hiện bà là người giầu có, thừa thãi tiền tài, nhưng lại rất thiếu nghèo
tình đầm ấm của gia đình. Bà đã mất biết bao tiền bạc, tâm lực để thăm dò, tìm
kiếm người con thất lạc, nhưng đều bặt vô âm tín. Nỗi nhớ thương buồn phiền của
bà suốt 14 năm càng ngày càng cô đọng lại, dồn nén dần vào chỗ sâu kín nhất của
tâm hồn bà. Nhũng người quen biết bà đều hiểu rõ như thế. Nhưng, Cộng Sản lại
đào sâu, nghiên cứu kỹ, nên đã hiểu biết hơn thế nữa. Chúng đã triệt để lợi
dụng, khai thác bối cảnh này. Chúng thấy đây là cơ hội để chúng đưa người lọt
vào ở sát nách cơ quan đầu não của chính quyền miền Nam.
Chúng đã tìm và tuyển
mộ được một thanh niên theo ý chúng muốn. Chúng ra sức đào tạo, huấn luyện,
từng động tác, thái độ, lời ăn tiếng nói, kể cả về tình cảm để đóng vai trò
người con thất lạc của bà Hân.
Nói về ngôi nhà của bà
Hân. Ngôi nhà này thường đóng cửa, cho nên ở phía trước sát vỉa hè, một người
đàn bà nghèo trong xóm đã kê một chiếc ghế dài nhỏ và một cái phản gỗ con, trên
bày ít kẹo, chuối, nước sôi…bán cho các bác xích lô…ít tiền.
Tên điệp viên là một
cậu trai 19- 20 tuổi, khôi ngô, quần áo lam lũ; thuy khoẻ mạnh đầy sức trai,
nhưng bộ mặt lúc nào cũng đăm chiêu mang nặng một nỗi niềm. Hàng ngày, sau
những cú xe đường dài mệt nhọc, anh thường ghé chiếc xích lô đạp sát lề, uể oải
ngồi vào ghế, gọi mua nước trà, nhấm nháp, lúc thì cái kẹo, lúc thì quả
chuối…anh tỏ ra rất ít nói. Dần dần, hà hàng quen mặt. Bà cũng để ý và đôi khi
nhìn bằng ánh mắt thương hại người còn trẻ, mặt mũi sáng sủa mà đã phải lam lũ
cuộc đời! Trước, còn là những câu hỏi bâng quơ:”Hôm nay chạy khách có khá
không?”, “Trời này, lại sắp mưa!”, “Sao hôm nay cậu đến muộn?” v.v… Cậu trai
càng tỏ ra rất ít nói. Mặt lúc nào cũng buồn như che dấu một tâm sự riêng tư.
Khi đã có thiện cảm với một cậu bé nghèo, cái tính tất nhiên của người đàn bà
là sẽ dần dà thăm hỏi đến gia đình, thân thế, bố mẹ ra sao? v.v…
Lúc đầu, cậu tỏ ra
không muốn nói về cuộc đời bất hạnh hẩm hiu của mình, sau thấy bà già nghèo tử
tế nên dần dần kể sự tình…
Cậu chẳng biết bố mẹ là
ai cả. Ngay từ lúc 4- 5 tuổi đã đi làm con nuôi cho người ta. 9- 10 tuổi phải
đi ở , hầu hạ nhiều người. Rồi phiêu bạt đi làm đồn điền cao su đầy gian chuân,
cực khổ. Cuối cùng, trôi dạt về Sài Gòn thân cô, thế cô, phải đi đạp xích lô
mưu sinh.
Bà bán nước, đã biết về
câu chuyện của bà chủ nhà, nên cũng hơi nghi, vì vậy hỏi tới:
- Thế cậu có nhớ ngày
xưa bố mẹ cậu như thế nào không?
Cậu trả lời, mường
tượng, lúc nhỏ sung sướng, được mặc quần áo đẹp, được ngồi xe với bố có người
kéo…Bà bán nước càng hỏi tiếp, hình như chạnh nỗi niềm đau buồn, cậu không muốn
trả lời nữa, và trả tiền, đứng dậy đi.
Bà bán nước tưởng
tượng, càng suy nghĩ, biết đâu đây chả là chuyện cơ trời, nên chiều đó, sau khi
gửi phản, ghế, bà nói với người giúp việc muốn gặp bà Hân.
Khi gặp bà chủ nhà, bà
bán nước thuật lại câu chuyện về người đạp xích lô trẻ tuổi. Đến đây ai cũng
hiểu. Có bệnh thì vái tứ phương. Khi nỗi lòng của bà Hân như vậy, hỏi sao lòng
bà chả xốn xang, bồi hồi, mong sớm gặp người xích lô đó để hỏi rõ đầu đuôi. Vì
thế bà Hân vồn vã dặn:
- Khi nào cậu ấy đến,
bà dẫn vào đây ngay cho tôi hỏi chuyện.
Ngày hôm sau, và cả mấy
ngày sau nữa; bẵng đi bốn năm ngày không thấy cậu xích lô đó lại, khiến bà hàng
nước lẫn bà Hân càng nôn nóng, bồn chồn mong đợi.
Mãi tới hơn một tuần
sau; vào một buổi chiều mưa giăng ẩm ướt, cậu xích lô ướt át ghé lại bà hàng
nước. Bà hàng tíu tít hỏi:
- Sao mấy bữa nay cậu
không ghé đến?
Sau khi rót ly nước trà
để đó, bà hàng vội vàng bấm chuông vào nhà bà Hân. Chừng 5 phút sau, bà hàng
nước hơ hải ra bảo:
- Này cậu, mời cậu vào
đây chơi một tí đã!
Y tỏ vẻ không muốn vào,
nên lắc đầu. Bà hàng nước lại vồn vã như níu kéo:
- Cậu vào đây một chút
thôi mà, đàng nào trời cũng đang mưa, cho bả chủ ở đây hỏi thăm cậu một câu
chuyện.
Rồi đến lúc bà hàng nước
phải cầm tay lối kéo, y mới miễn cưỡng đi theo. Ngay khi bà Hân thấy người xích
lô bước vào nhà, ánh mắt của bà hình như đã tràn đầy tình thương yêu, mặc dù bà
chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ người con trai ấy là con bà. Lòng bà bồi hồi
xốn xang, đến nỗi bà quên cả mời người xích lô đó ngồi. Khi bà mời, cậu xích lô
ấy dè dặt ngồi xuống chiếc ghế gụ cạnh bàn, đầu cuối gầm. Bà hàng xóm cũng thấy
lòng không yên, bỏ cả quán nước để mong được chứng kiến cái giây phút hồi hộp
rấp ranh này. Mãi sau, như dằn được lòng xốn xang, bà Hân mới hỏi với một giọng
còn xúc động:
- Cậu bây giờ có họ
hàng thân thích gì không?
Y lắc đầu mà không nói.
- Cậu có nhớ ngày xưa,
gia đình cậu như thế nào không?
Y vẫn đăm chiêu im
lặng. Bà lại hỏi, trong niềm nghẹn ngào dâng trào:
- Có phải cậu nhớ, lúc
nhỏ cậu đi xe với bố có người kéo phải không?
Y gật đầu. Bà Hân nôn
nóng, tiếp tục hỏi:
- Cậu cố nhớ lại xem,
lúc nhỏ cậu hay chơi gì, làm gì?
Y nhìn ra phía cửa sổ,
mắt như dõi về một phía trời xa, về những quãng đời ấu thơ. Tới khi bà Hân nhắc
lại câu hỏi, y mới chậm rãi:
- Cháu chẳng nhớ gì rõ
lắm….Cháu chỉ nhớ láng máng lúc nhỏ, cháu được bố mua cho con cù, con cù có cái
đinh rất dài…..
Bà Hân mắt sáng lên
long lanh, hỏi như hết hơi:
- Gì nữa?
- Cháu có một quyển
sách, có hình con rùa, bố cháu dạy cháu tô theo bằng bút chì màu đỏ.
- Còn gì nữa không
cháu?
Y càng cúi gằm, trong
khi không khí căn buồng như rên lên, căng đầy xúc động đợi chờ, cuối cùng y giơ
ra ngón tay cái trái, chỉ vào một cái sẹo nhỏ, ngập ngường nói:
- Một lần ở bếp với mẹ,
cháu nghịch dao, đứt tay chảy máu. Mẹ đã khóc.
Không kìm được nữa, bà
Hân xô đến, ôm chầm lấy cậu xích lô, nước mắt chan hòa, nức nở:
- Ôi, con ơi!
Y cũng khóc, cả bà bán
nước người ngoài cũng nước mắt vòng quanh. Hình như bao nhiêu niềm thương nỗi
nhớ của tình mẫu tử thiêng liêng bây giờ cuồn cuộn chảy ra theo giòng nước mắt,
bà hổn hền tưởng như xỉu đi, dù vậy bà vẫn cố gắng lôi tay đứa con yêu:
Con ơi! Con cù và quyển
sách của con má vẫn giữ, vì đó là di vật duy nhất của con, má vẫn để ở ngăn tủ
đầu giường má.
Bà vừa nói vừa kéo
người con trai lên gác. Bà rối rít hết sờ mặt, xoa tay, lại vuốt lưng cậu xích
lô thân yêu, trong khi bà bán nước cũng lây nỗi vui mừng, cứ chạy lăng xăng hết
đầu này, đầu kia chẳng biết làm gì cả.
Ngay chiều hôm ấy, bà
Hân báo tin gọi người em trai về. Thôi thì cậu cháu, mẹ con hàn huyên nỗi niềm
máu mủ ruột thịt, của buổi trùng phùng nước mắt đầy vơi.
Thương bà chị cả cuộc
đời cô đơn heo hút, ông cậu nhìn thằng cháu khoẻ mạnh, khôi ngô, ông hứa sẽ đem
hết khả năng dạy dỗ, nâng đỡ đứa cháu yêu đến khi thành đạt. Ông bàn, nào là
đón giáo sư về kèm cặp, nào là tập lái xe để chở mẹ đi chùa,v…v…Ngôi nhà giờ
đây tràn ứ đầy sự sống, sự ấm cúng và niềm vui tươi.
Riêng tên điệp viên,
ngay khi vào Sài Gòn đã được cấp trên y chỉ định phải thường xuyên liên lạc,
cặp bồ với cô Ngân làm chiêu đãi viên cho một quán cà phê ở ngã Bảy, để dự
phòng, nếu sau này bà Hân và ông cậu bắt lấy vợ thì phải cương quyết đòi lấy
cho bằng được cô Ngân. Dĩ nhiên, cô Ngân cũng trong mạng lưới hoạt động của
Cộng Sản ở Sài Gòn.
Đến đây, mọi việc tường
êm xuôi trôi lọt như ý Việt cộng mong muốn, nhưng không, trái lại đã bắt đầu
trục trặc. Nguyên nhân cũng chỉ vì diễn viên đã không khéo đóng trọn vai trò.
Bà Hân tin tên xích lô
là con nên tình bà vẫn thắm thiết thương yêu. Ngược lại, y biết y không phải
con bà. Mẹ y hiện đang ở ngoài Bắc. Lúc đầu, vì cố gắng nổ lực để công tác
thành công, nên y đã xuất thần thủ đúng vai trò. Sau một thời gian, những biểu
lộ thương yêu với người mẹ giả trở nên cứng ngắc, không có hồn. Nỗi buồn của bà
càng ngày càng khoét sâu, càng lớn. Bà thổ lộ với người thân quen và tất yếu,
cả với em trai.
- Tôi không hiểu sao,
tôi thương yêu nó như trời biển, nhưng hình như có cái gì ngăn cách, tôi chỉ
cảm thấy sự tẻ nhạt, gắng gượng ở bên trong của nó.
Sự phàn nàn, ca thán
của bà dần dần đến tai những nhân vật phản gián. Một sự việc không bình thường!
Tình mẹ con ruột thịt là sự thiêng liêng, phải có những chiếc dây vô hình gắn
bó. Thấy một sự không bình thường thì phải đặt vấn đề. Mà nguyên tắc tình báo
cũng như công an, nếu đã đặt vấn đề thì phải tìm mọi cách để biết rõ hư thực
của vấn đề đó, cho nên, họ đã dùng chính ông cậu trong nhà làm tấm bình phong
để bí mật theo dõi và phanh phui sự việc.
Gần một năm sau, trọn ổ
gián điệp vùng đó đều bị sa lưới.
Trở lại nhiệm vụ phụ:
Dale và Brown mang đến
hai chiếc máy bay MIG –15 và MIG- 19 dài chừng 20 phân, nhưng thật tinh vi, sắc
sảo như máy bay thật, thu nhỏ; với đầy đủ cả động cơ, phù hiệu, cờ quạt…..Hai
ông đã giảng cho tôi rõ ràng tính năng từng loại; để suốt quá trình thời gian
tôi ở miền Bắc, nếu thấy loại máy bay đó trên bầu trời, về báo lại.
Ngoài hai máy bay MIG,
hai ông còn đưa tôi xem hai cuốn sách có hình mầu: lon, phù hiệu các binh
chủng, từ lính cho tới nguyên soái; cả y phục mùa Đông cũng như mùa Hè của quân
đội Trung Cộng và Bắc Triều Tiên.
Ngoài ra, trong thời
gian ở Hà Nội, tôi phải quan sát các hiện tượng ngoài đường phố. Theo dõi các
báo chí, phát thanh những đơn vị nhỏ tập tành. Tiếp xúc quan hệ với mọi từng
lớp người dân, v.v…Để từ đấy đánh giá (nếu ghi được số lượng cụ thể càng tốt)
những điều tai nghe mắt thấy, nói chung về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân
sự, xã hội…và tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội.
8.
Những “Vỏ Bọc”…
Vỏ bọc I
Tôi sẽ đóng vai là một học sinh trường trung học Phổ Thông
cấp III ở Vĩnh Linh với tên là Lê Viết Hùng, lý lịch giả như sau: gia đình bố
mẹ tôi, do đói kém, loạn ly năm 1945, đã phiêu bạt từ Nam Định vào lập nghiệp ở
xã Vĩnh Quan, Vĩnh Linh. Bố tên là Lê Văn Thông, mẹ là Vũ Thị Sàng. Tôi có 3
anh chị em: chị Lê Thị Thu, em trai Lê Tuấn. Tôi phải nhớ tên: Giám hiệu trưởng
Phổ Thông cấp III Vĩnh Linh, chủ tịch và phó chủ tịch huyện V.L., chủ tịch và
phó chủ tịch xã Vĩnh Quang. Và, vì tôi cũng là đoàn viên thanh niên, nên tôi
cũng phải biết tên của bí thư và phó bí thư chi đoàn. Ngoài ra, tôi phải biết
một số sự kiện lớn xảy ra ở Vĩnh Linh, nhất là ở xã tôi, vùng giáp ranh khu phi
quân sự.
Qua những tin tức cố
định trên, tôi sẽ tùy theo trường hợp để ứng biến sao cho hợp lý.
Tôi (Lê Viết Hùng) có
nhiều triệu chứng mắc bệnh tim đã lâu, bây giờ càng ngày càng trầm trọng hơn,
nên đã xin được giấy giới thiệu của thị trấn Vĩnh Linh về Hà Nội nhân dịp He để
đến nhà thương Việt Đức điều trị.
Tôi mang theo đủ giấy
tờ hợp lệ: Giấy giới thiệu chữa bệnh, thẻ học sinh, giấy nghĩa vụ quân sự, thẻ
đoàn viên, giấy thông hành thời hạn một tháng, có chữ ký của công an trưởng
huyện Vĩnh Linh.
Vỏ bọc này, tôi phải
nghiên cứu và học thuộc lòng, sao cho từ nếp suy nghĩ đến hành động, coi như
mình là Lê Viết Hùng có thực bằng xương bằng thịt.
Để thực tập, tôi phải
đến gặp ba, bốn lần một người lạ rất hách dịch, đóng vai công an Cộng Sản, lúc
thì ở khách sạn Catinat, lúc thì ở Majestic. Ông ta hạch sách, nạt nộ tôi đủ
điều, hỏi những câu bất chợt lắt léo, xem tôi có trả lời hợp lý hay không. Tôi
còn nhớ lần cuối cùng, khi nói chuyện vãn, ông tự giới thiệu tên là Đang đã
từng sống và làm việc cho Cộng Sản nhiều năm, (ông không nói, nhưng tôi đoán
hẳn ông đang làm việc cho Cục), ông nói:
Tôi nói thực với Bình,
cái chính là đừng để cho công an của Cộng Sản nghi ngờ. Khi nó đã đặt thành vấn
đề nghi mà sát hạch thì “mả bố ở đâu, mà nó bảo đào đưa cho nó, thì cũng phải
đào.”
Kể ra, ông không nên
nói câu đó, nhất là với một nhân viên sắp vào đất địch, chỉ làm hoang mang tinh
thần của người đi. Sau này càng nghĩ, tôi lại càng thấy những người huấn luyện
mình thiếu ý thức, thiếu tinh thần trách nhiệm, vì thiếu lý tưởng thực sự!
Vỏ bọc II
Trong trường hợp bị
Cộng Sản bắt giữ. Nếu vì lý do nào đó, Cộng Sản không tin hoặc đã xác minh giấy
tờ đều là giả mạo và tôi không phải là Lê Viết Hùng ở Vĩnh Linh. Lúc đó, tôi sẽ
khai:
Gia đình bố mẹ, gốc
tích thực, nhà nghèo. Học hành thi hoài không đậu, chán chường, nhưng tính
thích làm những việc táo bạo, không sợ nguy hiểm miễn việc đó có tiền để giải
quyết cuộc sống và giúp đỡ bố mẹ già. Do bạn bè giới thiệu, tôi gặp một ông tên
là Lân. Vì là nhân vật tưởng tượng, nhưng lại cần nhớ chi tiết để đề phòng sau
này công an hỏi lại, do đấy, tôi phải lấy một người có thật để mô tả, và tôi đã
lấy hình dáng một ông cậu to lớn, béo tốt, chủ một hảng xuất nhập cảng ở Sài
Gòn, để tả về ông Lân.
Ông Lân thường hẹn gặp
tôi ở một quán nước. Sau một, hai lần thăm dò, nói chuyện, biết về con người và
tâm nguyện của tôi, ông đi thẳng vào vấn đề: Ông có “truy- ô” nhiều thuốc Tây
quý cần tiêu thụ. Ở ngoài Bắc, các loại thuốc này vô cùng hiếm nên giá rất cao.
Vậy, nếu tôi muốn làm giầu, phải mạo hiểm. Ông sẽ lo giấy tờ giả cho. Tôi sẽ bí
mật, lén lút lội qua sông Bến Hải, đem theo hơn một chục mẫu loại thuốc quý,
móc nối, mua bán đặt hàng với những con buôn bí mật có thể lực ở Hà Nội. Sau
này, lời lãi sẽ chia đôi, ông đó một nửa và tôi một nửa. Còn bây giờ, tốn phí
ông đài thọ và cho tới khi đi sẽ trả trước cho tôi 10.000 đồng.
Một hôm, Dale và Brown
dẫn đến một người Mỹ khác khoảng 40- 45 tuổi, giới thiệu là bác sĩ Harry. Ông
Harry đưa gần 20 lọ thuốc Tây, chỉ dạy cách dùng và tính năng của từng loại.
Theo ông Phan, cho tới ngày tôi đi, Harry cũng sẽ là bác sĩ riêng của tôi để
săn sóc sức khoẻ và những cần thiết về y lý cho chuyến đi.
Vỏ Bọc III
Sau khi khai vỏ bọc II,
nếu Cộng Sản vẫn không tin, hoặc tìm ra được những chứng cớ cụ thể là tôi nói
láo, không đúng, có thể chúng sẽ cùm kẹp tra tấn, tôi không thể chịu đựng nổi,
lúc bấy giờ tôi sẽ dùng vỏ bọc III. Vẫn chưa là chuyện chính trị.
Phần thân thế, gốc tích
gia đình cũng như vỏ bọc II, vì đó là thực tế. Cảnh học hành, thi cử cũng chỉ
ăn vỏ chuối nên chán chường, và tính tình thích làm những chuyện mạo hiểm cũng
vậy. Phần khác biệt. Do quan hệ xã hội, đã được một người quen giới thiệu với
sư bà Đàm Hướng ở chùa Phước Hải, khu Vườn Chuối, Phan Đình Phùng Sài Gòn, nội
dung như sau:
Trong thời Pháp thuộc
trước 1945. Sư bà Đàm Hướng và sư ông Tuệ Chiếu là hai sinh viên yêu nước thiết
tha, nhục nhã đau lòng trước cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống trị. Hai ông
bà nối chí những bậc cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học v.v… Đã bí mật hoạt động trong giới sinh viê ở Hà Nội, gây nên
nhiều vụ chống đối sôi động, với bọn cầm quyền thực dân và đã bị chính quyền
thực dân, ra lệnh truy lùng ráo riết.
Hai ông bà không những
là đồng chí mà còn là đồng sàng, vì cùng nhau đã trải qua nhiều gian nan nguy
hiểm nên hai trái tim đã cùng rung đều một nhịp. Trước sự truy nã lùng sục của
mật thám, để che mắt chúng, và cũng để tỏ với chúng là mình đã chán chường cuộc
đời, hai người đều xuống tóc, núp bóng cửa thiền. Ông thì tu ở chùa Quan Thánh
Hà Nội, pháp danh là Tuệ Chiếu; còn bà tu ở đâu, tôi không biết, chỉ biết pháp
danh là Đàm Hướng, hiện trụ trì ở chùa Phước Hải, Vườn Chuối Phan Đình Phùng
Sài Gòn.
Sau khi Việt Minh cướp
được chính quyền, chúng lòi ra ý đồ diệt tôn giáo. Bề ngoài cổ vũ “Lương Giáo
đoàn kết” để chống Pháp, xây dựng đất nước. Bên trong thì chúng ngấm ngầm tìm
mọi điều kiện, lợi dụng mọi mâu thuẫn tôn giáo để kích động, khơi sâu mối chia
rẽ. Nghĩa là, luôn luôn đổ dầu vào những đốm lửa mâu thuẫn, dị biệt của tôn
giáo. Nhìn rõ trái tim đen bẩn thỉu của Cộng Sản, sư ông Tuệ Chiếu và sư bà Đàm
Hướng đã dùng khả năng và uy tín vạch trần ý đồ nham hiểm của Cộng Sản trước
tín đồ, và còn ngấm ngầm trao đổi bàn luận cùng bên Công giáo, lập ra Mặt Trận
Liên Tôn Diệt Cộng mà chủ tịch là sư ông Tuệ Chiếu và phó chủ tịch là linh mục
Hoàng Quỳnh cùng nhiều nhân vật lãnh đạo trong Mặt Trận.
Sư ông Tuệ Chiếu và
nhiều người khác đã bị Cộng Sản bí mật thủ tiêu ngay. Chỉ vì khi đó phía Phật
giáo chưa có sự đoàn kết thống nhất, nên chưa có áp lực mạnh với Cộng Sản. Còn
linh mục Hoàng Quỳnh, trước áp lực sức mạnh của quần chúng Công giáo, chúng đã
không dám giết ngay. Công giáo khi ấy đã là một tổ chức thống nhất nên Cộng Sản
ít nhiếu kiêng nể. (Tôi nói thời gian đó thôi, vì lúc đó chúng chưa mạnh, chúng
còn cần sự giúp đỡ hoặc không chống phá của Công giáo. Chứ sau 1975, chúng
không còn e dè nể nang gì cả.)
Chúng chỉ dám quản thúc
linh mục Hoàng Quỳnh ở nhà thờ Lạc Đạo, thuộc địa phận Bùi Chu. Con chiên vẫn
được phép thăm nuôi bình thường, theo quy định.
Sư bà Đàm Hướng nghe
tin chồng chết, quá đau thương, chỉ còn đành tìm xác người chồng bất khuất,
chết anh hùng, oanh liệt hy sinh cho dân tộc, bí mật đem về thành Hà Nội, vùi
lấp ở nghĩa trang Hợp Thiện Bắc Việt.
Hội nghị Genève chia
đôi đất nước, bà cùng đứa con trai di cư vào Nam.
Vào Nam, tuy vẫn ở
trong cửa Phật, nhưng bà vẫn không quên quê hương dân tộc, nên ngay trong chùa
cũng như ngoài xã hội, bà diễn thuyết cổ vũ, khích lệ, tổ chức đoàn thể với mục
đích chống kẻ tử thù Cộng Sản. Ngoài ra, từ ngày vào Nam, bà cũng còn ấp ủ
trong trái tim một điều thầm kín nhất, là bà ước mong có cách gì đó, hay có ai
ra miền Bắc, bà sẽ không tiếc tiền để xây cho ông một nấm mồ yên ấm. Gọi là
chút lòng của người đồng chí, của người tình, của người vợ, đối với người ngàn
đời kính yêu đã ra về nơi ngút ngàn mây gió, hy sinh vì Tổ Quốc.
Chính với nỗi niềm ấy
của bà, nên khi gặp tôi, một thanh niên, cành đời đã làm cho bất đắc chí, và
sau nhiều lần tìm hiểu, bà rất mừng rỡ. Bà sẽ lo liệu giấy tờ giả cho tôi để
vượt tuyến. Bà sẽ trả cho tôi 100.000 đồng sau khi hoàn thành công việc. Trước
khi ra đi, bà sẽ đưa trước cho tôi 10.000 đồng để giúp đỡ gia đình bố mẹ già.
Tôi sẽ trốn qua sông Bến Hải về Hà Nội, mang theo một lá thư của bà gửi cho ông
Thẩm Hoàng Tín, thị trưởng thành phố Hà Nội hồi 1954. Ông là dược sĩ, trước có
hiệu thuốc Tây ở Hàng Da Hà Nội.
Ông Tín là bạn chí thân
của hai ông bà. Nội dung lá thư nhờ ông Tín vì tình bạn thiêng liêng đứng trông
nom xây cho ông Tuệ Chiếu một ngôi mộ gọn ghẽ khang trang.
(Sau hội nghị Genève
1954, lý do tại sao một đương kim thị trưởng của thủ đô Hà Nội vẫn ở lại với
Cộng Sản, không di cư vào Nam sẽ được đề cập ở chương “Những bài học xương máu
với Cộng Sản”.)
Chính Hoàng Công An đã
dẫn tôi đến chùa Phước Hải gặp sư bà Đàm Hướng mấy lần, để tôi nhìn rõ cảnh
sinh hoạt của chùa và con người của bà. Tôi cũng đã gặp người con trai của sư
bà, lúc đó 19 tuổi, đang theo phần II Tú Tài, năm 1961.
Vỏ Bọc IV
Đến đây, thì đành phải
nhận ra Bắc vì chính trị. Theo chỉ thị của Cục, vỏ bọc IV, đồng thời cũng là vỏ
bọc cuối cùng, dù tôi có phải nhận mã tấu hay ăn kẹo đồng.
Đến giai đoạn này, Cộng
Sản đã cùm kẹp tra khảo, khai thác nhiều. Chúng đã nêu ra đầy đủ băng cớ những
điều tôi khai báo là sai. Vậy, nếu bị đánh đập, hành hạ đến lúc cơ thể không
thể chịu đựng được nữa, lúc đó sẽ khai theo vỏ bọc IV: Là trung sĩ trong đại
hội thám báo của sư đoàn 7, thích làm những chuyện mạo hiểm và coi thường những
việc khó khăn mà nhiều người khác e sợ, v.v… Trong quân ngũ, lần lần quen biết
Trung úy Xương nên nha an ninh quân đội. Ông này đã giới thiệu với bên tình
báo. Cuối cùng, tôi được về Sài Gòn dự lớp đào tạo và huấn luyện trong 3 tháng
ở một ngôi nhà thuê trong xòm Cầu Cống, khu Khánh Hội (nếu nói ở khách sạn,
building, Cộng Sản sẽ để ý những nơi ấy, sẽ gây khó khăn cho những lớp huấn
luyện sau này.) Chỉ nói một số lớp học hợp lý, thời gian huấn luyện ngắn và học
tập sơ sài để địch đánh giá sai mức độ, khả năng của nhân viên tình báo miền
Nam.
Chỉ một người huấn
luyện duy nhất, định tả ai phải nhớ người ấy. Chớ nói tới Mỹ, vì năm 1961 Mỹ
chưa vào miền Nam nhiều. Huấn luyện nặng về lãnh vực quân sự, tính năng và các
loại vũ khí của bộ đội miền Bắc thường dùng, v.v… Nhiệm vụ:
- Theo dõi sư đoàn 308
phòng thủ Thủ Đô Hà Nội. Do tên Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm tư lệnh.
- Tên tuổi, tính tình
các cấp chỉ huy, càng xuống sâu càng tốt, nghĩa là đến cấp đại đội.
- Các loại vũ khí trang
bị của sư đoàn.
- Những nơi bố trí đại
pháo và xe tăng.
- Các phương tiện vận
chuyển.
- Cách bố trí trại, địa
hình chung quanh với các đường giao thông.
- Cách sinh hoạt học
tập, huấn luyện.
- Các trang bị, quân
trang, quân dụng.
- Tinh thần của bộ đội
và sĩ quan.
- Khả năng chiến đấu và
tinh thần chiến đấu.
Muốn biết được những
tin tức này chính xác, tôi phải làm quen, chuyện trò, tâm sự với bộ đội trên
đường phố Hà Nội. Tóm lại, khai gì, nói gì thì nói, nhưng không bao giờ được
nói tới nhiệm vụ thực của mình cả.
9.
Thăm Giòng Bến Hải…
Để phục vụ cho công tác COLUMBUS, tôi phải học và thực tập
cũng như nghiên cứu về cách tiếp xúc với các linh mục. Trong một xã hội với bao
chế ngự trong chính sách kìm kẹp của Cộng Sản đối với người dân, các linh mục
đã có nhiều kinh nghiệm xương máu, cho nên dù trong lòng có muốn tiêu diệt Cộng
Sản đến đâu chăng nữa, cũng không thể vội vàng lớ ngớ tham gia vào những chuyện
không mấy tin cẩn để thiệt thân, chết lây. Do đó, là một cán bộ tình báo miền
Nam, trước hết tôi phải tỏ ra điềm đạm, bình tỉnh, đủ khả năng, bản lĩnh xoay
chuyển tình thế nếu gặp sự bất thường. Thêm nữa, các linh mục là những người có
địa vị, có học, vậy ít ra tôi phải có kiến thức về nhiều mặt của xã hội, cộng
với tư cách, tác phong. Có như vậy, tôi mới khả dĩ lôi cuốn được các linh mục.
Thế mà tôi lại không đủ sức, cho nên tôi rất băn khoăn.
Sau đấy, tôi thực tập
rất nhiều buổi tiếp xúc với một, đôi người lạ, đóng vai các linh mục ở miền
Bắc. Ông An cũng như ông Phan, và cả những người tôi phải tiếp xúc thực tập,
đều nói:
- Thế là Bình làm được
rồi!
Tôi nghĩ, bắt buộc họ
phải nói “được rồi,” chả lẽ nói “không hay chưa được,” làm sao tôi đi!
Tôi yêu cầu cho tôi
được tiếp xúc với một người nào đó đã ra ngoài Bắc vửa mới trở về để học hỏi
kinh nghiệm. Sự yêu cầu này đã không được đáp ứng, và cũng không được trả lời.
Lúc đó, tôi ngây thơ nghĩ rằng, có thể vì sự ngăn cách an ninh về cả hai phía,
cho nên lời yêu cầu của tôi đã không được giải quyết. Sau này khi ra miền Bắc,
có điều kiện nhìn được thực tế, cũng như có thêm được một số kiến thức để phân
tích và lý luận, tôi thấy những điều tôi nghĩ trước kia là không đúng.
Để đáp ứng lời yêu cầu
của tôi, thay vào đó, Cục cho tôi gặp 4 người vượt tuyến mới nhất. Thậm chí có
người chỉ mới vào nửa tháng, ở Trung Tâm Tiếp Đón đồng bào vượt tuyến bên Gia
Định. Tôi và An đóng vai nhân viên Phòng Báo Chí phủ Tổng Thống cầm giấy giới
thiệu sang gặp Thiếu tá (tôi quên tên) Trưởng trại.
Tôi sang hai lần, mỗi
lần gặp hai người, mỗi người gặp vào một giờ khác nhau. Hôm đầu, chúng tôi tiếp
xúc với một người là bộ đội và một người là giáo viên cấp III, trường Thăng
Long Hà Nội. Hôm sau, một người tài xế xe đò, một người là giáo viên cấp II ở
Thanh Hóa. Dĩ nhiên, tất cả những người này kể cả trưởng trại; không thể hiểu ý
đồ thực của chúng tôi. Để đánh lạc hướng, thỉnh thoảng chúng tôi mới xen vào
giữa những câu phỏng vấn thông thường, vô bổ là một số câu hỏi câu hỏi cần
thiết mà chúng tôi muốn tìm hiểu. Bốn cuộc gặp gỡ này đã giúp chúng tôi hiểu
biết nhiều vấn đề, rất hữu ích khi tôi ra Bắc.
Trên tấm bản đồ quân sự
loại lớn, bằng giấy dầy, bóng. Từng miếng 40×60 phân, ghép lại kín cả nền một
căn phòng rộng. Hàng ngày, Brown và Dale hướng dẫn tôi nghiên cứu về quốc lộ 1
(từ Vĩnh Linh ra tới Hà Nội,) khu phi quân sự; thành phố Hà Nội, tỉ mỉ, chi
tiết; nhất là khu phi quân sự Bắc và huyện Vĩnh Linh. Để phòng hờ biết bao tình
huống có thể trục trặc không đón được tôi; tôi phải về bằng đường bộ. Vì thế,
tôi đã hai lần phải ra tận bờ sông Bến Hải; dùng ống nhòm quan sát thực tế các
điểm chuẩn, của khu phi quân sự Bắc.
Một điều tôi không
quên, một lần tôi và Hoàng công An xuống trường bay Phú Bài. Người trách nhiệm
đón chúng tôi không ai xa lạ, lại chính là ông Hương. Ông Hương và tôi nhìn
nhau ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Chính An cũng ngạc nhiên không ít, không hiểu sao
tôi lại biết ông Hương từ trước.
Từ ngày tôi bị loại ra
khỏi lớp học đặc biệt, tôi chỉ nghe Lý nói loáng thoáng là ông Hương sau này
mắc khuyết điểm gì đó về tài chính, nên không còn làm Giám Đốc lớp học đó nữa.
Có lẽ do ý thức nghề nghiệp cho nên khi bắt tay tôi, ông Hương chỉ nói:
- Bình vẫn như xưa, tay
hay gầy, nhưng vẫn đẹp trai!
Ông không hề nhắc nhở
đến những chuyện cũ ở số 2 J.J. Rousseau. Ông Hương sau đó, lái xe đưa chúng
tôi về một khách sạn ở Huế. Những ngày ở đây, đêm ngủ, luôn luôn có người canh
gác tôi. Cũng từ đó cho đến gần cuối cuộc đời, lúc thức cũng như lúc ngủ; lúc
nào tôi cũng có người canh gác. Cứ nghĩ đến, tôi lại nhếch mép tự mỉm cười.
Ông Hương lái xe đưa
chúng tôi vào khu phi quân sự. Trong rừng bên này bờ Nam, tôi thấy đó đây có
những người mặc đồ nâu, gài một miếng vải đỏ bằng hai đốt ngón tay ở khuy áo,
lầm lũi canh gác. Có lẽ họ đã giấu súng trong người. Qua ánh mắt và thái độ của
họ, tôi hiểu ông Hương là người chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ hệ thống canh
gác bờ phía Nam.
Tôi ngắm giòng Bến Hải.
Con sông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, vẫn lững lờ chảy xuôi về
phía cầu Hiền Lương. Đây đó, một vài chiếc thuyền nan chài lưới phía bờ bên
này, cũng như phía bờ bên kia. Tôi biết những người dân “chài lưới” này, dứt
khoát không phải là dân bình thường. Bởi vì theo thỏa hiệp Genẻve giữa hai bên:
Ranh giới hai miền là giữa giòng sông Bến Hải, và giữa cầu Hiền Lương. Vậy, vì
lý do vô tình hay hữu ý, những thuyền này lấn sang khỏi ranh; phía bên kia có
quyền bắt giữ. Lúc đó, những người dân chài này không còn thuộc quyền kiểm soát
của bên bờ cũ nữa.
Tôi đi sát dọc bờ sông,
có chỗ hai bờ cách nhau chỉ chừng ba chục mét. Nhìn thấy cô gái áo nâu, phía
bên kia bờ, quần đen lăng xăng, chạy ra, chạy vô tưới mấy luống rau. Lòng tôi
bỗng bâng khuâng, mắt dõi về hướng Bắc xa vời, nơi có Hà Nội cam go đợi chờ. Bất
chợt, các cô ấy rối rít vẫy tôi, miệng cười duyên. Ý các cô ấy muốn tôi lội
xuống nước, bơi sang. Thấy vậy, ông Hương nói với tôi:
- Tất cả những người
dân tron khu phi quân sự Bắc, đều bị Cộng Sản bắt rời khỏi, ra ngoài 5 cây số,
kể từ bờ Bến Hải. Rồi chúng đưa toàn công an mật vào, làm nhà cửa, cầy cấy,
trồng tỉa như thường dân. Bình hãy dùng ống nhòm nhìn kỹ vào trong rừng sẽ thấy
có những vật di chuyển; thậm chí còn có người bí mật ngồi trên cây canh gác
nữa.
Đúng như vậy! Sau này,
tôi thấy biết bao người vượt tuyến, bị bắt với bao nhiêu tình huống cười ra
nước mắt ở trong nhà tù Cộng Sản.
Nhìn chéo xa xa phía
bên kia, ngôi nhà thờ Hải Cụ bị rêu phong và cây cối che phủ, chỉ còn là một
hình thù xám xịt, nhô lẫn trong lùm cây xanh. Cảnh hoang liêu cô tịch của nhà
thờ khiến lòng tôi tím thẫm. Tôi hình dung đến cảnh sống của người dân Công
giáo miền Bắc; hẳn không khỏi khắc khoải tối tăm.
Ông Hương bổng nói:
Sông Bến Hải, đi ngược
quá vào phía trong; mùa nước cạn, nhiều chỗ chỉ cần xắn quần lội qua cũng được.
Giòng sông nhỏ bé và
nông cạn như thế! Vậy mà nó đủ sức ngăn đôi một dân tộc, trong bao nhiêu năm
trường! Đối với một dân tộc có truyền thống thương yêu, đùm bọc của người cùng
một nước:
Nhiễu điều phủ lấy giá
gương.
Người trong một nước
phải thương nhau cùng.
(Ca dao)
Vậy, lỗi này do ai?
Sau khi về tới Sài Gòn,
cũng đã gần tới ngày lên đường, do đó, một số công việc còn lại cần phải làm
khẩn trương và dồn dập hơn. Tôi phải tập xử dụng một số loại thuốc hóa trang,
hồng ngoại tuyến…..
Một điều tôi quên. Khi
đi vào đất địch, tất yếu tôi sẽ gặp muôn ngàn điều chưa thể biết. Vì vậy, để
phòng hờ; từ hơn hai tháng trước, Phan đã đưa cho tôi một chiếc nhẫn bạc mặt
vuông có khắc chữ thọ. Chiếc nhẫn này, cũng như trăm ngàn chiếc khác; chỉ khác
một điểm là, mặt trong có đóng chìm xuống con số 42. Phan bắt tôi đeo, nhìn cho
quen mắt và phải nhớ nhập tâm. Phan cũng còn đưa cho tôi một tấm hình cỡ 6×9,
hình chùa Một Cột ở Hà Nội. Phía sau lưng và góc trên của tấm ảnh, có ghi con
số 1618 nhỏ xíu bằng bút chì. Tôi nhớ được con số 1618, vì nó liên quan đến
ngày tôi trao tài liệu M.
Hơn một tuần sau, Phan
lấy lại và hỏi:
- Bình đã nhớ chưa?
Tôi gật đầu, Phan nói
tiếp:
- Nếu sau này, bất cứ ở
đâu, thời gian nào và bất cứ ai đưa tấm hình này ra; thì người đó chính là
người sẽ trao lệnh của Sài Gòn cho Bình.
Một hôm, Dale và Brown
đến gặp tôi, bảo:
- Hôm nay, Bình sẽ tập
xử dụng bút chì mật.
Họ giải thích:
- Đây là một loại dụng
cụ mới nhất trong ngành tình báo. Bút chì mật nhỏ bằng 2/3 của lõi bút chì
thường. Dài độ 6 – 7 phân, mầu đen xám, không mùi vị. Một đầu hơi vát, nhờn
nhợn, giống như một mẩu sợi ni lông thường. Brown và Dale nói là: Mẩu bút chì
này hiện nay nếu muốn bán cho Cộng Sản hàng triệu nó cũng mua. Nó sẽ phân chất
và sẽ biết cách phát hiện những chữ ta ghi, từ đó nó sẽ tìm ra được nhiều sự
việc.
Bởi vì, khi ghi chép,
nét chữ không có dấu vết. Muốn đọc, phải dùng một loại hóa chất đặc biệt bôi
lên mặt giấy, chữ mới hiện ra. Điệp viên ghi tài liệu mật vào những khoảng
trống trên ngay sách báo của địch. Thấy trước mặt, chúng cũng không biết; kể cả
mẩu bút chì cũng vậy.
Tôi phải tập viết bằng
mẩu chì mật này nhiều lần, trong nhiều ngày. Sao cho khi viết, không để lại vết
gợn nào trên mặt giấy. Nghĩa là tờ giấy vẫn bình thường, và cũng không được mất
nét chữ; sau này, khó đọc và khó đoán ra. Khi tôi ra tới miền Bắc, thực tế cho
thấy, là thời gian này Cộng Sản chưa hế biết gì về bút chì mật. Tôi đã giấu mẩu
chì này tới 1975, khi miền Nam thất thủ, tôi mới tiêu hủy.
Tôi đã biết rất nhiều
loại mực để viết thư mật, nhưng tôi thừa nhận, loại chì mật là đơn giản và
thuận tiện nhất. Có thể ngày nay, điệp viên của nhiều nước vẫn còn dùng.
10.
Chọn Điểm Đổ Bộ…
Sau khi đã tập sử dụng thuần thục bút chì mật. Tôi bắt đầu
phải nghiên cứu về phương tiện ra ngoài Bắc, và địa điểm tôi sẽ xâm nhập.
Ngay từ giai đoạn đầu,
khi tôi mới tiếp xúc với ông Cẩn cũng như sau này gặp Hoàng Công An. Các ông
đều nói, tôi sẽ phải đi dự một khóa huấn luyện về dù. Nhưng dần dần ít tháng
sau; có thể do những diễn biến của điều kiện phòng thủ Bắc, Nam. Hoặc vì lý do
gì khác tôi không rõ. Ông Phan nói rằng tôi sẽ ra Bắc, với bao nhiêu đại hình
thiên nhiên phức tạp. Tụi Cộng Sản không thể giăng người ra canh gác suốt ngày
đêm được. Hơn nữa, hiện nay hải quân của tụi Việt cộng hầu như rất yếu. Tầu
tuần tiễu của chúng chỉ quanh quẩn gần bờ. Ít khi chúng dám lảng vảng ra ngoài
khơi.
Theo ý kiến của Cục,
chính tôi phải chọn vùng tôi sẽ đổ bộ. Vì như vậy, ít nhiều tôi đã quen thuộc
địa hình, địa vật, bớt ngỡ ngàng hơn ở một vùng lạ. Đối với tôi, đây cũng là
một vấn đề hơi nan giải. Vì khi ở miền Bắc, tôi còn quá bé; không biết được,
hoặc nhớ được một vùng biển nào rõ ràng cả. Dĩ nhiên, điểm đổ bộ phải ở một
vùng hoang vắng, xa thủ đô Hà Nội, nơi có địa bàn hoạt động của tôi. Tôi nghĩ
ngay đến Đồ Sơn. Kỳ Hè 1953, tôi theo một số bạn bè xuống bãi biển Đồ Sơn Hải
Phòng tắm, đến chiều tối mới về Hà Nội.
Khi tôi vừa nêu lên địa
điểm Đồ Sơn, cả ba người: An, Dale và Brown đều lắc đầu, hoặc xua tay. Đó là
cửa biển Hải Phòng, Cộng Sản canh gác rất cẩn mật, gắt gao; không thể đổ bộ
được. Tôi moi óc nghĩ mãi, mới nhớ ngày xưa, khi tôi còn học tiểu học ở quê nhà
(lúc ấy tôi mới lên 10), có lần nhà trường tổ chức cắm trại ở một miền rất xa,
đó là Cồn Vạn. Chúng tôi phải đi qua một con sông rất to, sau này, tôi biết là
sông Đáy. Tôi chỉ nhớ mơ hồ chỗ đó mọc rất nhiều thông, như rừng vậy.
Tôi tìm trên bản đồ chi
tiết. Sau một lúc, tôi xác định được vị trí. Brown và Dale hẹn sẽ trả lời tôi
sau. Họ còn nghiên cứu thẩm tra. Khoảng 3 ngày sau, họ đến cho tôi biết, vùng
đó không thể đổ bộ được. Phía ngoài miền biển đó có đất bồi và những bãi sình
lầy, lún thụt lẩn ra ngoài biển đến 5- 6 cây số. Hơn nữa, chỗ rừng thông phía
bên trong. Hiện là mấy nông trường lớn, đã và đang xây dựng.
Với quãng đời thơ ấu
của tôi, tôi chỉ biết có nơi đó, nên cuối cùng tôi nói:
- Tùy ở trên chọn cho
tôi một địa điểm nào gần đấy, khoảng vài chục cây số cũng được. Tôi sẽ mò mẫm
tìm vào quốc lộ Một để về Hà Nội.
Mấy ngày sau, Brown đến
chỉ cho tôi trên bản đồ lớn. Chi tiết một vùng, thụt lùi về phía Nam:
Chỗ này đã được sưu
tra, xác định, cách khoảng 30 cây số so với vùng Bình biết. Nằm giáp ranh giữa
hai huyện Kim Sơn của tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn của tỉnh Thanh Hóa.
Tôi còn đang quan sát
để nắm được một cách khái niệm về những tuyến đường, và những điểm chuẩn của
khu vực, Brown lại nói tiếp:
- Nơi đấy là khu rừng
non, dài hàng mấy cây số, lau sậy um tùm. Do đó, khi Bình đổ bộ lên, nếu thấy
mệt mỏi có thể nghỉ ngơi tùy ý hàng tuần cũng được.
Nghe Brown nói vậy, tôi
cũng yên tâm. Tuy nhiên, nhìn trên bản đồ, gần vùng đổ bộ. Trên đường về quốc
lộ Một, có một con sông không to lắm. Tôi hơi băn khoăn, chỉ chỗ sông tôi sẽ
phải vượt qua, hỏi:
- Chỗ này có cầu không?
Theo quan điểm của tôi
khi ấy. Kế hoạch của một công tác bao gồm nhiều khâu. Nhiều khi chuẩn bị kỹ
những khâu lớn, khâu khó khăn; nhưng đôi khi chính những việc nhỏ, rất vạch
vãnh, lại quyết định sự thành bại. Chẳng hạn, điệp viên chỉ cần qua khúc sông
ấy không có cầu, đò. Phải mò mẫm thăm hỏi, để rồi bị bắt ngay chỗ đó. Như vậy,
những chuẩn bị chính yếu công phu ở Hà Nội để làm gì?
Tôi đã phát biểu ý kiến
này với họ. Sau khi Hoàng Công An dịch lại, mắt Brown sáng lên, nhìn tôi vừa gật
đầu, vừa nói:
- Đó là một ý kiến cần
thiết, rất hay!
Họ hẹn sẽ trả lời sau,
câu hỏi này. Thật là nhanh, tôi không ngờ. Chỉ 3 ngày sau, Brown và Dale đưa
đến cho tôi 16 tấm không ảnh loại 40×60 phân. Hình chụp rõ ràng khu vực tôi yêu
cầu. Con sông có một chiếc cầu và rất nhiều thuyền bè lớn nhỏ trên sông. Đồng
thời cả hình quốc lộ Một và đường xe lửa từ Thanh Hóa về đến Hà Nội.
Lúc đó, chính sự việc
này đã làm cho tinh thần tôi được nâng cao thêm qua hai yếu tố:
* Tin tưởng kỹ thuật
khoa học chụp hình mà Hà Nội chưa biết.
* Ý niệm được mức độ
quan tâm đến công tác của Cục cũng như của Mỹ.
Thời gian này càng gần
tới ngày đi, một ngày đi đầy rẫy những hiểm nguy đang đợi chờ. Với muôn ngàn
tình huống đang đợi chờ. Với muôn ngàn tình huống chưa biết. Nhiều lúc đi trên
đường phố Sài Gòn, tôi nhìn cảnh tấp nập náo nhiệt xe cộ của đường phố, Nhìn
dòng người quần áo đủ mọi mầu sắc ngược xuôi, với những nét mặt đầy vẻ hân
hoan, háo hức nỗ lực đi vào cuộc sống ngày mai; mà tôi biết rằng sẽ đầy hương
vị và tình người, tôi bâng khuâng. Tôi nhìn từng mái nhà, từng chòm cây, góc
phố quen thuộc. Cảnh vật và con người như luyến lưu, như hẹn ước và cũng như
giã từ.
Tâm trạng của người sắp
từ giã cảnh sống này để đi vào đất địch. Như là đi sang một thế giới khác với
những cảnh đời hoàn toàn xa lạ và những tình huống bất trắc, bạn bè thân thuộc
không ai hay.
Càng gần ngày đi, tôi
càng nhiều lần về với bố mẹ và các em.
Bố ơi! Mẹ ơi! Các em bé
bỏng thương yêu ơi!
Những lúc vui đùa hàn
huyên với các em. Nhìn dáng thơ ngây, hồn nhiên thân mật của các em. Tự nhiên,
một nỗi niềm đã nén chặt trong lòng tôi, như muốn trỗi dậy đầy vơi. Để rồi thì,
chỉ còn là những cái nhìn đắm đuối, nghẹn lòng như thần căn dặn: Rồi đây nếu
anh ra đi không trở lại. Các em hãy thay anh trông nom, săn sóc bố mẹ. Ai có
hỏi anh, các em hãy nói: Anh đã đi xa để trả nợ quê hương rồi, nhé! Nhưng, cả
hai đứa em gái và một đứa em trai của tôi thật vô tình. Chúng vẫn cứ cười vui,
đùa bỡn với tôi như thường. Các em không biết rằng trong lòng tôi sóng gió tơi
bời. Thôi đành! Thời gian sẽ nói rõ với các em những gì lòng tôi muốn nói lúc
này.
Buổi chiều cuối cùng,
trước ngày lên đường, dù công việc chuẩn bị bề bộn. Tôi vẫn quyết dành ra hai
tiếng về thăm bố mẹ và các em một lần nữa.
Khi tôi về, chỉ có bố
tôi ở nhà, mẹ tôi đã đi nhà thờ chầu. Các em, đứa xin phép đến nhà bạn, đứa xin
phép đi xem phim, không còn đứa nào ở nhà. Cảnh nhà vắng vẻ càng làm tăng nỗi
niềm đang đè nâng tim tôi. Bố tôi, tuổi đã gần ngũ uần, dáng dấp còn nhanh
nhẹn, cường tráng như người 40, nhờ vẫn thường xuyên ôn luyện quyền thuật.
Người tưởng tôi về thăm nhà như mọi khi, nên người chỉ quan tâm nhắc nhở tôi
một câu, mà người vẫn nói, ngay khi tôi còn nhỏ: “Văn ôn, võ luyện, mày phải
thường xuyên luyện tập, để tay chân cứng chắc; tinh thần minh mẫn.”
Đến đây, tôi phải trình
bày vài nét sơ lược về bố tôi. Khi chưa di cư, còn ở ngoài Bắc. Ông là một võ
sư nổi tiếng của huyện. Có lẽ trong đời võ nghiệp, ông đã nhiều lần phải gục
mặt, uất hận trước đối thủ. Vì vậy, người đã kỳ vọng vào đứa con trai đầu lòng.
Mong rằng sau này nó sẽ làm được những điều mà người chưa, hoặc không làm được
trong ngành võ thuật. Ngay từ khi tôi mới lọt lòng mẹ (bố mẹ kể chuyện lại.)
Người đã ngâm, tắm tôi nhiều lần bằng những bài thuốc gia truyền, mà người đã
dày công sưu tầm được. Người đã bắt tôi, một đứa bé 3 – 4 tuổi, tập đứng Trung
bình tấn, Xà tấn, Đình tấn; tập những bài Quý Châu, Mai hoa và Hùng quyền; bắt
đứa bé đó phải chịu bao nhiêu khổ luyện suốt mùa Đông rét mướt, cũng như những
ngày Hè nóng nực; năm nay qua năm khác. Khi tôi 10 tuổi, người đã gửi gấm tôi
cho nhiều võ sư mà người cho là có thực tài. Vị võ sư cuối cùng là Lã Giang Sơn
(1948) với hỗn danh “Bạch Tượng.” một danh thủ có hạng của Trung Hoa. Âu đó
cũng là một cơ may, cơ thể dẻo dai của tôi, sau này mới chịu đựng nổi những
gian khổ trong cái nghiệp chướng của đời tôi.
Tôi nhìn vào đồng hồ đã
một tiếng rồi, mãi không thấy mẹ tôi đi chầu về. Tôi đang băn khoăn chưa biết
phải nói với bố tôi như thế nào, may quá, bố tôi đã bỏ lên lầu; tôi vội vàng
xin phép để ra gặp mẹ tôi ở nhà thờ.
Trên đường đi, tôi miên
man nghĩ đến mẹ tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao hình ảnh người mẹ vẫn đậm nét
hơn hình ảnh của người bố ở trong tôi. Khi tôi vào đến cuối nhà thờ, nhìn thấy
dáng mẹ tôi đang quỳ, tay lần tràng hạt, miện lẩm bẩm đọc kinh, đôi mắt người
vươn cao trên bàn thờ, một mối xúc động đã dồn ứ trong tim tôi. Nhà thờ chỉ còn
lại mươi ông già, bà cả ở lại cuối buổi chầu. Tôi tiến lên quỳ cạnh mẹ tôi.
Người quay lại mở to mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Ôi! Mắt mẹ tôi nhìn bao la mênh
mông như đại dương! Tôi cảm thấy như bé nhỏ lại trong cái nhìn của bà mẹ. Mẹ
ơi! Ôi, tình mẫu tử! Tôi nghĩ rằng, tất cả những ngôn từ đẹp nhất, cao quý nhất
của loài người cũng không diễn tả hết được sự cao quý thiêng liêng của tình mẫu
tử. Mẹ tôi biết là tôi có việc muốn gặp, nên người làm dấu thánh giá rồi hai mẹ
con ra khỏi nhà thờ.
Vừa ra đến ngoài, người
đã hỏi ngay, giọng băn khoăn:
- Mày lại có chuyện gì,
lại về thế?
Chắc người thấy dạo này
tôi về nhà luôn. Tôi nhìn xuống bàn tay mẹ tôi vẫn lần cỗ tràng hạt. Lòng tôi
nghẹn lại. Làm sao tôi nói được, tôi về giã từ để đi vào nơi đầy bất trắc đang
chờ đợi (có thề thuyền bị đắm ở biển khơi, bị công an, bộ đội kẻ thù bắt ngay
trên biển và rồi trong đất liền. Có thể, còn lắm chông gai trên đất địch…) Mẹ
ơi! Con sắp chia xa cùng mẹ. Có thể chẳng bao giờ con còn được nhìn thấy mẹ
nữa.
Có lẽ vì thái độ của
tôi, mẹ tôi cảm thấy một chuyện gì bất thường, nên người đặt tay lên vai tôi,
giọng lo lắng:
- Con có chuyện gì, hãy
nói thực với mẹ đi!
Chỉ một phút yếu lòng
khiến mẹ tôi phải lo sợ, tôi vội vàng tươi nét mặt và cười toét:
- Có gì đâu, mẹ! Con về
nhà không thấy, nên ra đây gặp mẹ. Vậy thôi!
Nét mặt lo âu của mẹ
tôi biến ngay, người đập vào tay tôi mắng yêu:
- Bố mày, thế mà làm
tao hết hồn!
Rồi mẹ tôi nói tiếp:
- Chủ nhật này, mày về
đưa tao sang khu Bàn Cờ thăm bà bạn nhé!
Tôi chợt hiểu, lại vấn
đề cô Nga, Thu Nga. Đã nhiều lần, bố mẹ tôi muốn tôi lập gia đình với con gái
của bà bạn này. Làn nào tôi cũng khất lần với lý do sự nghiệp vẫn chưa thành,
v…v…Điều chính khiến tôi, thoái thác là, tôi tự nghĩ, trong khi đất nước đang
chia hai, xẻ ba, tôi không thể vội vã tìm chuyện ấm êm. Hơn nữa, đã thích
nghiệp gió sương, tôi không được quyền làm bận rộn cuộc đời của một người khác.
Tôi vẫn thích những câu thơ của Lưu Trọng Lư:
Em là gái trong song
cửa
Anh là Mây bốn phương
trời.
Anh theo cánh gió chơi
vơi,
Em vẫn nằm trong nhung
lụa.
Tôi hiểu, ngày Chủ nhật
tôi không có lý do gì để từ chối ý kiến của mẹ. Vả lại, chủ trương của tôi là
trước khi ra đi, tôi không muốn làm một điều gì, dù nhỏ nhặt, để phật ý mẹ tôi.
Cho nên, sau khi mẹ tôi nói, tôi chỉ vâng nhẹ một tiếng. Tiếng “vâng” như còn
nằm trong cuống họng. Nếu tinh ý, mẹ tôi sẽ nhận ra tiếng “Vâng” rụt rè đó của
tôi. Nhưng có lẽ người cho rằng tại nói đến nhà cô Nga, nên tôi mới ngập ngọng
như vậy. Người đã không biết rằng, rồi đây, mãi mãi tôi vẫn không thực hiện
được lời hẹn của người. Đứa con trai của người đã ra đi biền biệt, không về. Để
rồi mấy chục năm sau, đứa con trai đó may sống sót, mang được tấm thân về, mọi
vấn đề, từ đất nước, đến con người, đều đã đổi thay, tang thương, vũng thành
đồi.
Ánh nắng chiều phía Tây
đã nhạt dần. Không gian cảnh vật cũng đổi mầu tím sậm. Dùng dằng mãi, cuối cùng
tôi cũng phải chào và xin phép mẹ về trường. Bất chợt, tôi cầm lấy tay mẹ tôi,
nghẹn ngào muốn nói: “Lạy mẹ con đi,” nhưng không thốt ra thành lời. Đúng là
chân bước đi mà đầu còn ngoảnh lại. Tôi đã ngoảnh lại nhiều lần nhìn bóng dáng
nghiêng nghiêng đã thẫm mầu của người phía sân cuối nhà thờ cho tới khi bị
khuất hẳn.
THÉP ĐEN Đặng Chí Bình
Thép Đen 1
http://viteuu.blogspot.com/2014/03/thep-en-ang-chi-binh.html
2
3
https://youtu.be/4Ppl1pS_WTU
https://youtu.be/4Ppl1pS_WTU
v6HYO3WtLos